Thơ tiền chiến
VŨ ĐÌNH LIÊN
Tên thật là Vũ Đình
Liên. Sinh năm 1913 ở Hà Nội.
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài giời mua bụi bay.
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
HÀN MẶC TỬ
Tên thật Nguyễn Trọng
Trí. Sinh năm 1912 mất năm 1940 quê Quảng Bình.
EM LẤY CHỒNG
Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ
Em lấy chồng rồi hết ước
mơ
Tôi sẽ đi tìm mỏm đá trắng
Ngồi lên để thả cái hồn
thơ
ĐÂY THÔN VĨ DẠ
Sao anh không về nơi chốn
Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng
mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như
ngọc
Lá trúc che ngang mặt chử
điền.
Gió theo lối gió mây đường
mây
Dòng nước buồn thiu, hoa
bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông
Trăng đó
Có chở trăng về kịp tối
nay.
Mơ khách đường xa khách
đường xa
Áo em trắng quá nhìn không
ra
ở đây sương khói mờ nhân
ảnh
ai biết tình ai có đậm đà.
BẺN LẼN
Trăng nằm sóng soải trên
cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không
muốn đọng
Lòng em hồi hộp , chị Hằng
ơi.
Trong khóm vi vu rào rạt
mãi
Tiếng lòng ai nói ?
sao im đi?
Ô kìa bóng nguyệt trần
truồng tăm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy
khe.
Vô tình để gió hôn lên má
Bẻn lẽn làm sao lúc nửa
đêm
Em sợ lang quân em biết
được
Nghi ngờ tới cái tiết
trinh em.
Ở đây sương khói mờ
nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm
đà
NGUYỄN BÍNH
Thuỡ nhỏ tên là Nguyễn
Trọng Bính .Sinh năm 1918 mất năm 1966.Quê Vụ Bản Nam Định.
CẢM TÁC
Thơ suông ,rượu nhạt ,
quán cơm nghèo
Xuân xế mùa xuân xế xế
chiều
Chín hẹn đã sai : mười bạn
quý
Nghìn voi không được một :
người yêu
Bá Nha thuỡ trước còn
Chung Tử
Kim Trọng đời nay hết Thúy
Kiều.
Võng tía tàn vàng đi nườm
nượp
Giũ tà áo vải bụi bay theo
HOA CỎ MAY
Hồn anh như hoa cỏ may
Một chiều cả gió bám đầy
áo em
HÀNH PHƯƠNG NAM
Đôi ta lưu lạc
phương Nam này
Trãi mấy mùa qua én, nhạn
bay
Xuân đến khắp trời hoa
rượu nở
Mà ta vơí người buồn vậy
thay
Lòng đắng sá gì muôn hớp
rượu
Mà không uống cạn mà không
say
Lời thề buổi ấy cầu Tư- Mã
Mà áo khinh cầu không ai
may
Người giam chí lớn vòng
cơm áo
Ta trói thân vào nợ nước
mây
Ai biết thương nhau từ
thuỡ trước
Bây giờ gặp nhau trong
phút giây
Nợ tình chưa trả tròn một
món
Sông dời thua đến trắng
hai tay
Quê nhà xa lắc xa lơ đó
Nghoảnh lại tha hồ mây
trắng bay
Tâm giao mấy kẻ thì phương
Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi buồn lắm mà không
khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu
đầy
Vẫn dám tiêu hoang cho đến
hết
Ngày mai ra sao rồi hãy
hay
Ngày mai sáng lạn màu non
nước
Cốt nhất làm sao tự buổi
nay
Rẫy ruồng châu ngọc thù
son phấn
Mát đỏ lên rồi cứ chết
ngay
Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm
mặt
Giũa chợ ai người khóc
nhận thây
Kinh Kha giữa chợ sầu
nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng kẻ biếu
tay
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giầy cỏ gươm cùn ta đi đây
Ta đi nhưng biết về đâu
chứ
Đã dấy phong yên lộng bốn
trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân
ơi
Thế nhân mắt trắng như
ngàn nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng
cười
Người ơi hề người ơi!
Ngươi sang bên ấy sao mà
lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy
mươi...
QUÁCH TẤN
BÊN SÔNG
Gió rủ canh đi ngàn liễu
khóc
Sông đùa lạnh tới bóng
trăng run...
Thuyền ai tiếng hát bên
kia vẳng
Ghé lại cho nhau gởi chút
buồn
NGÂN GIANG
Tên thật Đỗ Quế Anh
quê quán Hải Dương
HIU QUẠNH
Nhà tôi cách một con
sông trắng
Đi quá đầu ghềnh đã
thấy thôn
Ngoài tiếng chim kêu,
là vắng lặng
Một vài thuyền ghé bến
chiều hôm
Đêm đêm cô lái ra khơi
hát
Tiếng vẵng sông xa,
lặng lẽ chìm...
Tiếng vẵng sông xa ,
trời bát ngát...
Âm thầm tôi lại sống
trong im
(Tri Tân, số 9, 1-8-1941)
NAM TRÂN
Tên thật Nguyễn Học Sĩ
.Sinh năm 1907 quê Đại Lộc Quảng Nam mất ở Hà Nội
NẮNG THU
Hát bài hát ngô nghê và
êm ái,
Bên sườn non, mục tử
cỡi trâu về
Nắng chiều rây vàng bột
xuống dân quê,
Lúa chín đỏ theo gió
nồm sắp mái
Trên suối nhỏ, chiếc
cầu tre hẻo lánh
Tốp người qua, lẩy bẩy
vịnh thanh ngang
Lũ trẻ con sung sướng
nổ cười vang
Đùa với bóng chảy theo
dòng nước lạnh
Dãy núi tím bổng thay
màu xanh ngắt
Rồi ố dần trng giây
khắc nhá nhem
Âm thầm cảnh vật vào
đêm
Vết ráng đỏ, tiếng còi
xa cùng tắt.
THÁI CAN
Tên thật Thái Can .Sinh
năm 1910 Quê Đức Thọ Hà Tĩnh
CẢNH ĐÓ, NGƯỜI ĐÂU
Gặp em thơ thẩn bên vườn
lạnh
Hỏi mãi mà em chẳng trả
lời
Từ đó bắc nam người một
ngả
Bên vườn hoa lạnh bóng
giăng soi
(Những nét đan thanh)
ANH BIẾT EM ĐI...
Anh biết em đi chẳng trở
về
Dặm ngàn liễu khuất với
sương che
Em đừng quay lại nhìn
anh nữa:
Anh biết em đi chẳng trở
về
Em nhớ làm chi tiếng ái
ân
Đàn xưa đã lỡ khúc dương
cầm
Dây loan chẳng đượm tình
âu yếm
Em nhớ làm chi tiếng ái
ân
Bên gốc thông già ta lỡ
ghi
Tình ta âu yếm lúc xuân
thì
Em nên xóa dấu thề non
nước
Bên gốc thông già ta lỡ
ghi
Chẳng phải vì anh, chẳng
tại em
Hoa thu tàn tạ rụng bên
thềm
Ái tình sớm nở chiều
phai rụng
Chẳng phải vì anh, chẳng
tại em
Bể cạn, sao mờ, núi cũng
tan
Tình kia sao giữ được
muôn vàn...
Em đừng nên giận tình
phai lạt:
Bể cạn, sao mờ, núi cũng
tan
Anh biết em đi chẳng trở
về
Dặm ngàn liểu khuất với
sương che
Em đừng quay lại nhìn anh
nữa:
Anh biết em đi chẳng trở
về.
Tên thật là Lê Văn
Bái. Sinh năm 1912 mất trước năm 1945 Quê Nam Trực Nam Định.
BẾN GIÁC
Phù thế đã nhiều duyên
nghiệp quá!
Lệ lòng mong cạn chốn am
Không
Của thiền một đống duyên
trần dứt,
Quên hết người quen chốn
bụi hồng.
HOA BẠC MỆNH
Tháng ba, hoa bạc mệnh
Tàn trước mọi cành xuân
Người đẹp vẫn thường hay
chết yểu;
Thi nhân đầu bạc sớm hơn
ai
Ba xuân, muôn thắm thêu
cành biếc
Bạc mệnh hoa kia đã rụng
rồi!
Héo trước trăm hoa, hoa
bạc mệnh
Đang xuân, để khỏi thấy
xuân tàn
Chúa xuân ví biết tình
hoa thế,
Xin kiếp sau đừng nở thế
gian.
Hồn kết gió hương trời
Nhược thủy,
Cánh viền mây trắng động
thiên thai
Hóa thành những giọt mưa
thơm ấy,
Tưới nở trăm hoa đã héo
rồi!
NGUYỄN ĐÌNH THƯ
Tên thật Nguyễn Đình Thư
.sinh năm 1917 Quê Quảng Điền Thừa thiên Huế.
SANG NGANG
Lòng tôi như chiếc
thuyền nan,
Tình cô như khách sang
ngang một chiều
Thu nào quá đỗi cô
liêu,
Bờ hun hút lạnh nắng
hiu hiu buồn...
Qua rồi thôn cách bến
sương,
Phất phơ áo nhạt mất
đường lau không
Vô tình đâu biết trên
sông
Có người ngang lái còn
trông dõi mình
(Hương màu)
BÀNG BÁ LÂN
Tên thật Bàng Bá Lân. Sinh
năm 1913 mất tại thành phố Hồ Chí Minh Quê Bình Lục Hà Nam
NHÀ DỘT
Bốn bề gió lạnh vào thăm,
Ba gian mưa ướt biết nằm
nơi nao?
Dế ngâm thơ ở khe nào
Bảo cho ta biết ta vào
trú mưa.
1943
T.T. KH
BÀI THƠ ĐAN ÁO
Chị ơi nếu chi đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều
đau thương
Đã xa hẵn quãng đời hương
Đã đem lòng gởi gió sương
mịt mùng
Hay chăng chi mỗi chiều
đông
Đáng thương những kẻ có
chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong
tim
Đan đi đan lại áo len cho
chồng
Con chim ai nhốt trong
lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông
bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu
sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly
tan
Tháng ngày miễn cưỡng em
đan
Kéo dài một chiếc áo lam
cho chồng
Như con chim nhốt trong
lồng
Tháng ngày than tiếc ánh
hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn
xao
Ai đem khóa chết chim vào
lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong
duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời
mỉa mai
Quamg cảnh lạ tháng năm
dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày
mai giật mình
BÀI THƠ CUỐI CÙNG
Anh hởi, tháng ngày
xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một
lòng đau
Ba năm ví biết anh còn
nhớ
Em đã câm lời có nói
đâu
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì ?
Chỉ có ba người được
đọc riêng
Bài thơ đan áo của
chồng em
Bài thơ đan áo nay rao
bán
Cho khắp người đời
thóc mách xem
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng
Từ đây anh hãy bán thơ
anh
Còn để yên tôi với một
mình
Những cánh hoa lòng ,
hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư
vinh
Ngang trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
Buồn nghiêm thờ thẩn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời
Tôi oán hờn anh mỗi
phút giây
Tôi run sợ viết bởi
rồi đây
Nếu không yên được thì
tôi chết
Đêm hỡi làm sao tối
thế này ?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẵng làm quên
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh , anh của em
Tôi biết làm sao được
hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ
không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong
lòng ướt
Sợ quá đi anh , có một
người
“Theo
Thâm Tâm và TTKH của Hoài Việt có đối chiếu với TTKH nàng là ai của Thế Phong”
XUÂN DIỆU
TƯƠNG TƯ, CHIỀU
Bữa nay lạnh mặt trời đi
ngủ sớm
Anh nhớ em,em hỡi! anh
nhớ em
Không gì buồn bằng những
buổi chiều êm
Mà ánh sáng mờ dần cùng
bóng tối
Gió lướt thướt kéo mình
qua cỏ rối
Đêm bâng khuâng đôi miếng
lẫn trong cành
Mây theo chim về dãy núi
xa xanh
Từng đoàn lớp nhịp nhàng
và lặng lẽ
Không gian xám tưởng sắp
tan thành lệ
Thôi hết rồi,còn chi nữa
đâu em!
Thôi hết rồi gió gác với
trăng thềm,
Với sương lá rụng trên đầu
gần gủi.
Thôi đã hết hờn gen và
giận dỗi!
(Được giận hờn nhau sung
sướng biết bao nhiêu!)
Anh một mình, nghe tất cả
buổi chiều
Vào chầm chậm ở trong hồn
hiu quạnh
Anh nhớ tiếng .Anh nhớ
hình.Anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm!
em ơi!
Anh nhớ em của ngày tháng
xa khơi
Nhớ đôi môi đương cười ở
phương trời
Nhớ đôi mắt đương nhìn anh
say đắm
Gió bao lần, từng trận nhớ
thương đi
- Mà kỷ niệm ôi,còn gọi ta
chi...
(Thơ thơ ,in lần thứ hai)
VIỄN KHÁCH
Đương lúc hoàng hôn xuống
Là giờ viễn khách đi
Nước đượm màu ly biệt,
Trời vương hương biệt ly
Mây lạc hình xa xôi
Gió than miền trách móc
Mây ôi và gió ôi!
Chớ nên làm họ khóc
Mắt nghẹn nhìn thâu dạ;
Môi khô hết níu lời...
Chân rời, tay muốn rã...
Kẻ khuất...kẻ trông
vời...
Hôm nào như hôm qua
Má kề trên gối sánh?
Anh đi, đường có hoa...
Tôi nằm trong tuổi lạnh,
Buổi chiều ra cửa sổ;
Bóng chụp cả trời tôi!
- Ôm mặt khóc rưng rức;
Ra đi là hết rồi.
(Thơ thơ ,in lần thứ hai)
ANH THƠ
Tên thật là Vương Kiều Ân.
Sinh năm1919 tại Ninh Giang Hải Dương.
CHIỀU XUÂN
Mưa đổ bụi êm êm trên bến
vắng,
Đò biếng lười nằm mặc
nước sông trôi!;
Quán tranh đứng im lìm
trong vắng lặng
Bên chòm xoan tím rụng
tơi bời.
Ngoài đường đê cỏ non
tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ
vu vơ
Mấy cánh bướm rập rờn
trôi trước gió
Những trâu bò thong thả
cúi ăn mưa.
Trong đồng lúa xanh rờn
và ướt lặng
Lũ cò con chốc chốc vụt
bay ra,
Làm giật mình một cô nàng
yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp
ra hoa
(Bức tranh quê)
Tên thật Bàng Bá Lân. Sinh
năm 1913 mất tại thành phố Hồ Chí Minh Quê Bình Lục Hà Nam
NHÀ DỘT
Bốn bề gió lạnh vào thăm,
Ba gian mưa ướt biết nằm
nơi nao?
Dế ngâm thơ ở khe nào
Bảo cho ta biết ta vào
trú mưa.
1943
HUY CẬN
Tên thật Cù Huy Cận sinh
năm 1919 quê quán huyện Hương Sơn Hà Tĩnh.
TRÀNG GIANG
Bâng
khuâng trời rộng nhớ sông dài
H.C
Sóng gợn tràng giang
buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái
nước song song
Thuyền về nước lại,
sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc
mấy dòng,
Lơ thơ cồn cỏ gió đìu
hiu,
Đâu tiến làng xa vãn
chợ chiều
Nắng xuống, trời lên
sầu chót vót;
Sông dài, trời rộng bến
cô liêu
Bèo dạt về đâu, hàng
nối hàng;
Mênh mông không một
chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút
niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp
bãi vàng
Lớp lớp mây cao đùn
núi bạc,
Chim nghiêng cánh
nhỏ:bóng chiều sa.
Lòng quê dờn dợn vời
con nước
Không khói hoàng hôn
cũng nhớ nhà.
(Lửa thiêng)
VŨ HOÀNG CHƯƠNG
Tên thật Vũ Hoàng Chương
sinh năm 1916.
Quê quán Nam Định học ở
trường Bưởi, trường đại học luật khoa Đông Dương
Mất ở Sài Gòn.
QUÊN
Đã hẹn với em rồi ;
không tưởng tiếc
Quảng đời xưa, không
than khóc gì đâu!
Hãy buông lại gần đây
làn tóc biếc,
Sát gần đây, gần nữa,
cặp môi nâu
Đêm nay lạnh tìm, em
trên gác tối,
Trong tay em dâng cả
tháng năm thừa,
Có lẻ đâu tâm linh còn
trọn lối
Để đi về cay đắng
những thu xưa.
Trên nẻo ấy ,tơi
bời,-em dã biết -
Những tình phai duyên
úa, mộng tan tành.
Trên nẽo ấy ,sẽ từ
muôn đáy huyệt,
Ái ân xưa vùng dậy níu
chân anh.
Không, em ạ ,không còn
can đảm nữa
Không! Nguồn yêu, suối
lệ cũng khô rồi,
Em hãy đốt giùm anh
trong mắt lửa
Chút ưu tư còn sót ở
đôi môi...
Hãy buông lại gần đây
làn tóc rối,
Sát gần đây , gần nữa,
cặp môi điên,
Rồi em sẽ dìu anh trên
cánh khói,
Đưa hồn say về tận
cuối trời Quên.
(Thơ
say)
Sóng dậy đìu hiu biển
dấy sầu
Lênh đênh thương nhớ
dạt trời Âu
Thôi rồi tay nắm tay
lần cuối
Chia nẽo giang hồ vĩnh
biệt nhau
Trai lỡ phong vân gái
lỡ tình
Này đêm tri ngộ xót
điêu linh
Niềm quê sực thức lòng
quan ải
Giây phút dừng chân
cuộc viễn trình
Tóc xõa tơ vàng nệm
gối nhung
Đây chiều hương ngát
tõa hoa dung
Sóng đôi kề ngọn đèn
hư ảo
Mơ kiếp nào xưa đã vợ
chồng
Quán rượu liền đêm
chuốc đắng cay
Buồn mưa trăng lạnh
nắng hoa đầy
Nắng mưa đã trải tình
nhân thế
Lưu lạc sầu chung một
hướng say
Gặp gỡ chừng như
chuyện Liêu Trai
Ra đi chẳng hứa một
ngày mai
Em ơi lửa tắt bình khô
rượu
Đời vắng em rồi say
với ai
Phương Âu mờ mịt lối
quê nàng
Trăng nước âm thầm vạn
dậm tang
Ghé bến nào đây người
hải ngoại
Chiều sương mặt bể có
mơ màng
Tuyết xuống phương nào
lạnh lắm không
Mà đây lòng trắng một
mùa đông
Tương tư nối bước thâu
canh đợi
Thoảng gió trà mi động
mấy bông
(Mây)
ĐOÀN PHÚ TỨ
Tên thật Đoàn Phú Tứ sinh
năm 1920 tại Hà Nội . Đã đậu Tú Tài Pháp. Ông theo kháng chiến một
thời gian rồi về Hà Nội dạy học.
Tác phẩm: Mơ Hoa (Kịch),
Ngã ba (Kịch), Nhà búp bê (Kịch dịch...)
Mất ở Hà Nội
MÀU THỜI GIAN
Sớm nay tiếng chim xanh
Trong gió xanh
Dìu vương hương ấm
thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa
,Tân phi
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất
nhuốm thời gian
Màu thời gian không
xanh
Màu thời gian tím ngắt
Hương thời gian không
nồng
Hương thời gian thanh
thanh
Tóc mây nón chiếc dao
vàng
Nghìn trùng e lệ phụng
quân vương
Trăm năm tình cũ lìa
không hận
Thà nép mày hoa thiếp
phụ chàng
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thủa còn vương
Hương thời gian thanh
thanh
Màu thời gian tím gắt
(Ngày
nay)
HUYỀN KIÊU
Tên thật Bùi Lão Kiều
sinh năm 1915 quê quán Ứng Hòa Hà Đông
TƯƠNG BIỆT DẠ
Hiu hắt trăng khuya
lạnh bốn bề
Ly sầu lên vút tới sao
Khuê
Quý thay giây phút gần
tương biệt
Vương vấn người đi với
kẻ về
Ngồi suốt đêm trường
không nói năng
Ngậm ngùi chén rượu ánh
vầng trăng
Người xưa lưu luyến ra
sao nhỉ?
Có giống như mình lưu
luyến chăng?
Đã tắt lò hương, lạnh
phím đàn
Thư phòng sắp sẵn để cô
đơn
Trời cao , mây nhạt,
ngàn sao rụng
Một giải sương theo vạn
dặm buồn
Sớm biệt ly nhau không
nhớ nhau
Nữa đêm chợt tỉnh bỗng
dưng sầu
Trăng mùa xuân đó ai
tâm sự?
Anh đã xa rồi , anh
biết đâu?
1939
LƯU TRỌNG LƯ
Tên thật Lưu Trọng Lư.
Sinh năm 1912. Quê quán Bố Trạch Quảng Bình
Học ở quê rồi vào học
thành chung Huế. Dạy học, viết sách. Tham gia cách mạng
Mất ở Hà Nội năm 1992
NẮNG MỚI
Mỗi lần nắng mới hắt bên
song
Xao xác, gà trưa gáy não
nùng,
Lòng rượi buồn theo thời
dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những
ngày không
Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi
lên mười;
Mỗi lần nắng mới reo
ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước dậu
phơi.
Hình dáng mẹ tôi, chữa
xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc
vào ra:
Nét cười đen nhánh sau
tay áo
Trong ánh trưa hè trước
dậu thưa.
(Tiếng
thu)
CÒN CHI NỮA
Giờ đây hoa hoang dại
Bên sông, rụng tơi bời
Đã qua rồi cơn mộng
Đừng vỗ nữa tình ơi!
Lòng anh đà rơi rụng
Trên sông ngày tàn rơi
Tình anh đà xế bóng
Còn chi nữa em ơi?
Còn đâu ánh trăng vàng
Mơ trên làn tóc rối?
Chân nâng trên đường sỏi;
Sương lá đổ rộn ràng.
Trăng nội vẫn mơ màng
Trên những vòng tóc rối?
Đêm ấy xuân vừa sang,
Em vừa hai mươi tuổi.
Còn đâu những giờ nhung
lụa:
Mộng trùm trên bông
Tình ấp trong gối
Rượu tân hôn không uống
cũng say nồng?
Còn đâu mùi cỏ lạ
Ướp trong mớ tóc mây?
Một chút tình thơ ngây
Không còn trên đôi má
(Tiếng
thu)
CHIỀU CỔ
Chiều sương, rừng tía, lệ
tuôn hàng
San sát ghe đầy bến Trúc
lang
Cây, nước, say theo người
tráng sĩ;
Con đò quên cả chuyến
sang ngang.
(Tiếng thu)
KHI THU LÁ RỤNG
Em có bao giờ nói với anh
Những câu tình tứ thuỡ
ngày xanh
Khi thu lá rụng bên hè
vắng
Tiếng sáo ngân xa vẵng
trước mành
Em có bao giờ nghĩ tới
anh
Khi tay vin rủ lá trên
cành?
Cười chim ,cợt gió, nào
đâu biết
Chua chát lòng anh biết
mấy tình?
Lòng anh như nước hồ thu
lạnh
Quạnh quẽ đêm soi bóng
nguyệt tà
Ngày tháng anh mong chầm
chậm lại
Hững hờ em mặc tháng ngày
qua...
Mùa đông đến đón ở bên
sông
Vội vã cô em đi lấy chồng
Em có nhớ chăng ngày hạ
thắm
Tình anh lưu luyến một
bên lòng?
NGỰA SAY
Ước gì ta có ngựa say
Con sông bên, ấy bên này
của ta
Ta say ngựa cũng la đà
Trời cao xuống thấp , núi
xa lại gần
Ta say ngựa cũng tần ngần
Trên lưng ta quảy một
vầng giai nhân
TIẾNG THU
Em không nghe mùa thu
Dưới trwang mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe mùa thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp lên lá vàng khô?
(Tiếng
thu)
HỒ DZẾNH
Tên thật Hà Triệu Anh.
Sinh năm 1919 ở Việt Nam.
Quê quán Quảng Đông Trung
Quốc. Cha người Trung Quốc, Mẹ người Việt Nam.
Tiếng Quảng Đông đọc Hà
Triệu Anh là Hồ Síu Dính, bỏ chữ đệm đọc thành Hồ Dzếnh
Làm thơ, viết báo ở Hà
Nội, Sài Gòn.
Mất ở Hà Nội.
CHIỀU
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong
mây
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều
nay?
Tôi là người lữ khách
Mầu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên
cây...
NGẬP NGỪNG
Em cứ hẹn nhưng em đừng
đến nhé
Để lòng buồn tôi dao
khắp trong sân
Ngó trên tay thuốc lá
cháy lui dần
Tôi nói khẻ: ôi, làm
sao nhớ thế!
Em cứ hẹn nhưng em đừng
đến nhé.
Em tôi ơi, tình có
ngjiax gì đâu
Nếu là không lưu luyến
buổi sơ đầu
Thuỡ ái ân mong manh hơn
nắng lụa
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ
cây lần lữa
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ
vui tươi
Chỉ ngày mai mới đẹp,
ngày mai thôi
Em cứ hẹn nhưng em đừng
đến nhé
Tôi sẽ tránh , cố nhiên
, nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi em hãy gắng
quay về
Tình mất vui khi đã vẹn
câu thề
Đời chỉ đẹp khi còn dang
dở
Thơ viết đừng xong,
thuyền trôi chớ đỗ
Cho ngàn sau lơ lững với
ngàn xưa
VĂN CAO
Tên thật Nguyễn Văn Cao.
Sinh ngày 25-11-1923 tại Hải Phòng
Quê quán huyện Vụ Bản Tỉnh
Nam Định.
Là nghệ sĩ đa tài những
tác phẩm nổi tiếng: Thiên thai, Trương Chi, Suối mơ, Đàn chim Việt, Làng tôi, Bắc Sơn, Trường ca Sông Lô, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam là tác giả
bài Tiến Quân Ca.
AI VỀ KINH BẮC
Có ai cưỡi ngựa về Kinh
Bắc
Toi gởi nhờ đem hộ lá
thư?
Trời hỡi! ốm nằm trong
quán trọ
Bạn bè còn lại mấy bài
thơ...
Trông qua song cửa: trời
vàng úa
Mấy lá bàng rơi nhắc nhở
thu!
Chiều ốm cũng đang chầm
chậm xuống
Sương mù chìm lấn lá vàng
thưa.
Hỡi người cưỡi ngựa về
Kinh Bắc
Tôi gửi thư đưa hộ mẹ già
Cố thét song lời tôi yếu
quá
Ngựa đều chân chạy, nhạc
càng xa
14-10-1941
ĐÊM MƯA
Sông chầm chậm chảy trong
mưa
Nghe chừng cô gái đã thưa
mái chèo
Mưa trong trăng tiếng nhỏ
đều...
Bến mờ mịt : mấy mái lều
bơ vơ
Thuyền vào nằm ngủ trong
ưa
Trên con sông vắng lập lờ
bóng trăng.
Khuya rồi ốc rục trong
làng
Thuyền ai vơ vẫn trôi
sang bến này.
Thu 1941
Nẩy nẩy tơ đồng nhịp nhịp
trôi
Lòng nâng ngòn ngọt lại
đầu môi
Này em hát khúc tương tư
nhé
Ngâm khẻ em ơi nhẹ nhẹ
lời
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Sao đàn u hoài gì mùa thu?
Tri âm nghe thử dây đồng vọng
Lạc lõng đêm vàng khi nhạc ru
Như Tử Kỳ nghe nhạc Bá
Nha
Em nghe anh dạo khúc thu
xa
Thuyền xuôi về bến mô
thuyền hỉ
Sông trắng bờ xa lộ bóng
nhà
Giọng hát sầu chi phấn nữ ơi
Từng canh trời điểm một sao rơi
Tà tà trăng lặn hiu hiu gió
Ánh lủa chài xa thấp thoáng trôi
Tay nhấn tơ chùng đã
ngấm sương
Hò ngân cung Bắc lướt
cung Thương
Dòng Tiêu Kim Thủy * gà
xao xác
Ngẩng thấy kinh kỳ khói
vấn vương
Em cạn lời thôi anh dứt nhạc
Biệt ly đôi phách ngó đàn tranh
Một đêm đàn lạnh trên sông Huế
Ôi nhớ nhung hoài vạt áo xanh.
- Tiêu Kim Thủy: một tên gọi khác của sông Hương
BÍCH KHÊ
Tên thật là Lê Quang
Lương. Sinh năm 1916 ,quê Quảng Ngãi xuất thân trong gia đình giòng giỏi thư
hương. Tác phẩm: Mấy dòng thơ cũ, Tình huyết (1939), Tinh hoa (Còn có tên là
Đẹp hoặc Ngũ hành sơn di cảo). Mất năm 1946.
HIỆN HÌNH
Gió thiệt đa tình hôn
mặt hoa
Thơm tho mùi thịt bắt
say ngà!
Gió đi chơi với trong
khung trắng
Lộ nửa vần thơ nửa
điệu ca
Tôi ráp lại xem. Ô sự
lạ!
Một người thiếu nử
hiện trong trăng
Khăn hồng chùi lệ ngấn
đôi mắt
Da thịt phô bày ý
tuyết băng.
Nường hé môi ra. Bay
điệu nhạc
Mắt như xuân mà ngọt
tợ hương
Ôi sao là khúc ba sinh
lụy
Rào rạt như đầy nỗi
cảm thương!
Tiếng ngọc, màu trăng
quấn quýt nường
Phút giây người bộ
mỏng như sương
Nường tan ra nhạc? Tan
ra nhạc!
Khung trắng trời mây
trắng lạ thường!
(Tinh huyết 1939)
CHẾ LAN VIÊN
Tên thật là Phan Ngọc Hoan
sinh năm 1920. Quê quán Bình Định . Mất năm 1989
ĐÊM TÀN
Ta cùng nàng nhìn nhau
không tiếng nói
Sợ lời than lay đổ cả đêm
thâu,
Đôi hơi thở tìm nhau trong
bóng tối,
Đôi linh hồn chìm đắm bể U
Sầu.
“_Chiêm nương ơi, cười lên
đi em hỡi!
Cho lòng anh quên một chút
buồn lo!
Nhìn chi em chân trời xa
vời vợi,
Nhớ chi em sầu hận nước
Chàm ta?
Này, em trông một vì sao
đang rụng;
Nay nghiêng mình mà tránh
đi, nghe em!
Chắc có lẽ linh hồn ta lay
động
Khi vội vàng trở lại nước
non Chiêm”.
Lời chưa dứt, bóng đêm đà
vụt biến!
Tình chưa nồng, đã sắp
phải phôi pha!
Trên trần gian vâng ô kia
đã đến
Gỡ hồn nàng ra khỏi mảnh
hồn ta!
(Điêu
tàn)
XUÂN
Tôi có chờ đâu có đợi đâu;
Đem chi xuân lại gợi thêm
sầu?
- Với tôi tất cả như vô
nghĩa,
Tất cả không ngoài nghĩa
khổ đau!
Ai đâu trở lại mùa thu
trước
Nhặt lấy cho tôi chút lá
vàng?
Với của hoa tươi, muôn
cánh rã,
Về đây, đem chắn nẻo xuân
sang!
Ai biết hồn tôi say mộng
ảo
Ý thu góp lại cản tình
xuân?
Có một người nghèo không
biết Tết
Mang lì chiếc áo đọ thu
tàn!
Có đứa trẻ thơ không biết
khóc
Vô tình bỗng nỗi tiếng
cười ran!
Chao ôi! mong nhớ! Ôi mong
nhớ
Một cánh chim thu lạc cuối
ngàn
(Điêu
tàn)
YẾN LAN
Tên thật là Lâm Thanh Lang
cũng có tên là Xuân Khai sinh năm 1918. Quê quán An Nhơn Bình Định.
Tác phẩm: Những ngọn đèn
(Thơ), Tôi hát tôi yêu (Thơ), Lẵng hoa hồng (Thơ), THơ Yến Lan, Cầm chân hoa
(Thơ)
BẾN MY LĂNG
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách
Rượu hết rồi,ông lái
chẳng buông câu
Trăng thì đầy rơi vàng
trên mặt sách
Ông lái buồn để gió
lén mơn râu.
Chở mãi hồn lên tắm
bến trăng cao
Vì đìu hiu, đìu hiu
trời tỉnh mịch,
Trời võ vàng trời
thiếu những vì sao.
Trôi quanh thuyền,
những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời, nhưng
chỉ rải trăng trăng.
Chiều ngui ngút dài
trôi về nẻo
quạnh
Để đêm buồn vây phủ
bến My Lăng
Nhưng đêm kia đến một
chàng kỵ mã
Nhúng đầy trăng màu áo
ngọc lưu ly,
Chàng gọi đò, gọi đò
như hối hả
Sợ trăng vàng rơi
khuất lối chưa đi
Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách
Để thuyền hồn trôi
khỏi bến My Lăng.
Tiếng gọi đò gọi đò
như oán trách,
Gọi đò thôi run rẩy cả
nghành trăng
Bến My Lăng còn lạnh
bến My Lăng
Ông lái buồn đợi khách
đến bao trăng.
(Bến
My Lăng)
TẾ HANH
Tên thật Trần Tế Hanh sinh
năm 1921. Quê quán Quảng Ngãi
VU VƠ
Những ngày nghỉ học tôi
hay tới
Đón chuyến tàu đi, đến
những ga.
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn
biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi
chia xa
Tôi thấy tôi thương những
chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi
mau
Có chi vương víu trong
hơi máy,
Mấy chiếc toa đầy nặng
khổ đau
Bánh nghiến lăn lăn quá
nặng nề
Khói phì như nghẹn nỗi
đau tê;
Lâu lâu còi rúc nghe rền
rĩ:
Lòng của người đi kéo kẻ
về
Kẻ về không nói bước
vương vương…
Thương nhớ lan xa mấy dặm
trường
Lẽo đẽo tôi về theo bước
họ,
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ muôn
phương.
(Nghẹn
ngào)
THÂM TÂM
Tên thật là Nguyễn
Tuấn Trinh sinh năm 1917 tai thị xã Hải Dương
Viết nhiều thể loại
thơ, truyện, kịch
Mất vì bệnh ở Việt Bắc.
TỐNG BIỆT HÀNH
Đưa người ta không đưa
qua sông
Sao có tiếng sóng ở
trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hàng hôn trong
mắt trong?
Đưa người, ta chỉ đưa
người ấy
Một giã gia đình, một
dửng dưng…
- Ly khách! ly khách!
Con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn
tay không
Thì không bao giờ nói
trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng
mong
Ta biết người buồn
chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở
nốt
Một chị hai chị, cũng
như sen
Khuyên nốt em trai
dòng lệ sót
Ta biết người buồn
sáng hôm nay
Trời chưa mùa thu,
tươi lắm thay
Em nhỏ ngây thơ đôi
mắt biếc
Gói tròn thương
tiếc chiếc khăn tay…
Người đi? Ừ nhỉ, người
đi thực!
Mẹ thà coi như chiếc
lá bay
Chị thà coi như là hạt
bụi
Em thà coi như hơi
rượu say* 1940
* Theo lời bác Phạm
Quang Hòa thì bài này còn có một khổ cuối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét