Trong số những tác phẩm của
Jean-Paul Sartre* để lại; Hiện Hữu Và Hư Không cho ra đời 1953 được xem là một
luận đề (essay) quan trọng nhất đối với thuyết hiện sinh (existentialism) của Sartre mà được ông chủ xướng như một lý luận hiện thể và
đích thực về tư tưởng nhân bản. Một tiến trình về tư duy đáng kể nhất để giảm
thiểu sự hiện diện của tồn lưu và đồng loạt xuất hiện những học thuyết mà điều ấy
được coi như một xác quyết minh bạch cho bộ phận triết học của ông. Đó là cứu
cánh vượt qua một cách chắc chắn giữa vô số dạng thức của những yếu tố như sự kết
hợp của tồn lưu trong vũ trụ, cụ thể nhất về mặt tinh thần để phân chia giữa tốt
và xấu như một ngăn cách về trạng thái nghi ngờ của hiện hữu. Chính cái lưỡng
tính giữa hai bề mặt đó tạo nên sự bối rối về triết học và được thay vào đó một
học thuyết triết học khác, hầu tìm ra một giải pháp thích hợp hơn của khoa hiện
tượng dù là những đơn phương chính yếu nào đi nữa.
Dù rằng sự xuất hiện chủ
thuyết là rõ ràng minh bạch cho sự hiện hữu; không những ở nội tại
hay ngoại tại đều được xem như đồng thể ngang nhau, sự hiện diện đó không còn
tính cách độc quyền.
Ở đây Sartre hệ thống
hóa để giới thiệu phần cốt tủy của triết học hiện hữu (philosophy of Being) .
Ông nói đến cái gọi là tri thức của con người và tri thức của thế-giới-như-nhiên
mà hai vị trí đó được gắn liền vào nhau. Để giới thiệu đầy đủ về nhãn quang của
Sartre như một tương quan giữa xã hội và con người.
Chủ thuyết hiện sinh của
Jean-Paul Sartre là giải phóng con người ra khỏi những ràng buộc cố hữu để tìm
đến với tự do và khai phá những tồn tại bức xúc, bày tỏ sự hiện hữu của con người
trên mặt đất nầy và được xem như khoa phân tâm học chủ lực. Một "sine qua
non" để lãnh hội về chủ nghĩa hiện sinh và đó cũng là điều quan trọng được
coi như kẻ đưa đường về khoa triết học hiện đại của thế kỷ XX.
L'Être et le Néant là một
tuyển tập luận đề triết học về hiện tượng thuộc khoa siêu hình học (A Essay On
Phenomenological Ontology) ; bao gồm 5 phần chính:
- Vấn đề của Hư Không ( The
Problem of Nothingness)
- Hiện-Hữu-Cho-Tự-Nó (Being-For-Itself)
- Hiện-Hữu-Cho-Cõi-Khác (Being-For-Others)
- Nhận Có, Thực Hành Và Hiện Hữu (Having, Doing And Being)
- Kết Thúc ( Conclusion)
- Hiện-Hữu-Cho-Tự-Nó (Being-For-Itself)
- Hiện-Hữu-Cho-Cõi-Khác (Being-For-Others)
- Nhận Có, Thực Hành Và Hiện Hữu (Having, Doing And Being)
- Kết Thúc ( Conclusion)
Ở đây chúng ta chỉ đưa lên một
vài khiá cạnh đặc biệt trong Being And Nothingness/L'Être et Neant với cái nhìn
riêng tư về thuyết hiện sinh của Sartre. Trong bài viết được nêu ra ' la
transcendence de l'Ego. Esquisse d'une description phénoménologique ' 1936.
Sartre vẫn cho toàn vùng của hiện tượng học chuyển thể từ Ego/Self và được
miêu tả một cách khái quát về hiện tượng mà Ego chính là bản ngã tự tại, đưa tới
cái vị lợi 'Selfishness' của con người, một ý niệm như thách đố của Husserl về
sự chuyển hóa của Ego.
Sartre đối kháng thể thức của
Descartes. - "Tôi suy nghĩ; do đó tôi hiện hữu" (I think;
there fore I am). Ý thức nói ở đây "I am" (Tôi là; tức tôi hiện hữu)
chưa hẳn là một ý thức tuyệt đối mà đó chỉ là suy tư mà thôi.
(The consciousness which
says "I am" is not actually the consciousness which thinks) (P.92).
Descartes từ chối về cái đột khởi của ý thức mà phải do chính từ ý thức mà ra với một phương pháp hết sức nghi ngờ mà vẫn được coi như một đạo luật. Trong lúc đó chúng ta chỉ mới bắt chụp cái thoáng nhìn của sự phản đối đó, có thể là do nghi ngờ của ý thức, như thể là một hành động không mấy vững chắc. Nhưng cái gọi là 'Descartes Cogito' như một tư thế riêng biệt dành cho ý thức tự nó và được xem như một đối kháng, nhưng ở đây là một đối kháng khách quan. Trong những lời lẽ của 'Cogito' không phải là điều đưa Descartes nghi ngờ; đó là sự phản ảnh của Descartes lên sự nghi ngờ " Tôi nghi ngờ; do đó tôi hiện hữu " (I doubt; therefore I am) Thật ra là: " Tôi ý thức điều mà làm tôi nghi ngờ; do đó tôi hiện hữu" ( I am aware that I doubt; therefore I am).
Descartes từ chối về cái đột khởi của ý thức mà phải do chính từ ý thức mà ra với một phương pháp hết sức nghi ngờ mà vẫn được coi như một đạo luật. Trong lúc đó chúng ta chỉ mới bắt chụp cái thoáng nhìn của sự phản đối đó, có thể là do nghi ngờ của ý thức, như thể là một hành động không mấy vững chắc. Nhưng cái gọi là 'Descartes Cogito' như một tư thế riêng biệt dành cho ý thức tự nó và được xem như một đối kháng, nhưng ở đây là một đối kháng khách quan. Trong những lời lẽ của 'Cogito' không phải là điều đưa Descartes nghi ngờ; đó là sự phản ảnh của Descartes lên sự nghi ngờ " Tôi nghi ngờ; do đó tôi hiện hữu " (I doubt; therefore I am) Thật ra là: " Tôi ý thức điều mà làm tôi nghi ngờ; do đó tôi hiện hữu" ( I am aware that I doubt; therefore I am).
Thuyết gia Cartsian Cogito
(Descartes) phản ảnh là chính sự thể đó không còn tự nó nhưng nguyên thủy sự cớ
ấy là ý thức do từ sự nghi ngờ mà ra. Chính sự khai phá đó giữa tư tưởng của
Descartes về sau nầy Sartre đã tìm ra được những bước khởi đầu trong học thuyết
của ông...
Sartre thường hay xử dụng
ngôn ngữ 'nhận thức' như một lý trí riêng tư "non-positionelle (de)
soi"; chữ 'de' được nằm trong dấu ngoặc đơn, để chứng tỏ rằng không có sự
phân chia đẳng cấp hay ngôi vị, không phân biệt vị trí của bản ngã như một đối
tượng của ý thức. Sartre đề cập đến một thứ ý thức trong sáng
(néant/nothingness) một trạng từ chưa tỏ rõ bằng một sự nhấn mạnh rõ ràng trong
cái không, cõi không trống rỗng, không dính dáng vào cái không của không.
Sartre đưa cái ý thức trong sáng của hiện hữu cũng như hư không; có thể là một
luận án có tính cách võ đoán (non-thetic) cho tự-thức (self-consciousness) hoặc
đưa vào một vị trí của tự-thức cái đó là tâm-thức của 'soi' tức là 'tự'
cái tự-có (soi-même/one-self) trong ý thức mà ý thức đó như một ý thức
suy xét phản ảnh được sự nhìn nhận về hành động và trạng thái của ý thức trong
sáng đó và hầu như dành cho một vị trí tự-nó. Cùng một trạng huống đó Sartre đặc
ra hai nền móng chính yếu cho vấn đề ý thức như quan tâm tới sự phản ảnh của ý
thức; điều ấy chính là cơ bản trong những tác phẩm sau nầy của Sartre.
Trước hết theo quan niệm của
Husserl là nắm được toàn bộ ý thức có nghĩa là ý thức từ mọi hướng, từ mọi sự vật
thì điều đó như một ý thức có chủ đích và trực diện, chủ điểm đưa tới một
chủ thể siêu nhiên khác hơn tự-nó. Nơi đây chính là mầm thai nghén của Sartre về
cái nhìn sau nầy giữa hiện-hữu-con-người và hiện- hữu-thế-giới-như-nhiên ngày
nay là bằng chứng của Sartre về khoa siêu hình học và sự tồn lưu của hiện
sinh, gọi là hiện-hữu-tự-nó mà sự cố chính là cõi-ngoài-kia của ý thức.
Thứ hai về phản ảnh 'cogito'
là không cá tính. Ấy là điều không thực vì đó là điều chúng ta có thể bắt đầu với
một vài vấn đề như "tôi nhận thức được cái ghế" Những yếu tố đó cho
chúng ta một cảm nhận đích thực của ý thức ( il y a / there is / Cái đó là) tức
là nhận thức về cái ghế một cách cụ thể trong ý thức trong sáng.
Theo ý Sartre; tự-nó của Ego
là không phải ý thức mà đó chỉ là lời lẽ phát biểu một cách mơ hồ. Dĩ nhiên đây
không phải là điều để nói rằng Ego là chất liệu của ý thức; bởi Ego theo Descartes
là 'tự' tức ngã, tự nhận của ý thức mà ở đây không còn đề mục đưa ra mà là khả
năng phán đoán do từ sự vận dụng của ý thức lương tri hoặc ý thức trực tiếp xẩy
ra.
Sartre nói: "Sự dâng
trào của ý thức trong sáng là sự xếp đặt kiên cố tự-nó một liên hiệp nhất trí tự-nó"
(Plux of consciousnesss constituting itself as the unity of itself).(P.100)
Ông nói tiếp: "Như thế thì Ego/Tự-nó là một tổng hợp nội quan và có tính cách siêu lý trừu tượng".
(Thus the Ego is a sythesis of interiority and transcendence) (p.101).
Năm 1940 sau khi cho ra đời luận án Tâm Lý Và Hình Tượng (The Psychology Of The Imagination) như một hiện tượng tâm lý; chính vì thế mà Sartre dựa vào đó như thử dựa trên căn bản để giới thiệu về Hư-Không (Nothingness); trọng tâm của luận án là nhìn thấy những khác biệt giữa trí tưởng và tri giác đó là ý thức của nhận thức.
(Plux of consciousnesss constituting itself as the unity of itself).(P.100)
Ông nói tiếp: "Như thế thì Ego/Tự-nó là một tổng hợp nội quan và có tính cách siêu lý trừu tượng".
(Thus the Ego is a sythesis of interiority and transcendence) (p.101).
Năm 1940 sau khi cho ra đời luận án Tâm Lý Và Hình Tượng (The Psychology Of The Imagination) như một hiện tượng tâm lý; chính vì thế mà Sartre dựa vào đó như thử dựa trên căn bản để giới thiệu về Hư-Không (Nothingness); trọng tâm của luận án là nhìn thấy những khác biệt giữa trí tưởng và tri giác đó là ý thức của nhận thức.
Sartre đưa ra hai vấn đề:
1- Chức năng của trí tưởng do từ sự tình cờ xẩy ra và thể hiện được tính siêu hình của thể chất ý thức hoặc có thể đó là điều được mô tả như một cơ cấu thiết yếu của thể chất?
2- Điều kiện nầy là một sự cần thiết cho sự nhận thức về hình tượng của ý thức. Hay là điều kiện được xem là có thể giống nhau hay khác nhau trong cùng một ý thức?
1- Chức năng của trí tưởng do từ sự tình cờ xẩy ra và thể hiện được tính siêu hình của thể chất ý thức hoặc có thể đó là điều được mô tả như một cơ cấu thiết yếu của thể chất?
2- Điều kiện nầy là một sự cần thiết cho sự nhận thức về hình tượng của ý thức. Hay là điều kiện được xem là có thể giống nhau hay khác nhau trong cùng một ý thức?
Ý thức trong sáng phải được
tôi luyện, bồi đắp với một cá tính riêng biệt của ý thức đó là tiềm năng của
Hư-Vô (Nihilation/ Néantisation). Sartre nhấn mạnh ở đây Hư-Vô và Hư-Không
nghe gần gũi nhưng là khác biệt của trí năng và ý thức. Ở đây Sartre nhìn
Hư-Không là sự trống không, trống không một cách hoàn toàn (emptiness) của
Hư-Không (Nothingness) rõ ràng như xác định vị trí của nó chứ không có tính mơ
hồ của Hư-Vô (Nil (d.từ)). Sartre đi xa về điều nầy và cho rằng trong mọi hành
động của hình tượng thì điều đó không còn nghi ngờ gì cả giữa Hư-Vô và Hư-Không.
Nếu sự thể của vấn đề đặc ra ở đây như sự vắng mặt hoặc không hiện hữu tồn
lưu hoặc như là mất khả năng trung hòa (neutralized) ở đây được coi như khả
năng do từ một cơ cấu tạo thành. Có nghĩa rằng ý thức là điều không thể tránh
được mà tương quan với thế giới quan; bởi chúng ta có thân xác hữu thể là một
xác quyết rõ ràng giữa ý thức và ý thức trong sáng của vấn đề siêu nhiên. Vì ý
thức nằm trong qui thức đầu tiên là không có tính không-sắp-đặt-tự-thức. Đó là
lý lẽ cho ý thức mà ý thức đó được coi như ý thức trong sáng (ness). Ở đây ý thức
có thể không còn là hình tượng của ý thức cũng có thể thiếu đi năng lực phủ nhận
và triệt thoái nó ra khỏi ý thức mà Sartre gọi là "Hư-Vô" đó là kết
quả tìm thấy cái KHÔNG nó nằm trong sự chìm lắng của ý thức của thế giới quan
mà đó là ý thức sâu lắng trong ý thức tồn lưu; đó cũng không phải là một khả
năng chiếm cứ bất luận từ một hướng nào, nhưng phải hiện hữu của sinh tồn.
It would have to be conceived as completely engulfed in the exsisten and without the possibility of grasping anything but the existent (P.271)
It would have to be conceived as completely engulfed in the exsisten and without the possibility of grasping anything but the existent (P.271)
Trong Hiện Hữu và Hư Không
Sartre thật sự nối liền lý tưởng của Hư-Không và Tự-Do. Có nghĩa rằng ý thức là
điều có thể có hiệu năng như một sự xuất hiện của cái gọi là không thực
(unreal) không thực để sản sinh ra từ thế giới bên ngoài; bởi vì tự-do hết sức
siêu nhiên điều mà nhân loại có thể hình dung ra được nghĩa lý của nó.
Hiện Hữu và Hư Không là tiếng
vọng, là thông điệp mà Sartre miêu tả như một hiện-hữu-tự-nó
(Being-in-itself) không những có thể hoặc không thể. Mà 'nó-đã-là' như một
nhấn mạnh của ý thức trong tính nhân bản.
Quan trọng khác; luận cứ của
tiểu thuyết là ý niệm về sự 'buồn-nôn-tự-nó'. Buồn Nôn là điều quan tâm
tiên khởi của Sartre với xúc cảm triền miên trong con người của Roquentin là một
tri thức mà tri thức đó như một chiếm cứ, một sự chia xẻ có dự phần của những sự
vật hiện hữu (existence of things). Giữa Hiện Hữu và Hư Không Sartre mở rộng
tư tưởng về bản năng ý thức, một biểu lộ cơ chế như thể một hiện hữu chối bỏ, bắt
nguồn từ nội giới, nhưng chối bỏ ngoại giới thì giản đơn như một sự khác biệt
rõ rệt giữa hai sự thể cùng một cảm giới không hơn không kém. Thí dụ nói rằng:
- " cái chén là không có ở trên cái bàn" Thì đó là một chối bỏ trên
bình diện nội giới; mà điều đó chỉ có thể hữu thể trong ý thức. Hiện hữu tạo sự
chối từ ảnh hưởng trong hiện hữu.
Sartre tóm lược lại vị trí của
ý thức như sau: "đối với ý thức là không có hiện hữu ngoại trừ có một điều
kiện bắt buộc để được phát hiện bằng trực giác của sự vật"
For consciousness there is no being except for this precise obligation to be a revealing in intuition of something. (P.618).
For consciousness there is no being except for this precise obligation to be a revealing in intuition of something. (P.618).
Chỉ có cách làm cho ta có thể
hiện hữu như một ý thức khác của một hiện hữu khác mà thôi. Hẳn nhiên Sartre đã
nắm chắt cho-cái-tự-nó (For-itself) là tính chất phiêu lưu mà ông đã nói lên lời
cứng chắc về hiện hữu và một đời sống có ý thức.
Sartre thường phát biểu về
Hư Không như một sự hiện diện, như một chi tiết trung thực, thẳng thắn để phê
nhận cả hai ý niệm của Hegel và Heidegger. Đối với lời phê nhận của Hegel cho rằng;
" Không bao giờ có cái cõi ngoài mà đó chỉ là hình thức luân lý của cái gọi
là không-hiện-hữu (non-being). Như vậy sự tương quan của con người là hiện thực.
Sartre cho sự thể đó làm cho quan niệm của Hegel về hiện-hữu và không-hiện-hữu
là một điều đúng lúc, đúng thì thay vào một nhãn quang không-hiện-hữu như một
tùy thuộc vào luân lý của hiện hữu. Ông cho sự thể đó mà Hegel hết sức thờ ơ một
cách vô tình giữa hiện-hữu với không-hiện-hữu.
Heidegger phù hợp với Sartre
coi đó là một sự cân nhắc đúng đắn đưa tới một tiến trình bởi sự hoán chuyển từ
Hiện-hữu đến Hư-không và nhận ra cả hai bề mặt của hiện-hữu và không-hiện-hữu
là dấu hiệu căng thẳng cho việc chống đối. Heidegger cũng ca ngợi lời phát biểu
của Sartre về Hư-không như một dự phần của con người đầy đủ kinh nghiệm, ở
đây không phải việc làm đơn thuần như một việc trừu tượng. Sartre cảm nhận được
ý thức của Heidegger; bởi những nguyên nhân bên ngoài đã làm đình trệ trong cái
duy lý về Hư-không mà lấy đi tất cả những khả tính có thể tính toán, chọn lọc một
nguyên lý của sự Hư-Vô (nihilations). Đây là điều mà Sartre đã nói; không còn
cách gì hơn để giải thích cái vô cùng trong 'đáy giếng' của Hư-không mà những
điều đó dự phần trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
Cả hai Hegel và Heidegger
đưa ra vấn đề giữa hiện-hữu và không-hiện-hữu đó là vấn đề mà Sartre đã nói đến
về Hư-không mà không phải qua Hiện-hữu. Hư- Không đã tìm thấy và có thể thiết lập
được để rồi chối bỏ cái thực thi đi vào Hư-Vô. Nói chung hai ông đã thờ ơ sự cấu
trúc và trí tuệ của con người hoặc là ý thức của con người. Sartre tránh những
đối tượng đó mà ông cảm thấy cần phải mạnh dạn đứng lên chống lại những chủ
thuyết của Plato, Hegel và Heidegger, sự cảm nhận đó có thể nói rằng đó là một
phương án trị liệu của tri giác, trí tưởng và nhận thức, tất cả như dính chùm
vào nhau trong một luân lý cổ hủ giữa một xác định cụ thể và sự chối từ. Cái đó
gọi là chối bỏ nội tại; tự-nó như một luân lý khác biệt.
Sartre hoàn toàn không hạn
chế mà thường coi Hư-Không như một ý niệm có tương quan. Ông dùng nó như để
phát biểu về một nỗi đau, để lột trần những gì đáng kể nhất và như thể có mắc
phải vào những lo âu mà Heidegger đã đề ra.
Hư-Không là nằm giữa cái lý
sự vô cớ và hành động. Đó là nguyên cớ để trở nên cái sự lý vô cớ; chỉ khi nào
thật sự tự do. Bởi tự do của Hư-Không thực sự từ ý thức. Cuối cùng Sartre chỉ
dùng nó như là tiếng nói của tự do. Ý thức tự do là cái tự-nó vẫn 'chưa đủ' để
nhận ra sự hiện hữu.
Như vậy ; cái gì Cho-tự-nó (For-itself) là được phơi bày một cách rõ ràng về Hiện-hữu, một nội tại Hư-Không của Hiện-hữu, một tương quan với Hiện-hữu, một mong muốn của Hiện-hữu và một chọn lựa của Hiện-hữu.
Như vậy ; cái gì Cho-tự-nó (For-itself) là được phơi bày một cách rõ ràng về Hiện-hữu, một nội tại Hư-Không của Hiện-hữu, một tương quan với Hiện-hữu, một mong muốn của Hiện-hữu và một chọn lựa của Hiện-hữu.
Trong phần thuyết trình về
Hư-Không, đặc biệt về phần tiếp nối của tri giác và trí tưởng. Sartre đã
thận trọng dùng khoa tâm lý học của Gestalt như một tương quan bổ sung cho trí
năng về 'hình tướng' (figure) và 'cứ điạ' (ground).
Chúng ta nhận thấy rằng
Hư-Không là Cho-tự-nó, không những chỉ vào sự chối bỏ nội tại và lột trần Hiện-Hữu.
Nhưng đó cũng là dục vọng của Hiện-Hữu và chọn lựa của Hiện-Hữu.
Cái nhìn của Sartre là từ
khi khởi ra cái Cho-tự-nó (For-itself) trong sự tương quan với chạm trán
Trong-cái-tự-nó (In-itself). Có nghĩa là sự ao ước, lòng ham muốn thì sự ham muốn
dục vọng đó được thích hợp Trong-cái-tự-nó. Trái lại lòng ham muốn dục vọng đưa
cảm giác như để đồng hóa hay đã đồng hóa với Hiện Hữu và rồi trở thành một
trong hai cái Cho-tự-nó và Trong-tự-nó hoặc gián tiếp bởi lần chiếm cứ đầu
tiên. Hiện Hữu là thể thức của thế giới quan.
Trong cùng một phương cách đó; những điều mà nhận ra được là những điều không tương hợp hoặc đột nhiên 'biến dạng' đúng lúc để đi tới một ý thức chọn lựa, đó là một chọn lựa phù hợp với những điều mà trước đây hầu như người ta đã phớt lờ về phần tâm lý hoặc xem đó như một tổng thể của siêu nhiên về Ego (It-self) và nhờ đó tạo nên được sự chọn lựa của hiện hữu. Điều mà rất hiếm thấy về sau nầy; nhưng với danh nhân lịch sử hay bộ môn tiểu thuyết thì lại xem như một thứ văn chương đích thực, một xác quyết về mặt bí truyền xẩy ra như sự cố.
Trong cùng một phương cách đó; những điều mà nhận ra được là những điều không tương hợp hoặc đột nhiên 'biến dạng' đúng lúc để đi tới một ý thức chọn lựa, đó là một chọn lựa phù hợp với những điều mà trước đây hầu như người ta đã phớt lờ về phần tâm lý hoặc xem đó như một tổng thể của siêu nhiên về Ego (It-self) và nhờ đó tạo nên được sự chọn lựa của hiện hữu. Điều mà rất hiếm thấy về sau nầy; nhưng với danh nhân lịch sử hay bộ môn tiểu thuyết thì lại xem như một thứ văn chương đích thực, một xác quyết về mặt bí truyền xẩy ra như sự cố.
Có hai vị trí khác biệt của
khoa tâm lý học; đối với Sartre là một tiếp nối quan trọng qua lăng kính của
ông đó là Cho-tự-nó chính vị trí đó là mạch liên đới với con người. Đấy là ý tưởng
của Sartre nói về như nhiên của thân tâm, của dục tính xác thịt. Lẽ đương nhiên
cảm giác đó là thể chất đứng ra như một sự kiện của con người.
Chúng ta suy xét về một phần
của ý thức mà ý thức đó chính là Cho-tự-nó (For-itself) được coi như Hư Không
là mãi mãi mâu thuẩn nội tại. Thực tế sự ấy nằm trong lãnh vực của Cái-trong-tự-nó
(In-itself) như đã được tồn lưu (existed) bởi cái gọi là Cho-tự-nó (For-itself)
thì đó là vấn đề tâm lý. Trên thực tế chúng ta phải có nhiều xác quyết cụ thể về
cái Cho-tự-nó là chính thân tâm của mình. Vì Cho-tự-nó là ý thức của vật thể
như đã thấy. Cho-tự-nó không có ý thức phán đoán mà chỉ hiện diện để xuyên qua
cảm thức của Trong-tự-nó.
Chúng ta đã thấy điều quan
trọng ấy trong " La transcendence de l'Ego " Sartre tin là Ego chỉ một
phần tâm lý và từ đó được xem như vật thể của thế giới quan. Sartre bắt bẻ sự
sai lệch đó về Hiện Hữu và Hư Không mà Sartre đã bày tỏ trước đây và ông rất vững
tâm và lạc quan về điều đó. Sartre đã phân tích kỷ năng về thể xác của con người
mà ông đã chia ra làm hai phần: -Thể-xác-cho-một-cõi-khác (Body-for-the-Other)
và Thể-xác-thấy-bởi-một-cõi-khác (Body-seen-by-the-Other). Đó là dây chuyền kết
nối của tâm-thân. Mỗi khi Hiện Hữu với tâm-thân trong cùng một tiến trình của
thành quả thì đó là Thân-xác-thuộc-về-tôi (Body-for-me) thuộc về Hiện Hữu
dù hiện diện trong cõi Hư-Không để ý thức về những điều 'tự-nó' như hiện thể với
thế giới quan.
Với bài viết nầy còn thiếu
những dữ kiện để xác minh cái đích thực phản ảnh sự trong sáng của J.P. Sartre.
Ở đây chúng ta chỉ có cái nhìn thẩm quan về những gì Sartre đã làm ra trong phần
kết thúc luận án triết học trong tư thế phân tích văn chương (Literary
analyses) . Sartre đã vẽ lên ở đây một cuộc Cách Mạng Mới đặt xuống một đề
cương cho xã hội mà trong đó cho phép chúng ta một tiếp nối tồn tại với cái tự
vươn lên 'self-trascendence' một cách siêu đẳng trên con đường đi tới tự do thật
sự và được coi như bước tiến dẫn đến con đường hiện sinh của ông. Đó là những
gì Sartre đã làm ra trong phần kết thúc tập tiểu luận triết học nầy.
Jean-Paul Sartre muốn khởi
hành một mình để tìm đến một lối rẽ mới, một lối rẽ đi tới hành động cho nhân
loại. Có lẽ; không còn bao lâu để khám phá hướng đi của ông với cái nhìn riêng
tư của ông như một phần hoạch định tự nhiên.
Cuối cùng Sartre chấp nhận mọi
sự căng thẳng về tự do cũng như mọi trách nhiệm và bổn phận mà Sartre đã thực
hiện. Những điều nhận định ở đây cũng giống như Sartre đã miêu tả là một đúc cứng
dự án của con người, như một tổng thể liên hợp từ ngoại giới đến nội giới của ý
thức nhân bản và được coi như chúng ta 'phải là'.
Tóm lại Hiện Hữu là điều kiện
giản đơn như vạch trần hết thảy. Hiện-Hữu-vạch-trần (Being-for-revealing /
Être-pour-dévoiler) thì cũng như lột-trần-hiện-hữu (revealed-being / être
dévoilé) giữa hai dạng thức đó không có gì khác biệt giữa Hiện Hữu; nói cách khác
giữa CÓ và KHÔNG là RỖNG, tất cả đều nằm trong qui trình vũ trụ giới với con
người. Sartre giải phóng toàn bộ tính không trong ý thức Hiện Hữu và Hư Không
như một gạch nối cho lý thuyết hiện sinh mà Sartre đã bày tỏ và hết lòng
nâng cao giá trị nhân bản một cách trọng yếu trong triết thuyết của Sartre đề
ra.
Nếu hiện hữu của hiện tượng
thì nó không còn phân tích về hiện tượng của hiện hữu. Cụ thể hơn hết từ khi xuất
bản tiểu luận Hiện Hữu và Hư Không Sartre luôn luôn quan tâm hạnh phúc
hay bất hạnh của con người, đó là vấn đề luân thường đạo lý (Ethical) mà mục
đích và tính nết đã được biểu lộ một cách sâu đậm trong những tác phẩm của ông
để lại; nhất là những tác phẩm triết học phong phú và hiệu năng, một luận án đầy
đủ , là phạm trù triết học mang tính triết thuyết hơn là triết học. Dẫu sao; dù
dưới lý luận nào chống đối hay phủ nhận chân lý hiện sinh là một đánh dấu vô
cùng qua mọi thời đại mà con người đang trực diện với hiện hữu trong hay ngoài
của cái 'tự-nó' mà chúng ta đương đầu hằng ngày với thế giới quan và sự sống
còn giữa cõi tồn lưu.
Tất cả những vấn đề đã được
đề cập với chúng ta hôm nay là một điều hết sức trong sáng, không một phản ảnh
phụ thuộc nào; điều đó chỉ tìm thấy câu trả lời trên mặt phẳng của cái gì thuộc
về tâm lý và ý thức mà thôi.
Chúng ta đang nhìn tới một
thế giới mới trong tương lai.
*Jean-Paul Satre (1905-1980)
Sanh và chết tại Pháp quốc.
SÁCH ĐỌC:
- Jean-Paul Sartre In Existentialism. (Citadel Press. 1980 USA)
- Being and Nothingness by Jean-Paul Sartre. Traslated by Hazel E. Barnes.(Philosophical Library. NY USA 1958)
- Jean-Paul Sartre Với BuồnNôn. Bài viết của vcl. 7/2010.
SÁCH ĐỌC:
- Jean-Paul Sartre In Existentialism. (Citadel Press. 1980 USA)
- Being and Nothingness by Jean-Paul Sartre. Traslated by Hazel E. Barnes.(Philosophical Library. NY USA 1958)
- Jean-Paul Sartre Với BuồnNôn. Bài viết của vcl. 7/2010.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét