Mới ngày nào năm ấy. Khoảng 1793. Nguyễn Du còn nấp trong bóng
tối nhìn ngắm và lắng nghe người đàn bà vừa hát vừa gảy đàn ở Long Thành. Để
chừng 20 năm sau, nhờ tiếng đàn ấy mà nhận ra sự tàn tạ của một triều đại lịch
sử bể dâu biết bao đau đớn. Trăm năm chớp mắt có là bao. Lại 250 năm nữa qua
rồi. Tên tuổi của Nguyễn Du chói sáng trên bầu trời thi ca nước Việt. Thơ ông
là tiếng kêu đứt ruột của thân phận con người được diễn tả bởi một áng văn
chương chữ Nôm trong sáng và tuyệt bích. Người đời bao lâu rồi ngâm ngợi truyện
Kiều chốn lầu son gác tía. Hát ru nơi cánh võng làng quê bốn mùa gió nghèo xao
xác thổi. Hậu thế đã và sẽ thêm bao nhiêu tiêu chí để nói rõ rành những chiêu
thức thi ca của người được nhân loại gọi tên là đại thi hảo? Chế Lan Viên đã
từng viết: Trong câu Kiều xưa ta tìm ra Nguyễn Du mà
tìm cả chính mình. Thơ ca thế kỷ 20 có
những ai noi theo và lan tỏa được như Nguyễn Du trong số hàng nghìn thi sỹ đã
nhập thân cuộc đời và ngọn bút của họ với thăng trầm của lịch sử dân tộc cùng
một trăm năm ấy?
Lịch sử thế kỷ 20, chưa bao giờ vận mệnh của dân tộc lại gắn liền
với những biến chuyển của thế giới sâu sắc đến như vậy. Thế kỷ chứng kiến sự
phát triển vượt bậc của trí tuệ nhân loại và sự thiết tha được sống yên ổn
trong hòa bình chưa bao giờ lại quyết liệt đến như vậy. Trên nền tảng ấy,
lịch sử Việt Nam có hai điểm son ghi dấu ấn của nó vào thi ca. Đó là suốt 100
năm người Việt Nam đi tìm đường để kiến tạo độc lập, tự do và phát triển. Quá
trình ấy cho đến nay vẫn chưa dừng lại. Đó là thế kỷ để được sống yên ổn trong
hòa bình, chưa một dân tộc nào lại buộc phải gươm súng ra chiến trường để giành
và giữ nền độc lập với thời gian dài và ác liệt như vậy. Chính hai đặc điểm ấy
đã đặt nền tảng lịch sử cho chủ đề tìm đường chân lý, khát vọng sống của cá
nhân con người, chiến tranh và hòa bình xuyên suốt cả một thế kỷ thi ca. Và
khuynh hướng sử thi cùng với những khúc ca tha thiết và bi tráng về số phận con
người đã trở nên khuynh hướng chủ đạo của thi ca Việt Nam thế kỷ 20. Đó cũng là
cơ sở lịch sử cho sự gắn bó không thể chia cắt giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ
nghĩa nhân đạo được xác lập trong thơ hiện đại từ truyền thống của Nguyễn Du.
Những thời đại trong thi ca chưa hẳn đã trùng khít với giai đoạn
của lịch sử bởi vòng sóng giao thoa ánh sáng của sáng tạo thi ca. Heghen nói. Đối tượng duy nhất của thơ là cái vương
quốc vô hạn của tinh thần. Thi
ca phản ánh lịch sử theo cách riêng của nó. Trên quan điểm ấy, thi ca thế kỷ 20
có 3 phân khúc lớn. Khoảng 45 năm đầu tiên là chặng đường đi tìm chân lý và
phương thức đến với độc lập tự do của dân tộc. Cũng là chặng đường chuẩn bị,
tìm tòi và thực hiện cách tân của thi ca Việt Nam trên con đường thể hiện khát
vọng sống tự do của cá nhân con người và lý tưởng cách mạng với hai trào lưu
thơ chủ đạo là thơ của phong trào Đông kinh nghĩa thục và phong trào Thơ mới.
Để có một thời đại mới trong thi ca như phong trào Thơ mới chỉ bùng nổ trong 10
năm, phải có những bước chuẩn bị lâu dài từ đầu thế kỷ. Thậm chí nó đã được
khởi nguyên từ khi có Từ điển Việt – Bồ - La tinh. Xuất bản 1651. Đánh dấu sự
gặp gỡ buổi ban đầu của văn hóa Đông – Tây. Khoảng 40, 45 năm tiếp theo là cuộc
trường chinh giữ và bảo vệ nền độc lập tự do và biên cương lãnh thổ. Nửa thế kỷ
lúa chín không yên vì bom nổ ở gần. Đạn nổ ở xa. Đó là thời kỳ của những chiến
binh cách mạng ra đi từ mùa đông 1946. Thuở áo trấn thủ vệ quốc đoàn. Không ít
người trong số họ đi mãi đến mùa xuân 1990. Khi tóc đã bạc trắng mới cởi giáp
trở về quê hương. Đó là thời kỳ phát triển xung mãn nhất của thế hệ các nhà thơ
sinh ra trong đạn lửa kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và bảo vệ biên cương
lãnh thổ. Thi ca Việt Nam thực sự được viết trên mình ngựa chiến. Hình tượng Tổ
quốc, nhân dân và người lính đã rũ bùn đứng dậy và tạc dáng đứng vào thế kỷ.
Chừng 10 đến 15 năm cuối cùng, gắn với quá trình đổi mới và nhận thức lại con
đường phát triển của đất nước với những thách thức về sự hoàn thiện những giá
trị nhân văn, bất chấp một số biểu hiện tầm thường và dung tục hóa thi ca, một
thế hệ mới nhà thơ, không lặp lại ánh sáng hào quang của quá khứ, tự mình thắp
nến cho cuộc sinh nở thi ca gắn bó với thân phận con người của thời đại mình.
Thế hệ của họ đang vươn tới những phong cách thơ định hình và thực sự có tầm
vóc.
Lịch sử thi ca Việt Nam có một số phận kỳ lạ. Hai nghìn năm sau
công nguyên đã mất 1000 năm đầu tiên không có thơ ca Việt bằng chữ viết. Đâu
phải dân tộc Việt không có hồn thơ và không có người làm thi sỹ. Một nghìn năm
tiếp theo có đến 900 năm đầu thi ca Việt được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm.
Phải đợi đến nửa sau của 900 năm ấy mới làm nên tên tuổi thi hào. Nguyễn Trãi.
Thế kỷ 15. Để đến lúc, bất chấp mọi biến cố và thăng trầm của lịch sử, Nguyễn
Du và Đoạn trường Tân Thanh xuất hiện. Từ khởi nguyên đến thăng hoa
phải mất 900 năm. Vậy 100 năm cuối cùng ngắn ngủi của thiên niên kỷ thứ hai,
thơ kịp làm nên những tượng đài gì mới?
Bước vào thế kỷ 20, người ta có thể nghĩ tới 3 lối rẽ của thi
đàn công khai. Hoặc là lại tiếp tục viết thơ bằng chữ Hán, chữ Nôm của truyền
thống 900 năm trước? Hoặc là lặp lại câu chuyện của đầu thế kỷ thứ 10. Dùng chữ
của kẻ ngoại bang từ xa ba biển đến… Viết thơ bằng chữ Pháp. Nhưng cả hai lối
rẽ ấy đều ít ai thực hiện.
Thơ ca Việt Nam bước vào đại lộ văn chương viết bằng chữ quốc
ngữ. Đó là thứ chữ được kiến tạo bằng cách dùng chữ cái La tinh và một số dấu
ngữ âm của các ngôn ngữ phương Tây để phiên âm tiếng Việt. Lúc đầu nó chỉ ê, a
trong các giáo đường hẻo lánh lợp cỏ tranh của đạo Gia tô. Để rồi đến thế kỷ 20
trở thành phương tiện biểu cảm kỳ lạ cho cảm xúc và tâm hồn Việt Nam. Không
phải chúa mà chính là sự gặp gỡ của văn hóa Đông – Tây trên dòng chảy của toàn
cầu hóa đã tạo dựng cuộc cách tân kỳ diệu, chưa bao giờ được thấy trong lịch
sử. 100 năm thi ca Việt đã biến đổi toàn diện từ cảm xúc, hình tượng đến ngôn
ngữ và thể loại. Một diện mạo mới của thi ca Việt đã chào đời.
Vào đầu thế kỷ. Có hai nhà thơ thương tiếc chữ Nho. Trần Tế
Xương không chỉ một lần ngao ngán cất lên thôi có làm chi cái chữ nho như một lời cáo chung chua xót của thời
đại văn chương viết bằng Hán tự. Chừng 30 năm sau, dường như thời gian đã đủ
nguôi ngoai để Vũ Đình Liên làm nốt cái sự nuối tiếc chữ Hán một thời đã qua
khi mà giấy đỏ buồn không
thắm, mực đọng trong nghiên sầu. Sang thế kỷ 21. Chợ chữ Nho ở tường đông Văn Miếu dường như
nhộn nhịp trở lại. Nhưng thầy đồ thì vĩnh viễn ra đi cùng với thời đại của họ.
Giấy đỏ mực tàu chỉ là thú chơi ngày tết. Giống như người ta dùng lại chiếc yếm
thắm trong bộ sưu tập thời trang sang trọng của kẻ phong lưu. Chữ Nho giờ chỉ
còn lại trên những bức tường rêu phong của ngôi miếu hoang vắng nơi làng quê xa
xôi. Những bia đá hoành phi câu đối ở đình chùa và gia thất. Hoặc ẩn trên những
trang sách cổ bên trong các tòa lâu đài mang tên quá khứ. Chứng tích một thời
bản tính giao hòa và cao thượng của tâm hồn Việt. Thừa nhận và chung sống bên
cạnh nhau những nền văn minh.
Lịch sử thi ca thế kỷ 20 có hiện tượng, nói như nhà thơ Tố Hữu: Nhà cách mạng làm thơ. Không phải nhà thơ làm
cách mạng. Phan Bội Châu
với bao dòng thơ viết bằng máu lửa trong Hải ngoại huyết thư. Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà chính trị kiệt xuất mà
còn là một thi sỹ đích thực. Cảm nhận được vẻ đẹp bình dị tươi sáng của cô em xóm núi xay ngô tối, xay hết lò than
bỗng rực hồng. Và không thể không
nhắc đến Tố Hữu. Một hồn thơ trải rộng bởi Từ ấy đến Nước non ngàn dặm. Tôi nhớ Tố Hữu, không phải từ cái gì khác mà từ buổi Rứa là hết, chiều ni em đi mãi. Còn mong chi
ngày trở lại Phước ơi. Năm
ấy, thi sỹ mới 18 tuổi tóc còn xanh. Đến khi tóc bạc hãy còn day dứt Nỗi niềm chi rứa Huế ơi, mà mưa xối xả trắng
trời Thừa Thiên.
Ứng với mỗi phân khúc của thi ca thế kỷ 20, chưa bao giờ trong
lịch sử, cứ chừng 15 năm, lại một thế hệ nhà thơ mới xuất hiện bước lên thi
đàn. Cho phép tôi được trang trọng kể tên một số trong số nhiều thi sỹ tiêu
biểu mà tác phẩm và thi pháp của họ có ảnh hưởng sâu đậm đến hậu thế. Tản Đà.
Xuân Diệu. Huy Cận. Chế Lan Viên. Hàn Mặc Tử. Nguyễn Bính. Vũ Hoàng Chương.
Nguyễn Đình Thi. Văn Cao. Chính Hữu. Hoàng Cầm. Quang Dũng. Hữu Loan. Phạm Tiến
Duật. Hữu Thỉnh. Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Đức Mậu. Bằng Việt. Thanh Thảo. Lưu
Quang Vũ. Vũ Quần Phương. Xuân Quỳnh. Thu Bồn. Nguyễn Duy. Hoàng Nhuận Cầm.
Nguyễn Quang Thiều. Và những người khác.
Họ góp lửa vào nền thơ hiện đại Việt Nam bằng những cá tính sáng
tạo không ai giống ai và bằng nhiều cách khác nhau. Có khi là một tập thơ quy
tụ nhiều bài thơ đặc sắc làm tròn đầy một phong cách thơ. Lửa thiêng của Huy Cận. Thơ Thơ và gửi hương cho gió của Xuân Diệu. Điêu Tàn, Ánh sáng và Phù sa. Di cảo của Chế Lan Viên. Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính. Người chiến sỹ của Nguyễn Đình Thi. Đầu súng trăng treo của Chính Hữu. Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật. Đất ngoại ô của Nguyễn Khoa Điềm. Thư mùa đông của Hữu Thỉnh. Cánh rừng nhiều đom đóm bay của Nguyễn Đức Mậu. Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳ. Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều v.v… Đó là một số trong nhiều tập
thơ hay nhất của thế kỷ 20. Đôi khi chỉ một bài và một bài thôi đã khắc dấu ấn
thi sỹ vào tập thơ thế kỷ. Thế kỷ 20 tự hào có hàng trăm bài thơ hay nhất của
mình. Những bài thơ đó thường hội tụ những phẩm chất và cá tính sáng tạo nổi
trội của thi sỹ. Tập hợp những bài thơ ấy thông qua sự lựa chọn kỹ càng sẽ là
minh chứng rõ ràng cho thành tựu thơ thế kỷ 20. Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Nhớ về Hà Nội vàng soncủa Vũ Hoàng Chương. Nhớ máu của
Trần Mai Ninh. Nhớ của Hồng Nguyên. Bên kia sông Đuốngcủa Hoàng Cầm. Tây Tiến của Quang Dũng. Màu tím hoa sim của Hữu Loan. Cửu long giang ta ơicủa Nguyên Hồng. Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân. Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao. Cuộc chia li màu đỏ của Nguyễn Mỹ. Nửa sau khoảng đời của Vũ Đình Văn. Hai nửa vầng trăng của Hoàng Hữu v.v.v. Và nhiều bài thơ
khác.
Có người khiêm tốn mang đến thi đàn treo một câu thơ thôi để nó
ở lại mãi với đời. Ví như. Từ thuở mang gươm đi mở nước, nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long. Hay như. Đừng buông giọt mắt xuống sông, anh về dẫu chỉ
đò không cũng chìm…Thế kỷ 20 có hàng nghìn câu thơ tài danh như thế. Không thể kể
hết được. Xứng đáng để Hội thơ Văn Miếu rằm tháng giêng treo trên giấy đỏ lụa
điều.
Nửa sau thế kỷ 20, bên cạnh việc xác lập địa vị của thơ tự do,
trường ca hàng nghìn câu xuất hiện như là một bước tiến về mặt thể loại. Những người trên cửa biển của Văn Cao. Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn. Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh. Những người đi tới biển của Thanh Thảo. Trường ca sư đoàn của Nguyễn Đức Mậu.Đất nước hình tia chớp của Trần Mạnh Hảo v.v… Trường ca thế kỷ
20 là bức tranh rộng lớn của lịch sử. Kết cấu của trường ca hiện đại được phát
triển theo hướng đa tầng sự kiện và nhân vật, kết hợp việc diễn tả nội tâm, bảy
tỏ những cảm xúc trữ tình của chủ thể sáng tạo. Những ai trong số họ làm được
sự hài hòa giữa chuyện và tâm trạng bằng hình tượng và ngôn ngữ thơ tuyệt đích
như trong truyện Kiều thì phải đợi thời gian trả lời.
Xét về trường cảm xúc thi ca, trải dài mà viên mãn trên cả 3
phân khúc đã nói ở trên trong thế kỷ 20, có lẽ có 4 nhà thơ dài hơi nhất. Xuân
Diệu. Huy Cận. Chế Lan Viên và Tố Hữu. Họ đến với thi ca từ nửa đầu thế kỷ.
Những năm 17, 18 tuổi. Đến những năm gần như cuối cùng. Trong đó, có lẽ Chế Lan
Viên là thành công hơn cả; kể từ buổi Điêu Tàn như
một ngọn tháp kinh dị giữa cánh đồng thơ đến Di cảo đầy trăn trở ưu thời mẫn thế?
Từ cảm hứng tình yêu quê hương và mong ước hòa bình, sáng tác
của nhiều thi sỹ miền Nam trước 1975 đã góp vào tiếng nói cách tân và đổi mới
thi ca. Chẳng khác gì nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn. Một Tô Thùy Yên ngẩn ngơ trông trời đất cũ, nghe tàn cát bụi
tháng năm bay, trở về khi làng ta ngựa đá đã qua sông. Một Nguyên Sa áo lụa Hà Đông thanh khiết trong giấc mơ đổi mới vần
của thơ hiện đại. Một Thanh Tâm Tuyền, gạt đi những buồn nôn vay mượn là hồn
thơ như nắng thủy tinh chỉ thèm gọi tên mình cho đỡ nhớ… Thi ca
cũng như dòng chảy của lịch sử. Thau rửa và làm nguôi ngoai vết thương chia
cắt. Độ lượng gọi những đứa con trên các nẻo đường trở về sum họp.
Thi ca thế kỷ 20 lội bùn với người cày ruộng. Chia lửa với người
cầm súng. Đau với những nỗi đau sinh nở và mất mát của một kỷ nguyên vĩ đại.
Thở dài trước những sa đọa của văn hóa và đạo đức đời thường. Thơ nhìn ra bốn
phương tám hướng trăn trở cùng dân tộc trên đường phát triển. Thi ca thế kỷ 20
là thế giới tinh thần của người Việt Nam thời hiện đại. Các thi sỹ không một ai
trong số họ còn phải đứng trong bóng tối để nhìn ngắm những giá trị tinh thần
của thời đại giống như Nguyễn Du thời ở Long Thành.
Gấp lại một thế kỷ Thơ, lòng ta say đắm vầng trăng viên mãn tuổi
20. Nhưng không khỏi băn khoăn tự hỏi. Chưa bao giờ loài người biết đến Việt
Nam như thời hiện đại. Ai là thi sỹ đã dạy cho loài người cách sống như lịch sử của dân tộc đã làm. Ai làm được như Nguyễn Du
dịch chuyển vầng trăng của ông qua biên thùy bao nhiêu ngôn ngữ?. Các nhà thơ
đương đại và mai sau sẽ trả lời. Họ là người lưu giữ quá khứ và thay đổi tương
lai./.
Mùa Xuân 2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét