Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016

Kho vàng Sầm Sơn 2

Kho vàng Sầm Sơn 2 
PHẦN 8
Rạng ngày 18 tháng tám năm Bính Ngọ, khi trời vừa mới bình minh, ba chiếc thuyến buôn to lớn, từ bãi cát bờ sông, nhổ neo rời bỏ thành Thăng Long, đi xuôi xuống biển.
Trong ba chiếc thuyền đó, thuyền đầu chở quan Hữu quân Đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh cùng các gia môn tỳ tướng, thuyền thứ nhì chở đầy khoang quần áo và đồ đạc quí giá, thuyền thứ ba chỉ chở có vào bốn hòm niêm phong khóa kín mà sáu người võ sĩ theo kèm.
Quan Đô đốc được tin công tử cấp báo quân Tây Sơn đã rút lui rồi, vội truyền lệnh cho thám tử đi dò xét thực hư của tin dữ dội ấy. Lúc đã rõ biết Nguyên soái Uy quốc công bỏ mình ở lại, Đô đốc Chỉnh đâm ra lo sợ, luống cuống, kíp thâu đêm cho dọn đồ đạc châu báu, thuê thuyền buôn dùng đường thủy chạy theo quân sĩ Tây Sơn, Đô đốc muốn vượt bể cho nhanh, đi chiếc thuyền nhẹ nhất, không hề đem bên mình một chút của cải nào sợ thêm bận bịu, chỉ dắt độ mười lăm viên dũng tướng để hộ vệ trong lúc hành trình. Thuyền thứ hai, rộng hơn, thì cho chứa các hành lý và những đồ quý vật, phó cho con thứ là Nguyễn Anh Du và một tên người nhà tâm phúc trông coi. Phò nhị công tử Nguyễn Anh Du và tên người nhà ấy, dùng hai mươi tên quân tráng kiện.
Hồi Đô đốc theo Uy quốc công Nguyễn Huệ ra Bắc Hà, diệt Trịnh, có đem thủy binh vào cửa Đại an, cướp được kho lương trăm vạn hộc ở ven sông Vị. Rồi khi hạ thành Sơn Nam, và kéo quân vào Thăng Long đều bị tướng nhà Tây Sơn thu cả, trong lúc hỗn độn, Nguyễn Hữu Chỉnh có vơ vét được nhiều của cải, ước ra đến mấy rương vàng. Giờ đây vội vàng thuê thuyền theo cho kịp chúa Tây Sơn, Đô đốc không dám đem hết gia tài, phải để một phần đồ đạc và ngựa xe ở lại. Còn bao nhiêu vàng bạc, ông sợ mang kèm bên mình thì e có nhiều điều hiểm trở, nhiều nỗi gian nguy, lại sợ khi tiết lộ, bị mang tiếng là người không liêm trực. Chỉnh bèn cho tải cả bốn năm hòm vàng bạc, tiền đồng và châu báu xuống chiếc thuyền vững chãi nhứt, rồi bắt con trai là công tử Anh Tề phải giải thuyền kia đến tận bến Nghệ An. Muốn cho khỏi sự nghi ngờ, trong thuyền Nguyễn Anh Tề chỉ có năm tên quân ăn mặc giả lái buôn hộ vệ.
Trong năm tên ấy, một tên còn trẻ non, lại khôi ngô tuấn tú khác thường. Tên ấy, chính là An Trinh quận chúa cải trang theo tình lang đó.
Được dịp phụ thân trao riêng cho một thuyền của cải, công tử Anh Tề lòng mừng hồi hộp, vội vàng mật báo người yêu. Rạng sáng hôm sau, cặp tài tử giai nhân đã nghiễm nhiên nhẩy nhót, ôm ấp nhau trong khoang, dưới tầm mắt ngạc nhiên của bốn tên quân theo hầu.
Thuyền đi hơn một ngày ra tới biển đông. Độ ấy về tiết Trung thu, nước dâng to lắm. Hai con thuyền đi trước, nhân chở hành khách và hàng hoá không lấy gì làm nặng, và lại thuận theo chiều gió, tuồn tuột chạy nhanh, không tài nào theo kịp, bỏ lại thuyền chuyên vàng lẽo đẽo theo sau.
Bể đông mùa thu dông tố luôn luôn không ngớt, hết trận này sang trận nọ, khiến tầu bè kinh sợ không mấy khi dám đánh bạo ra khơi. Duy chỉ có lũ hải tặc "Tầu Ô" giỏi nghề bơi lặn, kiếm ăn trên mặt nước đã quen, lũ đó coi phong ba bão táp như không, cho thuyền lượn trên sóng bể như ngựa phi trên cạn. Bọn khách bán người, buôn lậu, cướp của, giết lương dân đó không mùa nào không lảng vảng trên vũng Bắc Kỳ để tìm mồi kiếm lợi. Cũng là vì sự chẳng lành dun dủi, đảng Tầu Ô kia chạm trán cùng công tử Nguyễn Anh Tề.
Thuyền công tử đi được bốn ngày trời thì bị bơ vơ một mình trên làn nước thẳm. Một trận bão cuồng khấu đã đưa con thuyền ra tận mãi ngoài khơi. Công tử lo sợ, hoảng kinh, nhưng cũng chả biết thế nào chóng chọi với mệnh trời, đành cho chiếc thuyền nhỏ bình bồng trôi vào nơi vô định.
Bỗng, đương cơn hoạn nạn, một đoàn hải tặc bơi xuồng ra vây chặn hẳn đường. Vô phúc lũ bọn Tầu Ô gặp phải tay Anh Tề và An trinh quận chúa; một trận đánh nhau kịch liệt khiến lũ giặc kia bị một phen táng đởm tiêu hồn.
Nhưng càng chết nhiều, càng thấy số chúng nó tăng bội mãi; thì ra một đại thuyền làm sào huyệt cho bọn đó, cắm neo đậu ở phương xa. Quận chúa, công tử cùng bốn tên gia binh phải gắng sức đến quá nửa ngày, mới trừ tiệt được bốn chiếc xuồng con của hai mươi tên giặc bể.
Thấy thế núng, cả đại đoàn ùa lại; trên mũi thuyền sắp hàng một lũ Tầu Ô đen chũi, đầu trọc, răng trắng nhởn, da bóng nhoáng và mặt mày dữ tợn vô cùng. Công tử xét thế cô, bèn nghĩ ra một diệu kế. Chàng lấy bút viết vào mảnh hao tiên một bức thơ chữ Hán, đại khái nói rằng thuyền chàng là thuyền của quân Tây Sơn sai ra Bắc Hà thám thính, không có đem tiền bạc, chỉ tải nhiều binh khí mà thôi. Chả may bị bạt phong, lưu lạc ra khơi, không biết đường về bờ bến. Nếu thuyền khách có thể giúp chàng đưa chàng về bãi Sầm Sơn hay bờ Nghệ Tỉnh, chàng sẽ xin ngay quan trên thưởng cho một vạn quan tiền. Bằng như muốn cùng chàng thử sức hơn thua chàng sẽ liều sống mái một phen cho biết ai là hảo hán.
Bọn hải tặc dáng chừng đã trông rõ bản lĩnh cao siêu của Anh Tề công tử, hoá nên đành vui lòng nhận việc đưa thuyền chàng về tới bãi Sầm Sơn. Họ bèn vứt một sợi dây to sang buộc lấy mũi thuyền con, rồi mở lái giương buồm, tuốt một mạch chạy về miền Hải ngạn. Vùn vụt ba ngày, hai chiếc thuyền tới vùng Sầm Sơn đỗ lại. Bấy giờ công tử sai khiêng một rương tiền sang tạ lũ Tầu Ô. Nhưng công tử cũng hơi sơ ý: quân giặc thấy hòm tiền tự trong khoang đưa lại, đoán rằng chiếc thuyền con hẳn còn chứa lắm bạc vàng.
Bởi thế, không đợi cho công tử và quận chúa kịp đề phòng cẩn thận, họ trói gô ngay bốn tên kiện nhi khiêng rương tiền vào thuyền họ, rồi sắp binh kéo ùa sang cướp phá chiếc thuyền con. Công tử Anh Tề, lâm thế cô, mất cả lũ gia binh, liệu sức mình cùng An Trinh quận chúa không thể giữ nổi gia tài cho họ Nguyễn, bèn cầm tay quận chúa nhủ rằng:
- Lũ hải tặc nó đang reo hò, sắp sửa sang tới đây cướp của, anh em mình khó bảo hộ được mấy rương vàng này cho thoát. Âu là em soạn lấy những đồ chậu bảo giắt cả vào mình, rồi mình đục thuyền cho nước chẫy vào, dìm cả xuống biển. Vứt cho nước thẳm còn hơn để về tay giặc, em nghĩ thế nào?
An Trinh quận chúa gật đầu; công tử bèn lật ván lên, lấy búa bổ sàn thuyền, tan nát. Hai vợ chồng dắt nhau nhảy tùm xuống nước, lặn vào bờ, nhô lên. Thuyền nặng nước to, chả mấy chốc mấy rương vàng đã chìm lĩm giữa khơi để mặc lũ Tầu Ô sửng sốt, chửi rủa líu lô một lúc rồi kéo buồm đi mất.
Bốn tên gia binh bị chúng phanh gan, mổ ruột, đều thiệt mạng trong một trường hợp buồn. Thế là sự bí mật của công tử Anh Tề và quận chúa An Trinh, ngẫu nhiên, trừ hai người biết với nhau, người ngoài không ai rõ nữa.
Sở dĩ câu chuyện này lọt vào tai hậu thế, là bởi cặp uyên ương kia đã chép nó vào gia sử, gởi về cho hai nhà được biết rõ nguồn gốc của sự mất kho vàng.
Trong một làng nhỏ ven bờ bể, cách bãi Sầm Sơn chừng ba bốn dặm đường, dưới một dẫy tre mọc um tùm xanh ngắt, một chiếc nhà lá ba giang sạch sẽ làm chỗ cư trú cho một đôi thiến niên thanh nhã, đến chung đụng cùng dân chài lưới, phút chốc đã ba bốn tháng trời. Chiếc nhà lá kia vừa dựng lên được đúng trăm ngày, đôi thiếu niên kia hình như tự xa xôi đến ngụ, và trước khi lập thành cơ sở, họ ở trọ nhà một ông già đánh cá trong vùng.
Hai vợ chồng người lạ mặt đó không hề nói đến lai lịch của mình bao giờ cả, cũng không ai biết rõ tung tích họ ra sao. Tuy nhiên chẳng ai muốn dò la cặn kẽ làm gì: cặp uyên ương đó được cả chồng lẫn vợ: họ vừa tử tế, nhũn nhặn vừa có nhân từ độ lượng, biết thương kẻ khó và cứu mạng giúp đỡ người nghèo.
Dân trong hạt, chả mấy chốc, đều kính yêu cả hai người thiếu niên đó.
Người chồng ăn mặc xuềnh xoàng như một nhà hàn sĩ; người vợ cũng quần nâu áo vải, cả ngày tảo tần thêu vá, không lộ ra vẻ gì đài các phong lưu. Như thế mặc dầu, người ngoài thoạt thấy dung nhan và dáng điệu cặp thiếu niên ấy, cũng biết ngay họ không thuộc về những gia đình tầm thường, mà họ tất xuất thân ở chốn lầu vàng gác ngọc. Bởi lẽ, từ lời ăn tiếng nói, từ cách tiếp đã các láng diềng, hoặc cách sinh nhai thường nhật, họ đều tỏ ra rằng họ đứng vào một từng giai cấp cao hơn. Tuy họ tuyệt nhiên không khi nào tự xưng là quí phái, nhưng thấy họ sống an nhàn sung sướng, chả bao giờ phải vay mượn ai một đồng tiền nhỏ, nhưng thấy họ một đôi khi nắng ráo, phơi vài mảnh quần áo cực kỳ hoa mỹ, sang trọng, thấy trên vách tường nhà họ có treo một đôi gươm rất quí, rất dài, lại có nhiều binh khí khác vứt ngổn ngang dưới gầm giường, gầm tủ, thiên hạ không khỏi không bàn ra tán vào nhiều lối, cho họ là một đôi dị nhân ra truyền bá một sự gì quan hệ, hay ra nghiên cứu ở bờ biển một việc gì bí mật, phi thường.
Có kẻ đoán họ là dòng chúa Trịnh đi ẩn thân lánh nạn. Có kẻ bảo họ là nòi vua Lê, thấy trong nước nhiều giặc giã, chán việc đời, đi ẩn dật cho thảnh thơi.
Thiên hạ còn đoán nhiều, nhiều nữa, song không ai dám hỏi cặp uyên ương kia con cái nhà ai, và ra ở bờ biển làm gì. Không dám hỏi mà cũng muốn hỏi, vì ai ai cũng biết rằng hỏi đã vô lý, mà càng thêm thiệt hại cho làng nước, nếu hai người khách lịch sự kia, vì phiền phức phải bỏ nơi trú ngụ mà đi. Vả chăng, hai vợ chồng người lạ mặt, đã không quấy quả và làm hại ai cả, lại chỉ nai lưng ra giúp đỡ cho khắp mặt dân chúng trong vùng. Từ khi họ đến ở được hơn 10 ngày, thì ông chồng mở ngay một ngôi trường học. Rồi từ đấy, hôm nào ông cũng dạy trẻ con trong làng học tập, tuyệt nhiên không hề lấy của bố mẹ chúng một đồng tiền học phí bao giờ. Đến tiền nhập môn, ông cũng không lấy, cho chí những lễ vật đưa đến tết, ông cũng gạt đi không khi nào thu nhận cho ai. Hình như ông đã có vốn sẵn để sinh nhai, không lấy của thiên hạ, dù là một đồng kẽm nhỏ. Nhà cửa ông bà đồ lúc nào cũng sạch sẽ tươm tất, ông bà ăn uống thường cơm tám cá tươi; ăn mặc cũng quần nâu áo vải như người; nhưng hình như trong cách sinh hoạt, ông bà vẫn có một vẻ đặc biệt, tỏ rằng cả hai cùng là người quí phái, tự hạ mình sống cái đời khổ sở của thường dân. Tuy bát đàn, đũa tre, mâm gỗ, mà bữa cơm nào cũng long trọng, vợ cúi nâng qua tầm mắt dâng chồng. Tuy quần áo thanh đạm sơ sài, mà luôn luôn thơm tho tề chỉnh, không bẩn ngầu những đất bùn, những ghét, như đồ dùng của dân quê.
Bởi thế, trong làng, ngoài xóm, không ai không kính trọng ông đồ. Đánh được con cá tươi nào, nhà chày vội vàng đem biếu ông là đồ nhắm. Rượu ngon, mỗi khi có ai cất được, lại gánh vào nhà ông dâng cho ông xơi trước một vài chai. Rồi tôm tươi, rồi cua bất, chả ngày nào mâm cơm ông không đầy chan chứa, mặc dầu ông đã mỏi mồm cấm bà con không được biếu quà ông.
Kể sống như thế, ông bà đồ thực đã được an nhàn sung sướng. Bà đồ, dẫu không có vốn riêng đi nữa, cũng không phải lo đến gạo củi cùng các đồ ăn uống thường dùng. Bà, dưới bộ áo vải quê kệch, xuềnh xoàng, tuy không hề tô phấn điểm son, mà vẫn trẻ non trẻ nõn, trắng nuột trắng nà, đẹp một vẻ đẹp lỗng lẫy, thiêng liêng, không tài gì giấu kín được. Bà đã hết sức sống theo lối dân quê chài lưới, nhưng bao giờ tư cách và bộ điệu của bà cũng là bà xa biệt lũ thôn dân. Bà chỉ ngày đêm chăm nom săn sóc đến chồng, thờ chồng hết bổn phận của một người hiền phụ. Chả thế mà ông đồ, không những yêu thương bà rất mực, còn quí trọng bà như quí trọng một bảo vật hiếm hoi. Đối với bà, ông cũng chắp tay lễ phép khi mời bà ăn uống, ông đáp lại bà bằng những "bẩm, thưa, vâng dạ" ai nghe cũng phải lạ lùng. Về ban ngày, ai cũng chỉ biết rằng ông bà đồ xử với nhau như khách. Nhưng nếu ai đã, lúc đêm khuya, len lỏi, vào đời tư đôi uyên ương trẻ đẹp ấy, người ấy sẽ hiểu rằng ông bà đồ chỉ dùng vẻ ngoài lễ nghĩa để che lấp vẻ nồng nàn khăng khít của sự ái ân đằm thắm mà bề trong, ông bà vẫn tặng đãi nhau.
Tối đến, khi ông đã làm xong bổn phận dạy học trò (sự dạy học của ông đây chỉ là một việc tiêu khiển cho qua ngày tháng), ông lại trở vào phòng cùng bà ngâm nga, chúng vịnh, cùng bà đọc kinh ân ái bằng một giọng não nuột, thâm trầm. Đêm nào cũng như đêm nào, nếu ông bà không cùng xem hoa đua nở, thì vịn vai nhau đứng đợi trăng lên, nếu không, gặp buổi mưa rầm âm ỷ tuôn rơi, một cuộc cờ hãm nước trà sen đã chìm đôi lứa vào một cảnh tiêu sầu cao thượng. Chưa từng thấy vợ chồng ai say mê nhau đến thế; ông bà đồ tự hồ như sinh ra để mến yêu nhau cho phỉ nguyện ba sinh. Thú văn hoa một đôi phen làm yếu ớt tính tình, vợ chồng nhà hàn nho lại diễn một trò kỳ dị. Họ tìm buổi trời tối đen như mực, ra giữa sân đấu kiếm múa quyền.
Cũng vì sự đấu quyền, một tai nạn lớn lạo đã phá tan hạnh phúc của ông bà mất non hai tháng! Bà đồ quên rằng mình đang kỳ thai nghén, cùng chồng thử sức hơn thua.
Nhân bà nhẩy múa quá mệt trong hồi lâu, cái thai nhỏ bà mang bị trụy, thoát ra ngoài, làm bà phát sốt mất năm ngày mới khỏi. Trong khi bà ốm, ông đồ chỉ dạy học mỗi ngày một buổi sáng, để buổi chiều săn sóc đến bà. Ông tỏ cho họ biết ái tình ông đối với bà không có mãnh lực gì kiềm chế được. Nhất là giữa cơn đau yếu, ông càng còn yêu bà hơn, cho bà vui lòng chóng lại sức lực người.
Có nhẽ cũng vì thế nên chả mấy chốc bà đồ khỏi bệnh. Song thường thường, bà tựa hồ như buồn rầu, hối hận, bà thương tiếc cái thai vô tội vì bà mà không đưọc thành người, hoá nên nhiều khi bà không được vui vẻ sung sướng như xưa nữa. 
PHẦN 9
Thấm thoắt một năm trời đã lướt qua, kể từ lúc hai vợ chồng ông đồ đến nhập tịch làng chài lưới. Một hôm mùa đông rét lạnh, gần tới vụ tết Nguyên đán, ông đồ xách ô lên tỉnh có việc gì.
Hình như ông đi sắm đồ dùng để ăn tết cho thanh thú. Trước ngày ấy độ ít lâu, nếu ai ngắm kỹ bà đồ, người đó sẽ nhận thấy một vẻ buồn rầu đau đớn in trên nét mặt rõ rệt, dẫu bà cố ý tươi cười cho ông chồng đừng căn vặn hỏi han.
Ông đồ vừa đi buổi sáng thì buổi chiều ở nhà ông xảy ra một chuyện tối quan hệ, trong khoảnh khắc phá tan đạp đổ hết hạnh phúc mà, tốn biết bao nhiêu tâm cơ huyết lực, ông đã gầy nên trong một năm trường.
Không hiểu bà đồ đưa mật thư đi khắp làng xóm tự bao giờ, mà chiều hôm đó, hầu hết các hào mục đinh tráng đến tụ họp la liệt ở nhà bà, ngồi ngổn ngang chật ních cả sân và nhà học.
Mấy ông hào trưởng khăn thâm ái dài ngồi vắt vẻo trên cổ chiếu thượng, vừa vuốt bộ râu ba chòm đốm bạc vừa mở hầu bao lấy cối chầy ra giã trầu một cách nhọc nhằn. Xung quanh bộ phản mà mấy cụ an toạ kê ở giữ nhà. Lúc nhúc một đàn đinh tráng, kẻ ngồi xổm, người chóng nạnh, người đứng dựa cột, kẻ đi đi lại lại trong sân. Thôi thì sực nức khói thuốc lào, đỏ ối quết trầu nhổ tứ tung ở góc nhà xó sân, ngổn ngang bã trầu vứt rải rác trên mặt đất. Người phe phẩy chiếc quạt nan, kẻ kéo tà áo lau ghèn mắt hay mồ hôi trán, người nhai trầu bỏm ba bỏm bẻm; mấy ông cụ già thì vừa uống trà, vừa hơ miệng chén lên mắt để xông hơi nước vào đôi đồng tử nhấp nhem.
Ai cũng như ai, họ đều ngạc nhiên, không biết bị gọi đến để mục kích sự gì quái lạ, rồi họ bàn ra tán vào không ngớt, đánh cuộc với nhau rằng hẳn ông bà đồ có sự vui vẻ nên mời làng đến đông đủ để tuyên bố cho làng biết, và nhân thể sẽ mời làng đánh chén một bữa linh đình. Họ hỏi nhau việc đại hỉ đó là việc gì, lại cố bắt bộ óc đần độn của họ nghĩ ngợi và làm việc để đoán cho đúng ngày họ sẽ được no say phè phỡn.
Một vẽ ồn ào náo nhiệt làm vang động cả vùng thôn dã, tựa hồ như nhà ông bà đồ là một cái chợ giữa hôm có buổi chợ phiên. Thôi thì rộn rịp, tưng bừng; hơi mồ hôi trộn lộn với mùi quần áo lam lũ, tạo thành một bầu không khí nặng nề khen khét, nồng nực và khó thở.
Thiên hạ đến tụ họp ở nhà bà đồ đã ngót nửa giờ mà chưa thấy chủ nhân ngỏ ý ra làm sao cả. Họ có ý sốt ruột muốn ra về. Nhưng, chưa kịp về, họ thấy một vị nữ lang mặc rất kỳ dị ở trong buồng đi ra; vị nữa lang ấy bước tới hiên vái chào các hào mục. Nhân dân đều lấy làm lạ quá khi thấy thiêú phụ đó là một mỹ nhân đẹp như tiên giáng thế; họ lại càng kinh khủng lúc nhận rõ vì tiên nga nào phải ai đâu xa lạ, mà lại chính là bà đồ. Nhưng bà đồ hôm nay ăn mặc một cách kỳ khôi khôn kể. Bà đội một cái hoa khôi bằng vàng nạm ngọc, mặc một bộ y phục chẽn bằng gấm huyền thêu phượng, thắt lưng bằng vóc mầu lam, đi võ hài trân châu giát kim tuyến. Bên sườn bà đeo một thanh bảo kiếm "long phương" chuôi ngà vỏ bạc, tay bà cầm một hộp nhỏ bằng trắc khảm với một gói nặng trĩu mà đặt nhẹ nhàng giữa phản, trước mặt mấy vị thân hào.
Trong khi dân chúng đương ngớ ngẫn không rõ việc quan trọng gì, bà đồ ngoảnh mặt nhìn hết cả mọi người, rồi bằng một giọng nói hùng hồn, dõng dạc, nhưng trọ trẹ tiếng đường trong:
- "Thưa làng, hôm nay tôi phiền làng tới đây, là bởi có một câu chuyện khẩn yếu, tối hệ trọng, muốn ngỏ cùng chư vị. Từ khi hai vợ chồng tôi tới đây xin nhập tịch, chưa bao giờ chúng tôi kể rõ lai lịch cho làng biết.
Vậy bây giờ chính là buổi tôi phải khai tông tích của phu quân tôi và tôi, xin làng chịu phiền lắng nghe tôi phân giãi một hai lời.
"Phu quân tôi tên là Nguyễn Anh Tề, con trưởng quan Tây Sơn Hữu Đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh, về sau này được triều Lê phong cho tước Đại Tư đồ Bằng Trung công. Còn tôi... tôi là quận chúa Võ An Trinh, con gái quan Phò mã Tả Đô đốc Võ Văn Nhậm, rể Thái Đức Hoàng đế.
"Hai vợ chồng tôi quá yêu nhau nên lấy nhau, không được cha mẹ hai bên cho phép. Bởi lẽ ấy nên phải dắt nhau ra ẩn nấp ở vùng này. Tôi những tưởng cùng Nguyễn lang thủ phận an bần, ăn ở với nhau cho đến buổi da mồi tóc trắng. Nào ngờ trời xanh ác nghiệt, khiến vộ chồng tôi khó long trọng tình tư mà không nghĩ đến thù nhà. Cha tôi vừa gây nên một mối oán ngàn thu cho dòng họ Nguyễn. Tôi không thể nào trông thấy mặt phu quân tôi nữa, phải buộc lòng mang mối ái tình cắt đoạn làm hai. Tôi sẽ chết.
"Song le, khi theo chồng, tôi có đem ít nhiều của cải. Ngày nay tôi thác đi, chồng tôi cũng khó lòng sống để hưởng phong lưu phú quí một mình. Tuy biết trước như vậy, tôi cũng không thể sống được nữa. Gia sản của vợ chồng tôi thành ra vô chủ. Bởi vậy, tôi muốn đem chút của ấy phân phát cho dân trong hạt gọi là một chút vi thành. Hạt này có hơn trăm nóc nhà, toàn sống khốn khố về nghề chài lưới. Tôi muốn cho dân cư có chút đỉnh vốn để làm ăn, ngõ hầu chóng được phú cường, thịnh vượng. Chỗ vàng ngọc và châu báu này giá đáng tám ngàn lạng bạc, chư vị nên bán đi rồi chia rất đều cho lũ dân nghèo. Chư vị nên tư túi lấy phần, tôi chết đi tất thế nào cũng phù hộ cho người ngay, mà trừ bỏ những phường gian giảo. Chư vị không nên khuyên can tôi, vô ích! Trí tôi đã định rồi thì khó lòng ai chuyển cho lay... Tôi chỉ xin chư vị một điều: là giữ kín chuyện này cho tới lúc lang quân tôi mất hay bỏ hạt nầy đi biệt. Trước khi ấy, đừng nên nhỏ to bép xép, cho bề ngoài họ dị nghị lắm điều.
Tôi lại xin làng ra ân cho một việc này: vợ chồng tôi chết đi sẽ không có ai nối dõi; vậy trong khoảng 50 năm, tôi xin làng nhớ đến ngày hôm nay làm giỗ cho hai vợ chồng tôi, thì hồn tôi sẽ được thoả mãn ở dưới chín suối mà bao giờ tôi cũng nhớ ơn làng. Vợ chồng tôi còn trẻ, chả may xấu số phải lìa rẽ nhau mà thác, vừa bất đắc chí, lại vừa bất đắc kỳ tử, tất thế nào cũng linh thiêng, làm thần phù hộ vùng nầy. Xin liệt vị chớ coi rẻ những lời tôi nói!
Hào mục và dân làng nghe xong đều ngạc nhiên kinh sợ, không ai hiểu vì sao bỗng dưng lại có câu chuyện quá dị kỳ. Họ được rõ hai vợ chồng ông đồ là con các quan đại thần đi lánh nạn, thì càng tôn kính bà đồ; lại nghe nói bà ban cho dân làng sở tại những mấy muôn vàng, thì vừa mừng vừa sợ, chỉ nhìn nhau không biết nói thế nào cả.
Quận chúa không đợi cho hào mục trả lời có ưng thuận hay không, nàng đã chỉ gói bạc vàng châu báu để ở giữa giường, rồi giơ hai tay trịnh trọng giao cho ông Tiên-chỉ hộp gỗ trắc khảm:
- Tôi mời làng tới đây là để từ giã bà con và cám ơn làng đã có lòng yêu mến hai vợ chồng chúng tôi, coi những người hàng thôn chớ không phải người đến ngụ. Chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Vậy gọi là xin có chút báo đền, mong chư vị vui lòng nhận lấy.
"Tôi ra đi, không bao giờ còn gặp các ngài nữa, nói ra đau đớn thế nào! Sau khi khuất mặt tôi rồi, chư vị sẽ vì tôi, giao cho phu quân tôi hộp gỗ nhỏ này, kỷ niệm cuối cùng của cuộc tình duyên của vợ chồng tôi đó!
"Thôi xin chào các ngài ở lại!"
Nói dứt lời, An Trinh quận chúa vái chào mấy ông hào mục. Rồi, trong khi dân chúng còn nhao nhao bàn tán, trong khi ông Tiên chỉ kinh hoàng chỉ ngồi đờ ra chả biết khuyên giải hay ngăn trở thế nào, quận chúa đã như một cái bóng, lẽ làng thoăn thoắt, phi thân nhảy vọt ra ngoài biến mất.
Từ lúc đó, không ai biết nàng sống hay chết; nàng không để lại một tâm tích gì rõ rệt, tuyệt mù khuất hẳn bóng hồng. Thiên hạ chạy ùa ra bờ bể đứng xem, chỉ thấy bọt sóng tuôn cao nước cồn cuồn cuộn; xác người bạc mệnh có nhẽ, đã chìm sâu đáy biển, hoặc nữ anh hùng đã ro roi, quất ngựa, tếch lên ngàn...
An Trinh chỉ để lại một mối ngậm ngùi thương tiếc, đè nén lòng lũ thôn dân chất phác, hiện ra trên mí mắt họ trong những dòng lệ lóng lánh, chảy từ từ xuống mấy trăm gò má đen sì...
Nguyễn Anh Tề về đến Sầm Sơn thì nhà cửa vắng teo, vắng ngắt, hỏi gia đinh mới biết vợ chàng yêu đã hoá người thiên cổ mất rồi. Ông Tiên chỉ cho cầm lại giả chàng hộp khảm nhỏ bằng gỗ trắc, chàng mở ra nhìn thấy vật kỷ niệm, càng vật mình lăn khóc, tâm can như bị mối thương đau vò cho tan nát rối nhầu. Trên án thư trong buồng, quận chúa để lại một bức thư vĩnh biệt; chàng vội vàng bóc ngay ra, đọc một lượt rất nhanh.
Phu quân thân ái đích,
Thiếp không thể nào cùng sống với chàng được nữa, xin cúi lạy chàng, khóc mà từ biệt, mong chàng nghĩ ân tình mấy trăng chăn gối tha tội cho thiếp, thiếp đội ơn muôn thủa cũng không quên.
Ngày nay thiếp có ở lại trên đời cùng sống với lang quân, hai vợ chồng ta sẽ chỉ vì quá yêu nhau mà hối hận, rồi cùng chết cả. Nếu chúng ta không chết, trong hai người cũng sẽ có một người cắt bỏ mối tơ duyên. Âu là thiếp làm người ấy trước, cho khỏi phụ lòng chàng âu yếm thiếp mai xưa. Bởi lẽ gì, chàng cứ xem xong thì rõ.
Hiện bây giờ chàng chưa biết căn nguyên việc quyên sinh của thiếp, chắc chàng trách thiếp bạc tình. Nhưng khi đã tỏ nguồn cơn, có lẽ chàng lại thương thiếp là người xấu số.
Ngày cùng chàng ngẫu nhiên thành gia thất, thiếp có ngờ đâu rồi ra chúng ta phải ép lòng vĩnh quyết nhau đây! Thiếp những muốn cùng chàng ngâm câu bạch đầu cho tới buổi mắt mờ răng rụng, trông mong ở tình trong sạch của đôi ta để cùng hưởng thú ái ân cho phỉ nguyện ba sinh. Có hay đâu, chàng ôi! Nửa đường gẫy cánh uyên ương, khiến trên gối phượng loan chàng phải ngậm sầu nuốt tủi!
Chàng vẫn biết cha thiếp và phụ thân chàng không có tình đồng sự, mà hai họ chúng ta có hiềm khích với nhau. Bởi quên nỗi oán thù gá nghĩa cùng chàng, nên thiếp hằng ngày vẫn cầu khẩn Trời Phật vì đôi ta, làm cho mối nghi kỵ kia phải rã rời tiêu tán. Nhưng nhời thiếp nào được Hoàng thiên soi xét, hai họ nhà ta đã mỗi ngày thêm một mối oán hờn. thì vừa mới được mấy hôm nay, phụ thân thiếp đã bắt được ông thân sinh chàng đem về Thăng Long đó! Tả quân đã hành tội Hữu quân, dựng lên giữa đôi ta một bức tường thù oán không thứ ái ân nào đạp đổ.
Vẫn biết chàng hết lòng yêu thiếp, nhưng thù cha, chàng há nỡ quên sao? Thiếp dù ở lại, đôi ta cũng không còn mặt mũi nào trông thấy nhau nữa. Mối thù kia đã xen vào phá tan hạnh phúc êm đềm mà chúng ta hết sức giữ gìn xây đắp bấy lâu. Dẫu thiếp còn chung sống với chàng, mà vì tình, chàng vẫn yêu thiếp như xưa thì chàng chỉ là một kẻ nam nhi hèn mạt, quá mê nhan sắc vợ quên cả đến thù cha, chàng sẽ không đáng mặt trượng phu làm chồng thiếp nữa.
Còn thiếp, nếu thiếp không biết liêm sỉ, dùng các thủ đoạn nhi nữ để mê hoặc lòng chàng, khiến chàng vong hẳn phụ thù, thì thiếp cũng là một con tiện tỳ dâm dật, há phải người để chàng quí mến, yêu đương?
Vậy nên, không đợi chàng biết rõ tin tức đau đớn của gia đình, thiếp tự xử trước đi là hơn.
Chàng đã thấu lòng cho thiếp, đã hiểu nỗi đau đớn và sự hy sinh của thiếp, thì tội thiếp nặng trăm phần, có lẽ chàng cũng giảm nhẹ đi cho. Thiếp thác đi, đem xuống dạ đài một mối hận ngàn thu không giải được. Xác thiếp sẽ nằm dưới đáy bể, bên cạnh kho vàng mà hai ta làm chìm đắm trong khi bị nạn Tầu Ô. Thiếp sẽ làm thần giữ kho vàng ấy đó!
Thủa bình sinh hai ta có dùng hai đồng tiền Vạn Lịch để làm kỷ niệm cuộc tình duyên. Bao nhiêu châu báu trong nhà thiếp đã cho dân hạt này hết cả. Chỉ giữ lại cho thiếp đồng tiền bằng bạc, cho chàng đồng tiền bằng vàng. Đồng tiền vàng ấy, thiếp gởi ông Tiên chỉ giao lại cho chàng đó. Chàng nên giữ nó trong người cẩn thận, gọi là còn chút tang vật của một cuộc chung tình ngắn ngủi, nhưng nồng nàn.
Bức thư sau đây, thiếp xin chàng trao lại cho cha thiếp. Gặp cha thiếp, chàng dù muốn báo thù thì cứ báo, đó là tự lòng chàng, thiếp đâu dám cản ngăn.
Rồi xin chàng cố giữ gìn thân cho được mạnh khoẻ, quên hẳn thiếp đi, đừng nghĩ đến kẻ bạc mệnh này làm gì cho mệt. Chàng phải gắng lập công danh cho rạng rỡ gia tộc, rồi nối lại dây đàn để sau này có lấy mụn con trai.
Trân trọng mấy lời, chúc chàng ở lại, thiếp cúi đầu lạy chàng xin vĩnh quyết, chàng nên vì tình tha cho tội bất nghì này.
Võ An Trinh đốn thủ.
Nguyễn Anh Tề đọc xong bức thư còn tưởng như mình mơ mộng; chàng giụi mắt đọc lại hai lần nữa; đọc bao nhiêu ruột càng như xé như bào. Một hồi, chàng ngây ra như tượng, hai mắt đăm đăm nhìn vào quãng vắng xa xôi. Một lúc rõ lâu bỗng chàng đứng dậy, cau mày, giậm chân xuống đất, vươn tay với thanh kiếm treo trên tường xuống, tuốt vỏ ra. Kiếm tuốt ra được nửa chừng, chàng lại chán nản tra nó vào vỏ, ngồi phịch xuống ghế, ôm đầu nức nở khóc như một người con gái.
Chàng khóc không biết bao nhiêu thời khắc; khóc xong, lấy vạt áo chùi nước mắt, vùng đứng dây, chạy vào buồng. Chàng thay đổi y phục, mặt một bộ nhung trang ngắn, nai nịt gọn ghẽ, ngậm ngùi giắt hộp gỗ trắc vào lưng, đeo kiếm và dao găm bên cạnh sường. Xong xuôi, chàng ra ngoài dặn dò tên gia đinh Lộc giữ lấy nhà cửa, gọi tất cả đầy tớ phân phát cho chúng một ít tiền còn sót lại, cho phép đứa nào muốn về thời về, đứa nào muốn đi tìm chủ khác thì tìm; rồi chàng ứa lệ từ biệt chúng, quả quyết vùng đi ra đường, xăm xăm chạy về phía Bắc.
Bóng chàng một ngày một xa, chàng đi khuất vào ngàn cây nội cỏ, rồi từ phút ấy, vùng Sầm Sơn không được biết tông tích chàng đâu nữa.
Câu chuyện ông đồ đến đây là hết. Bà đồ đã gieo mình xuống nước, còn ông đồ bỏ làng đi biệt, chẳng trở về. Dân làng, nhận được của cải, đem về phân phát cho nhau, và theo lời dặn của An Trinh, cứ ngày 26 tháng chạp, lại thiết bài vị ông đồ bà đồ tại đình làng, rồi mổ lợn mổ trâu, làm lễ long trọng cúng vong linh của hai người quí khách đó.
Quả nhiên, cả hai cùng rất thiêng liêng, phù hộ cho dân bãi biển làm ăn thịnh vượng. Đáng lẽ cứ đúng lời trối trăng của An Trinh quận chúa, thì sau 50 năm tế lễ, dân làng có thể bỏ tục làm giỗ cho quận chúa và công tử Nguyễn Anh Tề. Nhưng, vẫn nhớ ơn của hai vợ chồng ông đồ đã giúp dân và phù hộ dân một ngày một phát đạt thêm lên, các hào mục không bao giờ quên bổn phận đối với người đã chết, và hơn nữa, muốn cho vong hồn ân nhân được anh linh mãi mãi, họ bèn đem bài vị cả đôi thờ chung với thần vị Thánh Hoàng. 
PHẦN 10
Hôm ấy vào mùa xuân năm Kỷ Dâu (1789). Mưa phùn rả rích đập tầu lá ba tiêu xiêu vẹo.
Gió bể ào ào làm rầu rĩ mấy dãy thông cao vút, lại phã vào mặt lữ khách những luồng gió vừa lạnh lẽo, vừa ướt át, nặng mùi muống bể, đầy mầm sinh khí, khiến cho lữ khách, tuy bị rét ẩm thấu thịt, mà vẫn thấy nhẹ nhõm trong lòng.
Lúc đó đã khuya. Trời tối đen mù mịt, con đường cát, ban ngày trắng xoá, bây giờ chỉ còn hiện ra như một nét cong queo mờ mờ trên một nền đen xẫm. Xa xa, dưới vòm mây vô định, mặt bể mênh mông trộn lộn với màu mưa vô ảnh; đi trên đường chỉ thấy bao la bát ngát một không không gian vô tận, chỉ cảm thấy bên trái là nước, trước mặt là núi, sau lưng là gió, trên đầu là mưa, tuyệt nhiên không nhận rõ một hình một sắc nào nữa. Tuy vậy, một làn hơi nồng hắc nhưng trong sạch khiến cho tinh thần và phế phủ khoan khoái, tai được nghe đổ dồn ngay cạnh mình tiếng ồ ạt của làn sóng đập vô hồi vào bãi cát, vào bờ đá, tạo thành một thứ âm nhạc buồn rầu và hùng hổ, xui ta bất giác ví âm điệu đó với hơi thở mạnh mẽ của Tạo vật, luôn luôn nhọc mệt mà vẫn điềm nhiên gắng sức, kiên nhẫn làm việc, làm ra những công trình vĩ đại nhưng vô dụng, mà mục đích quá cao xa không ở tầm suy xét của loài người...
Thực vậy, làn nước vô hình kia đang vỗ lên vỗ xuống, nó đêm này tiến rồi lại thoái, dâng rồi lại lui, nó đã làm tốn xiết bao sức mạnh của Hoá công, nhưng không biết chủ đích của nó là để làm công cuộc gì hữu ích?
Trong lúc tối dầy như mực, trên con đường cát ngùng ngoằng bao vành bãi bể Sầm Sơn, giữa cơn nỗ lực âm thầm của gió cả, sóng cồn, một lữ khách vừa rảo bước đi, vừa ngẫm nghĩ vẩn vơ kết quả hữu dụng của làn nước đêm ngày sôi nổi, của ngọn gió sớm tối quay cuồng. Chàng tự nghĩ: "Chả qua sự nghiệp con người, rồi cũng chỉ như mục đích của sóng gió. Mãnh lực của tạo vật còn có sức nào đương nổi, thế mà những lực lượng ấy cũng chỉ dùng vào một công cuộc vô dụng. Huống chi là cái sức kém cỏi, nhỏ mọn của loài người! Có cả đời cạnh tranh bôn tẩu, rồi kết cục của mấy mươi năm cố gắng chả qua cũng chui vào hư không vô định mà thôi! Phú quý, vinh hoa, ái tình, danh nghĩa, đó toàn là những hư ảnh, những hư tự cả. Suy cho cùng lẽ, ôm làm gì một quan niệm cho đau thương, trong khi trời đất cũng còn không có quan niệm, nữa là mình!"
Vừa đi, vừa lẩm bẩm, lữ khách đương mải mê trong những vấn đề triết lý cao siêu. Bỗng chàng giựt mình đúng lại. Chàng vừa chạm phải một gốc cây mọc chìa ra quá ven đường. Lữ khách gật đầu, đi rẽ về tay trái.
Cách vài mươi bước, chàng dừng hẳn lại, dún mình nhẩy một cái rõ cao, vọt qua cái hàng rào, vào một cái sân hầu rộng. Vào tới sân, lữ khách như người rất thông thuộc đường lối trong cái nhà chàng hạ cố tới, chàng đi thẳng vào một gian phòng, gõ cửa.
Trong nhà người vật đều ngủ say sưa cả, lúc ấy đã quá canh hai. Một hồi lâu, có tiếng người ú ớ nói mơ, rồi có tiếng nhè nhè ngái ngủ, mãi mãi mới thấy tự buồng trong phát một giọng gắt gỏng, cục cằn:
- Thằng chó nào, đến giờ này còn chui vào đây làm trò khỉ gì mà đập phá ầm ầm như vậy?
Đáp lại lời thôi bỉ ấy là một câu vắn tắt nói bằng một giọng dõng dạc, cứng cỏi, tựa như một mệnh lệnh oai nghiêm:
- Mở cửa mau, Lộc! Tao đây!
Nhận được tiếng truyền của lữ khách, tên Lộc hình như hết cả ngái ngủ, vội vàng ra mở cửa. Tiếng giầy dép lẹp kẹp, rồi tiếng then cọt kẹt, một khắc, lữ khác đã vào nhà. Trong nhà, như ngoài trời, không một tia ánh sáng làm mất vẻ đen kịt của đêm trường u ám. Chỉ nghe tên Lộc như cuống quýt nói:
- Con xin công tử xá lỗi cho. Con không ngờ cậu về. Cậu hãy tạm ngồi cho phép con xuống bếp thắp đèn lên và pha trà cậu uống.
- ƯØ, mau lên!
Đến lúc chiếc đèn lồng xé bóng tối, toả trong gian phòng một ánh sáng vàng phờ phạc, lúc bấy giờ ta mới nhận rõ hình dung và diện mạo người lữ khách bí mật kia. Chàng là một thiếu niên vạm vỡ, lẫm liệt, mình mặc áo võ ngắn, đầu đội mũ da rái cá, lưng đeo bảo kiếm và cung tên. Nào phải ai đâu xa lạ, người đó la công tử Nguyễn Anh Tề.
Nhưng ngày hôm nay, Anh Tề lộ ra một vẽ mặt buồn rầu, chán nản, mất hết nét ngang tàng khí khái khi xưa. Đặt phịch lưng xuống kỷ, chàng vẩn vơ nhìn ra quãng trời mây ảm đạm, thở dài. Dùng xong mấy chén trà nóng, chàng cũng chả thèm vào phòng thay áo, cứ ngồi yên lặng hồi lâu. Một lúc, như giật mình nhớ lại một ý nghĩ gì, chàng gọi Lộc, bảo ngồi sát lại gần chàng, sẽ hỏi:
- Lộc ơi! Từ khi cậu ra đi, trong nhà này còn bao nhiêu người ở?
- Bẩm công tử, bao nhiêu gia đình đều tản mác về cả, chỉ còn có một mình con. Cậu có dặn con phải cố công trông giữ nhà này cho đến lúc cậu về; con không dám sai lời cậu chỉ bảo. Hiện nay trong nhà, ngoài con không có một người nào nữa, cũng không có một súc vật nào. Thực là hiu quạnh, vắng vẻ, bẩm cậu.
- Lộc! Con thực là nghĩa bộc. Cậu có một câu chuyện này tối quan hệ, muốn phó thác cho con. Cậu muốn trông cậy ở lòng trung trực của con để giúp cậu làm cho trọn một sự rất cần, chả hay con có thể nhận lời với cậu, hết lòng giúp cậu, như con đã giữ nhà cho cậu, không? Như thế nghĩa là con không phụ lòng cậu thương mến con đó. Lộc ạ? Chẳng hay con nghĩ thế nào?
- Bẩm cậu , cậu bảo gì mà con chả làm theo lệnh cậu. Dẫu phải tan xương nát thịt, con cũng chẳng từ nan. Con trước kia là một phạm nhân, tội phải chết chém, nếu khôn gnhờ cậu che chở cho, đút lót các quan địa phương để gỡ tội và chuộc cái sống cho con, thời con còn đâu đến ngày nay? Con xấu số đi thì thôi, chứ trời còn để ngày nào, ngày ấy khắc xương khắc tủy ơn sâu của cậu.
- Chuyện đó là chuyện cũ, con nhắc lại làm gì? Chỉ biết nay cậu phải nhờ con, con có nhận lời giúp cậu hay không, thì nói cho cậu rõ!
- Con đã bẩm hầu cậu: cậu bảo gì con cũng xin vui lòng nhận hết, dẫu cho khó nhọc hay thiệt mạng đi nữa, con cũng xin làm cho đạt ý cậu thì thôi. Vậy xin cậu bảo rõ cho con biết.
- Lộc ạ, nói đến lòng cậu như xé ra muôn mối. Lòng cậu đã tan nát cả, nhưng càng nhắc lại, khối lòng kia vẫn còn đầy đoạn đau thương. Nhưng cậu cứ phải nói để con hiểu rõ. Có hiểu, con mới làm được việc cậu dặn cho tới đích. Con hãy lắng nghe cho kỹ Lộc nhé!
- Vâng!
- Con đã biết mợ con xưa kia là con quan Phò mã Tả quân Đô đốc của vua Tây Sơn, tên là Võ Văn Nhậm. Mà cậu là con quan Hữu quân Đô đốc Nguyễn Hữu Chỉnh. Cậu quen mợ con từ ngày ở Qui Nhơn, cách đây vài bốn năm rồi. Cậu có phen thí võ với mợ con, thấy mợ con có bản lĩnh cao cường, cậu bỗng đem lòng yêu dấu. Gia dĩ, sau được biết mợ con, con nhà quý phái, lại thấy mợ con có nhan sắc lạc nhạn trầm ngư, cậu mê mợ con. Mợ con cũng có lòng yêu cậu nên hai vợ chồng cậu, lén nhà, thề bồi gắn bó với nhau. Những tưởng như thế ắt sẽ được thành một đôi uyên ương tốt lứa, có ngờ đâu ông Cao xanh ác nghiệt hay ghen ghét với những kẻ được hưởng mùi hạnh phúc, rồi bày ra cảnh trớ trêu!
"Một mối thâm thù, mà căn nguyên không rõ ở từ đâu, đã dựng đứng một bức tường oán hận giữa hai gia đình họ Võ và họ Nguyễn. Quan Tả quân không bao giờ có lòng dung Hữu quân, cũng như Hữu quân nếu có dịp, thì khổng để Tả quân yên ổn.
"Cậu chẳng may còn trẻ, không được rõ các lẽ ấy, hoá nên khi thấy An Trinh quận chúa, mợ con, thì cậu thương yêu ngay. Cũng vì hai bên có tư tình, khi phụ thân cậu và nhạc phụ cậu ra Bắc Hà đánh Trịnh, thì cả cậu cả mợ con, cố sống cố chết theo ra cho kỳ được, ngõ hầu sum họp cùng nhau.
"Từ Bắc Hà trở đi, lại bao nhiêu tai nạn tự nhiên xảy đến. Quan Tả quân gặp khi vua Thái Đức ra Thăng Long, bèn xúc xiểm nói xấu phụ thân cậu, rồi xui vua cùng Uy quốc công Nguyễn Huệ nửa đêm lén rút quân về, để một mình họ Nguyễn chơ vơ ở lại. Quân sĩ về cả, duy có một mình mợ con, lúc ấy ăn mặc giả làm bộ tướng quan Tả quân, bỏ nhà lén báo tin cho cậu biết. Cậu vội vàng lên bẩm cụ, cụ hoảng hốt cho xếp cả gia sản và đồ đạc xuống thuyền, đêm ngày theo riết quân Tây Sơn, vào Nghệ An bằng đường thủy. Cậu và mợ con lúc ấy được coi giữ chiếc thuyền thứ ba, là thuyền chứa nặng những rương tiền và vàng bạc châu báu. Không may cậu bị bão, lại gặp giặc Tầu Ô, bốn tên gia đinh đều bị giặc giết chết; cậu mợ lâm thế cô phải đục thuyền cho đắm, rồi nhảy xuống bể, lặn vào bờ lánh nạn. Tiền và vàng bạc mất cả, lúc đắm thuyền, chỉ tẩu được một ít châu ngọc và đồ tư trang mợ con bó thành một bó nhỏ, thắt vào lưng.
"Cậu và mợ con, sẵn có ba bốn tội nặng, không dám trở về quê quán nữa. Đành ở ngụ cư tại đây, định lấy ái tình khăng khít để quên cả gia đình, quên cả mọi sự phú quí công danh trên trần thế nữa. Cậu và mợ con định sống một cuộc đời thanh đạm an nhàn.
"Nhưng, hỡi ôi! Trời cao xanh cay nghiệt nào có để cho hai chúng ta được hưởng hạnh phúc cho tới buổi da mồi tóc bạc. Một việc quan trọng xảy ra giữa cuộc chung tình của cậu và mợ con, khiến mợ con, vì quá yêu cậu, phải hy sinh cả ái ân lẫn sinh mệnh! Việc ấy, tức là kết quả của một sự thâm thù chia rẽ họ Võ và họ Nguyễn, nó làm cho cậu không dưng bồ côi cha, không dưng goá mợ; nó tức là sự Tả quân hành tội Hữu quân ở Thăng Long thành đó! Cậu ở yên phận trong vùng Sầm Sơn vắng vẻ này, xa hết cả mọi việc đời túi bụi, còn làm sao biết cái tin đau đớn thảm khốc ấy? Thế mà, không hiểu vì đâu, mợ con biết được rõ ràng đích xác; ba hôm sau khi hai cụ và cậu Hai nhà ta bị hại, hung tin đến tai mợ con. Mợ con một mặt sai cậu lên tỉnh dò la sự thể, một mặt tụ dân làng lại chia của cải trong nhà.
"Cậu ở Thanh Hoá về, thì mợ con đã là người thiên cổ. Ở Thanh Hoá cậu cũng được tin mang máng rằng cụ nhà ta phò triều Lê mà đương bại trận, nhưng có hay đâu ngài đã bị nhạc phụ cậu là Võ Văn Nhậm giết rồi!
"Mợ con chết đi, là có ý muốn để cậu đừng vì tình mà quên cốt nhục. Mợ muốn cho cậu được tùy tâm hành thích phụ thân nàng. Lộc ơi! Mợ con đã tỏ ra nàng là một phụ nhân hiếm có trên đời; cậu dù đối với cha nàng đeo một mối tử thù, nhưng nàng đã xử sự như thế, thì cậu nỡ quyết liệt làm sao cho được? May thay! Sự vật ngày nay lại hoàn toàn đổi hẳn, khiến cậu trả được thù mà không phải giết Tả quân...
"Có lẽ trời xanh, sau khi đày đoạ cậu, đã hồi tâm thương cậu, không muốn cậu phạm vào một tội lỗi mà ngàn thu cậu vẫn ghê sợ, e ngại, không nỡ làm. Mợ con đã quá yêu cậu, tự hủy thân đi để giữ mối chung tình cho trong sạch đầy đủ, cậu nỡ lòng nào không thưong vợ, hung ác cầm dao đâm vào cổ họng cha nàng, nhúng tay vào vũng máu đã tạo ra nàng? Một kẻ phụ mình là anh hùng, cũng không có gan ấy được. Chỉ có loài mãnh thú mới đang tâm tàn nhẫn mà thôi! Nhất là khi cậu được giáp mặt Tả quân, thì đương lúc ông sắp bị đầu rơi khỏi cổ dưới lưỡi gươm đao phủ!
"Song le không báo thù một cách bạo động, cậu đã làm cho tâm hồn nhạc phụ cậu, trước khi lìa khỏi xác, bị đoạ đày trong một niềm hối hận vô biên. Thế là đủ.
"Giờ đây, giũ sạch được một gánh nặng nề mà ân oán đã gây nên, cậu còn phải lo trả sạch một chút nợ nam nhi trước khi liều mình tự tận. Phải, vì thế nào cậu cũng phải chết, cậu sẽ chết! trên bàn cờ, mợ con đã nhẫn tâm xoá cuộc, có lẽ đâu cậu còn gan ngồi đánh mãi một mình! Vả chăng, cậu là người thứ tư còn sống sót sau một cuộc phong ba hủy hoại cả gia đình cậu, cậu còn ham cầu hoạt làm gì?
"Nhưng, cậu còn chút bổn phẩn phải làm trọn vẹn trước khi theo cha, theo em, theo vợ, vào cõi hư linh bát ngát. Cậu sẽ sống thêm ít tuần nữa, sống để đuổi theo một mục đích tối thiêng liêng.
"Cậu con nhà dòng dõi trâm anh, lại còn trẻ không thể chết tối tăm như mợ con được, phải có chút công danh sự nghiệp để lại cho mai hậu, ngõ hầu thoả nguyện bình sinh, và đoạt ý chí của phụ thân cậu. Cậu hẳn phải sống. Bao giờ nguyện vọng của cậu hoặc đạt được, bây giờ sẽ chết cũng không muộn gì.
"Cụ nhà ta sinh thời ăn lộc nhà Lê, vừa đây lại thụ tước nhà Lê, mà đến chết cũng giữ vững được cơ đồ cho vua Chiêu Thống. Cơ đồ ấy nay đã về tay kẻ khác, vua Lê đã trốn sang Tàu. Cậu sẽ là người nối lòng ước muốn của ông cha, khôi phục lại xã tắc cho Lê triều đó! Cậu sẽ là một bầy tôi trung thành tận tụy, giúp vua trong buổi long đong. Cậu sẽ xây vững ngôi bảo tộ cho nền chính thống.
"Dù thắng, dù bại, cậu cũng sẽ cố làm. Cậu sẽ làm cho đến buổi, sức yếu, lực tàn, cậu ngậm cười mà chết giữa chốn sa trường đẫm máu! Nếu không được hạnh phúc lấy da ngựa bọc thây, cậu lại tìm về đây cùng mợ con lấy đáy bể làm mồ. Cậu sẽ chết cạnh mợ con cho phỉ tình ân ái.
"Bây giờ cậu phải cùng con vĩnh quyết; ngày nay con trông thấy cậu, ấy là trong buổi cuối cùng. Từ buổi này trở đi, thầy trò ta sẽ không bao giờ gặp mặt nhau nữa. Trước khi tương biệt cậu cần dặn con mấy việc rất cần. Con nên nghe kỹ mà ghi lấy trong lòng, để sau này làm cho đúng lời cậu bảo!
Bao nhiêu đồ đạc của cải trong nhà, cậu cho con cả. Sau khi cậu đi rồi, con sẽ đem hai bức thư này, một bức về Nghệ An, một bức về Phú Xuân. Con sẽ tìm về làng Châu Lộc, hỏi thăm cụ Nguyễn Hữu Bằng, tức là chú ruột cậu đó. Trong hai bức thư, con giao cho cụ một bức, còn bức nữa con sẽ giao cho Thọ Huê công chúa, tức là Võ Văn Nhậm phu nhân, ở Phú Xuân.
"Trong hai bức thư đó có kể rõ cuộc tình duyên giữa cậu và mợ con, lại thuật rõ những lẽ đã làm cho cậu mợ phải nửa đường chia rẽ. Những dấu vết và sự tích kho vàng cậu làm chìm nơi đáy bể, cậu đã biên chép rõ ràng. Người đời sau ai có duyên thì cứ đến đúng chỗ mà khai lên, một gia sản lớn sẽ về tay người đó!...
Con nên nghĩ đến ân nghĩa thầy trò, giúp cậu đem thư này cho tới đích, đừng nên để thất lạc đi. Ơn ấy, dù dưới suối vàng, cậu cũng ghi tâm mãi mãi...
"Thôi, con ở lại, cậu đi!...
Dứt lợi, như một cái bóng lẹ làng, Nguyễn Anh Tề đã nhảy vọt ra ngoài, đi biến vào cõi tối mịt mùng thăm thẳm.
Ngoài trời, mưa vẫn tuôn gió vẫn phả, sóng cồn vẫn nổi lên dào giạt, tung những làn bọt trắng xoá giữa vùng nước thẳm đen sì...
Tên gia đinh Lộc, tựa cửa đứng trông, tưởng tượng như cố chủ đem thân vào cõi chết... 
PHẦN 11
Vào khoảng hạ tuần tháng một năm Đinh Vị (1787). Trên con đường thiên lý chạy từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, một đoàn lương dân đi lánh nạn tất tưởi tiến bước, không quản đêm ngày.
Đoàn đó tất cả độ năm chục người, nhưng chỉ có ba người cưỡi ngựa, còn bao nhiêu thì đi bộ cả. Họ cũng ăn mặc quần áo vải, song khách bàng quan ngắm nhìn cách họ cử chỉ với nhau, thì tưởng chừng ba người cưỡi ngựa kia là chủ mà lũ đi bộ tức là bọn gia nhân vậy. Đi đầu là một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, đầu quấn một vành khăn nhiễu tam giang, mình mặc áo the kép, đội nón dứa, đi văn hài, vẻ mặt ngại ngùng lo lắng. Trên yên ngựa, trước mặt ông ta, một đứa trẻ con độ bốn tuổi, mặt mũi sáng sủa lanh lợi, ngồi dựa lưng vào lòng ông, mồm nhí nhoẻn cười, tựa hồ lấy sự hành trình làm thú vị lắm. Một tay mắc cầm roi, tay nữa lại cầm cương, người đàn ông đó phải lấy một giải lụa dài buộc đứa trẻ con chắc chắn vào mình, cho nó đừng bị ngã trong khi gió ngựa gập nghềnh lên xuống.
Theo sau người đàn ông, đi song song hai con ngựa bé nhỏ, trên ngồi hai người đàn bà. Một người đã ngoài bốn mươi, ăn mặc diểm dắn, người thứ nhì là một thiếu phụ trạc hai mươi tuổi, mà bộ quần áo đen bằng sồi càng làm tăng vẻ đẹp thuỳ mị và nước da trắng nuột như ngà non.
Lục tục nối gót ba người kỵ mã, ấy một bọn hơn bốn mươi người, trai nhiều, gái ít, coi bộ đã mỏi mệt cả, nhọc nhằn lê bước, cố theo cho kịp chủ đoàn.
Họ đi một quãng độ bốn dặm đường thì, may thay một quán trọ rộng rãi đã hiện ra dưới bóng một cây đa um tùm xanh ngắt. Độ ấy về mùa đông, gió bấc phả, rét cắt da cắt thịt; mặt mũi và tay chân lũ bộ hành đều thâm tím lại rất đáng thương.
Dừng ngựa cách quán làng độ đam trượng, người đàn ông có đứa trẻ con trong bọc quay đầu lại nói nhỏ với người đàn bà đứng tuổi:
- Xin lệnh bà cho phép xuống đây nghỉ một chốc rồi lại đi, nay đã gần Đồng Khê cũng chả còn bao lâu nữa thì đến Cao Bằng.
Người đàn bà sửa lại tà áo bông và mái tóc hơi lòa xoà dưới vành khăn vuông mỏ quạ, nhìn người đàn ông, một cách buồn rầu:
- Tiên sinh cứ tùy tiện, liệu định thế nào cho phải thì làm, không cần hỏi đến tôi nữa! Nay ruột tôi rối như mớ bòng bong, còn hơi sức đâu nghĩ tới những việc vặt.
Người đàn ông được gọi là tiên sinh, không phải là một lương dân đi lánh nạn, chính là một vi quan đương triều vâng lệnh vua Chiêu Thống đưa hoàng gia lên tạm trú ở Cao Bằng, ông Lê Quýnh. Đứa bé con ông đùm trong bọc tức là Hoàng tử mà hai người đàn bà cưỡi ngựa kia, người già là Thái Hậu, người trẻ là Hoàng Phi. Trong bọn người đi bộ có ba mươi người tôn thất, còn bao nhiêu đều là nữ tỳ cùng thị vệ theo hầu.
Giữa lúc họ hàng nhà vua, nhọc nhằn, kham khổ, dìu dắt nhau tất tưởi trên đường lánh nạn, thì vua Lê, cùng vài vị trung thần và Bằng trung Công đại tư mã Nguyễn Hữu Chỉnh đương đóng đồn chống cự với quân Tây Sơn tại Mục Sơn, về vùng Yên Thế.
Nguyên từ ngày vua Thái Đức Nguyễn Nhạc cùng Uy quốc Công Nguyễn Huệ bỏ xứ Bắc trở về Nam, sau khi đã phù Lê diệt Trịnh, thành Thăng Long, tạm yên ổn được vài tháng. Vì trải qua nhiều nạn binh đao, khiến giường mối nhà Lê, chưa được vững vàng, lại rối bét khó lòng gỡ nổi. Nhân dân hưởng thái bình được non hai tháng, lại nhao nhao sợ hải, kẻ chạy trốn, người ở lại, không còn ra thể thống gì cả.
Đáng lẽ sau khi Nguyễn Huệ đã diệt họ Trịnh để trả quyền bính đất Bắc lại trở về tay vua, Lê Mẫn đế phải lấy cái dịp hiếm có và cái cơ hội may mắn ấy để lập lại nền cai trị. Tiếc thay! Vua quan lúc đó chỉ là một loạt bồ nhìn vô dụng: Chiêu Thống thì trẻ người non dạ, không có tài quyết đoán, mà đình thần thì toàn là lũ giá áo túi cơm, không biết kinh luân chiến lược, còn rát như thỏ.
Thái Đức Hoàng đế vừa đi khỏi chưa đầy hai tháng, chốn Bắc Hà lại hoá ra trường binh lửa điêu tàn. Bây giờ có hai tên dòng dõi nhà Trịnh, một tên Bồng, một tên Lệ, không biết tụ họp ở đâu được dăm ngàn quân mã, đem binh về Thăng Long đánh nhau để tranh cướp quyền hành. Các quan nghe có giặc tới nơi, lại như lúc còn đời Cảnh Hưng Hoàng đế, chưa đánh đã vung cẳng chạy trốn cả, bỏ một mình vua cùng dăm tên nội thị ở lại chốn triều đường.
Ngoài thành, chả bao lâu, Trịnh Bồng phá tan quân Trịnh Lệ, rồi vào đền Van Thọ yết kiến vua. Chiêu Thống bèn giáng chỉ cho gọi các quan trở về; thầy giặc đã yên, họ lại ló đầu ra cả. Rồi giữa đình Kính Thiên, họ cãi nhau như mỏ quạ, kẻ bàn ra, người bàn vào, kẻ muốn gây lại nghiệp Chúa, người quả quyết chỉ tôn phù nhà Lê. Bấy giờ có Dương Trọng Tế, vốn chân khoa bảng đương làm quan trong triều, về hùa với Trịnh Bồng, hết sức giúp cho Bồng được cầm quyền chính.
Vua Chiêu Thống lúng túng, không biết nghe bên nào là phải, nhung vì tình thế bó buộc, lại nể lời khẩn cầu của Dương Trọng Tế cũng dằn lòng phong Trịnh Bồng là An Đô Vương, sai dựng Liêu phủ mới cho y ở.
Bồng nhờ ơn Trọng Tế có công thủ xướng cho Tế dự vào giữ quyền chính trong phủ. An đô vương khi đã đắc lực rồi, vội lên mặt ngay, toan bề hiếp vua như các ông cha thủa trước. Lại được tay quân sư họ Dương hết sức siểm nịnh, bàn với Trịnh Bồng phế vua đi để tự lập, rồi sai người Nguyễn Mâu Nễ đem quân vây thành bắt Chiêu Thống để giết đi. Đời sau chép việc ấy, pho "Nam Sử diễn chúng ta" phê rằng:
Trách thay Trọng Tế họ Dương,
Cũng trong khoa bảng cũng phường đai cân.
Sao không biết nghĩa quân thần,
Bày mưu phế lập, sắp quân vây thành.
Non sông còn mặt triều đình,
Bạc đen xem thấy nhân tình mà ghê!
Khi Mẫu Nễ đem quân đến vây bắt vua, may sao có lão tướng Hoàng Phùng Cơ, tức quận Thạc, ở trong thành phò Lê Mẫn Đế. Quận Thạc sợ mang tiếng xấu, sai thủ hạ trèo lên thành mắng đuổi lũ nghịch tặc, khiến chúng phải hổ thẹn kéo lui; xong đâu đấy mới vào tâu vua rõ và xin vua quyết định về việc ấy.
Chiêu Thống nghe tâu vừa giận vừa sợ, lại thấy cơ nghiệp lung lay sắp đổ, nghĩ ngay đến Nguyễn Hữu Chỉnh là người trung nghĩa, cho kẻ tâm phúc đem mật chỉ vào Nghệ An mời Chỉnh ra giữ vững Sơn Hà. Hữu Chỉnh, sau khi xuống thuyền chạy tất tưởi theo vua Thái Đức, bị nạn phong ba trôi tạt vào bờ. Đổ bộ đi đến Nghệ An, thì vừa gặp đại binh của Tây Sơn nghỉ chân ở đó. Vua Thái Đức rỏ lòng Chỉnh trung trực, lại thấy y cố ý theo nhà Tây Sơn cho đến cùng, bèn thương tình không nỡ lìa bỏ y như trước, cho phép ở lại giữ đất Nghệ An cùng quan trấn thủ Nguyễn Tuệ. Chỉnh bèn đóng đồn trại ở đó cùng con thứ là Nguyễn Anh Du, đêm ngày hết lòng mong tin tức của trưởng tử là Nguyễn Anh Tề, nhưng càng mong càng phải đành yên trí rằng Anh Tề đã bị bão chết rồi, không nghĩ đến chàng nữa...
Ở Nghệ An, Chỉnh chiêu mộ dũng sĩ, mãi mã tụ binh, rèn luyện khí giới, sáng chiều tập trận. Chẳng bao lâu, binh bản bộ có hơn một vạn, có đi đánh chốn nào cũng dư lực, không còn e ngại điều gì. Khi nhận được mật chiếu của vua, Chỉnh bèn thảo một bài hịch truyền đi trước, và cho bắt quân, tức khắc được đến hơn muôn, rồi chia ra làm đội tứ thành, đội tứ đột. Chỉnh thân xuất quân mã ra Thăng Long đi đến Hoa Lâm, gặp quan trấn thủ cũ là Bùi Đình Toại, đánh cho Toại một trận ráo riết khiến Toại phải thua liểng xiểng bỏ chạy. Qua Thanh Hoá, lại phá tan lũ tướng sĩ trong trấn ấy, chém chết quan trấn tướng là Trung Nghĩa Hầu. Chả mấy ngày đại đội binh mã đã kéo đến Dản Khâu (về hạt Ninh Bình). An Đô vương sai Dương Trọng Tế đem binh chống lại. Chỉnh dàn quân đánh Trọng Tế phải trốn về Bắc Ninh. Trịnh Bồng thế yếu sức cô, cũng phải chạy sang Gia Lâm nấp trong nhà Trọng Tế, rồi thu vét của cải, nửa đêm trốn tuột vào rừng.
Chỉnh đuổi xong Trịnh Bồng, hiên ngang lẫm liệt kéo quân vào thành Thăng Long; Vua Chiêu Thống thân ngự ra bến Tây Long duyệt binh, phong cho Nguyễn Hữu Chỉnh làm đại tư đồ, thụ tước Bằng trung công; con là Nguyễn Anh Du cũng được phong làm Thành Đình hầu. Chỉnh bèn lấy phủ Chúa làm dinh cơ, đóng quân lại Bắc thành để gìn giữ nhà Lê khỏi bị những cơn tai biến.
Từ đó, Trịnh Bồng cũng một vài phen toán dấy binh khôi phục lại oai quyền đã mất, nhưng hắn đánh trận nào thì trận ấy bị thua xơ xác, không còn manh giáp trên vai. Bao nhiêu công trình của hắn thành ra vô dụng cả. Buồn bã, chán nản, hắn bỏ hẳn việc cạnh tranh khó nhọc, cạo đầu vào núi đi tu. Họ Trịnh, đến đời Trịnh Bồng, là dứt hẳn.
Chỉnh từ thủa xưa, vốn đã có danh tiếng ở Bắc Hà; nay lại được vua yêu, cho hưởng quyền cao tước cả, tiếng tăm lại càng lừng lẫy thêm lên mà tân khách lại càng đến đông hơn buổi trước. Chỉnh thấy mình được phú quí, cho là thời vận đã đến, có ý ỷ mình tài hoa lỗi lạc, rồi ngạo nghễ tự đắc, coi thiên hạ bằng nửa con mắt, làm lắm điều càn dỡ, đến vua Lê cũng phải lấy làm phiền, đem bụng ghét, mà nhân dân đều có ý ngờ.
Chỉnh thấy mình đường đường ngôi cao tước cả, lấy làm sung sương lắm cho dán trước cửa một hai câu đối, để cho thiên hạ biết mà thần phục và kinh sợ mình. Đối rằng:
Mở khép càn khôn, có ra tay mới biết;
Ra vào tướng tướng, thử liếc mắt mà coi.
Chỉnh có ý muốn nói mình đã đạt được chí anh hùng, vì đã ra tay giẹp tan dư đảng Trịnh, nhất đán ngồi hàng tướng tướng làm gương cho thiên hạ trông vào.
Câu hát của thần nữ xưa kia mãi đến bây giờ mới nghiệm. Thế lực và những sự hành vi trái phép của Chỉnh đồn mãi đến tai Nguyễn Huệ trong Nam. Huệ lúc ấy được phong làm Bắc bình vương, nghe nói Chỉnh đắc thời có ý phản lại nhà Tây Sơn bèn cho người đem ra cho Chỉnh một bài thơ tứ tuyệt:
Ai ra ngoài Bắc nhắn Chim Bằng (* )
Lông cánh bao nhiêu dám vẫy vùng?
Lộng lộng lưới trời sao thoát đặng.
Rồi xem ta bắt bỏ vô lồng!
(*) Chỉnh xưa kia được gọi là "Chim dữ", sau này lại thụ tước "Bằng quận công", vì thế nên Nguyễn Huệ gọi Chỉnh là "Chim Bằng".
Huệ một mặt nhắn trước cho Chỉnh biết, một mặt sai Phò mã Võ Văn Nhậm làm Tiết chế, đem một vạn tinh binh ra Bắc Hà bắt Chỉnh.
Quân thủy bộ do Võ Văn Nhậm đốc xuất không kỳ ngày đêm kéo tuột ra phương Bắc; khi qua Thanh Hoa, đến thành Phố Sơn, gặp binh mã của quan Trấn thủ là Nguyễn Duật, Duật không dám chống cự, lui quân xuống giữ mặt Trinh Giang, để mặc cho Võ Văn Nhậm thẳng ruỗi ra đến hạt Ninh Bình.
Nguyễn Hữu Chỉnh nghe rục rịch có quân Tây Sơn ra Bắc, bèn cho con là Thành đình hầu Nguyễn Anh Du coi tiền đội đi trước, dàn quân trên Bắc ngạn sông Thanh Quyết để ngăn quân Tây Sơn tiến lên. Chỉnh thì tự đốc hai vạn tinh binh giữ mặt bộ. Võ Văn Nhậm sai quân thủy, vốn có tài lặn lội, nửa đêm bơi ngầm dưới nước, lấy thừng chão buộc vào mũi thuyền của quân Nguyễn Anh Du. Rồi nhân lúc trời tối đen như mực, quân Tây Sơn nổi hiệu, ra cầm đầu dây kéo mãi, bao nhiêu thuyền Bắc Ngạn đều trôi về Nam Ngạn cả. Lúc bấy giờ chúng mới nổi hiệu súng bắn về phương Bắc; quân bộ của Nguyễn Hữu Chỉnh vội vàng bắn lại, ai ngờ lại bắn phải quân thủy của Nguyễn Anh Du, vì quân Tây Sơn, sau khi kéo thuyền về mé Nam, bỏ lên bờ lẩn tránh cả.
Thủy binh của Anh Du bị bắn, cũng nhằm phía có tia lửa bắn lại, bắn mãi đến gần sáng, chết mất quá nửa bây giờ mới nhận ra rằng quân cha bắn lẫn quân con.
Anh Du sợ hãi bỏ thuyền lên bộ tìm kế thoát thân; các thủy binh cũng hoảng hốt nhảy xuống sông bỏ chạy, thành ra không mất chút công đánh phá nào, quân Tây Sơn chiếm cả được các thuyền bè. Về phần quân bộ của Hữu Chỉnh đóng ở Bắc ngạn, thì một số đông bị đạn chủa thủy quân bắn chết, còn bao nhiêu đều chạy tản lạc, Chỉnh hãm cũng không nổi, phải đành thua trận, lui tàn binh về đóng ở Châu Cầu.
Quân xứ Bắc từ buổi nào đến giờ vẫn toàn là một lũ ô hợp và lười biếng, đã rút rát còn khoác lác, chỉ dùng làm quân để đi trong đám rước thì đẹp, nhưng không thể đem ra chiến trường. Một vạn dũng sĩ ở Nghệ An đưa ra, quá nửa đã chết hoặc bị thương khi đánh nhau cùng họ Trịnh, còn bao nhiêu trộn lộn với quân xứ Bắc cùng tập tính quen sự lười biếng đi rồi.
Khi Nguyễn Hữu Chỉnh lui về Châu Cầu, Võ Văn Nhậm thúc quân ráo riết đuổi theo, hai đội binh Nam, Bắc lại xung đột một lần hăng hái nữa. Song le, quân Nghệ đánh không hết sức mà quân Bắc thì e sợ quân Tây Sơn đã từ lâu rồi, vì lần nào cũng bị quân Tây Sơn đánh cho đại bại. Cái sợ ấy in sâu trong trí họ, hoá nên chưa lo đánh đã lo lùi. Trận Châu Cầu lại phải để cho Võ Văn Nhậm thắng thế.
Hữu Chỉnh thua luôn hai trận, núng thế quá, phải bỏ thành Thăng Long cho quân địch, phò xa giá vua Chiêu Thống sang Kinh Bắc. Họ hàng nhà vua thì do ông Lê Quýnh đưa lên tị nạn ở Cao Bằng.
Vua tôi Hữu Chỉnh, sang đến Kinh Bắc, quan Trấn thủ tỉnh ấy là Nguyễn Cảnh Thước làm phản đóng cửa thành không cho vua vào. Vua và Chỉnh phải thúc ngựa chạy lên Yên Thế; Khi đi đến bờ sông Nguyệt Đức, trong khi chưa có thuyền chở sang đò, Chiêu Thống và mấy kẻ theo hầu lại bị đầy tớ Nguyễn Cảnh Thước đón đường cướp bắt. Túng thế, Lê hoàng phải cởi cả áo ngự bào mặc đồ thường phục, mới thoát được nạn, cùng cha con Hữu Chỉnh chạy lên Mục Sơn, đóng đồn tạm ở đó.
Võ Văn Nhậm đuổi được quân Chỉnh, kéo đại binh vào Thăng Long, lấy phủ Bằng trung công làm hành doanh, rồi tụ bọn tướng đi theo mình là Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân cùng Nguyễn Văn Hoà để bàn định kế hoạch bắt Chỉnh. Hoa tình nguyện đem quân bản bộ lên Yên Thế để cướp trại, Nhậm cho đi.
Trời độ ấy về mùa đông rét mướt, về ban đêm thường mây ám lấy cả trăng sao, Nguyễn Văn Hoà bèn cho quân đi rất nhẹ nhàng, người ngậm tăm, ngựa tháo nhạc, kéo thẳng lên Yên Thế.
Nguyễn Hữu Chỉnh và Chiêu Thống đương ngồi trong trại đàm luận bỗng nghe tiếng hò reo ầm ỹ, rồi thấy lửa cháy rực trời và ẩn hiện lấp ló trong ánh sáng không biết bao nhiêu quân mã kéo đến rầm rộ. Mấy tên nội giám trung trực phò vua lên ngựa chạy trốn trong khi Nguyễn Hữu Chỉnh nai nịt gọn ghẽ, vác siêu đao "Cổ Đỉnh" xông ra, tả xung hữu đột, phá quân Tây Sơn để tháo lấy một huyết lộ. Chỉnh đánh mãi mà rào người vẫn không núng, lại nghe bốn bề những tên quân Bắc Hà kêu khóc sầu thảm, lại càng sờn lòng. Quân Tây Sơn thì vây bọc như thành, reo hò hăng hái, càng ngày khí thế càng mạnh, khó lòng phá vỡ được.
Con thứ Chỉnh là Thành đinh Hầu Nguyễn Anh Du thấy cha đánh không đổ bên địch, cũng hăng máu nóng mặt, vác hoạ kích xông xả vào đám hùng binh trăm vạn, đi đến đâu rẽ ra đến đấy, nhưng cắt được vòng này lại thấy có vòng khác, mà những vòng bị đứt thì đứt xong lại thấy nối liền ngay. Anh Du múa ngọn Phương thiên bạch quang bao bọc người chàng khi ẩn khi hiện, khiến cho quân Tây Sơn trông thấy cũng phải phục tài. Tuy nhiên, phục thì phục, mà vây thì cứ vây; Du đâm bên Đông, thích bên Tây, nào đỡ, nào né, nào múa, nào giết, xông pha trong vòng gươm giáo tên đạn trong hai giờ đằng đẵng, mà rút cục đã không cứu được cha còn bị hãm nhốt trong vòng vây.
Du thu hết khí lực đánh phá một hồi lâu nữa, nhưng áo bào trắng lúc ấy mồ hôi thấm ướt đẫm, máu hoen ố đỏ ngầu, mắt thì hao lên, tay chân cũng bủn rủn, lượng mình khó bề thoát khỏi. Đương khi bối rối, chợt nghe có tiếng gió vùn vụt, chưa kịp nghiêng mình tránh ám khí, Du đã bị một chiếc dùi đồng nhọn hoắc xuyên vỡ hộ tâm kính, cắm sâu vào ngực, Du kêu lên một tiếng đau đớn, giơ tay rút mũi tên đồng, lảo đảo một khắc, rồi ngã gục xuống chân ngựa.
Quân Tây Sơn xông lại đăm chém chàng ra trăm mảnh.
Hữu Chỉnh đang cố sống cố chết múa đao gỡ lấy một đường để chạy, đương hăng hái chém được vài chục thủ cấp, sắp giải được trùng vây, bỗng nghe tiếng Du kêu, quay đầu trông lại, thấy một cảnh tượng đau đớn như bào gan xé phổi, bất giác mồ hôi ướt áo, tứ chi bải hoải, không lẹ làng như trước nữa, bị Nguyễn Văn Hoà xông đến lừa lúc chân tay bối rối, thúc ngựa vào kéo dây lưng vật ngã xuống, hô quân trói lại.
Hoà bắt được Chỉnh rồi bèn gióng chiêng bãi chiến thu quân về Thăng Long, bỏ vua Chiêu Thống chạy thoát, cùng vài tên tỳ tướng đi hộ vệ, sang núi Bảo Lộc.
Hoà giải Chỉnh về quỳ trước mặt Võ Văn Nhậm, Nhậm trừng mắt ngắm Chỉnh rồi vuốt râu cười ha hả nói mỉa rằng:
- Chim Bằng lâu nay vẫn mạnh khoẻ đấy chứ? Làm sao mày làm phản?
Chỉnh thản nhiên nhìn Nhậm, không đáp.
Nhậm cau mày, nhưng lại tươi tỉnh ngay, hất hàm hỏi Chỉnh:
- Thế nào? Cố nhân không muốn nói ư? Một lời nói của cố nhân có lẽ làm cho Nhậm đây không nỡ nhẫn tâm dùng lưỡi gươm cắt đứt mối ân tình; Nhậm chỉ sợ rằng lưỡi đao tàn ác này lại không e nể cố nhân thì lúc xuống tay cố nhân có muốn nói năng, lời nói ấy Nhậm tiếc rằng có khi chậm!
Ba lần Võ Văn Nhậm nhắc đi nhắc lại lời chế giễu của mình, ba lần Nguyễn Hữu Chỉnh cứ đứng lặng yên, chờ chết.
Sau cùng, thấy kẻ thù không nhúc nhích, Nhậm bước xuống thềm:
- À! Ra cố nhân không muốn giãi tâm sự bằng lời; thế thì có lẽ ngài muốn trối trăng bằng bút. Quân đâu, văn phòng tứ bảo, mau!
Lính thị vệ đem nghiên bút lại. Trên mặt tờ giấy trắng, Chỉnh, tuy bị trói ghì cánh khuỷu, cũng cố cầm bút vạch thành bốn chữ rõ to:
"Thế nhi dĩ hĩ!"
Rồi vứt bút xuống sân, đứng thẳng người nhìn Nhậm. Bấy giờ Nhậm tuy không hiểu chữ nghĩa là gì, song cũng mang máng biết rằng Chỉnh cử chỉ như thế tức là khinh miệt mình; lửa giận bên trong bốc lên ngùn ngụt; Nhậm quay lưng đi thẳng lên đại điện, truyền quân đao phủ hành tội ngay Hữu Chỉnh dưới thềm, xả Chỉnh ra muôn nghìn mảnh rồi đem bêu đầu ở cửa thành; còn xác thịt, thì vứt ra đồng cho chó và chim rỉa.
Võ Văn Nhậm giết xong người cừu địch, nét mặt hớn hở vui mừng. Việc tư thù đã thỏa, Nhậm mới nghĩ đến quân sự. Thì ra từ khi vua Chiêu Thống chạy giặc, triều đình không có chủ, các quan lộn xộn ra vào, không còn thể thống gì nữa. Nhậm cho tìm vua, tìm đâu cũng không thấy, túng thế phải tôn hoàng thân là Sùng Nhượng công Lê Duy Cận lên ngôi, coi tạm việc nước, gọi là Giám quốc. Các quan đều không phục, chẳng ai thuận theo; Sùng Nhượng Công ở trong điện Kính Thiên chỉ có dăm người hoàng thân cùng mấy quan võ tướng theo sớm tối hầu hạ. Đình thần không ai đến chầu, cũng không ai tâu hỏi việc gì cả.
Ngày ngày quan Giám quốc lại đi bộ từ đền Vạn Thọ sang phủ Bằng trung công, tức là hành doanh Võ Văn Nhậm rồi đứng chầu chực ở đó hàng giờ, đợi lời chỉ giáo. Nhậm lấy thế làm phiền phức, nhưng cũng không biết xử trí thế nào.
Dân trong kinh thành thấy việc chướng mắt, ngược đời ấy, ai cũng chê cười, gọi Sùng Nhượng công là "Thầy đề lại Giám quốc".
Võ Văn Nhậm ỷ mình có tài bắt được Hữu Chỉnh, có công đệ nhất trong sự cứu giúp nhà Lê. Nhậm được Sùng Nhượng công sớm chiều sang hầu, ngoài mặt giả vờ tỏ vẻ khó xử, nhưng trong lấy làm thú vị sung sướng lắm, bởi lẽ tự hào mình là người có quyền thế to lớn nhất ở xứ Bắc Hà. Sự sung sướng ấy lộ hẳn ra nét mặt: Nhậm không những chỉ dương dương tự đắc còn có vẻ kiêu ngạo trong khi đối đãi với các quan nhà Lê với cả những người ngang hàng với mình như Phan Văn Lân và Ngô Văn Sở, lúc đó sung chức Tham tán quân vụ.
Khi Bắc bình vương Nguyễn Huệ sai Nhậm ra Thăng Long bắt Chỉnh, Vương đã có ý ghét Nhậm là người tiểu nhân, không dùng được trong đại sự, lại sợ giao nhiều binh quyền cho Nhậm thì y sẽ kiêu căng cậy công cậy tài, rồi mưu những việc phản trắc ngay. Vì lẽ đó, vương sai đi kèm bên mình Nhậm tụi Sở, Lân để dò ý tứ và chia bớt thế lực của Nhậm.
Ngô Văn Sở thấy chủ tướng đối với mình có ý khinh bỉ, nghĩ lấy làm giận; nhân thấy Nhậm đối với Nguyễn Hữu Chỉnh, là bạn đồng liêu cũ, không có chút ân tình nào, càng đem lòng ghét Nhậm, liệt Nhậm vào hạng Trịnh Tùng, tiện tiểu nhân, tàn nhẫn, không thể gây nên sự nghiệp vững bền được. Sở bèn viết thư cho Bắc bình vương, ngỏ ý Nhậm tự phụ mình có công to, muốn làm phản.
Được tin, Bắc bình vương, lập tức truyền lịnh kéo mấy ngàn quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường nửa đêm ra đến thành Thăng Long. Đại đội hùng binh vừa tới nơi, Vương truyền lịnh kéo thẳng đến hành doanh Võ Văn Nhậm, trói gô Nhậm lại giải ra chợ trảm quyết.
Nhậm vừa lấy làm lạ, vừa kinh sợ, không hiểu vì lẽ gì chú vợ mình lại xử tệ với mình. Y lạy phục xuống thềm, khóc lóc kể lể nỗi oan ức và xin Nguyễn Huệ khoan dung cho. Bắc bình vương chỉ lắc đầu, cười gằn, không nói gì cả sai lính đưa ra cho Nhậm một mảnh giấy nhỏ trên có đề mười hai chữ rõ rệt:
"Bất tu đa ngôn; nhữ tài quá ngã, phi sở ngã dụng".
(Chớ khá nhiều lời; tài mày hơn tao, tao không dùng được).
Nhậm mượn đọc xong không còn biết nói thế nào chỉ kêu trời kêu đất, oán thán phận mình. Nhậm biết rằng Huệ đã truyền lệnh, có xin van cũng vô ích. Tài Huệ có lẽ nào kém Nhậm, nhưng Huệ nói thế, chỉ là để có cớ giết Nhậm mà thôi. Một người hữu ý, một kẻ vô tình, ai tránh cho khỏi tai vạ mà tha nhân đã lập tâm gieo trên đầu mình một chách quá tự nhiên vô lý? Nhậm suy đi nghĩ lại, cam tâm chịu chết, chả trách chú vợ vô tình, mà trách mình quá dại dột, nai lưng đánh dẹp để gây cơ đồ cho nhà vợ, khiến giờ đây, chưa kịp ngáp, đã hoá ra một thằng xú quỷ không đầu. Càng nghĩ càng xót xa, Nhậm sụt sùi khóc rũ xuống. Bao nhiêu những kỷ niệm về cuộc đời dĩ vãng, trong phút chốc, hiện ra, từng quãng một trong tâm hồn. Bao nhiêu hình ảnh của những kẻ thân yêu, nó bày cả trong trí nhớ, giữa chỗ sáng nhất. Nhậm thấy vợ ủ ê rầu rĩ khi nghe tin mình đã thác, thấy con gái yêu quí của mình nhởn nhơ như một cái bóng oan hồn. Nhớ đến An Trinh, lòng Nhậm như bào như xé; Nhậm tự hỏi không biết con mình lưu lạc phương nào mà mất tích, còn hay đã chết từ lâu.
Đương lúc mê mẩn băn khoăn, Nhậm lững thững theo lũ đao phủ, tới chợ khi nào không rõ. Tới nơi, trời còn tối mịt; mười tên quân và viên Giám trảm coi giữ phạm nhân, lột áo y ra, chỉ để cho một manh quần che thân phía dưới. Họ trói ghì mồi của họ vào một cái cột tre cao đóng rõ chặt xuống đất, lột mũ y ra, xoắn tóc y lại rồi buộc gọn gàng mớ tóc ấy vào phía trên cột, khiến cổ tù nhân không bị vướng, để lưỡi dao giáng xuống được lẹ làng.
Xong đâu đấy, cả bọn cùng ngồi nghỉ. Viên Giám trảm cho hai tên lính đứng ở cửa chợ để ngăn cấm những kẻ bán hàng không được vào, rồi chờ trời sáng rõ và có lệnh bài của súy phủ mới khai đao.
Võ Văn Nhậm lúc bấy giờ sống cũng như chết, tâm hồn rối loạn, không còn suy nghĩ được kế gì thoát thân. Vừa đau đớn, vừa căm tức, vừa hối hận, Nhậm bị không biết bao nhiêu tư tưởng kỷ niệm cùng hình ảnh chạy lộn xộn trong trí nhớ, cắn rứt khối óc hèn nhát của y, làm cho y nghiến răng mắm lợi, trợn mắt, nguyền rủa nhà Tây Sơn, rồi phút sau, lại gục đầu xuống than thở.
Bốn bề lúc ấy đều im phăng phắc. Bỗng đâu, tiếng cãi cọ ồn ào ngoài cửa chợ làm cho viên Giám trảm giật mình. Viên ấy vội vã bước ra ngoài; dưới ánh sáng ngọn đèn lồng, anh ta thấy một người thiếu niên vạm vỡ, ăn mặc võ phục trắng, quấn khăn trắng, đương trợn đôi mắt sáng quắc, vừa tinh anh vừa dữ dội, túm lấy cả hai tên lính, mỗi tên một tay, lắc đi lắc lại, làm cho chúng sợ hãi kêu la. Nhác thấy Giám trảm quan thiếu niên dừng lại. Cả hai tên quân, vừa bị khách lạ mặt rung cho một lúc mềm cả gân cốt, đều tức tối xoa cổ phân bua cùng bề trên:
- Bẩm, có quan lớn làm chứng, tên này tự nhiên vô cớ ở đâu đến, nhất định đòi vào, nó bèn túm lấy cổ chúng con mà lay lấy lay để, xuýt nữa gẫy xương và nghẹn thở. Xin quan lớn bắt lấy nó mà trị tội.
Thiếu niên nghe nói chỉ chống tay vào hông đứng cười. Hai tên quân lại càng căm tức. Sẵn có chủ ở đó, chúng cậy chó gần chuồng, định xông vào trói thiếu niên. Nhưng, gạt chúng ra hai bên, Giám trảm quan tiến lên mấy bước:
- Ấy chớ! Chúng bây hãy lui ra không được vô lễ, quí khách đây tức là cố chủ của ta. Bay có mắt cũng như mù thôi! Cút!
Mắng lũ quân canh rồi, viên giám trảm phủ phục xuống lạy hai lạy, quì dưới đất. Thiếu niên rất ngạc nhiên, song nhanh trí, chàng vội vàng vái đáp lễ, đỡ viên quan đứng dậy. Mãi bấy giờ, dưới ánh đèn phờ phạc, chàng mới nhận ra người vừa khiêm tốn lạy chàng.
- Ơ kìa! Thế mà tôi cứ tưởng là ai! Chẳng hoá ra Nguyễn Hải đó à! May quá, thực là một dịp bất ngờ. Ai hay đâu thầy trò ta lại có ngày còn gặp nhau đây!
- Từ ngày loạn lạc xa nhau, con vẫn nhớ công tử quá. Nhất là công tử đối với con lại có chút ơn riêng con chưa báo được tí nào! Công tử bỏ đi đâu, làm cho cụ lớn nhà ta tìm mãi? Mà tới khi cụ và cậu hai không may thất lộc cậu cũng không thấy trở về. Có đi tìm cậu đến ngót tháng trời, song từ Bắc vào Nam, không biết tin tức cậu ở đâu hết cả. Biết đâu ngày nay lại được phúc thấy nhau đây! Sau buổi cụ con và cậu hai mất rồi, con long đong mãi, bơ vơ không biết về đâu, mãi tới ngày khốn cực quá, con phải theo hầu Ngô Tư mã. Hôm nay ngài sai con đi hành hình Phò mã Võ Tiết chế. Thực là một dịp ngẫu nhiên: có ngờ đâu tự tay con lại được báo thù cho cụ! Nhưng đêm hôm đen tối, cậu lặn lội ra đây hẳn có việc gì?
- Thì còn có việc gì! Cậu đến đây để mắt được trong thấy đầu Tiết chế rơi xuống đất! Cậu đến đây để nhúng tay vào máu cừu nhân! Cậu đến đây để xin Hải cho cậu làm đao phủ đó! Cậu đến đây để làm cho tiêu tán một mối đau đớn mà, nếu không, vạn cổ cũng không tiêu; đau đớn vì nghĩ đến cha cậu, em cậu, một đời anh hùng lừng lẫy, phút chốc hoá làm xú quỷ, nghĩ đến vợ cậu, tài sắc trọn vẹn, yêu chồng rất mực, mà không may không được sống an toàn hưởng cho hết tuổi thanh xuân... Cậu đến đây là vì thế đó!
Thiếu niên nói xong câu ấy thì mắt lóng lánh chiếu ra những tia sáng sắc như gươm giáo. Tay chàng nắm lại tựa hồ muốn đấm ai cho hả giận, mặt chàng lộ ra vẻ gân guốc, cương quyết, tàn nhẫn, vì những đường dăn mà đôi mày cau lại cùng hai hàm răng nghiến chặt vào nhau vẽ ra trên khổ mặt lẫm liệt ấy.
Viên Giám trảm trông cố chủ lộ ra vẻ bất bình căm tức, bỗng dịu dàng cầm tay thiếu niên nói nhõ khuyên rằng:
- Hà tất cậu phải giết Phò mã làm chi cho mang tiếng là người không độ lượng; vả chăng giết một người nhát hèn như Võ Phò mã thì chỉ thêm bẩn lưỡi gươm thôi! Nay Trời chí công minh đã thay cậu mà trả thù hộ cậu, cậu chỉ nên đến viếng kẻ cừu địch cho kẻ kia phải đau lòng và hối hận, còn sự giết y thì cậu chớ nên làm!
Vài lời nói thành thực của Nguyễn Hải hình như khiến thiếu niên đương mê quá tỉnh, chàng gật đầu lia lịa trong khi nét mặt đổi ra hoà nhã, hiền từ. Chàng cùng Nguyễn Hải đi vào trong chợ.
Ở xa, thấy Võ Văn Nhậm bị lột trần trói ghì vào cột, ủ rũ đứng đợi sự chết, không hiểu vì sao, thiếu niên bỗng cảm động thương tình. Chàng bèn nhờ Giám trảm quan đem hai chiếc đèn lồng lại treo trước mặt tội nhân, rồi chàng từ từ tiến lại phía người khốn nạn sắp bị tử hình ấy, sụp xuống lạy y hai lạy.
Ngạc nhiên, Võ Văn Nhậm ngước mắt nhìn ngưòi thiếu niên áo trắng đoái tưởng đến y trong khi bao nhiêu gia binh gia tướng đều bỏ y trơ trọi một mình, lúc ngắm xong, Nhậm bỗng đờ mặt há hốc mồm không nói được nữa, mãi hồi lâu mới khóc lóc kêu to:
- Anh Tề công tử! Thật là tội ta đáng chết! Trời đã thay công tử hại ta đó mà! Ta đối đãi táng tận lương tâm với phụ thân ngươi, bạn đồng liêu của ta; nay chú vợ ta, ngươi nghe chưa, chú vợ ta lại tàn nhẫn với ta! Đó là luật quả báo, đó là lẽ luân hồi, ta không còn oán ai được nữa! Oan oan tương báo, ta đã gieo nên oan nghiệt, ta phải làm bung xung cho nghiệt chướng của ta. Cớ sao ngươi không nghĩ thù cha mà lạy ta như vậy?
Nguyễn Anh Tề không đáp. Chàng chỉ rút trong mình một bức thư nhầu nát, giơ lên ánh đèn đọc cho Nhậm nghe, xong rồi trao cho Nhậm. Bức thư đại khái như sau này:
Bất hiếu nữ là An Trinh kính trình phụ thân là Võ đại nhân rộng xét:
Con vô phúc đã không tuân lệnh cha, dám tự tiện cùng Anh Tề công tử thề nguyền vàng đá với nhau, đôi bên kết duyên Tần Tấn. Con những tưởng có thể cùng người yêu đẹp đôi cầm sắc, có ngờ đâu hai nhà Nguyễn Võ đã gây nên một mối thâm thù! Song le, trót ăn ở với tình lang con từ trước, con đã có mang ba tháng khi theo ra đất Bắc Hà. Lúc trở về, sợ không giấu giếm che đậy được nữa, lại sợ cha giận dữ không nghĩ thương tình mà giết đi, nên con phải trốn cửa nhà, đi theo chồng về Thanh Hoá. Chúng con định lánh bõ cõi đời túi bụi, yên phận ở với nhau cho đến bạc đầu, rồi đợi khi nào mối hiềm khích của hai nhà đã tiêu tan, bấy giờ sẽ về xin cha mẹ thứ tha cho tội lỗi. Nhưng Trời xanh cay nghiệt đã ghen với hạnh phục của chúng con riêng hưởng, xui nên cha không quên thù cũ mà đang tay giết chết Bằng Trung công. Phụ thân chồng con bị thác bởi tay cha, thì con còn sống làm sao gần chồng con được nữa! Vậy nên con phải chết. Con chết để chồng con khỏi mang tiếng là người bất hiếu. Nếu con còn sống ắt chồng cũng không dung mà càng thêm đeo xú danh của một phụ nhân dâm dật.
Trước khi tự hủy mình cho toàn vẹn đại nghĩa con xin gởi lời về kính bái cha mẹ, xin cha mẹ nghĩ tình máu mủ mà tha cho tiện nữ này. Tội con thật đáng chết, cho nên con đã tự xử lấy thân, không để hổ thẹn đến nòi võ tướng.
Vài lời tuyệt mệnh, xin kính trình cha rõ, mong rằng vì sự con chết, cha sẽ thương lấy chồng con, ngõ hầu sự cừu oán đến đây là dứt, đừng giây giướng đến đời sau.
Bất hiếu nữ Võ An Trinh đốn thủ.
Nghe đọc đến câu cuối cùng, Võ Văn Nhậm bỗng kêu lên một tiếng, ngất đi. Anh Tề cũng thấy trên gò mà đầm đìa những giột lệ nóng như sôi, không thế nào cầm hãm được. Chàng càng nghĩ càng thương phận vợ, thương bao nhiêu, bấy nhiêu mối căm hờn đối với Nhậm cũng hình như giảm bớt đi nhiều.
Chàng bèn lấy nước lã phun vào mặt bố vợ, lay gọi Nhậm hồi tỉnh. Mở mắt ra, Nhậm chỉ nhìn Anh Tề không đáp, nước mắt nước mũi chảy xuống ròng ròng. Hồi lâu, vừa thổn thức vừa nấc lên, Nhậm rền rĩ nói:
- Ngày nay cha đã biết sự cha làm là lỗi, nhưng hối cũng muộn quá rồi! Nếu cha không có dã tâm hãm hại phụ thân con, có khi nào cha lại bị sa vào vòng tử tội! Chả qua là oan nghiệt! Nếu biết sớm hai con yêu vụng nhau dường ấy, có nỡ nào cha làm cho hai con phải vì cha lìa rẽ nhau ra! Sự hiềm thù vô lý kia, không có căn nguyên gì, mà đã gây ra xiết bao kết quả chua cay thảm khốc. Cha giết phụ thân con, để đến nỗi con gái yêu của cha phải ngậm hờn mà chết, rồi đến lượt cha phải trả nợ mất đầu. Con được mục kích sự đau đớn thống thiết của cha, thiết tưởng con cũng nên thương hại cha mà tha thứ cho cha thì phải! Con có tha lỗi cho cha, hồn cha mới được nhẹ nhàng trong sạch, nếu không nó sẽ bị đoạ đày trong xó lầm lỗi mịt mờ. Hương hồn phụ thân con nếu biết có giờ này, ắt cũng chả oán hờn cha!...
Con ôi! Cha hối đã nhiều, cha đau đớn cũng đã nhiều, con có thấu cho cha không hở? Chỉ vì cha, mới nên nỗi nước này. Vì cha không giết Nguyễn Quân, thì hai chúng ta ắt đã gây nên nghiệp lớn, có đâu phải luồn lụy dưới quyền mấy thằng Tây Sơn đểu giả, dã man? Chả qua cha quá tin người, không nghĩ sâu xa, nên mới tan nát cả hai gia đình đến thế. Ôi! Đau đớn! Ôi! Chua xót; đau đớn chua xót kể làm sao hết; mà kể lỗi xưa là mới đáng. Cha chết ngày ngay, nào có được êm ái, mau chóng hay lẫm liệt như phụ thân con đã thác; cha chết một cách khốn khổ, nhục nhã, trong khi xác thịt bị đau, linh hồn bị nát tan tành. Thế có đủ chuộc tội không con? Con có tha cho cha không con? Con có cho phép cha xưng "cha" với con không con? Con ơi, con trả lời đi, cha chỉ còn sống được nửa giờ nữa là hết đời cha vậy..."
Võ Văn Nhậm vừa nói vừa khóc một hơi dài khiến cho Anh Tề, cầm không đậu mối thương tâm, cũng khóc lên nức nở. Bao nhiêu sự oán thù căm giận phút chốc bỗng tiêu tan đi như làn khói toả, để nhường chỗ lại cho lòng khoan dung vĩ đại, cũng như cho tình thương tiếc chân thành.
Anh Tề hình như văng vẳng nghe trên không có tiếng phụ thân chàng nói xuống: "Con tha cho kẻ thù nhân đã biết hối quá!"; lại nghe như có tiếng vợ chàng thỏ thẻ từ cõi vô hình: "Tha cho cha thiếp, chàng ôi!"...
Chàng bèn lia lịa gật đầu, rồi mồm thì nói:
- Con tha tội cho cha! Con tha tội cho cha! Trong khi thân phủ phục xuống đất Anh Tề lạy Võ Văn Nhậm hai lạy; lạy xong, chàng vùng té chạy mất, không dám ngoảnh đầu trông lại, cũng không dám ở lâu chứng giám cuộc chém đầu khốc liệt thảm thương, cuộc trảm quyết mà, vừa một vài giờ trước đây, chàng những muốn tự tay mình xử hộ cho tên đao phủ. 
PHẦN 12
Trong một ngôi chùa cổ ở gần động Tam Thanh xứ Lạn, từ dăm sáu tháng nay, người ta thấy đến tu hành một vị ni cô còn trẻ và có nhan sắc, đêm ngày chăm chỉ tụng kinh gõ mõ và đèn nhang ở chốn Phật đài.
Vị ni cô đó ăn mặc rất nhã đạm, tựa hồ cố ý làm cho mình già xấu đi, để thiên hạ đừng để ý đến mình, ngõ hầu được yên ổn trong cõi đời thanh tịnh. Quả nhiên, muốn sao được vậy: quầng mắt, vì quá thức đêm, khóc lóc hay tư tự, chả bao lâu đã tím bầm; nước da, trước kia trắng đỏ hồng hào, bây giờ cũng xanh bủng, tái mét. Nét mặt ni cô dần dần hốc hác, hình dung nàng dần dần tiều tụy; mà có lẽ bầu tâm sự nàng đeo nặng trong lòng, càng vì sự kham khổ của xác thịt, càng tăng phần chua xót thảm thương.
Ni cô đau đớn bao nhiêu, bấy nhiêu, nàng định vùi lấp những tục lụy trần duyên trong sự nâu sồng khổ hạnh. Đêm nào, sau khi thành kính tụng niệm trên tam bảo, nàng cũng chong đèn ngồi khóc lóc thở than. Như thế không biết bao ngày, chút lửa lòng của nàng vẫn không lấy giọt lệ tưới cho tắt được. Nàng hẳn bị một mối thất vọng gì sâu xa cắn rứt, hoặc bị nỗi thất tình gì nhục nhã giày vò.
Ôm khối hận trường, nàng quyết sống một cuộc đời đạm bạc, hoạ may mùi muối dưa sẽ, như nước cam lồ, có mãnh lực hàn dần những vết tử thương. Bởi thế, từ một thiếu phụ yếu ớt nhu mì, nàng hoá thành một đạo nhân can đảm.
Ni cô sống một mình, với một hoàn cảnh tôn nghiêm cùng một gầm dĩ vãng. Những việc vặt trong chùa, cho đến sự đèn hương tụng niệm, nhất nhất nàng làm lấy cả, chỉ dùng một tiểu con để nằm ngủ cho có bạn mà thôi. Đứa con gái nhỏ ấy, nàng nân niu yêu quí chả khác gì con nàng vậy.
Chùa xây ở một chỗ hẻo lánh, gần núi mà xa thành thị, hoá nên những khách đến vãn chùa chả có một ai. Họa chăng có một vài kẻ nhàn du đi xem phong cảnh, thì họ toàn vào động Tam Thanh xem tượng nàng Tô Thị, hoặc tìm những nơi sơn thủy hữu tình. Không người nào đoái hoài đến ngôi chùa cũ cỏn con, dựng khuất ở bên sườn núi trọc, giữa một chốn tiêu điều, tẻ lạnh, mà gót chân người ít để vết lại từ xưa.
Chùa ấy là một cổ am bỏ hoang vắng đã lâu ngày; vị đạo nhân trụ trì trong am, kể có năm sáu năm nay, đã tự thiêu đi theo Phật tổ về cõi hư linh, huyền ảo. Khi ni cô đi qua Tam Thanh, định tâm tầm sư học đạo, nàng bỗng thấy nơi hoang vu tĩnh mạc, bèn dừng chân vào ngụ trong chùa. Chùa không có chủ, ni cô một mình sửa sang quét tước lại, mất đến nửa tháng trời mới giũ sạch được những vết bụi bậm, rêu cỏ, mà thời gian phủ trên một cảnh điêu tàn. Nhà cửa, Phật điện, một sớm được sạch sẽ quang đãng, ni cô tự nghĩ mình có công dọn dẹp, bèn dùng ngôi chùa làm chỗ tu hành.
Rồi từ đó, nàng ở đấy, mua kinh về tụng niệm, không tìm thầy, cũng không đi đâu nữa.
Nàng đến ở chùa được non hai tháng thì một hôm vào khoảng trung tuần quí xuân, một thiếu niên tráng sĩ, không biết từ đâu đi đến, ghé vào chùa vãn cảnh, như chàng đã tò mò xem xét khắp mặt các sa môn ở vùng xứ Lạng. Khi nhận rõ mặt ni cô, tráng sĩ bỗng tỏ ý mừng rỡ cuống quýt rồi quì rạp xuống lạy nàng, kể lể, những chuyện gì không rõ. Ni cô mời tráng sĩ đứng dậy, nhủ chàng vào phương trượng, phân ngôi chủ khách ngồi đàm đạo hồi lâu, trong khi tiểu tỳ dâng trà hồng mai đựng trong một bộ chén sành.
Một vài giờ sau, trước khi mặt trời lặn, thiếu niên từ tạ ra đi. Từ buổi ấy, không ai thấy chàng trở lại ngôi chùa cổ nữa. Mãi đến hạ tuần tháng một năm Quí Sửu, nghĩa là cách đấy non năm năm người ta mới gặp tráng sĩ trở về. Lần này, chàng ở lại chùa non nửa ngày, mà trong non nửa ngày ấy, chàng cùng ni cô vật vã khóc lóc một cách rất thảm thương bi thiết.
Xong buổi khóc lóc ấy, tráng sĩ lại ra đi, rồi từ đó, chàng đi mất tích.
Tráng sĩ không phải người đâu xa lạ, chính là công tử Anh Tề. Còn ni cô, nàng là một người trong quí tộc của hoàng gia: nàng tức là Hoàng phi vợ vua Lê Chiêu Thống đó.
Từ ngày thua trận Mục Sơn, sau khi cha con Nguyễn Hữu Chỉnh bị giết, vua Lê chạy trốn sang Bảo Lộc, rồi nay Hải Dương, mai Sơn Nam, đêm ngày cùng mấy kẻ bề tôi trung nghĩa lo bề khôi phục. Khốn nỗi thế lực một ngày một kém, các triều thần đều lả tả mỗi người trốn tránh một nơi, không còn ai đủ cơ trí và hùng tài giúp nhà vua gây lại cơ đồ cũ nữa. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt rồi, Chiêu Thống không biết nương tựa vào ai. May thay lúc đó có kẻ thổ hào là Dương Đình Tuân đem thổ binh ra hộ giá, bắt dân phu phải canh giữ đồn trại ở bờ sông Nguyệt Đức, Võ Văn Nhậm ra bắt vua không được, bèn dùng kế phản gián, làm cho Chiêu Thống ngờ vực Đình Tuân, bỏ Tuân chạy ra huyện Chí Linh. Liễu trung hầu Đinh Tích Nhượng lúc ấy đã theo hàng Tây Sơn, bèn đem quân ra Chí Linh đuổi bắt vua, may sao có hai tráng sĩ trung thần là Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú hộ vệ dùng lương binh chống cự với Đinh Tích Nhượng, đánh Nhượng thua chạy. Nhượng thua rồi, vua đi sang huyện Thủy Đường, tới nơi mới được tin rằng quan cựu thần là Hoàng Nhật Tuyển đánh được quân Tây Sơn ở cửa Lục. Đồng thời lại có ông Đinh Nhã Hành đem quân đến hội, vua cũng được yên lòng.
Bỗng có tin Nguyễn Huệ ra Bắc Hà, sắp đem quân đến đuổi, vua Chiêu Thống định trốn về Thanh Hoá đem thủy quân đóng ở Quần Anh cùng lũ Hoàng Nhật Tuyển và Đinh Nhã Hành. Không may nửa đêm bị gió bão nổi lên, thổi bạt thuyền rồng vua vào Thanh Hoá, và trôi thuyền Hoàng Nhật Tuyển ra cửa Cần Hải.
Tuyển thấy quân tình rắc rối, lại lâm thế cô quẫn, đành phải ra hàng Nguyễn Huệ, bị Huệ bắt đem giết đi.
Vua Lê từ bạt vào Thanh, lại cùng vài người bề tôi trung nghĩa trốn ra Bắc, ẩn nấp ở mấy trấn Sơn Nam, Kinh Bắc, lo sự gây dựng lại cơ đồ. Khốn thay, một mình không đương nổi đại sự, vả cũng không có người hào kiệt nào ra sức giúp đỡ, nên mấy phen mưu mô định khởi nghĩa đều bị thất bại cả. Túng thế, sau cùng, vua phải đem Hoàng gia lên nương náu ở Lạng Giang.
Trong khi ấy ở Thăng Long, Bắc bình vương Nguyễn Huệ, giết xong Võ Văn Nhậm, cho gọi tất cả các quan văn võ nhà Lê vào yết kiến, đặt quan trấn thủ và quan lục bộ, giữ Sùng nhượng công Duy Cẩn làm Giám quốc để coi việc tế lễ cho tiên triều. Trước khi về Nam, Huệ lại sai bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc.
Vua Chiêu Thống ở lâu Lạng Giang, nóng lòng sốt ruột, bèn cho Hoàng thái hậu đem Hoàng Phi và Hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu viện. Vợ con vua Lê vào cầu khẩn quan Tổng đốc Lưỡng Quảng: là Tôn Sĩ Nghị. Nghị thương tình bèn dâng biểu tâu vua Càn Long đại lược nói rằng:
"Nhà Lê xưa nay vốn là công thần nước Tàu, đời đời cống hiến Triều đình; nay Tự quân bị giặc xâm chiếm mất đất, phái mẹ và vợ sang cầu cứu, xét cũng nên giúp, trước cứu được vua Lê, chiếm lại được miền Nam, lợi cả đôi đường, nhất cử lưỡng tiện. Khi vua Lê chiếm lại được ngôi, ta sẽ đóng quân để giữ đất nước, thế là nước An Nam sẽ về tay người Tàu vậy."
Chuẩn lời tâu Tôn Sĩ Nghị, vua Càn Long giáng chiếu sai khởi quân Lưỡng Quảng và quân hai tỉnh Vân Nam, Quí Châu giao cho Nghị cai quản để sang đánh An Nam. Nghị chia binh làm ba đạo, một đạo sang Tuyên Quang, một đạo sang Cao Bằng, một đạo sang Lạng Giang, cả ba cùng thẳng tiến đến Thăng Long. Đạo Tuyên Quang do tổng binh Vân Nam điều khiển; Đạo Cao Bằng do Sầm Nghi Đống tri phủ Điền Châu đốc xuất, đạo Lạng Sơn tự Sĩ Nghị cùng đề đốc là Hứa Thế Hanh chỉ huy.
Quân nhà Thanh rầm rộ kéo đến Thăng Long; bọn tướng Tây Sơn thấy uy thế ba đạo mạnh quá sợ sức không địch nổi, bèn rút cả hai mặt thủy bộ về đóng giữ ở đèo Tam Điệp, rồi sai người về Phú Xuân cáo cấp với vua Quang Trung.
Tôn Sĩ Nghĩ không gặp ai cản trở, cứ thẳng đường đến Kinh Bắc. Vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi cùng quân Tàu cùng về Thăng Long. Nghị lập hành doanh ở giữa bãi, về mé Nam sông Nhị Hà, sai bắc cầu phao ngang sông để tiện đường đi lại và chia quân ra đóng giữ hết các mặt.
Qua ngày hôm sau, Tôn Sĩ Nghị mời vua Chiêu Thống ngự sang trại quân rồi lại đại lễ tuyên đọc tờ sắc chỉ của vua Càn Long phong cho vua Lê làm An Nam Quốc vương. Tuy được thụ phong, Chiêu Thống vẫn phải để niên hiệu Càn Long trên các văn thư, lại phải mỗi buổi chầu xong sang đồn Sĩ Nghị để hầu quan tổng đốc xem "Ngài" có bàn gì về các việc cơ mật quân quốc chăng. Mỗi lần sang chầu vua đi ngựa từ đền Vạn Thọ ra tới bãi Cơ Xá, chỉ có mười tên Ngự Lâm quân theo hầu. Vua chịu nhẫn nhục bao nhiêu, thì bấy nhiêu Nghị càng ngạo nghễ tự đắc, xử với vua rất tàn tệ khinh bạc, lắm khi không cho vua vào yết kiến, chỉ sai người ra đứng dưới gác chuông truyền lệnh.
- Hôm nay không có việc gì, thỉnh Quốc vương hãy về cung yên nghỉ, hôm khác sẽ lại hầu!
Bàn dân thiên hạ ai trông thấy cũng ngậm ngùi tức tối, nhao nhao bàn tán về sự yếu hèn của Chiêu Thống, về vẻ láo xược của quan Tàu.
Bởi thế, lòng dân xứ Bắc Hà đã chán nản càng thêm chán nản hơn nữa.
May sao, Bắc Bình vương Nguyễn Huệ, khi được bọn Ngô Văn Sở báo về, lập tức hội cả các tướng sĩ dưới trướng để bàn định đem quân ra đánh tướng nhà Thanh. Treo lời khẩn cầu của bách quan, Ngài trước tiên lên ngôi chính tôn, để yên bụng quần chúng đã, rồi nhiên hậu mới tế cờ khởi binh ra lấy Bắc Hà.
Ngày 25 tháng một, năm Mậu thân (1788) trên đàn lập ở sườn núi Bàn Sơn, ngài làm đại lễ tế trời đất rồi lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Xong, ngài tự thống lĩnh thủy bộ đại binh để đi đánh giặc. Ngài kén được mười vạn hùng binh và một trăm voi, truyền tụ cả võ trường trong thành Nghệ An, để nghe lệnh vua nhủ bảo phải gắng công gắng sức đánh giặc Thanh giúp nước. Đoạn đại binh giong ruỗi lên đường, đến ngày 29 tháng chạp thì ra tới đèo Tam Điệp.
Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thời Nhiệm ra lạy mừng và tạ tội, kể chuyện quân Tàu sức mạnh, đương không nổi nên phải lui binh. Vua Quang Trung cười nói:
- Chúng nó sang phen này, chỉ là mua cái chết đó thôi! Ta đây đã sẵn mẹo mực trong tay chỉ trong khoảng mười ngày là dẹp tan lũ ong kiến đó. Nhưng chỉ sợ nước nó lớn gấp mười ta, thua phen này tất nó xấu hổ, thế nào nó cũng mưu sự báo phục, dân ta sẽ bị chinh chiến đoạ đày mà khổ ải vô chừng. Vậy, đánh xong trận này, ta phải nhờ Thời Nhiệm dùng bút thiệp giúp cho bãi việc binh đao. Đợi mười năm nữa, khi ta đã dưỡng sức hùng cường rồi, thì không cần phải sợ quân Ngô kia nữa!
Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ được nghĩ ngơi ăn tết Nguyên Đán trước, để tới ngày trừ tịch thì cất quân đi, định đến khai hạ sẽ vào Thăng Long làm lễ ăn mừng. Xong, ngài sai nổi trống tụ cả ba quân đến dưới tướng đài nghe lệnh.
Sở và Lân thì đem tiền đội đi tiên phong, có Hán hổ hầu đi đốc chiến, Đại Đô đốc Lộc và Đô đốc Tuyết thì chỉ huy đội hữu quân cùng thủy quân vượt qua bể vào sông Lục Đầu: Tuyết đến cửa sông sẽ kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng mé Đông; Lộc sẽ sang vùng Lạng giang Yên Thế chẹn lối quân Tàu thua chạy về. Đại Đô đốc Bảo cùng đề đốc Mưu cai quản tả quân và tượng mã đi đường núi ra chắn phía Tây: Mưu phải thẳng ra huyện Chương Đức, tiện đường kéo đến huyện Thanh Trì, đánh quận Điền Châu; Bảo thì thống xuất voi ngựa theo đường Sơn Lãng, rồi cũng đến Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.
Thế là năm mặt quân đều dàn xếp xong cả; lần này sẽ vây bọc quân Tàu như vây bọc trong lưới sắt, khó lòng có tên Ngô nào trốn thoát trở về. Đến đứng ngày 30 tết năm Mậu thân ba quân hùng hổ khua chiêng gióng trống, mở cờ dựng giáo, kéo ùa ra các đường trọng yếu xứ Bắc Hà.
Đầu tiên, tới sông Giản Thủy, gặp nghĩa quân nhà Lê, nghĩa quân chưa đánh đã tan vỡ, chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc tướng sĩ đuổi theo đến huyện Phú Xuyên, bắt sống được cả toán quân Tàu đóng đồn ở đấy, không một tên nào chạy thoát. Bởi thế, quân Tây Sơn hoành hành dữ dội ở gần Thăng Long mà bọn Tôn Sĩ Nghĩ đều mải mê chè rượu, tết nhất, không biết gì hết cả, bởi lẽ không có tên quân Tàu nào trốn khỏi lưới để chạy về báo tin nguy cấp cho chủ soái hay. Thậm chí đến những tóp quân nhà Thanh đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi, gần Phú Xuyên, chúng cũng không biết tí gì hết cả.
Nửa đêm ngày mồng 5 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789), quân Tây Sơn đến vây kín đồn giặc ở Hà Hội, bắc loa lên gọi, hàng muôn người hưởng ứng dạ vang trời, làm náo loạn hẳn vẻ tĩnh mịch của ban đêm. Quân canh đồn bấy giờ mới giật mình biết có biến, nhưng tưởng có đông người lắm nên sợ hãi vội vã xin hàng vua Quang Trung thu được quân lương và khí giới không sót một chút gì còn lại.
Sáng mờ mờ hôm mồng 6, quân ngài lại tiến đến đồn Ngọc Hồi, giặc Tàu trông thấy tinh kỳ bắn súng như mưa. Ngài bèn nghĩ ngay một kế, sai lấy những mảnh ván, ghép ba làm một, dùng rơm cỏ giấy nước quấn ở ngoài, rồi truyền cho những binh kiêu dũng, lưng giắt sẵn dao găm nhọn sắc, cứ hai mươi người khiêng một tấm khiên lạ lùng ấy, mở lối cho hai mươi người nữa cầm khí giới đi ẩn ở mé sau khiên, Vua thì cưỡi voi đi hậu tập đốc chiến. Quân ngài vào đến gần đồn, bỏ khiên rút dao, xông vào chém xả, bọn có binh khí cũng kéo ùa cả vào đánh túi bụi. Thế lực mạnh như nước chảy, gió cuốn, quân tưóng nhà Thanh không địch nổi, xôn xao chạy tán loạn, mất cả đội ngũ cứ xéo lẫn lên nhau chết như rơm rạ. Quân Tây Sơn lợi thắng kéo tràn lên, tiến đánh mãi, lấy được cả mấy đồn, tàn sát quân Tàu thây chết ngổn ngang khắp đồng, máu chảy từng vũng như ao lớn.
Trong khi ấy, quân các đạo Hải Dương, Yên Thế, Chương Đức, Thanh Trì cũng đều toàn thắng, đánh trống khải hoàn kéo cả đến Thăng Long. Giữa cuộc huyết chiến túi bụi, đề đốc nhà Thanh là Hứa Thế Hanh, tiên phong là Trương Sĩ Long, tả dực là Thượng Duy Thăng đều tử trận; còn tri phủ Điền châu là Sầm Nghi Đống đóng ở Đống đa, bị quân An Nam vây nguy cấp quá, cũng thắt cổ tự tận.
Sau trận khốc liệt này, quân Tàu chết gần hết, bao nhiêu thi hài đều xếp lại một chỗ, chôn cả vào một hố trên mặt đấp thành gò cao, đỉnh gò có dựng một ngôi đền thờ những tử sĩ và Sầm Nghi Đống. Đền ấy đến nay vẫn còn, ai có dịp đi qua Thái Hà ấp, gần Hà nội, người ấy chắc đã từng để ý đến đền Trung Liệt, ngất ngưởng đứng trên một cồn đất để kỷ niệm lại ngàn thu cái tài thao lược vô song của vua Quang Trung.
Khi các đồn trại đã bị phá cả rồi, Tôn Sĩ Nghị mới được tin báo, hoảng hốt, sợ hãi, đang đêm không kịp mặc áo giáp, thắng yên ngựa, chỉ tất tưởi đem được mấy tên lính kỵ chạy qua sông Bắc. Quân trong doanh không có chủ đều xôn xao toán loạn, tìm đường chạy trốn, xô nhau ùa cả lên cầu phao, cầu đổ, đều sa cả xuống sông chết đuối, thây chất đầy sông Nhị Hà.
Trong lúc hỗn độn, vua Chiêu Thống cùng mẹ, vợ con và mấy người cận thần dắt díu nhau chạy sang Tàu theo Tôn Sĩ Nghị. Không may giữa đường tránh nạn, lại bị lạc mất Hoàng Phi, chỉ có vua, Thái Hậu và Hoàng Tử trốn thoát.
Vua Quang Trung vào được thành Thăng Long rồi còn cho quân đi đuổi quân nhà Thanh; hai đạo Quí Châu và Vân Nam thấy thế đuối, cũng bỏ Sơn Tây chạy về, quân An Nam đuổi rát mãi đến Nam Quan mới chịu thôi. Nghe miền Lạng Sơn đều khủng khiếp, bồng bế nhau trốn chạy; thành ra từ cửa ải sang mặt Bắc đến hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe tiếng một người nào!
Bà Hoàng phi đương thất thểu theo chồng lẫn trong đám bách tính khóc như di, chẳng may bị quân Tây Sơn đuổi kíp quá, sức yếu chạy không kịp, lạc mất quân vương, đành khóc lóc trốn sang Kinh Bắc. Bà náu ở Kinh Bắc ít lâu, nghe tin vua trốn sang Tàu, bèn lên Lạng Sơn tạm nương thân trong một ngôi chùa, tu hành cho vẹn tiết nghĩa với vua, chờ ngày Chiêu Thống trở về, khôi phục lại được giang san đã mất.
Nhưng bà chờ mãi, chờ mãi... Những giờ lạnh lẽo im lặng trôi chỉ đem lại cho bà một nỗi buồn thấm thía, nỗi buồn của một ngọc điệp kim chi thất thế, nỗi buồn của một từ mẫu lìa con, nỗi buồn của một cô phụ xa chồng!... Xa chồng mà thực cũng như mất chồng; mùi muối dưa chay tịnh của thiền môn, đạo bác ái cao siêu của Phật tổ có chăng chỉ tẩy sạch được trong tâm hồn ly phụ cái mối u hoài trường hận nó giày vò nàng đêm ngày, dằng dặc mãi... không thôi?
Ni cô cố quên... Nhưng nào hay, công tử Nguyễn Anh Tề lại làm nhóm lại trong dạ khô héo của nàng một nguồn hy vọng đầm ấm mà, một sớm mai, sự tàn ác của những trường hợp éo le đã làm cho tắt hẳn, tắt vùi như tro nguội!... 
PHẦN 13
Hoàng Phi trốn sang Kinh Bắc từ khoảng thượng tuần tháng giêng năm Kỷ Dậu, mãi đến hạ tuần tháng ba, nàng mới gặp Nguyễn Anh Tề.
Trong khoản đó, công tử về Thanh Hoá và đi khắp các sa môn ở hai trấn Lạng Sơn, Kinh Bắc, mãi sau cùng chàng mới gặp lệnh bà.
Bao nhiêu cố thần nhà Lê, tức tối về nỗi thay quyền chính, rủ nhau họp thành bè đảng, toan sự khôi phục; họ cố lùng kiếm cho ra Hoàng phi, song bà hết sức lẩn tránh không muốn ra mặt. Chỉ một mình Anh Tề là có duyên được thấy bà trong một buổi ngẫu nhĩ; trước kia khi theo cha ra Thăng Long, trong lúc dự đám cưới công chúa Ngọc Hân lấy Uy quốc công Nguyễn Huệ, công tử có nhận được mặt Hoàng Phi, thuở ấy còn là vợ Hoàng tôn Duy Kỳ. Vẻ đẹp phúc hậu và hiền thục của Hoàng phi, nhất là cái mồm nàng cười rất có duyên, đã để một kỷ niệm xâu xa trong tâm hồn công tử, bởi lẽ nét khuynh thành của vợ Hoàng tôn, từng chút một, giống như tạc nhan sắc của Anh Trinh, An Trinh người thiếu phụ chàng thờ trong linh đài như thờ một nữ thần tuyệt đẳng.
Lầy này, gặp Hoàng phi dẫu bà gầy đi, yếu đi, xanh xao tiều tụy đi. Anh Tề cũng nhận được ngay tức khắc: những kỷ niệm giấu trong đáy óc chàng đã giúp chàng có mộ thứ trực giác vững vàng, tìm được Hoàng phi trong một ni cô nâu sồng điềm đạm.
Phủ phục trước mặt người đàn bà thứ hai mà chàng sùng kình, nhưng sùng kính một cách tối cao thượng thiêng liêng - Anh Tề vừa khóc vừa đập đầu xuống đất:
- Tâu lệnh bà, kẻ hạ thần tìm Lệnh bà đã mấy tháng trời này; mãi bây giờ mới được chiêm ngưỡng tôn nhan trong am sâu thanh vắng này! Hạ thần vốn dòng dõi cựu thần nhà Lê, sống chết vẫn thờ nhà Lê, dẫu bị gan óc lầy đất cũng không hối hận. Thần là con trưởng Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh; Cha thần thủa bình sinh chịu ơn nặng của tiên triều, của Hoàng thượng, nhưng không may giữa đời bị hại, chưa báo đáp non sông nhà Lê được một chút nào. Thần sinh sau đẻ muộn, song cũng cố noi theo ý chí tổ tiên, đêm ngày lo sự khôi phục cho xã tắc. Vả chẳng, quân Tây Sơn giết mất cha và em thần, thù ấy bất cộng đới thiên, lẽ nào thần nỡ khoanh tay ngồi mà không báo?
"Nay thân bốn bể không nhà, tang hồ một túi, thực không còn có sự gì bó buộc nữa. Mục đích của thần là đi tìm Lệnh bà, ngỏ cho Lệnh bà biết việc cơ mật để Lệnh bà an lòng chờ đợi, rồi thần sẽ ra đi, đi tìm Thánh thượng, giúp Ngài lấy lại sơn hà!"
Hoàng phi nghe nói nửa mừng nửa sợ, không hiểu Nguyễn Anh Tề có thực bụng trung nghĩa hay chỉ là một tay thám tử của tân triều. Cố hết sức trấn tĩnh tâm thần, nàng mời khách vào phương trượng. Trong khi đàm luận, Hoàng phi trông cử chỉ và dung mạo của Anh Tề, biết chàng không phải là người gian giảo phản trắc, cũng cứ thực tình giải tỏ cho chàng biết những nỗi đoạn trường cơ cực, bấy lâu nay đè nén trên mái đầu còn non nớt của nàng.
Thế rồi, từ giã Hoàng phi, Nguyễn Anh Tề phấn khởi ra đi, sau khi thề với nàng sẽ lấy thân thế và sinh mệnh giúp nhà Lê khôi phục.
Trong chốn am sâu thẻ lạnh, Hoàng phi ra sức đợi chờ. Năm lại nối năm, những ngày buồn vắng hờ hững lướt qua không đem lại cho nàng một tin tức gì vui vẻ. Vua Chiêu Thống còn hay đã mất, nàng mịt mù chẳng biết tăm hơi. Bạn với nỗi u ẩn trong lòng, với cảnh tiêu điều ám đạm, nàng chỉ còn biết vùi sự đau đớn âm thầm trong làn khói xanh nghi ngút, trong sự thanh khiết nâu sồng, trong mấy pho kinh Địa tạng mà, ngày đêm chăm chỉ, nàng vừa gõ mõ vừa dốc lòng tụng niệm rì rầm.
Bao nhiêu kỷ niệm rực rỡ của thời xưa, bao nhiêu nông nỗi khó khăn vừa mới trải, dần dần, như bị thôi miên bởi giọng ê a ru ngủ, trôi vào gầm tối vắng ơ hờ. Quên sự phú quí quên đời ngọt bùi, quên mùi lượt là đài các, Hoàng phi có đủ gan quên hẳn, quên cả, chẳng thèm tiếc nhớ đoái hoài. Nhưng mà... nhưng mà... tình mẫu tử, nghĩa phu thê, cái đau đớn của một thiếu phụ xa con xa chồng, nó lắm lúc, giữa bể lòng phẳng lặng, rào rạt lên như làn sóng cuộn, rồi nhô cao, nhô mãi, phi bọt tứ tung trắng xoá, gây thành một trận phong ba. Trận phong ba ấy, nếu linh hồn Hoàng phi chỉ hơi bị sự gì xúc cảm, là một lần lại bồng bột lên, làm náo loạn hẳn tâm nàng. Thương con, nhớ chồng, những tình cảm thiêng liêng của một cô phụ thất thế lỡ duyên, nước Cam lồ, dẫu đầm ấm đến đâu, cũng khó nỗi rửa tiêu đi được.
Bởi thế, dù lắm lúc Hoàng phi cố hết sức trấn tĩnh tâm thần để tụng kinh niệm Phật, nàng vẫn thấy nhoi nhói trong linh hồn, như bào xé, như cắn rứt, những nỗi niềm cay đắng gây ra bởi cuộc phân ly. Sự chờ đợi của nàng, tưởng đâu nó sẽ có kết quả mỹ miều mãn nguyện; có ai hay nó cũng mất đi với đống tro tàn của tấm hy vọng hão huyền như mộng tưởng, nó bỗng hoá ra vô dụng, như đã vô dụng, những ngày áo não đợi chờ...
Thế rồi... thế rồi, một buổi sáng mùa đông năm Quí Sửu (1793), một câu chuyện của Nguyễn Anh Tề kể lại, nó đã khoảnh khắc diệt hết những nguyện ước đầm ấm ấp ủ khối lòng lạnh lẽo của Hoàng phi, nó đã làm tiêu tán hết bao nhiêu nỗi thương đau, bao nhiêu nguồn nhục nhã, bao nhiêu cơn sầu thảm, từ trước đến nay, nàng vẫn kiên tâm hoài bão. Giờ đây, nàng chỉ còn biết cúi đầu trước số mệnh, sống nốt quãng đời thừa, sống nhẫn nại, sống âm thầm, sống hiu quạnh như một ni cô đắc đạo. Xác nàng tuy còn chứa một đôi chút sinh khí khiến nàng góp mặt với trần ai, nhưng hồn nàng đã chết rồi, tâm nàng đã héo rồi, nàng có sống cũng như thác vậy.
Không còn một hy vọng gì hồi lại được ngọn lửa trong lòng nàng đã vùi tắt ngấm; không còn một khoái lạc gì trên đời xúc động được xác thịt nàng đã cằn, con tâm nàng đã cỗi; không còn một thị dục gì nhóm lại những tia sáng trong mắt nàng ngày nay như say sưa đắm đuối trong bầu mộng tưởng; không còn một công cuộc gì làm nở lại nụ cười xinh đẹp trên đôi môi nàng xưa kia thắm đỏ, mà giờ đây nhợt nhạt, tím bầm...
Chỉ bởi vì... Sáng hôm đó, đương buổi trước Phật đài, Hoàng phi rù rì khấn khứa, nàng thình lình thấy một bóng người từ từ tiến đến, bóng một người đàn ông vạm vỡ, đeo một lưỡi gươm trường vắt vẻo bên hông. Người đó là Nguyễn Anh Tề.
Thấm thoát năm năm cách biệt, chàng nhìn nàng thấy nàng hình dung tiều tụy; mà nàng trông chàng cũng thấy chàng già xấu xí đi nhiều. Nét mặt trước kia khôi ngô rắn rỏi, đôi mắt buổi thiếu thời sáng ngời và linh lợi, chỉ trong một quãng biệt ly ngắn ngủi, đã bị cuộc phong trần làm cho cằn cỗi ám mờ. Đôi mắt mất hẳn tinh anh cũng như nét mặt kém vẻ khôi ngô trắng trẻo: những nét nhăn, - kỷ niệm bao cuộc đau thương thấm thía, - hoành hành trên làn da đen xạm như đồng.
Sau khi vào nhà phương trượng, mới thoạt đặt lưng ngồi xuống, chưa kịp nhấp giọng bằng vài giọt nước hồng mai, Anh Tề đã lệ rỏ đầm đìa, nức nở trước khi kể chuyện, khiến Hoàng phi chợt thấy vẻ thương tâm của tráng sĩ, đã đoán ngay lời chàng sắp nói, tất chỉ là những tin dữ dội, thảm buồn. Nàng cũng oà lên khóc.
Hồi lâu, thấy khối lòng hơi khuây khoả nhẹ nhàng, chừng như đã trút được ít nhiều đau khổ trong nguồn nước mắt trào ra, Anh Tề mới lấy vạt áo lau mặt, nhìn Hoàng phi một cách âu sầu:
- Lệnh bà đừng than khóc làm chi nữa cho mình vàng thêm mỏi mệt! Hạ thần đã định tâm gắng hết sức bình sinh giữ lòng bình tĩnh, ngõ hầu an ủi Lệnh bà. Nhưng thần ngày nay khí thế đã kiệt rồi, hy vọng đã tuyệt rồi, thần chịu ngậm miệng nhai nuốt quá nhiều đau đớn, hoá nên không kiên gan được nữa, không cầm được giọt lệ nữa! Lệnh bà chắc đã đoán rõ những chuyện thần sắp thuật ra toàn là những tin xé ruột, toàn là những trang của một pho lệ sử thảm thương. Phải, thần chịu nỗi cay đắng đem lại cho Lệnh bà một mối hận ngàn thu không sự gì giải được. Thần là kẻ thông tin của Thảm khốc, người sứ giả của Đoạn trường. Thần là một con xú quỉ, nhưng cũng là một vị phúc tinh. Thần đến đây để báo cho Lệnh bà những đại tang mà oan nghiệt gieo lên đầu chầu, mà cũng đến đây để làm cho mối thương tâm của chầu bớt đi một phần thiết tha sâu sắc.
Tâu Lệnh bà Thánh thượng ngày nay đã là người thiên cổ, Ngài xuống suối vàng tìm Thái tử đã hơn một tháng nay rồi! Chỉ còn một mình Thái hậu ở lại bên Tàu, để ngày đêm thương khóc cháu và con, như Lệnh bà khóc chồng và con vậy..."
Anh Tề nói đến đây, chưa dứt câu, Hoàng phi đã kêu rú lên, vật mình xuống đất, khóc ngất đi một lúc. Anh Tề và con nữ tỳ hết sức lay gọi, phun nước vào mặt, bấy giờ nàng mới tỉnh, những tĩnh rồi càng rên rỉ khóc than. Anh Tề thấy cảnh động lòng cũng phải sụt sùi thổn thức. Song chàng vội trấn tĩnh, uống cạn mấy chén nước hồng mai, rồi nói:
- Bây giờ Lệnh bà có quá sầu muộn, sự cũng đã rồi, chỉ tổ làm cho ngọc thể đã yếu còn suy nhược dần dần đi mãi. Lệnh bà mới chỉ nghe nói đức vua đã băng hà, Thái tử đã thất lộc, nhưng Lệnh bà chưa biết rõ những cớ sự, những nông nỗi, đã xảy ra trước cái chết của hai ngài.
Lệnh bà cũng nên lắng tai nghe thần kể rõ nguồn cơn; như thế, dù không theo Hoàng gia sang đến nước người chầu cũng tựa hồ được gần cạnh Hoàng thượng và Đông cung trong khoảng cách xa nhau vậy.
Lệnh bà chắc hẳn còn nhớ hôm thần qua đây tìm chầu lần thứ nhất. Chiều hôm ấy, sau khi ra khỏi Tam thanh này, thần cứ thẳng đường, đi không nghỉ, đến cửa Nam quan. Rồi, nhân một buổi tối trời, thần nai nịt chỉnh tề, vượt qua ải đi sang Long Châu.
Sang đến nơi, nghe nói Thánh thượng cùng quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đã về Nam Ninh, thần cũng theo sang ở đó. Chưa được bao lâu, Tôn Sĩ Nghị phải gọi về triều, Phúc Khang An đến thay làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Nguyên vua Càn Long nghe tin Nghị đại bại trốn về, bèn thịnh nộ giáng chỉ bắt Nghị về kinh đô trị tội. Phúc Khang An là người Mãn Châu, thuộc về dinh Hoàng Kỳ, vốn được vua nhà Thanh tin dùng, nên cho ra thay Sĩ Nghĩ. An ra đến Quảng Tây, nghe tiếng quân An Nam mạnh thế lắm, trong bụng đã sợ, có ý muốn hoà, cho khỏi bị thất thố như quan Tổng đốc cũ. Đương khi băn khoăn, may làm sao vua tôi nhà Tây Sơn tinh ý, từ trước đã sai Ngô Thời Nhiệm thảo quốc thư đưa sang Tàu tạ tội, xin giảng hoà và đem giao trả những quân bắt được trong khi giao chiến. Bên này thì Phúc Khang An cũng muốn tránh việc binh lửa, sai đưa quân thư sang An Nam nói việc lợi hại và khuyên Quang Trung dâng biểu tạ tội cho yên hẳn sự can qua. Nhận được thư vua Tây Sơn phái ngay người đem vàng bạc sang đút lót cho Khang An và sai cháu là Quang Hiển cùng quan là Vũ Huy Tấn tải đồ cống phẩm sang Yên Kinh vào chầu kiến vua Càn Long để xin thụ phong.
Phúc Khang An, được ăn lễ, mượn tay trong là Hoà Thân giúp đỡ. Hoà Thân cũng là người Mãn, trước kia cùng coi việc phiêu viễn với Khang An trong dinh Hoàng Kỳ, rất có thế lực. Nguyễn Quang Hiển sang Yên Kinh, trước hết vào hầu Hoà Thân, dâng vàng bạc châu báu và trình thư của Nguyễn Huệ cầu khẩn giúp đỡ. Bởi thế, mặt ngoài nhờ Khang An đạt biểu nói hộ, mặt trong thì có Hoà Thân dùng lời tâu khéo, điều gì cũng hợp ý vua, nên Càn Long sai sứ sang phong cho Huệ làm An Nam quốc vương, lại giáng chỉ đòi Quốc vương vào chầu.
Cách đó mấy tháng sau, thiên hạ thấy một đoàn xa mã vào Yên Kinh: Bốn quan văn võ Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, và Võ Huy Tấn phò vua An Nam vào chầu Thanh Hoàng đế. Ngoài những phẩm vật đem cống tiến như sừng tê, ngà voi, bạc vàng châu báu vân vân, còn có thêm một đôi tượng đực. Trong khi hành trình, vua tôi An Nam nhiều phen nghỉ trong quán dịch, những cung trạm ở dọc đường phải phục dịch cung đốn rất là vất vả. Khi tới địa phận Quảng Tây, quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khan An và quan Tuần Phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải thân đưa Quốc vương vào chầu.
Ròng rã mấy tháng trời, đoàn xa mã tới Yên Kinh; Vua Càn Long cho vời An Nam quốc vương và các quan theo hầu vào Nhiệt Hà, lại cho Quốc vương lên tận bệ rồng làm lễ "bão tất" (ôm gối), như tình cha con vậy. Xong, Thanh hoàng đế ban cho Quốc vương được vào điện ăn yến với các thân vương. Đến lúc giã từ về nước, vua Tàu lại sai thợ khéo vẽ một bức tranh truyền thần Quốc vương rồi ban cho, ân lễ thực là tối hậu.
Quốc vương An Nam từ đấy được vua nhà Thanh yêu mến, hoá không ai nghĩ đến việc chinh phạt nhà Tây Sơn nữa. Mãi sau này, cách đó non nửa năm, các quan theo hầu Hoàng thượng ta và thần mới được rõ có đoàn cống tiến An Nam sang Tàu, nhưng Quang Trung không sang, sai người Phạm Công trị dung mạo giống mình, trá hình làm Quốc vương sang chầu Thanh Hoàng đế.
Những sự đó xảy ra mấy tháng sau khi Phúc Khang An đem Hoàng thượng và các quan ta về Quế Lâm. Nó lại hết sức giấu giếm những việc phong vương cho Nguyễn Huệ, hoá nên vua tôi vẫn mịt mờ, không biết một tí gì. - Bấy giờ đi theo Hoàng thượng có Hoàng thúc Lê Công Duy Án, cùng các quan văn võ như bọn Đinh Nhạ Hành, Định Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh, Phan Khải Đức, Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn; cả chín người nối gót Thánh thượng và ra mắt Khang an khi hắn vừa tới nhậm chức. Thằng ác bá ấy trong lòng không muốn giúp nhà Lê nữa, nên ngoài mặt tuy làm ra vẻ hiền hoà mà trong lòng đã bày đặt sẵn mưu kế quỉ quyệt để chia rẽ Chúa thượng ra một nơi, lũ quan tòng vong ra một nẻo. Hắn bèn dùng ngay Định Nhạ Hành làm Thủ bị Toàn châu, phong Phan Khải Đức làm Đô tư Liễu châu, còn thì tùy tiện an trí mỗi người một chỗ, để có Hoàng thúc, các quan Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh theo chúa thượng vào Quế Lâm mà thôi. Tháng tư năm Kỷ Dậu (1789), vua tôi vào thành Quế Lâm, Phúc Khang An bèn giả vờ an ủi Chúa thượng, nói thác rằng:
- Hiện nay tiết trời đã sang hạ, khí hậu không tốt vì nắng nực lắm, sang đánh phương Nam không tiện e quân sĩ bị nhiều nhiệt chứng mà chết. Đợi đến mùa mát mẻ, ta sẽ khởi quân. Vậy nhà vua nên bảo bọn thuộc tướng sửa soạn luyện tập trước đi, hễ tới dịp thì phát binh ngay, nhân lúc xuất kỳ bất ý mà tiến sang như nước lũ, hoạ may có cơ toàn thắng được. Song le, nhà vua nên cạo đầu và theo lối ăn mặc nhà Thanh, lúc về nước sẽ không ai nhận được mặt; trong việc hành binh phải hư hư thực thực, biến trá cho bên địch khó lường. Lúc nào lấy lại được giang sơn bấy giờ nhà vua sẽ để tóc ăn mặc lối Nam, tưởng cũng không lấy gì làm muộn vậy!
Thánh thượng không biết Khang An chủ tâm lừa dối, cũng vui lòng giống giả các quan bắt chước Ngài, cạo đầu gióc tóc ăn mặc y phục Mãn Thanh. Nào ngờ Khang An lại nhân thế mà phản trá, nó làm ngay một tờ biểu dâng vua Càn Long, đại khái nói rằng:
- Vua An Nam không có ý viện binh nữa, hiện đã cạo đầu đổi áo, yên tâm ở lại nước Tàu, không về nữa. Vậy xin bãi hẳn việc đánh phương Nam, cho dân sự khỏi nạn binh lửa.
Trong triều có tay trong của bọn nó là Hoà Thân tán thành nói vào, khiến vua nhà Thanh xuống chỉ thôi hẳn sự dùng binh. Nhân đó, cách mấy tháng sau, Nguyễn Huệ lại sai Phạm Công Trị trá hình làm Quốc vương làm lễ ôm gối Càn Long. Càn Long nghe lời Khang An và Hoà Thân, phong vương tước cho Huệ. Thế rồi việc viện binh của Hoàng thượng ta xin, nó bèn bỏ lảng đi. Không những thế, vua nhà Thanh còn tưởng Chúa thượng cùng các quan muốn ở lại bên Tàu nên giáng chỉ cho đòi vua tôi cùng về Yên Kinh để an trí cả một chỗ. Tháng Hai năm Canh Tuất (1790), Thánh thượng và các quan tòng vong lên cả kinh thành nhà Thanh.
Lúc bấy giờ có mấy ông cựu thần triều ta nghe nói vua ở Yên Kinh, bèn theo sang hầu Ngài. Trong bọn đó, có các ông Lê Quýnh, Trịnh Hiến, Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê Thức và ít người nữa.
Phúc Khang An thấy bọn quan mới sang này không ăn mặc theo lối áo Tàu, bèn bắt cả về Quảng Tây rồi ép phải gióc tóc đổi áo như mọi người. Ông Lê Quýnh, không chịu đưọoc sự áp chế vô lý ấy, bảo Khang An rằng:
- Ông cho gọi chúng tôi đến, đã chẳng bàn được điều gì có ích, lại còn dỗ dành chúng tôi cắt tóc thay y phục, thế là nghĩa gì? Tôi nói thật cho ông biết: Đầu chúng tôi có thể chặt được, chứ tóc không gióc được; da chúng tôi có thể lột được, chứa áo thì không đổi được!
Phúc Khang An giận lắm lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào, bèn đem giải cả về Yên Kinh. Đi đến Sơn Đông, may sao gặp Càn Long đi du ngoạn, thấy lũ quan ta bị trói, cho đòi vào hỏi rằng:
- Vua nhà ngươi đã chịu cạo đầu thay áo theo kiểu nhà Thanh, sao các ngươi còn bướng bỉnh chưa chịu?
Ông Lê Quýnh tâu rằng:
- Chúng tôi muôn dặm tòng vong, xin cứ cho theo tục lệ vào ra mắt Quốc vương, rồi sau sẽ xin lĩnh mệnh.
Vua Càn Long nghe lời nói khẳng khái, lại trông nét mặt rắn rỏi của ông Lê, phải khen ông là bầy tôi trung nghĩa, sai thả cả các quan ra rồi cho đưa vào Yên Kinh yết kiến Thánh thượng. Thánh thượng bấy giờ cũng Thái hậu và Hoàng tử được vua nhà Thanh an trí ở ngõ Hồ Đồng toà Quốc sử giám cửa Tây Định, ngoài cửa toà có đề biển: "Tây An Nam dinh". Còn các quan thì cùng cho ở ngõ Hồ Đồng Dương phố, cửa Đông Trực, ngoài cửa có đề chữ: "Đông An Nam Dinh".
Bọn ông Lê Quýnh đến ra mắt vua, thấy Ngài đã cạo đầu đổi áo, cũng đều gióc tóc thay y phục cả. Chỉ có ông Lê là nhất định chết thì chết chớ không chịu, bởi thế nên chiếu tội vi mệnh, bị bắt giam mãi mãi.
Thánh thượng đến Yên Kinh được mấy hôm thì có Nhương hoàng Kỳ Đô Thống là Kim Giản, phụng chỉ Càn Long, ra phong cho Ngài chức Tả Lĩnh và đưa cho mũ áo Tam phẩm. Các quan tòng vong thì mỗi người được một thạch gạo và ba lượng bạc.
Thánh thượng tức uất người lên, song phải nuốt thầm nước mắt chịu thụ phong và nhận áo mão. Kim Giản đi xong, Ngài ôm đầu ngồi khóc, rỏ ra huyết lệ, Ngài giận nỗi bị quân Tàu đánh lừa, bèn cho gọi các quan đến, rồi cùng mấy ông Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Quí Thích, Nguyễn Đinh Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức uống máu ăn thề nguyện sống chết thế nào cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Nếu không cho nữa, thì ít ra cũng cắt cho đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, để phụng thờ tôn tự, mà không nữa, thì xin cho về nước, để vào Gia Định với chúa Nguyễn mưu đồ việc khôi phục cho nhà Lê.
Làm biểu vừa xong, đến nói lót trước với Kim Giản. Nhưng không có lễ vật gì dâng biếu, nên tuy nói hết nước dãi mà nó vẫn không nghe. Thánh thượng cùng các quan, không biết làm thế nào, đều phủ phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giản thấy thế, bất đắc dĩ phải mời cả vào an ủi mà rằng:
- Nhà vua hãy cứ an tâm, cứ về quán dịch nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng quí thể đã; đợi để thương lượng thế nào, sau này tôi sẽ cho biết.
Nó dỗ dành như thế, nhưng ngày hôm sau, nó bàn mưu với Hoà Thân phân trí vua tôi mỗi người đi một chỗ để khỏi bị nghe những lời kêu chúng ta oán thán khó chịu. Đến tháng tư năm Tân Hợi (1791), ông Hoàng Ích Hiểu phải đày sang Tây Vực, ông Lê Hân đi Phụng Thiên, Ông Nguyễn Quốc Đỗng sang Cát Lâm, các ông Nguyễn Viết Triệu, Lê quí Thích, Nguyễn Đinh Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương thì bị giải sang bến Trương Gia tỉnh Trực Lệ.
Thế là chung quan mình Chúa thượng không còn ai cả, chỉ có hai ông Phạm Đình Thiện cùng Đinh Nha Hành bỏ chức Thủ bị Hoàng Châu theo lên, và vài người hầu cận nữa mà thôi.
Thánh thượng lúc bấy giờ ruột đau như xé, đêm ngày Ngài lo lắng chua xót, khóc lóc kêu vang, ngồi đứng bất an, hình hài chốc lát tiều tụy hẳn đi, trông thương hại quá. Sáng hôm sau, Ngài cưỡi ngựa sang dinh Kim Giản, kêu oan cho lũ bề tôi bị đi đày, gặp ngay Kim Giản vào chầu vua Càn Long ở vườn Viên Minh. Ngài bèn nối gót đi vào cửa vườn, bị lũ lính giữ vườn ngăn cản lại. Lúc đó có tên nội thần là Nguyễn Văn Quyên theo hầu Chúa thượng; Quyên thấy lũ quân canh láo xược, bèn nổi giận đùng đùng, xông lại mắng chửi:
-Lũ chó Ngô kia! Sao chúng mầy dám vô lễ, làm nhục đến vua tao!
Vừa mắng vừa cầm gạch đá ném vào chúng nó. Bọn lính bị chửi cùng xì xồ chửi lại, rồi chúng kéo ùa cả ra xúm lại đánh cho Quyên một trận nhừ tử. Về đến nhà, Quyên bị bệnh mà mất.
Từ đó trở đi, Chúa thượng thấy mình bị lừa đảo, đến nỗi hoá ra lực cô thế yếu, trong lòng rầu rĩ buồn bã, song không dám nói đến chuyện xin viện binh nữa, vì biết có nói ra cũng chỉ tổ phí lời. Ngài đành kiên nhẫn sống cùng Thái hậu và Hoàng tử một quãng đời tẻ lạnh. Không hy vọng cũng không khoái lạc; đêm đêm ngài chong đèn ngồi khóc, khóc chán lại đem thơ ra ngâm, giọng ngâm nghe buồnr rầu thảm thiết, có thể cảm động được quỷ thần. Nghe vua than oán bi ai, những kẻ như thần theo hầu Ngài, cũng thấy gan ruột như bào như xé, nhưng còn biế làm thế nào trước sức mạnh vô cùng của số mệnh tàn ác bất lương, và trước cách đối phó giảo quyệt sâu độc của lũ quan Tàu nham hiểm!
Vì Chúa thượng ưu tư quá, càng ngày sức lực Ngài càng đâm ra suy kiệt. Đã thế, phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí, Hoá công cay nghiệt còn đem đến cho Ngài những nỗi đau đớn, thâm thúy bằng hai sự mất nước, lìa ngôi! Đó là sự Hoàng tử thất lộc. Tháng năm năm Nhâm Tý (1792), có dịch lên đậu ở Yên Kinh, Hoàng tử không may nhuốm bịnh. Chữa chạy mãi đều vô công hiệu: được non một tháng trời, Đông cung lìa bỏ cõi đời. Thánh thượng không còn biết mùi gì là ngon ngọt nữa, thú gì là vui vẻ nữa. Ngài chỉ hết than lại khóc, hết khóc lại ngâm, làm cho Thái hậu cũng vật mình kêu khổ. Chả bao lâu sau, khi Đông cung khuất bóng, vua vì quá lao tâm mà thọ bệnh, mỗi ngày một nặng, nằm lì bì liệt giường chiếu, đến ngày 16 tháng mười năm Quí Sửu (1793), Ngài gọi các người theo hầu trong buổi lưu ly, ứa nước mắt cầm tay cả lũ chúng tôi, hổn hển ngỏ lời cảm tạ và từ biệt, rồi băng hà, không trối trăng lại điều gì cả!
Vua thăng hà mà không có một ngự y nào bên cạnh giường bệnh, không có một người cung phi nào săn sóc trông nom, không có một vị đại quan nào đứng túc trực, không có một hồi chiêng hồi khánh nào báo hiệu Ngài về Trời! Thực là một cảnh tối cảm động thương tâm, thương tâm nhất là thấy vua một nước to, chỉ lỡ sa cơ thất thế mà chết khổ như một kẻ thường dân vậy.
Tự cổ chi lai, trong lịch sử chưa bao giờ có ghi chép một việc bi ai dường ấy. Cũng đã có nhiều vị đế vương chết dưới mũi tên hòn đạn, bị hành thích hoặc bất đắc kỳ tử, nhưng chưa ai từng thấy một vị Hoàng đế chết ưu sầu thống thiết thế bao giờ!
Hạ thần cùng mấy kẻ tòng vong đều phục xuống khóc. Còn Thái hậu thì người đau đớn quá, đau đớn đến nổi ngồi thở ra, lặng đi hàng giờ, không nói.
Bọn chúng tôi xúm nhau lại tắm rửa cho Chúa thượng bằng nước ngũ vị hương, xong lấy áo Long Cổn và mũ miện Hoàng đế cho ngài, rồi khâm liệm ngay, kẻo sợ quan Tàu kiếm chuyện.
Yên đâu đấy, chúng tôi mới sai người báo tin cho Kim Giản, để Giản vào tâu vua nhà Thanh. Càn Long truyền chỉ dùng lễ tước công tống táng cho Chúa thượng. Chúng tôi tìm được một ngôi đất tốt ở ngoài cửa Đông Trực, bèn xin cho táng thi hài Thánh thượng ở đó.
Việc ma chay chu tất, chúng tôi bèn thương lượng với nhau, kẻ ở lại hầu Thái hậu, người trốn về cố quốc thăm nhà. Trong mấy vị triều thần sang tòng vong, có nhiều vị tuyệt thực hay vẫn cảnh theo vua về chín suối. Dăm ba người lại vì cơ cực mà chết trước, chỉ lác đác còn một đôi ông, thì mỗi ông bị đày đi ở một chốn xa xăm.
Thưa Lệnh bà, đó là pho bi sử của Chúa thượng nhà ta đó. Trời đã đến lúc không trợ nhà Lê ta nữa, thì có quay cuồng cũng vô ích mà thôi. Hạ thần trước kia, cũng rắp tâm hy sinh cả thân thế và số mệnh cho sự khôi phục, nhưng một phen sang đến Tàu, thần biết rằng ý chí của thần chỉ là một mộng tưởng. Bởi lẽ, chịu ức hiếp dưới quyền lũ quan Tàu tàn ác, Thánh thượng còn khi nào được thấy ngày trở lại nước Nam ta? Nữa là còn mong ở sự giúp binh cứu viện!
Thần nay là một kẻ chí khí đã cạn, gia đình đã nát, hy vọng đã tuyệt, không còn liên lạc gì với cõi phù thế nữa. Nhưng sở dĩ thần sống sót đến ngày nay, là vì riêng muốn báo ơn Thánh thượng đến kỳ cùng, muốn được gặp Lệnh bà một lần nữa để báo cho Lệnh bà biết những nông nỗi mà Hoàng gia đã phải trải qua bên khách địa.
Nay mục đích thần đã đạt, thần xin cúi lạy Lệnh bà gìn giữ mình vàng, chớ nên ưu sầu quá độ. Mệnh số đã như vậy, biết làm thế nào? Còn về phận thần, thần xin từ giã Lệnh bà; được giáp mặt Lệnh bà lần này tức là lần trót vậy.
Tâu Lệnh bà, nỗi đau đớn của thần, nếu nó không giống sự mất ngôi mất nước, nó cũng là cho thần từ năm sáu năm nay, ăn không biết ngon, mặc không biết đẹp, sống thác không quản, cực nhục không từ, nó đã làm cho thần không biết mùi sinh hoạt là gì nữa, không biết thú sinh tồn là gì nữa! Bây giờ đây, giũ nhẹ được trong lòng những ân oán trước kia chất nặng, thần chỉ còn biết êm vui trong sự theo vua xuống chốn tuyền đài.
Thôi, xin lạy Lệnh bà!"
Câu chuyện nói tới đây, công tử Nguyễn Anh Tề vùng đứng dậy, đi ngay, để một mình Hoàng phi ngồi gục mặt xuống bàn, chả biết nàng mê hay tỉnh. Ra đến ngoài hiên, Anh Tề mới nhận thấy mặt trời gần xế bóng...
Lịch sử chép rằng cách đấy sáu năm, tháng một năm Kỷ Mùi đời vua Gia Khánh. Thái hậu theo vua và Hoàng tử về trời. Lại có chín năm, năm Nhâm Tuất (1802) khi Thế Tổ Cao hoàng nhà Nguyễn đã nhất thống được thiên hạ, quan nhà Lê, nhân dịp có sứ ta sang Tàu cầu phong cho Thế tổ, dâng biểu xin đem di hài Thái Hậu, Cố quân và Hoàng tử về nước. Vua Gia Khánh chuẩn lời cầu khẩn đó, tha cho tất cả các quan tòng vong khi trước được về xứ sở phương Nam.
Khi cải táng phần mộ Cố quân, người ta thấy da thịt đã tiêu tán cả chỉ còn quả tim trơ lại, không nát, vẫn tươi đỏ như thường. Ai trông thấy hoặc nghe biết sự đó cũng động lòng thương xót, ái ngại cho tình cảnh một ông vua vong quốc phải đày đoạ đến như thế, để lại muôn đời một tấm gương thảm kịch đáng thương. Ai cũng phải oán trách lũ quan Tàu quá tàn nhẫn, có những thói dã man áp chế khiến cái khổ của Chiêu Thống phải kết lại thành khối, đến mấy đời sau cũng chưa siêu thoát đi được.
Đem di hài Cố quân và Hoàng gia về đến biên giới thì gặp Hoàng phi mặc sô gai ra Nam quan đón rước linh cữu hộ tống về Thăng Long. Về đến Thăng Long trong khi hoàn linh cửu Cố quân lại đó, bà Hoàng phi Nguyễn Thị Kim cũng tuyệt thực mà chết, để lại một tấm gương trinh liệt mà đã cách mấy trăm năm rồi, cũng chửa ám mờ.
Ngày 24 tháng một năm Nhâm Tuất, các quan cơ thần nhà Lê rước ma Cố quân, Thái hậu, Hoàng phi và Hoàng tử về Thanh hoá, đem táng ở lăng Bàn Thạch, thuộc về đất phủ Thọ Xuân. Di hài nội thần Nguyễn Văn Quyên và mấy ông quan tử tiết cũng đều phụ táng ở đó.
Sự nghiệp nhà Lê, từ ngày Thái tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cho đến lúc Chiêu Thống bị vong quốc theo Tôn Sĩ Nghị sang Tàu, trước sau gồm tất cả được 360 năm, mở đầu bằng một kỷ nguyên rực rỡ oanh liệt, để kết cục băng một sự nhục nhã bi thảm, biểu hiệu cho sự hưng suy vinh nhục ở đời.
Trong lúc đưa ma Cố quân ở Tàu về, các quan cựu thần nhà Lê có khóc viếng linh cữu bằng một bài thơ bát cú. Thơ rằng:
Nằm gai nếm mật mấy năm thừa!
Nấm cổ ước đưa về đất xưa,
Bể Bắc, chín lần rồng lẩn sớm,
Non Nam một đỉnh hạc về trưa,
Tưởng đâu năm nọ như ngày nọ,
Nghĩ đến bao giờ khóc bấy giờ!
Thua, được, cuộc cờ thôi để đó,
Gội ơn cây cỏ vẫn còn thưa. 
PHẦN 14
Hoàng Phi trốn sang Kinh Bắc từ khoảng thượng tuần tháng giêng năm Kỷ Dậu, mãi đến hạ tuần tháng ba, nàng mới gặp Nguyễn Anh Tề.
Trong khoản đó, công tử về Thanh Hoá và đi khắp các sa môn ở hai trấn Lạng Sơn, Kinh Bắc, mãi sau cùng chàng mới gặp lệnh bà.
Bao nhiêu cố thần nhà Lê, tức tối về nỗi thay quyền chính, rủ nhau họp thành bè đảng, toan sự khôi phục; họ cố lùng kiếm cho ra Hoàng phi, song bà hết sức lẩn tránh không muốn ra mặt. Chỉ một mình Anh Tề là có duyên được thấy bà trong một buổi ngẫu nhĩ; trước kia khi theo cha ra Thăng Long, trong lúc dự đám cưới công chúa Ngọc Hân lấy Uy quốc công Nguyễn Huệ, công tử có nhận được mặt Hoàng Phi, thuở ấy còn là vợ Hoàng tôn Duy Kỳ. Vẻ đẹp phúc hậu và hiền thục của Hoàng phi, nhất là cái mồm nàng cười rất có duyên, đã để một kỷ niệm xâu xa trong tâm hồn công tử, bởi lẽ nét khuynh thành của vợ Hoàng tôn, từng chút một, giống như tạc nhan sắc của Anh Trinh, An Trinh người thiếu phụ chàng thờ trong linh đài như thờ một nữ thần tuyệt đẳng.
Lầy này, gặp Hoàng phi dẫu bà gầy đi, yếu đi, xanh xao tiều tụy đi. Anh Tề cũng nhận được ngay tức khắc: những kỷ niệm giấu trong đáy óc chàng đã giúp chàng có mộ thứ trực giác vững vàng, tìm được Hoàng phi trong một ni cô nâu sồng điềm đạm.
Phủ phục trước mặt người đàn bà thứ hai mà chàng sùng kình, nhưng sùng kính một cách tối cao thượng thiêng liêng - Anh Tề vừa khóc vừa đập đầu xuống đất:
- Tâu lệnh bà, kẻ hạ thần tìm Lệnh bà đã mấy tháng trời này; mãi bây giờ mới được chiêm ngưỡng tôn nhan trong am sâu thanh vắng này! Hạ thần vốn dòng dõi cựu thần nhà Lê, sống chết vẫn thờ nhà Lê, dẫu bị gan óc lầy đất cũng không hối hận. Thần là con trưởng Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh; Cha thần thủa bình sinh chịu ơn nặng của tiên triều, của Hoàng thượng, nhưng không may giữa đời bị hại, chưa báo đáp non sông nhà Lê được một chút nào. Thần sinh sau đẻ muộn, song cũng cố noi theo ý chí tổ tiên, đêm ngày lo sự khôi phục cho xã tắc. Vả chẳng, quân Tây Sơn giết mất cha và em thần, thù ấy bất cộng đới thiên, lẽ nào thần nỡ khoanh tay ngồi mà không báo?
"Nay thân bốn bể không nhà, tang hồ một túi, thực không còn có sự gì bó buộc nữa. Mục đích của thần là đi tìm Lệnh bà, ngỏ cho Lệnh bà biết việc cơ mật để Lệnh bà an lòng chờ đợi, rồi thần sẽ ra đi, đi tìm Thánh thượng, giúp Ngài lấy lại sơn hà!"
Hoàng phi nghe nói nửa mừng nửa sợ, không hiểu Nguyễn Anh Tề có thực bụng trung nghĩa hay chỉ là một tay thám tử của tân triều. Cố hết sức trấn tĩnh tâm thần, nàng mời khách vào phương trượng. Trong khi đàm luận, Hoàng phi trông cử chỉ và dung mạo của Anh Tề, biết chàng không phải là người gian giảo phản trắc, cũng cứ thực tình giải tỏ cho chàng biết những nỗi đoạn trường cơ cực, bấy lâu nay đè nén trên mái đầu còn non nớt của nàng.
Thế rồi, từ giã Hoàng phi, Nguyễn Anh Tề phấn khởi ra đi, sau khi thề với nàng sẽ lấy thân thế và sinh mệnh giúp nhà Lê khôi phục.
Trong chốn am sâu thẻ lạnh, Hoàng phi ra sức đợi chờ. Năm lại nối năm, những ngày buồn vắng hờ hững lướt qua không đem lại cho nàng một tin tức gì vui vẻ. Vua Chiêu Thống còn hay đã mất, nàng mịt mù chẳng biết tăm hơi. Bạn với nỗi u ẩn trong lòng, với cảnh tiêu điều ám đạm, nàng chỉ còn biết vùi sự đau đớn âm thầm trong làn khói xanh nghi ngút, trong sự thanh khiết nâu sồng, trong mấy pho kinh Địa tạng mà, ngày đêm chăm chỉ, nàng vừa gõ mõ vừa dốc lòng tụng niệm rì rầm.
Bao nhiêu kỷ niệm rực rỡ của thời xưa, bao nhiêu nông nỗi khó khăn vừa mới trải, dần dần, như bị thôi miên bởi giọng ê a ru ngủ, trôi vào gầm tối vắng ơ hờ. Quên sự phú quí quên đời ngọt bùi, quên mùi lượt là đài các, Hoàng phi có đủ gan quên hẳn, quên cả, chẳng thèm tiếc nhớ đoái hoài. Nhưng mà... nhưng mà... tình mẫu tử, nghĩa phu thê, cái đau đớn của một thiếu phụ xa con xa chồng, nó lắm lúc, giữa bể lòng phẳng lặng, rào rạt lên như làn sóng cuộn, rồi nhô cao, nhô mãi, phi bọt tứ tung trắng xoá, gây thành một trận phong ba. Trận phong ba ấy, nếu linh hồn Hoàng phi chỉ hơi bị sự gì xúc cảm, là một lần lại bồng bột lên, làm náo loạn hẳn tâm nàng. Thương con, nhớ chồng, những tình cảm thiêng liêng của một cô phụ thất thế lỡ duyên, nước Cam lồ, dẫu đầm ấm đến đâu, cũng khó nỗi rửa tiêu đi được.
Bởi thế, dù lắm lúc Hoàng phi cố hết sức trấn tĩnh tâm thần để tụng kinh niệm Phật, nàng vẫn thấy nhoi nhói trong linh hồn, như bào xé, như cắn rứt, những nỗi niềm cay đắng gây ra bởi cuộc phân ly. Sự chờ đợi của nàng, tưởng đâu nó sẽ có kết quả mỹ miều mãn nguyện; có ai hay nó cũng mất đi với đống tro tàn của tấm hy vọng hão huyền như mộng tưởng, nó bỗng hoá ra vô dụng, như đã vô dụng, những ngày áo não đợi chờ...
Thế rồi... thế rồi, một buổi sáng mùa đông năm Quí Sửu (1793), một câu chuyện của Nguyễn Anh Tề kể lại, nó đã khoảnh khắc diệt hết những nguyện ước đầm ấm ấp ủ khối lòng lạnh lẽo của Hoàng phi, nó đã làm tiêu tán hết bao nhiêu nỗi thương đau, bao nhiêu nguồn nhục nhã, bao nhiêu cơn sầu thảm, từ trước đến nay, nàng vẫn kiên tâm hoài bão. Giờ đây, nàng chỉ còn biết cúi đầu trước số mệnh, sống nốt quãng đời thừa, sống nhẫn nại, sống âm thầm, sống hiu quạnh như một ni cô đắc đạo. Xác nàng tuy còn chứa một đôi chút sinh khí khiến nàng góp mặt với trần ai, nhưng hồn nàng đã chết rồi, tâm nàng đã héo rồi, nàng có sống cũng như thác vậy.
Không còn một hy vọng gì hồi lại được ngọn lửa trong lòng nàng đã vùi tắt ngấm; không còn một khoái lạc gì trên đời xúc động được xác thịt nàng đã cằn, con tâm nàng đã cỗi; không còn một thị dục gì nhóm lại những tia sáng trong mắt nàng ngày nay như say sưa đắm đuối trong bầu mộng tưởng; không còn một công cuộc gì làm nở lại nụ cười xinh đẹp trên đôi môi nàng xưa kia thắm đỏ, mà giờ đây nhợt nhạt, tím bầm...
Chỉ bởi vì... Sáng hôm đó, đương buổi trước Phật đài, Hoàng phi rù rì khấn khứa, nàng thình lình thấy một bóng người từ từ tiến đến, bóng một người đàn ông vạm vỡ, đeo một lưỡi gươm trường vắt vẻo bên hông. Người đó là Nguyễn Anh Tề.
Thấm thoát năm năm cách biệt, chàng nhìn nàng thấy nàng hình dung tiều tụy; mà nàng trông chàng cũng thấy chàng già xấu xí đi nhiều. Nét mặt trước kia khôi ngô rắn rỏi, đôi mắt buổi thiếu thời sáng ngời và linh lợi, chỉ trong một quãng biệt ly ngắn ngủi, đã bị cuộc phong trần làm cho cằn cỗi ám mờ. Đôi mắt mất hẳn tinh anh cũng như nét mặt kém vẻ khôi ngô trắng trẻo: những nét nhăn, - kỷ niệm bao cuộc đau thương thấm thía, - hoành hành trên làn da đen xạm như đồng.
Sau khi vào nhà phương trượng, mới thoạt đặt lưng ngồi xuống, chưa kịp nhấp giọng bằng vài giọt nước hồng mai, Anh Tề đã lệ rỏ đầm đìa, nức nở trước khi kể chuyện, khiến Hoàng phi chợt thấy vẻ thương tâm của tráng sĩ, đã đoán ngay lời chàng sắp nói, tất chỉ là những tin dữ dội, thảm buồn. Nàng cũng oà lên khóc.
Hồi lâu, thấy khối lòng hơi khuây khoả nhẹ nhàng, chừng như đã trút được ít nhiều đau khổ trong nguồn nước mắt trào ra, Anh Tề mới lấy vạt áo lau mặt, nhìn Hoàng phi một cách âu sầu:
- Lệnh bà đừng than khóc làm chi nữa cho mình vàng thêm mỏi mệt! Hạ thần đã định tâm gắng hết sức bình sinh giữ lòng bình tĩnh, ngõ hầu an ủi Lệnh bà. Nhưng thần ngày nay khí thế đã kiệt rồi, hy vọng đã tuyệt rồi, thần chịu ngậm miệng nhai nuốt quá nhiều đau đớn, hoá nên không kiên gan được nữa, không cầm được giọt lệ nữa! Lệnh bà chắc đã đoán rõ những chuyện thần sắp thuật ra toàn là những tin xé ruột, toàn là những trang của một pho lệ sử thảm thương. Phải, thần chịu nỗi cay đắng đem lại cho Lệnh bà một mối hận ngàn thu không sự gì giải được. Thần là kẻ thông tin của Thảm khốc, người sứ giả của Đoạn trường. Thần là một con xú quỉ, nhưng cũng là một vị phúc tinh. Thần đến đây để báo cho Lệnh bà những đại tang mà oan nghiệt gieo lên đầu chầu, mà cũng đến đây để làm cho mối thương tâm của chầu bớt đi một phần thiết tha sâu sắc.
Tâu Lệnh bà Thánh thượng ngày nay đã là người thiên cổ, Ngài xuống suối vàng tìm Thái tử đã hơn một tháng nay rồi! Chỉ còn một mình Thái hậu ở lại bên Tàu, để ngày đêm thương khóc cháu và con, như Lệnh bà khóc chồng và con vậy..."
Anh Tề nói đến đây, chưa dứt câu, Hoàng phi đã kêu rú lên, vật mình xuống đất, khóc ngất đi một lúc. Anh Tề và con nữ tỳ hết sức lay gọi, phun nước vào mặt, bấy giờ nàng mới tỉnh, những tĩnh rồi càng rên rỉ khóc than. Anh Tề thấy cảnh động lòng cũng phải sụt sùi thổn thức. Song chàng vội trấn tĩnh, uống cạn mấy chén nước hồng mai, rồi nói:
- Bây giờ Lệnh bà có quá sầu muộn, sự cũng đã rồi, chỉ tổ làm cho ngọc thể đã yếu còn suy nhược dần dần đi mãi. Lệnh bà mới chỉ nghe nói đức vua đã băng hà, Thái tử đã thất lộc, nhưng Lệnh bà chưa biết rõ những cớ sự, những nông nỗi, đã xảy ra trước cái chết của hai ngài.
Lệnh bà cũng nên lắng tai nghe thần kể rõ nguồn cơn; như thế, dù không theo Hoàng gia sang đến nước người chầu cũng tựa hồ được gần cạnh Hoàng thượng và Đông cung trong khoảng cách xa nhau vậy.
Lệnh bà chắc hẳn còn nhớ hôm thần qua đây tìm chầu lần thứ nhất. Chiều hôm ấy, sau khi ra khỏi Tam thanh này, thần cứ thẳng đường, đi không nghỉ, đến cửa Nam quan. Rồi, nhân một buổi tối trời, thần nai nịt chỉnh tề, vượt qua ải đi sang Long Châu.
Sang đến nơi, nghe nói Thánh thượng cùng quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đã về Nam Ninh, thần cũng theo sang ở đó. Chưa được bao lâu, Tôn Sĩ Nghị phải gọi về triều, Phúc Khang An đến thay làm Tổng đốc Lưỡng Quảng. Nguyên vua Càn Long nghe tin Nghị đại bại trốn về, bèn thịnh nộ giáng chỉ bắt Nghị về kinh đô trị tội. Phúc Khang An là người Mãn Châu, thuộc về dinh Hoàng Kỳ, vốn được vua nhà Thanh tin dùng, nên cho ra thay Sĩ Nghĩ. An ra đến Quảng Tây, nghe tiếng quân An Nam mạnh thế lắm, trong bụng đã sợ, có ý muốn hoà, cho khỏi bị thất thố như quan Tổng đốc cũ. Đương khi băn khoăn, may làm sao vua tôi nhà Tây Sơn tinh ý, từ trước đã sai Ngô Thời Nhiệm thảo quốc thư đưa sang Tàu tạ tội, xin giảng hoà và đem giao trả những quân bắt được trong khi giao chiến. Bên này thì Phúc Khang An cũng muốn tránh việc binh lửa, sai đưa quân thư sang An Nam nói việc lợi hại và khuyên Quang Trung dâng biểu tạ tội cho yên hẳn sự can qua. Nhận được thư vua Tây Sơn phái ngay người đem vàng bạc sang đút lót cho Khang An và sai cháu là Quang Hiển cùng quan là Vũ Huy Tấn tải đồ cống phẩm sang Yên Kinh vào chầu kiến vua Càn Long để xin thụ phong.
Phúc Khang An, được ăn lễ, mượn tay trong là Hoà Thân giúp đỡ. Hoà Thân cũng là người Mãn, trước kia cùng coi việc phiêu viễn với Khang An trong dinh Hoàng Kỳ, rất có thế lực. Nguyễn Quang Hiển sang Yên Kinh, trước hết vào hầu Hoà Thân, dâng vàng bạc châu báu và trình thư của Nguyễn Huệ cầu khẩn giúp đỡ. Bởi thế, mặt ngoài nhờ Khang An đạt biểu nói hộ, mặt trong thì có Hoà Thân dùng lời tâu khéo, điều gì cũng hợp ý vua, nên Càn Long sai sứ sang phong cho Huệ làm An Nam quốc vương, lại giáng chỉ đòi Quốc vương vào chầu.
Cách đó mấy tháng sau, thiên hạ thấy một đoàn xa mã vào Yên Kinh: Bốn quan văn võ Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, và Võ Huy Tấn phò vua An Nam vào chầu Thanh Hoàng đế. Ngoài những phẩm vật đem cống tiến như sừng tê, ngà voi, bạc vàng châu báu vân vân, còn có thêm một đôi tượng đực. Trong khi hành trình, vua tôi An Nam nhiều phen nghỉ trong quán dịch, những cung trạm ở dọc đường phải phục dịch cung đốn rất là vất vả. Khi tới địa phận Quảng Tây, quan Tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khan An và quan Tuần Phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải thân đưa Quốc vương vào chầu.
Ròng rã mấy tháng trời, đoàn xa mã tới Yên Kinh; Vua Càn Long cho vời An Nam quốc vương và các quan theo hầu vào Nhiệt Hà, lại cho Quốc vương lên tận bệ rồng làm lễ "bão tất" (ôm gối), như tình cha con vậy. Xong, Thanh hoàng đế ban cho Quốc vương được vào điện ăn yến với các thân vương. Đến lúc giã từ về nước, vua Tàu lại sai thợ khéo vẽ một bức tranh truyền thần Quốc vương rồi ban cho, ân lễ thực là tối hậu.
Quốc vương An Nam từ đấy được vua nhà Thanh yêu mến, hoá không ai nghĩ đến việc chinh phạt nhà Tây Sơn nữa. Mãi sau này, cách đó non nửa năm, các quan theo hầu Hoàng thượng ta và thần mới được rõ có đoàn cống tiến An Nam sang Tàu, nhưng Quang Trung không sang, sai người Phạm Công trị dung mạo giống mình, trá hình làm Quốc vương sang chầu Thanh Hoàng đế.
Những sự đó xảy ra mấy tháng sau khi Phúc Khang An đem Hoàng thượng và các quan ta về Quế Lâm. Nó lại hết sức giấu giếm những việc phong vương cho Nguyễn Huệ, hoá nên vua tôi vẫn mịt mờ, không biết một tí gì. - Bấy giờ đi theo Hoàng thượng có Hoàng thúc Lê Công Duy Án, cùng các quan văn võ như bọn Đinh Nhạ Hành, Định Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh, Phan Khải Đức, Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn; cả chín người nối gót Thánh thượng và ra mắt Khang an khi hắn vừa tới nhậm chức. Thằng ác bá ấy trong lòng không muốn giúp nhà Lê nữa, nên ngoài mặt tuy làm ra vẻ hiền hoà mà trong lòng đã bày đặt sẵn mưu kế quỉ quyệt để chia rẽ Chúa thượng ra một nơi, lũ quan tòng vong ra một nẻo. Hắn bèn dùng ngay Định Nhạ Hành làm Thủ bị Toàn châu, phong Phan Khải Đức làm Đô tư Liễu châu, còn thì tùy tiện an trí mỗi người một chỗ, để có Hoàng thúc, các quan Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh theo chúa thượng vào Quế Lâm mà thôi. Tháng tư năm Kỷ Dậu (1789), vua tôi vào thành Quế Lâm, Phúc Khang An bèn giả vờ an ủi Chúa thượng, nói thác rằng:
- Hiện nay tiết trời đã sang hạ, khí hậu không tốt vì nắng nực lắm, sang đánh phương Nam không tiện e quân sĩ bị nhiều nhiệt chứng mà chết. Đợi đến mùa mát mẻ, ta sẽ khởi quân. Vậy nhà vua nên bảo bọn thuộc tướng sửa soạn luyện tập trước đi, hễ tới dịp thì phát binh ngay, nhân lúc xuất kỳ bất ý mà tiến sang như nước lũ, hoạ may có cơ toàn thắng được. Song le, nhà vua nên cạo đầu và theo lối ăn mặc nhà Thanh, lúc về nước sẽ không ai nhận được mặt; trong việc hành binh phải hư hư thực thực, biến trá cho bên địch khó lường. Lúc nào lấy lại được giang sơn bấy giờ nhà vua sẽ để tóc ăn mặc lối Nam, tưởng cũng không lấy gì làm muộn vậy!
Thánh thượng không biết Khang An chủ tâm lừa dối, cũng vui lòng giống giả các quan bắt chước Ngài, cạo đầu gióc tóc ăn mặc y phục Mãn Thanh. Nào ngờ Khang An lại nhân thế mà phản trá, nó làm ngay một tờ biểu dâng vua Càn Long, đại khái nói rằng:
- Vua An Nam không có ý viện binh nữa, hiện đã cạo đầu đổi áo, yên tâm ở lại nước Tàu, không về nữa. Vậy xin bãi hẳn việc đánh phương Nam, cho dân sự khỏi nạn binh lửa.
Trong triều có tay trong của bọn nó là Hoà Thân tán thành nói vào, khiến vua nhà Thanh xuống chỉ thôi hẳn sự dùng binh. Nhân đó, cách mấy tháng sau, Nguyễn Huệ lại sai Phạm Công Trị trá hình làm Quốc vương làm lễ ôm gối Càn Long. Càn Long nghe lời Khang An và Hoà Thân, phong vương tước cho Huệ. Thế rồi việc viện binh của Hoàng thượng ta xin, nó bèn bỏ lảng đi. Không những thế, vua nhà Thanh còn tưởng Chúa thượng cùng các quan muốn ở lại bên Tàu nên giáng chỉ cho đòi vua tôi cùng về Yên Kinh để an trí cả một chỗ. Tháng Hai năm Canh Tuất (1790), Thánh thượng và các quan tòng vong lên cả kinh thành nhà Thanh.
Lúc bấy giờ có mấy ông cựu thần triều ta nghe nói vua ở Yên Kinh, bèn theo sang hầu Ngài. Trong bọn đó, có các ông Lê Quýnh, Trịnh Hiến, Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê Thức và ít người nữa.
Phúc Khang An thấy bọn quan mới sang này không ăn mặc theo lối áo Tàu, bèn bắt cả về Quảng Tây rồi ép phải gióc tóc đổi áo như mọi người. Ông Lê Quýnh, không chịu đưọoc sự áp chế vô lý ấy, bảo Khang An rằng:
- Ông cho gọi chúng tôi đến, đã chẳng bàn được điều gì có ích, lại còn dỗ dành chúng tôi cắt tóc thay y phục, thế là nghĩa gì? Tôi nói thật cho ông biết: Đầu chúng tôi có thể chặt được, chứ tóc không gióc được; da chúng tôi có thể lột được, chứa áo thì không đổi được!
Phúc Khang An giận lắm lắm, nhưng cũng không biết làm thế nào, bèn đem giải cả về Yên Kinh. Đi đến Sơn Đông, may sao gặp Càn Long đi du ngoạn, thấy lũ quan ta bị trói, cho đòi vào hỏi rằng:
- Vua nhà ngươi đã chịu cạo đầu thay áo theo kiểu nhà Thanh, sao các ngươi còn bướng bỉnh chưa chịu?
Ông Lê Quýnh tâu rằng:
- Chúng tôi muôn dặm tòng vong, xin cứ cho theo tục lệ vào ra mắt Quốc vương, rồi sau sẽ xin lĩnh mệnh.
Vua Càn Long nghe lời nói khẳng khái, lại trông nét mặt rắn rỏi của ông Lê, phải khen ông là bầy tôi trung nghĩa, sai thả cả các quan ra rồi cho đưa vào Yên Kinh yết kiến Thánh thượng. Thánh thượng bấy giờ cũng Thái hậu và Hoàng tử được vua nhà Thanh an trí ở ngõ Hồ Đồng toà Quốc sử giám cửa Tây Định, ngoài cửa toà có đề biển: "Tây An Nam dinh". Còn các quan thì cùng cho ở ngõ Hồ Đồng Dương phố, cửa Đông Trực, ngoài cửa có đề chữ: "Đông An Nam Dinh".
Bọn ông Lê Quýnh đến ra mắt vua, thấy Ngài đã cạo đầu đổi áo, cũng đều gióc tóc thay y phục cả. Chỉ có ông Lê là nhất định chết thì chết chớ không chịu, bởi thế nên chiếu tội vi mệnh, bị bắt giam mãi mãi.
Thánh thượng đến Yên Kinh được mấy hôm thì có Nhương hoàng Kỳ Đô Thống là Kim Giản, phụng chỉ Càn Long, ra phong cho Ngài chức Tả Lĩnh và đưa cho mũ áo Tam phẩm. Các quan tòng vong thì mỗi người được một thạch gạo và ba lượng bạc.
Thánh thượng tức uất người lên, song phải nuốt thầm nước mắt chịu thụ phong và nhận áo mão. Kim Giản đi xong, Ngài ôm đầu ngồi khóc, rỏ ra huyết lệ, Ngài giận nỗi bị quân Tàu đánh lừa, bèn cho gọi các quan đến, rồi cùng mấy ông Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Quí Thích, Nguyễn Đinh Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng và Lê Thức uống máu ăn thề nguyện sống chết thế nào cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Nếu không cho nữa, thì ít ra cũng cắt cho đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, để phụng thờ tôn tự, mà không nữa, thì xin cho về nước, để vào Gia Định với chúa Nguyễn mưu đồ việc khôi phục cho nhà Lê.
Làm biểu vừa xong, đến nói lót trước với Kim Giản. Nhưng không có lễ vật gì dâng biếu, nên tuy nói hết nước dãi mà nó vẫn không nghe. Thánh thượng cùng các quan, không biết làm thế nào, đều phủ phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giản thấy thế, bất đắc dĩ phải mời cả vào an ủi mà rằng:
- Nhà vua hãy cứ an tâm, cứ về quán dịch nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng quí thể đã; đợi để thương lượng thế nào, sau này tôi sẽ cho biết.
Nó dỗ dành như thế, nhưng ngày hôm sau, nó bàn mưu với Hoà Thân phân trí vua tôi mỗi người đi một chỗ để khỏi bị nghe những lời kêu chúng ta oán thán khó chịu. Đến tháng tư năm Tân Hợi (1791), ông Hoàng Ích Hiểu phải đày sang Tây Vực, ông Lê Hân đi Phụng Thiên, Ông Nguyễn Quốc Đỗng sang Cát Lâm, các ông Nguyễn Viết Triệu, Lê quí Thích, Nguyễn Đinh Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương thì bị giải sang bến Trương Gia tỉnh Trực Lệ.
Thế là chung quan mình Chúa thượng không còn ai cả, chỉ có hai ông Phạm Đình Thiện cùng Đinh Nha Hành bỏ chức Thủ bị Hoàng Châu theo lên, và vài người hầu cận nữa mà thôi.
Thánh thượng lúc bấy giờ ruột đau như xé, đêm ngày Ngài lo lắng chua xót, khóc lóc kêu vang, ngồi đứng bất an, hình hài chốc lát tiều tụy hẳn đi, trông thương hại quá. Sáng hôm sau, Ngài cưỡi ngựa sang dinh Kim Giản, kêu oan cho lũ bề tôi bị đi đày, gặp ngay Kim Giản vào chầu vua Càn Long ở vườn Viên Minh. Ngài bèn nối gót đi vào cửa vườn, bị lũ lính giữ vườn ngăn cản lại. Lúc đó có tên nội thần là Nguyễn Văn Quyên theo hầu Chúa thượng; Quyên thấy lũ quân canh láo xược, bèn nổi giận đùng đùng, xông lại mắng chửi:
-Lũ chó Ngô kia! Sao chúng mầy dám vô lễ, làm nhục đến vua tao!
Vừa mắng vừa cầm gạch đá ném vào chúng nó. Bọn lính bị chửi cùng xì xồ chửi lại, rồi chúng kéo ùa cả ra xúm lại đánh cho Quyên một trận nhừ tử. Về đến nhà, Quyên bị bệnh mà mất.
Từ đó trở đi, Chúa thượng thấy mình bị lừa đảo, đến nỗi hoá ra lực cô thế yếu, trong lòng rầu rĩ buồn bã, song không dám nói đến chuyện xin viện binh nữa, vì biết có nói ra cũng chỉ tổ phí lời. Ngài đành kiên nhẫn sống cùng Thái hậu và Hoàng tử một quãng đời tẻ lạnh. Không hy vọng cũng không khoái lạc; đêm đêm ngài chong đèn ngồi khóc, khóc chán lại đem thơ ra ngâm, giọng ngâm nghe buồnr rầu thảm thiết, có thể cảm động được quỷ thần. Nghe vua than oán bi ai, những kẻ như thần theo hầu Ngài, cũng thấy gan ruột như bào như xé, nhưng còn biế làm thế nào trước sức mạnh vô cùng của số mệnh tàn ác bất lương, và trước cách đối phó giảo quyệt sâu độc của lũ quan Tàu nham hiểm!
Vì Chúa thượng ưu tư quá, càng ngày sức lực Ngài càng đâm ra suy kiệt. Đã thế, phúc bất trùng lai, hoạ vô đơn chí, Hoá công cay nghiệt còn đem đến cho Ngài những nỗi đau đớn, thâm thúy bằng hai sự mất nước, lìa ngôi! Đó là sự Hoàng tử thất lộc. Tháng năm năm Nhâm Tý (1792), có dịch lên đậu ở Yên Kinh, Hoàng tử không may nhuốm bịnh. Chữa chạy mãi đều vô công hiệu: được non một tháng trời, Đông cung lìa bỏ cõi đời. Thánh thượng không còn biết mùi gì là ngon ngọt nữa, thú gì là vui vẻ nữa. Ngài chỉ hết than lại khóc, hết khóc lại ngâm, làm cho Thái hậu cũng vật mình kêu khổ. Chả bao lâu sau, khi Đông cung khuất bóng, vua vì quá lao tâm mà thọ bệnh, mỗi ngày một nặng, nằm lì bì liệt giường chiếu, đến ngày 16 tháng mười năm Quí Sửu (1793), Ngài gọi các người theo hầu trong buổi lưu ly, ứa nước mắt cầm tay cả lũ chúng tôi, hổn hển ngỏ lời cảm tạ và từ biệt, rồi băng hà, không trối trăng lại điều gì cả!
Vua thăng hà mà không có một ngự y nào bên cạnh giường bệnh, không có một người cung phi nào săn sóc trông nom, không có một vị đại quan nào đứng túc trực, không có một hồi chiêng hồi khánh nào báo hiệu Ngài về Trời! Thực là một cảnh tối cảm động thương tâm, thương tâm nhất là thấy vua một nước to, chỉ lỡ sa cơ thất thế mà chết khổ như một kẻ thường dân vậy.
Tự cổ chi lai, trong lịch sử chưa bao giờ có ghi chép một việc bi ai dường ấy. Cũng đã có nhiều vị đế vương chết dưới mũi tên hòn đạn, bị hành thích hoặc bất đắc kỳ tử, nhưng chưa ai từng thấy một vị Hoàng đế chết ưu sầu thống thiết thế bao giờ!
Hạ thần cùng mấy kẻ tòng vong đều phục xuống khóc. Còn Thái hậu thì người đau đớn quá, đau đớn đến nổi ngồi thở ra, lặng đi hàng giờ, không nói.
Bọn chúng tôi xúm nhau lại tắm rửa cho Chúa thượng bằng nước ngũ vị hương, xong lấy áo Long Cổn và mũ miện Hoàng đế cho ngài, rồi khâm liệm ngay, kẻo sợ quan Tàu kiếm chuyện.
Yên đâu đấy, chúng tôi mới sai người báo tin cho Kim Giản, để Giản vào tâu vua nhà Thanh. Càn Long truyền chỉ dùng lễ tước công tống táng cho Chúa thượng. Chúng tôi tìm được một ngôi đất tốt ở ngoài cửa Đông Trực, bèn xin cho táng thi hài Thánh thượng ở đó.
Việc ma chay chu tất, chúng tôi bèn thương lượng với nhau, kẻ ở lại hầu Thái hậu, người trốn về cố quốc thăm nhà. Trong mấy vị triều thần sang tòng vong, có nhiều vị tuyệt thực hay vẫn cảnh theo vua về chín suối. Dăm ba người lại vì cơ cực mà chết trước, chỉ lác đác còn một đôi ông, thì mỗi ông bị đày đi ở một chốn xa xăm.
Thưa Lệnh bà, đó là pho bi sử của Chúa thượng nhà ta đó. Trời đã đến lúc không trợ nhà Lê ta nữa, thì có quay cuồng cũng vô ích mà thôi. Hạ thần trước kia, cũng rắp tâm hy sinh cả thân thế và số mệnh cho sự khôi phục, nhưng một phen sang đến Tàu, thần biết rằng ý chí của thần chỉ là một mộng tưởng. Bởi lẽ, chịu ức hiếp dưới quyền lũ quan Tàu tàn ác, Thánh thượng còn khi nào được thấy ngày trở lại nước Nam ta? Nữa là còn mong ở sự giúp binh cứu viện!
Thần nay là một kẻ chí khí đã cạn, gia đình đã nát, hy vọng đã tuyệt, không còn liên lạc gì với cõi phù thế nữa. Nhưng sở dĩ thần sống sót đến ngày nay, là vì riêng muốn báo ơn Thánh thượng đến kỳ cùng, muốn được gặp Lệnh bà một lần nữa để báo cho Lệnh bà biết những nông nỗi mà Hoàng gia đã phải trải qua bên khách địa.
Nay mục đích thần đã đạt, thần xin cúi lạy Lệnh bà gìn giữ mình vàng, chớ nên ưu sầu quá độ. Mệnh số đã như vậy, biết làm thế nào? Còn về phận thần, thần xin từ giã Lệnh bà; được giáp mặt Lệnh bà lần này tức là lần trót vậy.
Tâu Lệnh bà, nỗi đau đớn của thần, nếu nó không giống sự mất ngôi mất nước, nó cũng là cho thần từ năm sáu năm nay, ăn không biết ngon, mặc không biết đẹp, sống thác không quản, cực nhục không từ, nó đã làm cho thần không biết mùi sinh hoạt là gì nữa, không biết thú sinh tồn là gì nữa! Bây giờ đây, giũ nhẹ được trong lòng những ân oán trước kia chất nặng, thần chỉ còn biết êm vui trong sự theo vua xuống chốn tuyền đài.
Thôi, xin lạy Lệnh bà!"
Câu chuyện nói tới đây, công tử Nguyễn Anh Tề vùng đứng dậy, đi ngay, để một mình Hoàng phi ngồi gục mặt xuống bàn, chả biết nàng mê hay tỉnh. Ra đến ngoài hiên, Anh Tề mới nhận thấy mặt trời gần xế bóng...
Lịch sử chép rằng cách đấy sáu năm, tháng một năm Kỷ Mùi đời vua Gia Khánh. Thái hậu theo vua và Hoàng tử về trời. Lại có chín năm, năm Nhâm Tuất (1802) khi Thế Tổ Cao hoàng nhà Nguyễn đã nhất thống được thiên hạ, quan nhà Lê, nhân dịp có sứ ta sang Tàu cầu phong cho Thế tổ, dâng biểu xin đem di hài Thái Hậu, Cố quân và Hoàng tử về nước. Vua Gia Khánh chuẩn lời cầu khẩn đó, tha cho tất cả các quan tòng vong khi trước được về xứ sở phương Nam.
Khi cải táng phần mộ Cố quân, người ta thấy da thịt đã tiêu tán cả chỉ còn quả tim trơ lại, không nát, vẫn tươi đỏ như thường. Ai trông thấy hoặc nghe biết sự đó cũng động lòng thương xót, ái ngại cho tình cảnh một ông vua vong quốc phải đày đoạ đến như thế, để lại muôn đời một tấm gương thảm kịch đáng thương. Ai cũng phải oán trách lũ quan Tàu quá tàn nhẫn, có những thói dã man áp chế khiến cái khổ của Chiêu Thống phải kết lại thành khối, đến mấy đời sau cũng chưa siêu thoát đi được.
Đem di hài Cố quân và Hoàng gia về đến biên giới thì gặp Hoàng phi mặc sô gai ra Nam quan đón rước linh cữu hộ tống về Thăng Long. Về đến Thăng Long trong khi hoàn linh cửu Cố quân lại đó, bà Hoàng phi Nguyễn Thị Kim cũng tuyệt thực mà chết, để lại một tấm gương trinh liệt mà đã cách mấy trăm năm rồi, cũng chửa ám mờ.
Ngày 24 tháng một năm Nhâm Tuất, các quan cơ thần nhà Lê rước ma Cố quân, Thái hậu, Hoàng phi và Hoàng tử về Thanh hoá, đem táng ở lăng Bàn Thạch, thuộc về đất phủ Thọ Xuân. Di hài nội thần Nguyễn Văn Quyên và mấy ông quan tử tiết cũng đều phụ táng ở đó.
Sự nghiệp nhà Lê, từ ngày Thái tổ khởi nghĩa ở Lam Sơn, cho đến lúc Chiêu Thống bị vong quốc theo Tôn Sĩ Nghị sang Tàu, trước sau gồm tất cả được 360 năm, mở đầu bằng một kỷ nguyên rực rỡ oanh liệt, để kết cục băng một sự nhục nhã bi thảm, biểu hiệu cho sự hưng suy vinh nhục ở đời.
Trong lúc đưa ma Cố quân ở Tàu về, các quan cựu thần nhà Lê có khóc viếng linh cữu bằng một bài thơ bát cú. Thơ rằng:
Nằm gai nếm mật mấy năm thừa!
Nấm cổ ước đưa về đất xưa,
Bể Bắc, chín lần rồng lẩn sớm,
Non Nam một đỉnh hạc về trưa,
Tưởng đâu năm nọ như ngày nọ,
Nghĩ đến bao giờ khóc bấy giờ!
Thua, được, cuộc cờ thôi để đó,
Gội ơn cây cỏ vẫn còn thưa. 
PHẦN 15
Người bạn mới quen biết của tôi vừa ngâm xong bài thơ đồng tiền Vạn Lịch, thì bỗng ngỗi nhỏm dậy, gãi đầu lia liạ, gãi vai, rồi phì cười cúi sát xuống tôi, nhủ sẽ rằng:
- Tôi được ông cho hút thuốc phiện lần đầu, không hiểu nên hút nhiều ít thế nào, thành ra say khướt. Quái lạ! Sao tôi ngứa quá thế này? Có phải say nha phiến thì tịt mũi, nóng ran lên rồi ngứa ngáy, phải không ông?
Tôi đương mải mê nghe câu chuyện lý thú chàng vừa kể lại, muốn rõ nốt quãng sau, vội vàng trả lời để đem bạn vào đầu đề, sợ chàng nhãng ý nói sang chuyện khác:
- Phải, hút say thì đâm ngứa, nhưng không hề gì. Một lúc nó khỏi ngay. Nhưng mà này, mấy câu phong dao vừa đọc đây, có phải chăng nó thuộc về câu chuyện vừa mới kể nghĩa là chuyện đó người ta đặt ra câu phong dao ấy để làm gì?
Bạn tôi cười thiên ha hả không đáp lại. Chàng còn lên giọng êm ái du dương ngâm lại rất thong thả mấy câu hát chàng ngâm lúc nãy, mãi sau cùng mới vỗ vai tôi, vui vẻ nói rằng:
- Không phải đâu, ông đừng lầm! không phải đâu. Mấy câu hát của tôi, chúng nó có một điển tích khác, không dính dáng gì đến câu chuyện đồng tiền thư hùng cả. Song le, mấy câu phong dao cũ đó, nó đúng vào cảnh ngộ của tôi bây giờ, nên tôi dùng nó để đạt cảm giác và ý tưởng của tôi đó tôi. Điển tích câu phong dao, tôi cũng biết, nhưng đó lại là chuyện khác, ông về lục tìm trong mấy pho sách cổ như "Truyền kỳ mạn lục", "Truyện lạ nước Nam", thì sẽ thấy.
Bây giờ tôi không kể làm chi cho dài dòng vô ích, tôi chỉ nói nốt ông nghe kết quả chuyện kho vàng của tôi nó kỳ dị thế nào.
Thắm thoát từ thủa Cao Hoàng nhà Nguyễn đánh được Tây Sơn để nhất thống thiên hạ, đến bây giờ trong gia tộc họ Nguyễn ở vùng Chân lộc, nay gọi là Nghi Lộc, tám đời đà nối tiếp nhau sinh hoạt về nghề cày ruộng, không ai muốn chen chân vào vòng sĩ hoạn làm gì. Những cảnh bị giết, bị thất thế mất oai quyền, mà tôn tổ ngày xưa đã chịu trải qua một cách đau đớn, những cảnh ấy khiến dân trong họ lấy ông Cống Chỉnh là gương tầy kiếp, không ai hề nghĩ đến việc bôn tẩu kiếm công danh. Tôi vẫn còn nhớ, thủa bé, được nghe ông và cha tôi dùng mấy câu thơ Đường để tỏ ý chí mình không chịu góp mặt cùng thiên hạ:
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối giao phu tế mịch phong hầu!
Lần đi, lần một bạc đầu,
Ai ơi đeo ấn công hầu làm chi?...
Phải, trong họ Nguyễn chúng tôi, từ đời cụ Nguyễn Hữu Bằng, không ai muốn ra làm quan nữa. Họ toàn an phận trồng cây, trồng lúa, sống một cuộc đời thanh bạch, nhưng nhà hạ, chẳng khi nào có chút gợn phong ba. Tuy nhiên, tất cả trẻ em trong họ đều phải học hành cho giỏi cả. Không một người nào chịu tiếng dốt bao giờ. Còn đến khoa võ bị côn quyền, thì lại cấm hẳn, không được học. Tổ tiên tôi cho nghề võ là vô ích, giỏi võ lắm, càng đâm ra dữ tợn ngang ngạnh và càng dễ gieo những mầm đại hoạ vào thân thể và gia tộc.
Bởi lẽ ấy, từ cụ Bằng cho đến đời cha tôi, trong khoảng một trăm ba mươi năm, con cháu nhà Nguyễn hữu không ai luyện tập nữa. Họ đều chú trọng về văn chương, nhưng không đi thi, cũng chả làm quan. Thực là một giòng họ ương dở vô cùng. Mãi đến đời tôi, vì theo học chữ Tây, tôi mới bỏ hẳn những sự cấm đoán vô lý ấy. Sáng chiều nào tôi cũng ra cũng luyện gân và xách tạ, lại thuê thầy dạy đủ quyền cước và thập bát ban võ nghệ tàu và ta. Hơn nữa, tôi học cả võ tây, võ Hồng Mao và rất để ý đến môn kiếm thuật.
Ông cha tôi lấy làm giận lắm: tôi phải mỏi mồm cắt nghĩa rõ cho các cụ biết ngày nay sự thế đổi thay, không thể bo bo giữ mãi được những tục lệ và chế độ hủ bại của thời xưa nũa. Ông cha tôi thấy tôi không những chỉ chuyên riêng có món võ mà thôi, còn gắng học cả chữ nho và chữ tây, nên dần dần hai cụ cũng lờ đi, không mắng chửi. Chữ tây tôi học từ năm mười sáu tuổi, nên mãi đến năm hai mươi bốn, tức là năm ngoái, tôi mới đỗ được bằng tú tài văn chương.
Đỗ xong, tôi xin phép nhà được ra nghỉ mát Sầm Sơn, cách đây mười tháng về trước. Tôi thường thích chiều chiều, một mình đi thơ thẩn trên bãi cát, ở một chổ vắng vẻ, để trầm ngâm nghĩ ngợi, không bị những thiếu niên thiếu nữ đi tắm đến phá rối sự yên lặng của tôi. Một buổi kia, đương mải mê ngắm mấy con dã tràng chạy tung tăng trên măt cát, tôi thình lình bỗng thấy ngoài khơi nổi lên một ngọn sóng to, to lắm, cao đến năm sáu thước hơn các làn sóng thường. Tôi những tưởng đó là một con thủy vật nào làm cho mặt biển nhô lên như vậy. Đã lấy làm ngạc nhiên, tôi càng thêm kinh hãi, vì thấy ngọn sóng kia ồ ạt vỗ, rồi lừ lừ tiến lại mé tôi. Nó như lăm le muốn chụp lên đầu tôi để lôi cuốn tôi ra tận chỗ sâu hoắm ngoài xa tít. Chỗ tôi đứng còn xa bể độ tám chín thước tây, nên tôi không ngại lắm, cứ đứng yên chờ xem công cuộc xảy ra thế nào.
Quả nhiên, ngọn sóng khổng lồ kia lượn rất nhanh chóng vào bờ, rồi đổ ụp xuống, làm cho bọt bắn tứ tung. Như một cái lưỡi dài, nó liếm bãi cát dưới chân tôi, chỉ cách gót giầy tôi có một gang nhỏ xíu. Quần tôi cũng bị tia bọt bắn vào ướt át; tôi tự nghĩ không hiểu làm sao đương lúc trời bể phẳng lặng mà tự nhiên bỗng nhô lên một ngọn sóng lạ kỳ này.
Tôi chưa ra khỏi lúc bồi hồi, nước bể đã rút xuống lúc nào không rõ. Cúi xuống nhìn bãi cát, tôi bỗng phải rú lên vì mừng vì lạ: một vật tròn bằng vàng, nằm lóng lánh trên mặt cát, bên cạnh những mảnh rơm rác, những đám bọt, trắng một màu trắng pha xám, pha nâu.
Tôi quỳ xuống nhặt vật ấy lên, trông kỹ thì ra một đồng tiền vàng. Một đồng tiền Vạn Lịch. Bấy giờ bao nhiêu ý tưởng tự đâu lại nhẩy lộn xộn trong óc tôi, mắt tôi hoa lên, tay tôi run lẩy bẩy, trống ngực tôi vỗ thình thình. Tôi nhớ lại câu chuyện trong gia phả họ nhà tôi, mà từ bé tôi thường vẫn đọc đi, đọc lại.
Đó là thần kho vàng chọn tôi là người có duyên để trao lại sản nghiệp bị chìm từ thủa trước, có lẽ đồng tiền này sẽ giúp tôi trở nên môt tay triệu phú vẻ vang? Bởi nó là chìa khoá để mở cửa vào cõi chứa kim ngân châu ngọc. Nhưng mà, ồ lạ! Sao thần nhân đã ra ơn cho tôi có một đồng vàng? Còn đồng bạc? đồng bạc ấy ở đâu, tôi làm sao tìm được nó?
Đương cuống quýt hồi hộp, tôi đâm ra thất vọng, khi nghĩ đến sự thiếu mất nửa chìa khóa kia, nửa chìa khoá mà, họp lại với chìa này, sẽ giúp tôi nhất đán có một mãnh lực làm bá chủ được đời nay: Kim tiền! Nghĩ đi, nghĩ lại, tôi băn khoăn khó chịu, không biết tự đây nên xử trí ra sao.
Đêm hôm ấy, về nhà trọ, tôi chong đèn ngồi cả đêm, ngắm lại đồng tiền vàng. Mỏi mệt quá, tôi thiếp đi, nằm gục đầu xuống bàn ngủ quên mà không rõ.
Trong khi lơ mơ say tỉnh, hình như có một giọng nói nhẹ nhàng, rất nhỏ, theo luồng gió thổi, phều phào bay vào tai tôi:
- Đồng tiền hùng về tay ngươi, đồng thư về tay người khác. Ngươi phải cố tìm ra người đó, một cuộc ái ân từ thủa trước vẫn một niềm chờ đợi đón ngươi. Thôi, cố đi!
Ba tiếng "Thôi, cố đi!" tựa hồ quát rất to, tôi giật mình choàng dậy. Rõ ràng một giấc chiêm bao! Lạ này! Cớ làm sao hai ba sự liên tiếp nhau xảy ra để quyết định lòng tôi hành động ngõ hầu chiếm lấy kho của? Tôi hẳn có dính dáng gì với sản nghiệp đó, chẳng sai!
Hay kiếp trước tôi là Nguyễn Anh Tề? Có lẽ, có lẽ lắm. Bởi kiếp này, vì một sự tối ngẫu nhĩ, tối tự nhiên, ông tôi đặt tên tôi cũng là Tề. Nguyễn Hữu Tề! Thế thì lạ thật! Có lẽ người được đồng bạc kia là Hậu thân của Võ An Trinh quận chúa, mà người ấy đương đợi tôi để cùng tôi nối lại quãng đời tình?
Lòng tôi bối rối như tơ nát. Tôi cũng không hiểu tôi lúc đó tỉnh hay mê. Một cảm giác khó chịu mà dễ chịu xúc động thần kinh tôi, người tôi như phát sốt. Ngày hôm sau, tôi đáp tầu về Nghệ An. Về Nghi Lộc, về làng tôi.
Tôi giữ kín chuyện bắt được tiền, không nói cho ai biết cả. Rồi, một mình, tôi tự nhốt trong phòng sách, khoá kín cửa lại, đem các giấy má và gia phả trong nhà ra lục, ra khảo cứu, trong ngót ba ngày. Sau cùng, tôi tìm được đủ hai lá thơ cũ của ông Tổ tám đời của tôi là Nguyễn Anh Tề, và nhận được cả đoạn gia phả chép lại đời của ông nữa.
Tôi cẩn thận bỏ các thư từ đó vào một chiếc phong bì, đem bì nhét vào ngăn kín nhất trong va li, rồi lộn lại Sầm Sơn tìm đồng tiền bạc. Ghé qua tỉnh Nghệ, tôi đặt một chiếc hộp gỗ nhỏ bằng trắc khảm, bỏ đồng tiền Vạn Lịch quí báu của tôi vào đó. Sắm sửa đâu đấy, tôi đáp tàu và ô tô một mạch ra Sầm Sơn.
Cả một vụ hè năm ngoái, ông ạ, không ngày nào, giờ nào, tôi không đi tìm kiếm người đã có duyên như tôi, bắt được đồng tiền bạc. Trong ba tháng tôi đi xuôi chạy ngược, lùng hết các làng, các xóm, vào hết các quán trọ, các ô ten, mà tuyệt nhiên không được một chút tin tức gì cả. Người có đồng bạc, cũng như đồng bạc, chẳng thấy ở đâu. Công tôi đã như công dã tràng xe cát vậy.
Thất vọng, tôi lại về quê, nằm queo nghĩ ngợi, nhưng nghĩ ngợi bao nhiêu càng sốt ruột bấy nhiêu. Quá vụ hè, ngoài bãi biển không còn ma nào cả. Có ra đấy cũng vô ích, tôi bèn đánh liều đi du lịch khắp trong nước, hoạ may có tìm ra được vết người, mà theo như lời mộng triệu, cùng tôi có tiền duyên ràng buộc! Đã gọi là có duyên, mà có duyên thì "thiên lý năng tương ngộ", chả biết sao mãi tới nay người ấy, trước mắt tôi, vẫn như một nhân vật vô hình? Suốt một năm trời, tôi tìm y đã mỏi mắt, nản lòng, mà y nhất quyết không lộ mặt cho tôi được thấy!
Tuy vậy, tôi vẫn kiên tâm trông đợi. Bởi tôi tin rằng thần nhân không bao giờ vô cố dối tôi. Mà đồng tiền này nó tức là của tín thần kho vàng đã ban cho tôi đó!
Vậy thì, mặc dầu khó khăn, mặc dầu lâu chóng, ta cứ tìm, tìm mãi, tìm đến khi nào có kết quả thì thôi! Kiếp này chưa tìm ra, nguyện kiếp khác cũng vẫn tìm, tìm nữa!
Ông bạn ạ, tôi gặp ông, ắt là cùng ông có chút duyên tri ngộ; ông đã là người độc nhất và là người trước tiên nghe biết rõ chuyện kín của tôi, ông cũng nên giúp tôi một tay trong sự đi kiếm đồng tiền bạc! Nhưng mà tôi phải có một lời tâm sự dặn ông trước khi ông nhúng tay vào cuộc: là dù ông có vui lòng nhận lời hay không muốn nhận cộng tác với tôi chăng nữa ông cũng nên giữ bí mật hộ tôi, đừng tiết lộ chuyện của tôi cho ai rõ hết. Kẻo, một khi biết chuyện, những kẻ thâm hiểm độc ác sẽ mưu mô tìm quỉ kế đánh bẫy mình để chiếm lấy chìa khoá mở cửa kho vàng, lúc ấy tính mệnh mình sẽ theo sản nghiệp kia mà bị đoạt.
Tôi trông dung mạo ông, biết ông không phải là người gian giảo phản trắc, bởi thế nên vui lòng giãi bày tâm sự cùng ông. Ông nên vì cách xử xự thành thực của tôi mà cũng thành thực giúp tôi, ông nhé!
Câu chuyện nguồn gốc "kho vàng Sầm Sơn" đến đây là hết. Đêm hôm ấy, chàng thiếu niên có khổ mặt rắn rỏi và hai con mắt inh sáng, mà tình cờ vừa cho tôi được quen biết, kể cặn kẽ cho tôi nghe sáng suốt nỗi tâm sự từ lâu chàng hoài bão tận đáy lòng. Đến lúc chúng tôi cùng nằm im, định chợp ngủ một chút để dưỡng thần thì tiếng gà rồn rã báo hiệu vừng đông đã bắt đầu giọi sáng. Chúng tôi đều choàng dậy, không ngủ nữa, xếp hành lý lại cẩn thận, rồi rửa mặt, mặc quần áo, rủ nhau ra hàng quán ăn điểm tâm.
Bắt đầu từ phút cùng ăn chung ngủ chạ ấy, tôi và thiếu niên mới gặp kết chung một mối tình nghĩa tri giao bền chặt, một mối tình mà thời gian cùng hoàn cảnh, sau này, khó làm cho đứt khúc, rối nhầu. Mặc dầu buổi sơ thân, chúng tôi đã thấy quí mến nhau vô kể. Thiếu niên thực đã không lầm lẫn khi chọn tôi làm bạn để giãi bày bí mật; tôi cũng không tự thẹn đã được biết sự bí mật của chàng.
Một quãng đời quay cuồng điên đảo chúng tôi cùng sống sau buổi ăn điềm tâm hôm ấy, càng làm cho tôi càng kính trọng thương mến nhau, nhất là vì chàng thấy tôi đối với chàng tận tụy cùng như tôi thấy chàng đối với tôi một lòng chung thủy không phai.
Chúng tôi đã họp sức họp trí nhau, đi kiếm đồng tiền bằng bạc và người chủ đồng tiền ấy. Trong khi tìm kiếm, chúng tôi đã hao tâm tổn lực, đã cố len lỏi trong muôn vàn lớp sóng người hoài nghi, nghiêm nghị, cố tiến đi, đi mãi, đi tìm cho ra nốt nửa mảnh chìa khóa mở cửa cho chúng tôi vào đời cự phú vinh quang. Bao nhiêu cuộc khó khăn ngăn cản chúng tôi, mà chúng tôi cũng vẫn điềm nhiên thẳng bước. Bao nhiêu sự hiểm nguy rình chúng tôi trong xó tối, chúng tôi vẫn tránh được như thường.
Rút cuộc chúng tôi thắng thế, tìm được đồng tiền bằng bạc.
Nhưng... nhưng, một phản lực mà chúng tôi không tài nào át chế được, đã gieo nặng xuống đầu chúng tôi một cách tối bất ngờ! Phản lực ấy là số mệnh!
Số mệnh đã mỉa mai bảo chúng tôi đừng hão huyền mong chiếm đoạt một sản nghiệp mà mình không phải là chủ; số mệnh đã chỉ rõ cho chúng tôi biết hai đồng tiền Vạn Lịch không phải chìa khóa mở cửa vào kho châu báu, mà chỉ dùng được để rút then cửa của một cõi đẹp đẽ quí giá hơn: Cõi ái tình!
Thực vậy, hai ba năm vật lộn lăn lóc chẳng cho bạn tôi cái cơ nghiệp chàng ao ước, nhưng chỉ biếu chàng một món quà tuyệt mỹ tối bất ngờ: một giai nhân mê chàng cũng như chàng yêu nàng đến tan hồn lạc trí.
Cập uyên ương mà định mệnh xô đẩy vào lòng nhau, sau một cuộc xung đột nhau kịch liệt, bỗng nhận rõ chỉ có ái ân là đáng quí ở đời. Mối ái ân đó mãn nguyện rồi, kho vàng đáy biển lại hoá ra vô vị.
Thành thử, trong một khoảng một trăm năm mươi năm, hai lần sản nghiệp lớn ấy mất chủ, chỉ bởi lẽ như tôi đã nói:
"Ái tình có cần đâu đến những kho vàng!"
Tôi, ngẫu nhiên, đứng ngoài làm khách bàng quan, không được hạnh phúc hưởng một phần giầu có - bạn tôi có thề rằng được vàng bạc sẽ cho tôi một phần ba của cải - những lại được một lạc thú tối cao quí là hơn cả mọi người, tôi biết rõ chuyện kho vàng.
Làm thính giả trong một đêm, tôi chép ngay được lịch sử của kho vàng đó. Sau này, trong bao nhiêu trường hợp khe khắt xảy ra vì sự xâu xé nhau để chiếm lấy tài lợi, tôi không mất gì, được ngay một bài thí nghiệm rất sâu xa thâm thúy về nghĩa cuộc sinh tồn.
Bài thí nghiệm sâu xa ấy, trong quyển "Đồng tiền Vạn Lịch" tiếp theo đây, sẽ đem lại cho các bạn yêu chuyện này nhiều cảm giác lạ lùng nhưng thú vị, sẽ làm cho các bạn phải bồn chồn hồi hộp, sống trong một hoàn cảnh tưng bừng náo nhiệt, bí mật gay go; khiến cho, cùng với người lặn lội đi tìm kiếm kho vàng, các bạn sẽ tưởng tượng như mình cũng là khách phiêu linh, rồi lo sợ khi thấy các nhân vật mắc nạn rất nguy, rồi mừng rỡ khi thấy họ thoát khỏi lưới mà bay nhảy vào một cõi cao siêu rực rỡ...
TchyA Đái Đức Tuấn
Theo http://chimviet.free.fr/ 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...