Lê Minh Quốc và
cuộc hành trình chữ nghĩa Hồi mới chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh sống, tôi có ý
định gặp gỡ kết giao với một số anh em bạn văn người miền Nam, nghĩ chơi với họ
khả năng hội nhập của mình sẽ tốt hơn. Nhắc đến Lê Minh Quốc, ai đó bảo:
“Tay ấy khó chơi. Để có hộ khẩu thành phố, hắn đã yêu và cưới con gái ông Giám
đốc Công an. Cưới xong, nhập khẩu xong, trở thành công dân Thành phố Hồ
Chí Minh rồi hắn liền trở cờ, ly dị ngay con nhà người ta…” Ờ, người như thế
thì ghê gớm và cũng khó chơi thật. Tôi “ấn tượng” với Quốc từ đó.
Thế rồi trong một lần ra Hà Nội, Nguyễn Trọng Tạo nhờ tôi
chuyển cho Quốc mấy cuốn sách. Trở vào, dù không muốn tôi cũng phải đến gặp anh
để đưa tận tay. Thấy anh niềm nở chuyện trò, tôi lựa lời hỏi về lời đồn nghe dạo
nào. Quốc ngớ người: “Đâu có, vợ tôi con nhà bình dân, chẳng dính dáng gì tới
công an công iếc nào hết…”. Nhà thơ Lê Minh Quốc
Quả vậy. Nhưng Quốc cưới vợ lần đầu năm nào nhỉ? Khi
tôi hỏi, anh thú thật không nhớ. Rồi lại cưới. Rồi lại chia tay và hiện nay như
anh tự nhủ là vẫn: “Đi không ai nhớ/ Về chẳng ai mong/ Xa không ai đợi/ Gần chẳng
ai trông/ Mình tôi một bóng/ Sống phải phân tâm/ Vừa đóng vai vợ/ Lại diễn vai
chồng”. Tự trách mình đã quá hồ đồ, từ đó tôi có ý tìm hiểu thêm về Quốc, mới
thấy lời đồn ác ý.
Khó chơi sao được khi một người mê chữ nghĩa, ra đường hễ thấy
ở đâu có bán sách báo cũ là hăng hái lục tìm. Một lần đi qua mấy bà ve chai,
theo thói quen, anh dừng xe sà xuống xem có sách báo cũ gì hay bán không.
Thấy trước mắt là những bộ Bách Khoa đóng bìa cứng nằm ngổn ngang. Anh
mừng rú như bắt được vàng. Sờ tay vào túi quần, có tiền. Hỏi mua. Bà bán ve
chai bảo đã có người mua, nhưng do không đủ tiền nên ổng mới đặt cọc, chút nữa
sẽ quay lại lấy. Quốc choáng váng, tiếc hùi hụi. “Cậu trả hơn tiền thì tôi bán
cho cậu” - Bà ve chai gợi ý. Dù có trả cao hơn mấy lần, “số vàng
Bách Khoa” kia vẫn rẻ rề, anh vẫn đủ sức. Nhưng “cuộc đời như cái chăn hẹp,
người này co thì người khác hở” (Nam Cao). Mình vui ắt người kia buồn, anh đành
ngậm ngùi chạy xe đi và tự trách mình không có duyên.
Khó chơi sao được khi sinh thời bà chị ruột của anh ở Đà Nẵng,
tính mở tiệm cầm đồ, anh kiên quyết ngăn lại. “Chị thiếu tiền em cho chị tiền,
nhưng không được kiếm sống bằng cái nghề quái quỷ đó!” Chả là mấy năm học
đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Minh Quốc ở trọ cạnh một tiệm cầm đồ,
đôi lúc túng quá cũng cầm vài bộ quần áo, rồi chuộc lại, có khi bỏ luôn. Lúc
mình ngặt họ tha hồ chê ỏng chê eo, chỉ cho vay bằng 1/10 giá trị đồ của mình.
Biết thế, nhưng nhiều người nghèo trong cơn túng quẫn cũng phải đâm đầu vào,
nghĩ mà thương. Cuối cùng bà chị phải nghe theo, quay qua kinh doanh quần áo
cũ.
Khó chơi sao được với một người cất công vào Thư viện Trường
Đại học Khoa học và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh hì hụi lục tìm Gia
Định báo rồi photocppy lại sau đó đóng thành tập. Để thỏa mãn thú “chơi
sách” của mình? Không phải. Để nghiên cứu? Không phải. Để biết đâu sau này có
người cần nghiên cứu thấu đáo, cần tiếp cận cụ thể từng văn bản thì tặng lại…
Thế đấy, Lê Minh Quốc tính bác ái, giàu tình thương. Một người
như thế, không bao giờ là kẻ khó chơi. Nhưng chơi với anh… thật khó! Vì anh có
chơi bời gì đâu. Ngày nào cũng như ngày nào, kể cả chủ nhật, ngày nghỉ: buổi
sáng thức dậy ngồi trước bàn phím, nhâm nhi ly cà phê và viết. Viết như một
thói quen, không đợi cảm hứng. Không cà phê ngoài quán, sợ mất thời gian. Sáng
nào bận họp thì rời nhà sớm, còn không cứ lặng lẽ viết một lèo đến chừng 9 hoặc
10 giờ, rồi đi ăn sáng, vào cơ quan. Chiều thức giấc lại ngồi trước máy tính,
tiếp tục viết. Hôm nào có hẹn hò lai rai thì 17 giờ tắt máy, còn không cứ viết
tiếp đến 19 giờ, sau đó mới cơm nước, khoảng 21 giờ đi nghỉ. “Một ngày của anh
mưa nắng đã lập trình/ phải chạy đua cùng khoảnh khắc bình minh/ mười ngón tay
gõ phím/ mười ngón tay quen đếm/ bao nhiêu niềm vui lọt xuống sàn nhà…”
Vì cố gắng suốt ngày chỉ làm mỗi việc viết nên Lê Minh Quốc
viết được thật nhiều. Lấy năm 1989, năm Quốc ra tập thơ đầu tay Trong cõi
chiêm bao (Nxb Trẻ) làm mốc, đến nay anh đã viết và in 11 tập thơ; 6 tập
truyện dài, 6 tiểu thuyết; 11 tập tùy bút; 8 tập biên soạn. Tổng cộng 42
cuốn. Chưa kể cỡ ngàn bài báo Quốc viết in trên báo Phụ Nữ Thành
phố Hồ Chí Minh và các báo khác.
Hỏi, chữ nghĩa đâu mà ông viết nhiều như vậy? Lê Minh Quốc cười.
Đây cũng là điều đôi lúc anh tự hỏi, và ngạc nhiên chẳng biết làm sao chữ nghĩa
trong đầu ở đâu ra nhiều thế? Nhiều đến bao nhiêu? Không thể biết. Cứ buổi sáng
buổi chiều đúng theo thời khóa biểu, theo thói quen, ngồi vào bàn là viết.
Thong thả. Tự tại. Viết mãi. Viết hoài. Viết từ ngày này qua ngày nọ. Như con
suối cứ tuôn chảy trên dòng thời gian. Một ngày không viết tự dưng thấy nhớ. Thấy
một ngày trôi qua vô ích quá, chẳng làm được cái gì nên hồn cả. Có hôm vừa tắt
máy đi nghỉ, bỗng nhận được một cú điện thoại từ Hà Nội gọi vào: “Anh ơi,
viết giúp em bài báo”. “Bao nhiêu chữ?”. “2.500 chữ”. “Bao giờ lấy”. “Hai tiếng
đồng hồ nữa, 19 giờ lấy nhé anh!”. “Không thể chậm hơn à?” “Không thể…”. “Ok!”.
Ok xong mới thấy mình nhẹ dạ, liều. Nhưng đã trót đành phải trét, lại mở máy ngồi
viết. Rồi cũng xong.
Với những bài báo lẻ thì như vậy, mà với những tiểu thuyết
đòi hỏi sự dụng công lâu dài anh làm cũng thật nhẹ nhàng. Năm 1994, trong một lần
đến thăm thầy Trần Hữu Tá tại nhà riêng, chuyện trò, thầy cho biết chị Đỗ Thị
Phấn - Giám đốc Fahasa và nhà văn Hoàng Lại Giang - Trưởng chi nhánh NXB Văn học
tại Thành phố Hồ Chí Minh đang thực hiện Tủ sách Truyện danh nhân. Thầy gợi ý:
“Lê Minh Quốc nên nhận lời viết về một nhân vật lịch sử mà mình hằng ngưỡng mộ”.
Lập tức trong ký ức của anh hiện lên hình ảnh lãnh tụ Quốc dân đảng Nguyễn Thái
Học. Chao ôi! Còn gì hấp dẫn tuổi trẻ hơn hình ảnh một nhà cách mạng lúc bước
ra pháp trường còn ngẩng đầu lên đọc thơ. Những câu thơ “Chết vì Tổ quốc/ Cái
chết vinh quang/ Lòng ta sung sướng/ Trí ta nhẹ nhàng” của Nguyễn Thái Học bỗng
quay về tâm trí của anh lúc ấy. Được thầy Tá ứng nhuận bút, trên đường về Quốc
liền ghé qua chợ sách cũ nằm trên đường Nguyễn Thị Minh Khai, dốc hết ra để mua
tài liệu liên quan đến nhân vật. Do khúc ngoặt của lịch sử, rất nhiều người ngại
viết về tổ chức Quốc dân đảng. Nhưng điểm son, mặt tích cực của nó thì không thể
phủ nhận. Đánh giá sự vật phải đặt nó trong hoàn cảnh lịch sử đương thời, vậy mới
là khoa học. Đoan chắc thế nên anh càng quyết tâm. Nửa năm sau, ngày 26.11.1994
nhà văn đặt dấu chấm cuối cùng cho tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Thái Học. Năm
1995 sách in ra, phát hành, lập tức được nhiều báo, trong đó có báo Nhân
Dân (số ra ngày Chủ nhật 9.6.1996) giới thiệu rất trân trọng. Được đà, những
năm sau đó hàng loạt tiểu thuyết, truyện lịch sử của nhà văn Lê Minh Quốc
như Tướng quân Hoàng Hoa Thám (1996), Nguyễn An Ninh - dấu ấn để
lại (1997), Chiến tướng Tôn Thất Thuyết (2003), Bạch Thái
Bưởi - khẳng định doanh tài đất Việt (2007) ra đời.
Viết tiểu thuyết lịch sử, tái hiện chân thực, sinh động không
khí lịch sử của đất nước một thời là rất quan trọng, nhưng quan trọng hơn theo
tôi, qua đó, đưa ra được những kiến giải thấu đáo. Đọc tiểu thuyết lịch sử của
Lê Minh Quốc, thấy tác giả đã làm được điều này khi cho thấy rõ một điều, chính
từ khởi nghĩa Yên Bái, nhà cầm quyền Pháp nhận ra rằng, từ đây họ phải đối đầu
với đường lối đấu tranh mới, khác hẳn trước đó. Nghĩa là, một dân tộc nô lệ đã
có một chính đảng chỉ đạo và tổ chức, chứ không chỉ lệ thuộc vào vai trò của một
cá nhân. Điều này khác hẳn với Tướng quân Hoàng Hoa Thám, cuộc kháng chiến của
ông là sự nối dài của phong trào Cần Vương. Khởi nghĩa Yên Thế kéo dài ròng rã
30 năm, năm 1913 khi lãnh tụ Đề Thám qua đời, nó hoàn toàn chấm dứt. Vì thế, có
thể lấy năm 1913 - năm mất của Hùm thiêng Yên Thế làm năm kết thúc lời
kêu gọi của vua Hàm Nghi (1885) khi nghiên cứu lịch sử đất nước giai đoạn này…
Viết nhanh, viết nhiều mà không ẩu, không qua loa đại khái.
Có lần chỉ một chữ “đánh hôi” thôi mà Quốc phải tìm mãi, hết tra Đại Nam
quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Paulus Của, Việt Nam tự điển của Hội
Khai Trí Tiến Đức, Từ điển Tiếng Việt của Hội Ngôn ngữ học Việt Nam.
Vẫn chưa yên tâm. Mãi tới khi đọc hồi ký của ông Nguyễn Long Trảo, con rể cụ Ca
Văn Thỉnh. Trong hồi ký, ông Trảo kể về quy ước tát đìa ở Nam bộ hồi trước, mỗi
con cá khi vọt ra phía sau là đã thuộc về quyền sở hữu của những con hôi lúc
nhúc bám theo sau, chủ nhà không được tiếc của mà quay lại bắt… Đọc xong vỗ đùi
đánh đét, suy luận, “con hôi” trong ngữ cảnh trên là từ “hôi” mà có. “Hôi” có
nghĩa là mót, nhặt bắt những thứ sót lại; dần dần “hôi” mang nghĩa xấu như hôi
của, đánh hôi… Lúc thấy mình đã tìm ra nguyên nghĩa chữ đánh hôi, kẻ mê chữ Lê
Minh Quốc mới có thể yên tâm kê cao gối ngủ.
Người như thế mà bị báo Tuổi trẻ từ chối với “Lý do: qua
tám tháng thử việc, không thể hiện được hướng phát triển trong công việc làm
báo”thì cũng lạ. Nhưng cái gì cũng có nguyên nhân của nó. 8 tháng thử việc ở
báo Tuổi Trẻ (7/9/1987 - 1/5/1988), đáng lẽ phải đi cơ sở viết bài phản
ánh thời sự thì Quốc lại “đi thực tế”ngay trong thư viện báo nhà, nơi lưu trữ
khá nhiều sách báo in ấn phát hành ở miền Nam trước năm 1975. Mang theo thói
quen của những năm học đại học, ngày đầu tiên của quá trình thử việc, đến báo,
Quốc đánh hơi ngay ra thư viện, và khi đã Ơreka rồi thì mê quá. Từ đó mỗi
ngày vào cơ quan, anh lại chui tọt vào đó lục lọi, tìm đọc tất tần tật. Có những
buổi trưa còn ngủ luôn trong thư viện. Nên việc cuối cùng Quốc bị báo Tuổi Trẻ
từ chối thì cũng đích đáng thôi. Nhưng việc anh sau đó nhanh chóng tìm ra
nơi dung mình - báo Phụ Nữ TP.HCM - thì phải gọi là duyên. Đúng là
duyên thật.
Trong quá trình khởi động đi xin việc nơi khác khi rời
khỏi báo Tuổi Trẻ, một buổi sáng đẹp trời năm 1989, Quốc qua
báo Thanh Niên theo lời hẹn của Tổng Biên tập Nguyễn Công Khế, người
từng có thời gian ở tù chung với ba anh tại nhà lao Đà Nẵng. Trên đường đi bỗng
dưng gặp nhà báo Thanh Bình ngay trước cổng báo Phụ Nữ. Anh Thanh
Bình gọi anh vào tòa soạn ngồi chơi uống trà. Qua trò chuyện, biết Quốc đang đi
xin việc, Thanh Bình gợi ý nên xin về báo Phụ Nữ. Chần chừ, chưa biết trả
lời sao, lúc ấy chị Tổng biên tập Thế Thanh đi ngang qua, biết chuyện chị cũng
hiệp lời. Thế là Quốc đành lỗi hẹn với anh Nguyễn Công Khế mà “… bưng thúng
theo đàn bà/ ra chợ bán văn…” (*) từ bấy đến nay.
Làm phóng viên báo Phụ Nữ thành phố, Lê Minh
Quốc ký nhiều bút danh nữ, trong đó có bút danh Huyền Sương. Một lần, một bạn đọc
râu hùm, hàm én xộc vào tòa soạn tìm nữ phóng viên Huyền Sương! Lê Minh Quốc buộc
phải ra tiếp khách. Sau một hồi khen ngợi những bài viết của Huyền Sương, anh
ta ngỏ ý muốn gặp nữ phóng viên này. Lê Minh Quốc đáp: “Cô ta đi vắng. Anh
có nhắn lại gì không? Tôi sẽ chuyển giúp”. Sau một hồi suy nghĩ, người bạn đọc
lấy từ trong túi áo ra một cánh hoa hồng và một lá thư tỏ tình nhờ Quốc chuyển
giúp. Lê Minh Quốc hoảng quá, nhưng không thể không nói rõ với anh ta sự thật.
Sau ba lần uốn lưỡi, Quốc nén tiếng thở dài: “Thưa anh, tôi chính là phóng viên
ký tên Huyền Sương”. Vị khách nghe vậy sửng sốt đứng bật dậy, một đi không trở
lại. Những chuyện dở khóc dở cười như thế trong nghề báo còn trở lại với anh
thêm một vài lần nữa.
Đọc nhiều, đời sống ít nếm trải. Vốn liếng để làm nên những
cuốn sách của Lê Minh Quốc chủ yếu tìm trong sách vở và đào sâu vào bản thể
mình. Nếu Nguyễn Trí được coi là một nhà văn thành công nhờ có vốn sống thực tế
dồi dào, Lê Minh Quốc ngược lại, thành công nhờ học và đọc. Cuộc đời anh, trừ 6
năm (1977 - 1983) đi bộ đội chiến đấu trên chiến trường Kampuchia, bị quân Pol
Pot bắt rồi được ta giải thoát; sa vào bẫy mìn của địch mà không chết vì cái
kíp mìn địch cài ngược là ác liệt, còn lại đều thanh bình. Nhà văn đã qua trận
mạc, nhiều người lấy đó làm chất liệu vàng để viết văn xuôi. Lê Minh Quốc làm
ngược lại, những năm hành quân đánh giặc trên chiến trường K, cảm xúc anh dành
dành trọn cho thơ, còn chất liệu cho hàng loạt văn xuôi của mình (như đã nói)
anh lấy từ nguồn khác. Quốc có thơ in báo từ năm 14 tuổi, từ đó thơ trở
thành môi trường sống của anh. Đời sống chiến trường, thiếu thốn đủ thứ, Lê
Minh Quốc làm thơ và ghi vào giấy báo, giấy thuốc lá và ghi đầy trên cánh võng
của mình. Những bài thơ giúp anh đoạt Giải Nhất thơ kỷ niệm 10 năm thành lập Lực
lượng TNXP, cùng với Nguyễn Nhật Ánh, Bùi Chí Vinh… về sau tập hợp trong tập Đất
bên ngoài Tổ quốc, in chung với Đoàn Tuấn.
Thơ Lê Minh Quốc giàu tình cảm, nhiều triết luận,
ngôn ngữ uyển chuyển, đặc biệt trong mảng thơ tình… Đọc Ngày mai còn lại
một mình tôi, Nếu không còn cổ tích, Đất bên ngoài Tổ quốc, Yêu em - Đà Nẵng,
Hành trình của con kiến… người đọc thích thú ngắm anh trong tư thế Tôi
chạy theo Thơ. Riêng tôi, mong một lúc nào đó trong cuộc đua marathon không có
điểm dừng này, thấy Lê Minh Quốc vượt lên, để được nhìn ngắm anh trong tư thế
Thơ chạy theo tôi, dù biết đây là điều không tưởng.
Lê Minh Quốc sinh năm 1959, kết thúc năm Đinh Dậu anh chưa tới
ngưỡng 60, thời gian sáng tạo còn nhiều. Tương lai, có thể anh vẫn sẽ viết
như đã viết, không ham những tác phẩm sử thi, hoành tráng. Nhưng
trong chưa đầy ba chục năm, vẽ hàng chục bức tranh, viết 42 cuốn sách trên
nhiều thể loại, trong đó nhiều cuốn được bạn đọc đón nhận, phải tái bản
nhiều lần đã là một sự hoành tráng đáng nể.
Chú thích:
* Thơ Nguyễn Vỹ: “… Còn tôi bưng thúng theo đàn bà/ Ra chợ bán văn ngày tháng qua…
21/12/2019
Ngô Xuân Hội
Nguồn: Văn Nghệ, 3-2018
Theo https://vanhocsaigon.com/
x
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét