Em hãy đến tìm tôi nơi bến đợi
Nhà thơ Nguyễn Nguyên Bảy đã trân trọng chọn vào phần “Thơ
người Thơ đã mất”, sách “Thơ bạn Thơ 2” (Nxb Văn học, 2012) một bài thơ hay, lạ:
KHI NÀO THẤY, và thương nhớ Bạn Thơ của anh: “Anh Xuân Hoàng ơi, tôi đã tìm thấy
bí quyết vì sao Anh viết được những bài thơ hay và vì sao Anh sống hoàn thành một
đời thơ đẹp… Thơ Anh, đời thơ Anh còn cần thêm lời đò đưa gì nữa ?”
Tôi cũng đồng tình với nhà thơ đàn anh NNB. Nhưng tôi vẫn
không thể an lòng, nếu chưa nói ra được đôi cảm nhận về bài thơ này mà khi đọc
lên một cách chậm rãi, tôi chợt như nghe tiếng đàn dương cầm thánh thót, buồn
và trong trẻo của mẹ tôi giữa một trưa hè nóng nực, khiến tôi lặng người ứa lệ…
KHI NÀO THẤY
Khi nào thấy trên đường dài mệt mỏi
Cần nghỉ ngơi đôi chút cạnh dòng sông
Em hãy đến tìm tôi nơi bến đợi
Tán đa tôi bóng mát vẫn quen dừng.
Cần nghỉ ngơi đôi chút cạnh dòng sông
Em hãy đến tìm tôi nơi bến đợi
Tán đa tôi bóng mát vẫn quen dừng.
Khi nào thấy đời buồn gặm nhấm
Cần một lời tiếp sức để đi xa
Em hãy đến tìm tôi nơi bãi vắng
Biển tôi chờ, con sóng mãi ngân nga.
Cần một lời tiếp sức để đi xa
Em hãy đến tìm tôi nơi bãi vắng
Biển tôi chờ, con sóng mãi ngân nga.
Khi nào đó, lòng mang thương tích
(Những vết thương vô ý tự gây nên)
Em hãy đến bên tôi, chiều tĩnh mịch
Tôi xin làm con suối tắm cho em.
(Những vết thương vô ý tự gây nên)
Em hãy đến bên tôi, chiều tĩnh mịch
Tôi xin làm con suối tắm cho em.
Nếu cần nữa, tôi là hồ trên núi
Trong hoang vu, im lặng ngắm mây trời
Em hãy đến, chim thiên nga cánh mỏi
Đậu yên lành trên gương mặt hồ tôi.
Trong hoang vu, im lặng ngắm mây trời
Em hãy đến, chim thiên nga cánh mỏi
Đậu yên lành trên gương mặt hồ tôi.
Trong văn chương nghệ thuật Đông -Tây kim – cổ, chúng ta vẫn
thường gặp khát vọng lấy thiên nhiên làm chỗ dựa cho tâm hồn, thậm chí lấy
chúng làm sự đối lập & tương phản với những mặt trái của xã hội – tác nhân
trực tiếp hay gián tiếp gây thương tổn tinh thần. Điều mới lạ ở thơ Xuân Hoàng
là: cái khát vọng đó đã hòa nhập hoàn toàn giữa tác giả với nhân vật trữ tình (lòng
mang thương tích, đời buồn gặm nhấm…). Nhà thơ tự nguyện hóa thân vào thiên
nhiên – tán cây đa, bãi vắng biển cả, dòng suối nhỏ, chiều tĩnh mịch, bầu trời
chốn hoang vu, gương mặt hồ trên núi, để dành cho những cảnh ngộ: Cần nghỉ
ngơi đôi chút, Cần một lời tiếp sức để đi xa, chim thiên nga cánh mỏi…
Và cũng không hứa hẹn gì to tát, chỉ rất khiêm nhường: làm
chút bóng mát, làm con sóng ngân nga, làm dòng nước tắm nhỏ, làm bến đậu yên
lành… cho những tâm hồn thương tích hay mệt mỏi. Những thi liệu – thi ảnh ở đây
đều quen thuộc, thậm chí rất gần gũi, nhưng không hề gây nhàm chán và chút cảm
giác sáo mòn nào, bởi chúng được liên kết trong một hệ thống hình tượng thấm đẫm
cảm xúc và sự trìu mến của nhà thơ với cuộc đời – điều này bộc lộ rõ qua những
từ ngữ thơ gợi cảm chọn lọc: “bến đợi”, “quen dừng”, “biển tôi chờ”, cùng bốn lần
kêu gọi da diết “em hãy đến” ở cả bốn khổ thơ!
Tôi tin rằng, đây là bài thơ của một người đã sống qua nhiều
năm tháng biến động, từng mệt mỏi, buồn đau, trải nhiều thất vọng lẫn hy vọng,
và chắc chắn đã đạt tới sự “thuận thiên” của Trang Tử, thảnh thơi tự tại (Tiêu
dao du – tên chương đầu của phần Nội thiên, sách Nam Hoa kinh). Đó không phải
là lời kêu gọi thoát ly đời sống, hay đối kháng với nó – như văn học lãng mạn
thế kỷ XIX, hoặc văn học siêu thực thế kỷ XX ở Châu Âu ( và có ảnh hưởng khá
sâu sắc đến văn chương Việt trước CM Tháng 8-1945). Đây chỉ là lời kêu gọi thầm
thì, lời khuyên nhủ khẽ khàng: hãy tìm một sự tĩnh lặng tạm thời khi trở về
thiên nhiên, để có thêm sức mạnh đi tiếp trên đường đời nóng bỏng… Nhân vật trữ
tình “Em” có thể đại diện cho số đông độc giả đang cần tới những lời nhắn nhủ tựa
sóng ngân nga, như gió thì thào kia!
Nhưng điều trước tiên, quan trọng hơn cả là: bản thân nhà thơ
cũng là người đã đến với thiên nhiên không vụ lợi, sống hết lòng với thiên
nhiên – như một cách tối ưu để tìm được những gì nguyên sơ, trong lành, không
phải để lẩn tránh khổ não, chạy trốn bất hạnh. Bài thơ này có khả năng giúp người
đọc chợt nhận thấy tận đáy lòng mình cái “cảm giác ngưỡng mộ”, cao hơn thế, là
“sự tôn kính những gì phát sinh từ cái đẹp vĩ đại” của thiên nhiên, nơi sẽ diễn
ra quá trình tự chữa trị vết thương lòng kỳ diệu – như triết gia danh tiếng người
Ấn Độ Krishnamurti từng nói tới: “Việc chữa trị ấy sẽ dần xảy tới nếu bạn sống
với thiên nhiên.” (Krishnamurti tinh yếu, Nguyễn Ước dịch. Nxb Văn học, 2002).
Khi có được “sự tôn kính” ấy đối với Thiên nhiên, nhà thơ có đủ tư thế, sự tự
tin và cả lòng dũng cảm nữa để có thể kêu gọi : “Em hãy đến” và sẵn lòng an ủi,
sẵn lòng tiếp nhận sự trao gửi niềm tin cậy…
Tôi bỗng chợt nghĩ: trong đời sống thi ca, nếu mọi người làm
thơ đều mang tâm nguyện của thi sĩ Xuân Hoàng: “Em hãy đến tìm tôi nơi bến đợi”,
chắc sẽ bớt đi nhiều bài thơ & tập thơ vô thưởng vô phạt, thậm chí có thể
“làm nghẽn mạch giao thông tinh thần”- như có người từng thốt lên báo động
trong thời gian qua!.
Hà Nội, cuối xuân 2014
Nhà văn, đạo diễn Mai An Nguyễn Anh Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét