Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

Đinh Hùng (Bùi Giáng)

 Đinh Hùng (Bùi Giáng)
 I. Nguồn thơ của Đinh Hùng trong Mê Hồn Ca là nguồn thơ lạ nhất trong thi ca Việt Nam.
Tới Đường Vào Tình Sử, thì nguồn thơ kia bỗng như tắt ngấm. Đinh Hùng trở thành kẻ rờ rờ rẫm rẫm. Tuy nhiên, trong Đường Vào Tình Sử cũng còn mấy bài bát ngát ở lại buồn bã vô song.
II. Chúng ta khóc như một bầy thú dữ                        
Lòng dã man nghe trái đất tan tành.
Câu thơ như thế đủ giúp mọi người bước vào cung cấm Mê Hồn Ca, chậm rãi đón nghe cái lời gì trong linh hồn vân thạch.
Tặng ông Đinh Hùng vài vần cảm khái:
Bị thường bách tân toan dự khổ                        
Ngọc vẫn hương tiêu tộ thử thân                        
Vẳng nghe hàng xóm lối gần                        
Chân đi gót bước cơ trần đa đoan                        
Hoàng hậu luống muộn màng công chúa                        
Nảy hoa xuân cùng múa lộn vòng                        
Ba thu càng lắc càng đong                        
Càng đầy tâm sự nỗi lòng càng vơi.
Ngày ông còn sống, tôi gặp ông mấy lần. Câu chuyện cứ lạc lõng âm thanh. Ông đánh mất ông, tôi đánh mất tôi. Không hề gì, không hề gì.
Tặng ông một bài nữa:
Tam thiên thủ lạc thiên trường đoản                        
Tiểu viên hương vũ loạn mông lung                        
Cuồng ca túy hậu điệp trùng                        
Diệu từ tiền diện bách tùng tiểu tiên                        
Hà xứ khán minh niên minh nguyệt                        
Thử sinh hòa thử tuyết thử sương                        
Vô thanh ngân hán đoạn trường                        
Mộ vân thu tận vô thường vân tiêu.                       
III. Con người nguyên thủy, ta không thể rõ tâm tình họ như thế nào. Đứng trước những quyền lực thiên nhiên, những bão giông sấm chớp, nhìn lại phận thân mình, họ khủng khiếp kinh hoàng, hay là hồn nhiên chấp thuận? Nhìn xác đồng loại bị rắn độc cắn, hoặc bị cọp beo vồ nát, họ rú lên những âm thanh hãi hùng như thế nào, ta không hình dung nổi. Những đêm đông mưa bão rét buốt, ẩn thân trong những hang đá lạnh lẽo, họ suy gẫm những gì về kiếp sống phù du của mình? Họ không được che chở trước trời đất. Đời sống vật chất cũng như tinh thần, đều hoàn toàn phó thác cho hiểm họa diêu mang. Không một đức lý, triết lý nhân sinh vũ trụ nào che chở linh hồn họ. Không một thánh hiền nào thiết lập một Hình Nhi Hạ để họ chui vào nằm yên ổn giữa cương thường.
Ngày nay, con người có được nhiều chốn “nương tựa”. Rượu đế, la de, cà phê, khiêu vũ, xi nê… Nếu những thứ đó không còn chi cám dỗ nữa, thì còn người chạy đi đào sâu những hang hố siêu hình, tồn thể, hết đào hang xuống tận ruột rà trái đất, lại đào hang lên khắp cõi thanh thiên. Hoặc chạy ra đại hải đuổi theo con cá vô hình của trùng khơi. Hoặc chạy vào sa mạc, đuổi theo con chim vô dạng của hư vô. Rồi vẽ vời bao nhiêu luyến tiếc, chờ mong, hoài vọng, thiên hình vạn trạng để che lấp khoảng trống vắng dị thường của phù sinh hư huyễn. Rốt cuộc vẫn đối diện với cái khối lù lù bất khả tư nghị do Tử Thần dựng lên ở giữa đường. Cái khối dị dạng nọ quả thật gay cấn khôn hàn. Xua đuổi nó không được. Trừ khử nó không tan. Thôi đành ôm chầm lấy nó ve vuốt mà bảo rằng: - Tử Thần ôi! Em chính là lẽ sống của ta. Ta sống bao nhiêu tuế nguyệt lao đao lận đận, là chỉ cốt để thành tựu đời mình trong cái Chết Thơ Ngây Man Mác. Ta ôm lấy em và cảm thấy ấm cúng vô song. - Tử Thần ạ, lại gần đây đối mặt! Trao bàn tay cho ta nắm bên miền…
Đó là một lối tự dối mình vậy. Tô son phết phấn vào khuôn mặt Tử Thần, kể cũng đà thiểu não lòng người bấy nay. Mà kể ra, suốt bình sinh, con người ta đeo bám vào những thứ gọi là văn minh tiến bộ, gây dựng nên những thứ gọi là công nghiệp lưu tồn, chẳng qua cũng chỉ là một cách tự dối mình đấy thôi.
Đinh Hùng Mê Hồn Ca muốn nhảy vọt một trận, trút bỏ hết mọi thứ “quà” của văn minh gạt gẫm, đi giữa thế kỷ hai mươi, ông muốn sống lại tâm tình người nguyên thủy về đối diện với xã hội văn minh. Ông muốn khước từ hết mọi thứ xây dựng êm ấm của xã hội văn minh, muốn trơn trụi gào kêu giữa lạnh lùng vạn vật.
Chúng ta khóc như một bầy thú dữ
Lòng dã man nghe trái đất tan tành.Trái đất chưa tan tành, nhưng liên miên như đang tan tành, vì kể từ nguyên thủy, linh hồn con người và thể xác con người đã nối đuôi nhau tan tành giữa vạn vật. Và mọi cuộc xây dựng chân chính nào của con người, rốt cuộc vẫn như oái oăm góp phần thêm vào mọi thứ tàn phá ở mọi bình diện.
Người thy sỹ thâm cảm sự tình éo le đó trong tuổi xuân xanh, và nỗi phẫn nộ không sao giập tắt được. Không còn tìm đâu ra con đường “phục vụ”. Mọi cố gắng giữa nhân gian, dường như phó thác hết cho diêu mang hỗn độn “giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân…” Thì văn minh, thì đức lý, thì thì thì? Phân biệt thị phi, hư thực thế nào? – “phù dung bên phù thể, cõi nào thực cõi tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì đâu ô trọc?”
Thì tiếng gào thét của con người nguyên thủy trở thành tuyệt đối trắng trợn dã man cho vừa tầm diêu mang của cõi đời hỗn độn:
Ta lảo đảo vùng đứng lên cười ngất
Ghì chặt nàng cho chết giữa mê ly
Rồi dày xéo lên sông núi đô kỳ
Bên thành quách ta ra tay tàn phá
Giữa hoang loạn của lâu đài đình tạ
Ta thản nhiên đi trở lại núi rừng
Một mặt trời đẫm máu xuống sau lưng.Nhưng chỉ có thể thét lời ấy trong thơ, và thét một lần. Rồi ân hận tới. Trong cơn đoạn trường, vị “bạo chúa” kia đã nằm thiêm thiếp khóc. Vì cuộc tàn phá kia, chẳng giải tỏa được gì. “- Giết đi hồn nguyệt hoa chiều? Giết đi cả dáng diễm kiều của xuân?” Tàn phá trong tưởng tượng xong một trận, lại tha thiết nguyện cầu cho nguôi lãng.
Đi vào mộng những Sơn Thần yên ngủ
Em! kìa em! đừng gọi thức hư không
Hãy quỳ xuống đọc bài kinh ái mộ
Hồn ta đây thành tượng giữa Vô Cùng.Toàn tập Mê Hồn Ca, vẳng lên một tiếng thét và một lời than. Tiếng thét của bạo động, của phản kháng, và lời than của ân hận nguyện cầu. Tiếng thét đạt tới chỗ cuồng loạn thống thiết nhất. Lời than cũng thê thảm sâu xa nhất.
Tiếng thét và lời than trầm thống của Đinh Hùng “Sầu trong tà dục, vui ngoài hiện tâm” dội lên song song với Hàn Mạc Tử, mở ra cuốn sổ đoạn trường của con người thế kỷ hai mươi, không còn nơi cư trú. Cuốn sổ đoạn trường mở ra như thế để làm gì? Không biết. Không biết. Nhưng cuộc mở ra nào cũng đi tới một trận khép lại.
Đinh Hùng trong Đường Vào Tình Sử, vốn đã có một lối khép lại của riêng ông sau cái trận Mê Hồn Ca, một lối “Dùng độc dược thử lòng thế tục”. Chúng ta còn có nhiều lối “tịnh hạp” khác. Xin để tùy mỗi người tìm lối riêng của mình.
Ngôn ngữ thơ trong vài thế kỷ này đã nẩy nở sum suê, thiên hình vạn trạng. Hoặc ẩn mật thần bí, hoặc đơn giản như một lời ca dao, thi ca vẫn có sức đưa dẫn người ta vào giữa huyền nhiệm của cuộc sống. Cuộc sống vừa khủng khiếp vừa nên thơ, cuộc sống không thể nào đem ra lý luận một cách máy móc. Luận lý học đã gạt gẫm người ta, người ta thi đua nhau tán dóc. Thằng thy sỹ không thể nào nhảy vào vòng luận lý đú đởn để hơn thua. Nó cảm thấy chán chường khi phải cùng người luận lý bàn luận thị phi. Tha hồ để cho bọn họ mặc sức tán hươu tán vượn, ngấm ngầm dùng mọi thủ đoạn để sát hại thi ca và thằng thy sỹ.
Nhưng thằng thy sỹ có tội lỗi gì đâu. Nó chỉ ghi lại một đường trăng tê dại, vẽ lại một màu tuyết lạnh, ngắt một chùm bông ở trên núi chiêm bao đem về làm tặng vật cho con người được rồ dại chịu chơi giữa chốn phù vân hoặc bụi hồng lông lốc. Mở ra những cuộc tình yêu rờn rợn vô thủy vô chung, o bế những cơn mơ tuyệt vọng, thì kể cũng hơn o bồng hôn hít mãi những con vợ già cục mịch cằn nhằn. Đêm tân hôn chỉ có một lần, buổi ly dị cũng chỉ ra tòa một bận, uống rượu ly bì cũng tới lúc tỉnh ra, chém giết nhau cũng mất công đào huyệt… Chi bằng vớ lấy bài ca mê hồn, thì lúc nào cũng có thể mở trận đảo tứ điên tam, ngang tầm với tứ khuynh ngũ phúc của cuộc thế dâu biển ngục tù. Tuyệt vọng? Thì thà rằng tuyệt vọng với những Kỳ Nữ Chiêm Bao, những Nữ Chúa Thái Cổ, những màu mắt nâu vô ngần của Gái Hải Đảo sơ khai, cũng hơn là tuyệt vọng vì những thiếu phụ đẫy đà ngồi trước quày hàng đếm những đồng tiền dị dạng… Một tay đếm tiền, một tay gãi vào chùm lông nách… thì như vậy còn chi là khói trầm bén giấc mơ tiên? Còn chi là bâng khuâng giải qua miền quạnh hiu? Ôi ông Hồ Dzếnh!
Thơ về nắng sáng lừng lay                        
Gấp đi cánh phượng cho ngày rạng ra           
Cõi trần vẳng tiếng Thiên Nga                        
Thơ không tuổi, ý không già: muôn năm         
Gối lên Bắc Đẩu ta nằm                        
Nghe rung chân lạ, thơ thần mười phương.                                        
(Hoa Xuân Đất Việt)
Hoàng Dục
Theo http://nguoikemon.blogspot.com/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...