I. RẤT CÓ THỂ NGƯỜI TA SẼ NGẠC NHIÊN. Nhưng một trong những sự kiện đáng lưu ý nhất
của văn học miền Nam trên mười năm nay, là cái phong trào võ hiệp mà, cứ khi
nào hết chuyện nói, người ta lại mang ra lên án như là nguyên nhân của sự suy đồi
xã hội. Nó đã bùng lên đột ngột và ồn ào để xâm lấn chớp nhoáng những giới thật
khác nhau. Những lý do của phong trào ấy có nhiều. Có những lý do thường trực
như nhu cầu giải trí, sự cám dỗ của cái khác thường, tiếng gọi của phiêu lưu. Lại
có những lý do thời cuộc: sự bế tắc của tình thế xô người ta trốn thực tại
trong một thế giới hoang đường. Ngoài những lý do tự nhiên ấy lại phải kể đến cả
một chiến dịch cổ động truyền khẩu cũng như trên mặt báo. Thời đại này của kế
hoạch. Không có gì người ta có thể tin là tự nhiên và bộc phát. Ai tuy nhiên đã
gây lên phong trào ấy và trong mục đích nào? Nghi vấn ấy người đời sau sẽ giải
quyết. Có điều là cái phong trào ấy, dù có ai chủ ý gây nên chăng nữa, cũng
không thể nào lên tới mức độ người ta đã thấy, nếu những truyện võ hiệp được
tung ra, đã không diễn tả gì tâm sự của người đương thời. Và chứng cứ là phong
trào ấy không phải truyện võ hiệp nào cũng làm người ta chạy theo mà người ta
chỉ chịu, chỉ chuộng, chỉ mê một thứ truyện là truyện của Kim Dung. Cho đến nỗi
những ai từng để ý tới những tương quan giữa văn học và xã hội không thể không
coi chúng như một hiện tượng của thời đại. Hiện tượng Kim Dung như thế nào? Nó
có nghĩa gì giữa cảnh tai biến của chúng ta và tai sao lại có thể xảy ra? Ấy là
những nghi vấn mà cố gắng của bài này là tìm ra một đáp thuyết.
Thường thì ai cũng công nhận rằng truyện Kim Dung “hay” hơn những truyện võ hiệp cổ điển. Và để minh chứng cho thiên kiến ấy, người ta đã viện ra nhiều lý do: nào là tâm lý phức tạp, tình tiết éo le, truyện kể hồi hộp, nào là thiện và ác không còn minh định một cách ngây ngô như xưa nữa mà, trái lại, người ta không còn biết ai phải và ai trái, ai giỏi võ hơn ai và ai sẽ thắng… Những lý do ấy tuy nhiên, xét cho cùng, không diễn tả gì hơn là tâm sự của người đọc. Không phải thời nào người ta cũng tìm trong những truyện kể cái hồi hộp, sự phức tạp tâm lý và những xung đột khả nghi không biết ai phải và ai trái. Ấy là những đặc tính giờ làm người ta đam mê. Sự đam mê ấy nói lên rằng lòng người ta đã thay đổi. Nó không có nghĩa là người ta đã tìm ra những tiêu chuẩn khách quan của một cái “hay” muôn thuở. Truyện Kim Dung không hay hơn những truyện võ hiệp xưa. Chúng khác hẳn. Tại chúng đáp lại những nhu cầu tâm lý khác. Và công của Kim Dung không phải là đã cải thiện nghệ thuật viết truyện võ hiệp. Ông đã sáng tác ra một kiểu truyện võ hiệp mới.
II. Quan niệm võ học
1. Trong truyền thống hoang đường
Cái ấy mới có lẽ người ta không ngờ rằng nó đã bắt đầu ngay trong quan niệm võ học. Ai cũng biết là từ Kim Dung mới thịnh những chuyện chưởng và nội lực. Chưởng pháp dựa vào sức của bàn tay, như một biến thể của quyền thuật, thật ra không có gì lạ. Nhưng khi tự lòng tay người ta có thể vận ra những luồng khí giết người, thời cái hoang đường nghĩ lại cũng chẳng khác gì những truyện kiếm quang. Táo bạo đầu tiên của Kim Dung là đã nối lại một truyền thống hoang đường mà truyện võ hiệp có thời đã bỏ dở. Ấy là thời được tung ra những truyện võ hiệp gọi là đứng đắn. Trong những truyện ấy người ta cam đoan rằng những thế võ được sử dụng đều là võ thực, nghĩa là đều có tên trong những sách chân truyền, và, sợ thế cũng chưa đủ, người ta lại kèm theo những hoạ đồ trình bầy động tác của từng thế một. Những độc giả thực tế và nghiêm trang được yên tâm là đã không mất tiền và thì giờ một cách vô ích. Hơn thế nữa họ lại có dịp khoe rằng đã tiếp xúc một cách ích lợi với võ học chính tông. Nhưng ai đọc truyện võ hiệp để học võ bao giờ? Võ học trong những truyện là một dịp để người ta tưởng tượng, cũng như người ta đọc những truyện khoa học giả tưởng không để trở thành kỹ sư, mà để tưởng tượng trên những có thể, tưởng là không thể tưởng tượng được, của khoa học. Nhưng người ta hiểu tại sao cái hoang đường của những truyện luyện kiếm lại có thể cám dỗ người ta hơn là tất cả những thứ võ thuộc những truyện khác.
Một thỏi sắt luyện thành một thanh kiếm tốt đã khó. Nhưng khó hơn nữa là luyện thế nào để tự nó thu nhỏ lại bằng cái lá. Khi ấy người ta có một diệp kiếm; nhỏ hơn, bằng một viên ngọc, là hoàn kiếm, nhỏ hơn nữa, bằng hạt cát, là sa kiếm. Lạ là càng thu nhỏ thì năng lực của kiếm càng lớn. Tất cả xẩy ra như năng lực ấy, càng bị dồn trong một khối thể chất nhỏ bao nhiêu, lại càng tăng trưởng bấy nhiêu. Và đến khi miếng thép ấy hoá ra nước làm thuỷ kiếm, ra hơi làm khí kiếm, ra ánh sáng làm quang kiếm, thì năng lực phát huy được kể như không cùng. Tương quan ấy giữa năng lực và thể chất không làm người ta suy nghĩ ra sao? Nhưng tôi không muốn nói rằng những tác giả võ hiệp là những Einstein bị người đời quên lãng.
2. Ý nghĩa của nội lực
Kiếm tuy nhiên vẫn chỉ là một vật ngoại thân. Căn bản của võ học theo Kim Dung lại ở nội lực. Nội lực là cái nguyên khí tản mác ngoài thiên nhiên mà, theo những cách luyện đặc biệt, người ta thâu nạp được trong người. Khi giao đấu thì nội lực ấy có thể, từ lòng bàn tay, xuất phát ra những ngọn gió lớn có sức đánh gẫy cây và đập nát đá. Nói theo kiểu của giới đọc võ hiệp, người ta gọi thế là dấu chưởng. Xem như thế thì chưởng phong còn hoang đường gấp mấy lần quang kiếm. Uy lực của quang kiếm dù sao cũng là thể chất. Sức của chưởng phong thì tuỳ ở nội lực. Và nội lực là một cái gì cũng mơ hồ như nguyên khí của thiên nhiên. Người luyện kiếm tiếp tục một truyền thống thợ rèn, tìm cách chế hoá thể chất ra năng lượng. Nội lực trái lại, là một sức mạnh vô hình. Cũng như tinh thần. Và người ta không thể ngờ rằng võ học Kim Dung cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của thần bí học. Ấy là một thần bí học duy tự nhiên. Cho nên người anh hùng Kim Dung là người nhờ gặp may uống được máu rắn, ăn được kỳ hoa, nuốt được dị quả mà tiếp thu những mãnh lực nguyên thuỷ của vũ trụ súc tích trong những vật ấy để trong chốc lát, đạt tới nội lực thượng thừa. Luyện nội lực như thế, để nói như những triết gia là một cách trở lại nguồn. Thường thường một nội lực thâm hậu đòi ở người ta một công phu dài mấy chục năm. Nhưng như người ta thấy, được một dịp may trời cho, thì mấy mươi năm luyện tập cũng chưa bằng. Trời trong Kim Dung có những đặc ân như muốn riễu những cố gắng của con người. Kể cả khả nghi. Nhưng không thế thì làm sao võ lâm có thể đổi mới và sinh ra những biến cố bất ngờ?.
Nội lực đã thâm hậu thì võ công nào người ta cũng học được. Luyện những võ công tinh xảo quá mà thiếu nội lực thì trái lại người ta có thể bị tẩu hoả nhập ma, và dù có luyện được, cũng không thể nào phát huy được hết uy lực của nó. Người giàu nội lực thời dùng một thế võ tầm thường cũng có thể đạt tới một uy lực siêu phàm và khắc chế những võ công tinh xảo, như Trương Quân Bảo lấy mấy ngọn quyền nhập môn của phái Thiếu Lâm mà thắng được một Hà Túc Đạo mà đời xưng tụng là kiếm khách. Nhưng đặt nội lực trên cái tinh xảo của võ công, phải chăng một lần nữa Kim Dung lại đặt tự nhiên trên sức chế hoá và công phu của con người? Cũng có lẽ. Nhất là khi người ta nhớ rằng trong truyện ông, đạt tới tuyệt đỉnh của võ học không phải là một Hoàng Dược Sư chẳng hạn, muốn lấy trí năng của mình để đoạt quyền tạo hoá, mà, những nhân vật độc ác như Âu Dương Phong, ngay thẳng như Hồng Thất Công, thật thà như Quách Tĩnh, ngây thơ như Châu Bá Thông, sống toàn theo năng tính nghĩa là con người tự nhiên của họ. Trở về tự nhiên, trở về nguồn, khi ấy, cũng là trở về cái phần nguyên thuỷ của mình. Và người ta có thể nghĩ rằng lấy nội lực làm căn bản cho võ học, Kim Dung đã chẳng làm gì hơn là đặt căn bản võ học trong lòng người. Uy lực của người anh hùng từ giờ không ở cái sảo của võ công và của khí giới nữa cũng như cái gì đe doạ chàng trên giang hồ không còn là những nguy hiểm của thế giới bên ngoài mà ở ngay chỗ sâu xa nhất trong người chàng. Nguy hiểm ngoại tại người ta có thể lấy trí năng để giải hoá. Nhưng đấu nội lực thì ai cũng biết là chỉ có một mất và một còn. Cả con người mình khi ấy phải ngưng tụ để chống trả. Suy tính gì được nữa? Sểnh một cái, tâm hồn giao động, thế là bị phân tâm và nội lực ly tán. Khi ấy thì không chết người ta cũng bị trọng thương. Và kẻ thắng trận trước hết là kẻ giữ được cái tĩnh của lòng mình trước những xôn xao của ngoại giới. Nhưng ý nghĩa của võ học cũng thay đổi hẳn. Võ học trở nên một kỷ luật của nội tâm và nội lực cũng giống cái mà, theo ngôn ngữ khác, người ta gọi là đức tin.
Sự nội tâm hoá ấy tuy nhiên lại mở rộng phạm vi võ học. Xưa võ học không ra ngoài một nghệ thuật sử dụng quyền, cước và khí giới thì giờ người ta có thể giết nhau trong một tiếng cười, một tiếng rống, một tiếng sáo, một tiếng đàn. Tất cả là làm thế nào cho tinh thần đối phương rối loạn. À! Các tác giả võ hiệp đã không sống uổng trong thời đại của tâm lý chiến! Nhưng còn gì đẹp và ghê người hơn cảnh một đôi cao thủ, người đàn và người sáo, một đêm trăng trên mặt bể, vận nội lực trong những tiếng nhạc thâu hồn? Tệ hơn nữa người ta có thể dùng những điệu thoát y vũ! Nhưng bị võ lâm nguyền rủa như môn võ ác độc nhất vẫn là “Hoá công đại pháp” chuyên môn dùng để phá nội lực của con người. Hình như chạm đến nội lực là chạm đến một cái gì thiêng liêng. Võ học chính tông trong Kim Dung tuy nhiên cũng giống như đạo. Ở chỗ tối cao của nó thì người ta trở nên “tĩnh” như Thái Sơn. Ấy là cái tĩnh của người đã đạt tới cái chân nguyên của tự nhiên và của lòng mình. Người và tự nhiên khi ấy là một. Những xôn xao của ngoại giới không còn làm gì được người ta nữa. Và trong cái tự do tuyệt đối của tinh thần, người ta có thể, không những như Hà Túc Đạo, tay kiếm tay đàn không sợ rối chí mà, xa hơn nữa, không cần xuất thủ, còn có thể ngồi yên lấy ý điều khiển nội lực đánh lại người.
3. Võ học như một yếu tố của truyện kể
Cái tĩnh ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể có với một nội lực siêu phàm. Sức mạnh thực không cần phô trương. Ít khi Kim Dung dùng những tĩnh từ mỹ lệ để mô tả cách biểu diễn của một võ công. Ông không tìm trong võ công cái ngoạn mục của những động tác. Trông không còn gì tầm thường hơn là những cuộc đấu nội lực? Nhưng ấy cũng là những cuộc đấu khẩn trương nhất và tất cả nghệ thuật giờ là làm ta tham dự vào sự khẩn trương ấy. Hết làm vui mắt, võ học trở nên một yếu tố gây xúc động nghĩa là để nói với tâm hồn. Xu hướng của nó là càng ngày càng tiết kiệm những động tác. Nhưng sự kín đáo ấy đã thành ra một dấu hiệu của sức mạnh thực. Hãy nhìn thế võ ấy chẳng hạn: xem thật là đơn sơ, nhưng thủ có, công có, và hàm chứa không biết bao nhiêu cách biến hoá, xem nhẹ nhàng, nhưng cực kỳ độc lạt, xem chậm chạp nhưng uy mãnh vô cùng. Cây cổ thụ ấy ngang nhiên đứng thẳng. Nhưng sẽ phất ống tay áo là nó đổ. Khi ấy người ta mới thấy rằng những thớ gỗ trong cây đã nát. Nó đã trúng Thất Thương quyền. Sự ngạc nhiên của người ta khi ấy, một võ công ồn ào hơn làm gì có thể gây nên. Cái ngoạn mục bớt đi. Nhưng chấn động tâm lý lại càng lớn. Quãng cách giữa nguyên nhân và kết quả, nghĩa là cái phần biểu diễn ấy, được thu giảm đến cùng cực. Và người ta như bị đẩy trước một huyền bí. Ấy là cái cảnh, chẳng hạn, “không biết người khách ấy xuất thủ như thế nào mà đối phương hự lên một cái rồi ngã lăn ra chết”. Võ công gì mà lạ thế? Không ai nhận ra, nhưng, như một tia chớp, nó vụt lòe lên như tiêu ký của bóng tối. Các môn phái thành danh, trong khi ấy, đều có những võ công đặc biệt. Và một miếng võ thường là một căn cước. Nhưng trước miếng võ kỳ bí ấy ai chẳng rùng mình. Rắc rối hơn nữa là có những cao thủ dùng võ công của môn phái này để giết người môn phái kia. Ấy là một dịp cho không biết bao nhiêu nghi vấn như khi trên thân thể dập nát của Dư Đại Nham ấn tích của “Kim cương chỉ” vốn là một tuyệt kỹ bí truyền của Thiếu Lâm, làm mọi người hoang mang không biết ai là hung thủ. Chẳng lẽ lại là một trong những thần tăng uy đức trấn giang hồ? Nhưng chắc không thể không là một cao thủ tuyệt luân và món “Kim cương chỉ” trở nên một nỗi ám ảnh nhức nhối để, như một tang vật của tội ác trong những chuyện trinh thám, ngưng tụ quanh nó cả một không gian chập trùng đe doạ và bí mật. Ấy là không kể những khi trên giang hồ xuất hiện những miếng võ thất truyền làm người ta sực nhớ lại cả một dĩ vãng hoang đường.
Nói tóm lại thì võ lực trong Kim Dung không phải chỉ có những cái tên rất đẹp. Nó không chỉ là cơ hội cho những vũ điệu ngoạn mục mà còn góp phần vào sự diễn biến và sức dẫn cảm của truyện. Cho nên tuy những môn võ quan trọng trong Kim Dung chẳng có mấy và toàn là võ bịa, nhưng đã đọc qua thì người ta không thể dễ dàng quên. Ai chẳng còn nhớ đến Nhất Dương chỉ, Lạc Anh quyền, Đả Cẩu bổng, Lăng Ba vi bộ v.v… Những võ công ấy cứ trở lại, không những trong một truyện, mà từ truyện này sang truyện khác như những thể tài của một nhạc tấu. Và sự thường trở lại ấy cũng đủ cho chúng một cá thể đặc biệt. Hơn thế nữa võ công nào cũng gắn vào một nhân vật, nhắc lại một diễn biến trọng yếu, có những đặc điểm và một lịch sử riêng; như Giáng long Thập bát chưởng, truyền từ đời này sang đời khác, cho đến khi đã thất truyền mà kỷ niệm còn chấn động giang hồ. Sự có mặt của chúng chẳng khác nào của những nhân vật. Ấy là không kể có khi một võ công có thể thực sự trở nên một nhân vật chính của truyện như Cửu âm chân công mà trong võ lâm ai cũng muốn luyện cho được để xẩy ra bao nhiêu vụ tương tàn. Và tập Đồ long đaochẳng hạn có kể gì hơn là sự phân tán và tái thống nhất của võ lâm qua sự phân tán và tìm lại thấy của Cửu Dương thần công? Truyện võ hiệp của Kim Dung cũng là truyện võ học nữa.
4. Võ học và cơ cấu luận
Trong truyện võ hiệp cổ điển thì võ học không đặt ra một nghi vấn nào. Chính phái và tà môn cũng dùng một thứ võ. Ấy là một kiến thức chung cho mọi giới trong giang hồ. Những môn phái có thể đánh nhau, nhưng từ môn phái này sang môn phái khác, người ta vẫn thấy những miếng võ ấy được sử dụng. Võ học khi ấy cũng vô danh như ngôn ngữ và như ngôn ngữ, chỉ có giá trị của một phhương tiện. Phương tiện chung. Hơn nhau duy ở kinh nghiệm, tài và sức riêng của mỗi người. Nhưng truyện Kim Dung bắt đầu khi võ học đã mất sự thống nhất ấy. Mỗi môn phái giờ có một thứ võ. Lẽ dĩ nhiên người ta vẫn coi Đạt Ma sư tổ là ông tổ của võ học Trung Nguyên. Nhưng cái vốn của ông truyền lại, những kẻ đến sau, mỗi người chỉ lĩnh hội được một phần. Và cái phần ấy, mỗi người lại hiểu theo một cách, tuỳ tư chất và kiến thức của mỗi người, để từ đó tham bác, chế hoá và sáng tạo thêm ra. Thành ra cũng cùng một gốc mà võ công trong thiên hạ tại không cùng lịch sử: một môn phái là một truyền thống.
Những trang đầu của truyện Đồ long đao cho người ta thấy từ những đoạn của Cửu Dương chân kinh nghe lỏm được ở miệng Giác Viễn lúc lâm chung, Quách Tường và Trương Quân Bảo, tư chất và kiến thức khác nhau, đã lập ra hai môn phái khác nhau thế nào. Sự biến hoá ấy của võ học làm người ta nghĩ đến sự biến hoá của ngôn ngữ. Cũng một ngôn ngữ mẹ mà tuỳ theo địa phương biến hoá đến nỗi người địa phương này không còn hiểu được người địa phương kia. Võ học cũng thế, tuy cùng một gốc mà giờ võ công của mõi môn phái lại tuân theo một qui tắc, đòi hỏi một cách luyện tập, và có một lối phá giải riêng. Muốn phá giải một võ công thì trước hết phải biết cách biến hoá nghĩa là cái văn phạm đặc biệt của nó. Cho nên không thể lấy võ công này mà thắng võ công khác cũng như không thể nói là có võ công nào hơn võ công nào. Nhưng có những võ công mà văn phạm phức tạp hơn, khó phá giải hơn và biến hoá khó lường trước được hơn. Một khi tuy nhiên đã biết cái văn phạm ấy rồi thì sự phá giải không còn là một nan đề. Lưỡng Nghi đao pháp triền miên bất tuyệt như thế mà chỉ cần biết rằng sự biến hoá của nó dựa trên một cách chuyển bộ theo Bát quái là Vô Kỵ có thể thoát khỏi vòng vây của nó một cách dễ dàng. Cái gì Kim Dung muốn người ta thưởng thức trong một võ công, một lần nữa, không phải là cái ngoạn mục của sự biểu diễn mà là văn phạm, cơ thức, nguyên lý, nói tóm lại, sự mạch lạc nội tại của nó. Mạch lạc đến nỗi có khi một miếng võ có thể sử dụng ngược chiều mà vẫn được như thường. Lẽ dĩ nhiên thế chỉ là một chuyện nên thơ. Và cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại cho võ học là cái nên thơ của cơ cấu luận. Nghĩa là của những gì phân tích được.
Cái huyền bí mà những võ công của Kim Dung thoạt cho người ta thấy chợt tiêu thất. Và sự sáng sủa bắt đầu của những lý do và số lượng. Cái văn phạm khúc chiết của mỗi võ công không kể, mỗi võ công lại chia làm nhiều chiêu, mỗi chiêu lại gồm nhiều thức, mỗi thức lại chia nhiều thế. Hơn thế nữa, lại có thể tính xem mỗi võ công người ta luyện được mấy thành hoả hầu và được sử dụng với mấy thành công lực. “Thành” là đơn vị để ước lượng mức thành đạt của người luyện võ cũng như uy lực của mỗi đòn tung ra. Nói tóm lại thì tất cả đều đo được, tích giải được, phân chiết được. Và người ta vào thế giới của những phức thể. Ấy là thân thể con người chằng chịt những huyệt đạo và kinh mạch như một cái lưới tinh vi, những độc dược mà thứ nào cũng là một pha trộn theo những phân lượng bí truyền, giữa rất nhiều dị thảo, những kiếm pháp chung đúc cái tinh hoa của không biết bao nhiêu môn phái khác nhau, sự phối hợp ảo điệu giữa hai cao thủ, người này sử dụng võ công vốn tương khắc với võ công của người kia, thành một thế liên hoàn không có gì phá nổi, môn Phân thân Tâm pháp cho phép người ta mỗi tay dùng một tuyệt kỹ để biến một người duy nhất thành một cao thủ… Phân tích, phối hợp, ấy là những động tác căn bản của cơ cấu luận. Nhưng có lẽ không chỗ nào ấn tích của cơ cấu luận lại rõ ràng hơn trên những môn võ dựa vào thư pháp, như Đồ long công chẳng hạn, mà mỗi đòn là một nét chữ. Mỗi chữ khi ấy trở nên hoạ đồ của một chiêu số. Không những đọc được mà như người ta thấy, cái văn phạm nội tại của môn võ lại có thể vẽ ra được nữa! Ai làm thế nào để một người không biết võ, không cần giải thích dài lời, có thể thất và thông đạt những cơ thức của một võ công một cách dễ dàng hơn? Nhưng còn chuyện Cửu Âm chân kinh…
Cửu Âm chân kinh là một võ học kỳ thư. Và các cao thủ ai cũng muốn cướp nó cho được để luyện những võ học tuyệt luân có ghi trữ. Khốn nỗi tự bản duy nhất của nó đã bị huỷ và chỉ có Quách Tĩnh là người đã học nó thuộc lòng. Người ta còn nhớ Âu Dương Phong đã tìm cách buộc Quách Tĩnh phải chép lại bản kinh ấy cho y như thế nào. Không thể làm khác, Quách Tĩnh đành y lời, nhưng khôn ngoan, lại cố ý, chữ “tác” đánh ra chữ “tộ”, chép cho sai. Lẽ dĩ nhiên Âu Dương Phong đọc không hiểu. Nhưng nhũn nhặn nghĩ rằng ấy là tại văn của Cửu Âm chân kinh uẩn súc quá và cái óc thô bạo của mình không nhìn thấy chỗ tinh tế của nó, y bắt Hoàng Dung, người yêu cực kỳ thông minh của Quách Tĩnh, giảng cho vỡ lẽ. Hoàng Dung cũng nói dựa mà giảng bừa cốt cho xuôi tai thì thôi. Âu Dương Phong cứ theo những lời giảng ấy mà luyện, thấy rất khó, nhưng vẫn tự cưỡng. Là người khác thì đã “tẩu hoả nhập ma” mà chết. Nhưng nội lực Âu Dương Phong đã tới chỗ siêu phàm. Y không chết, nhưng tất cả kinh mạch trong người đều chạy ngược, y phải đi bằng hai tay, chân chổng lên trời và rốt cuộc không còn nhớ Âu Dương Phong là ai nữa. Võ công của y, trong khi ấy, lại trở nên vô địch. Ấy cũng là võ công của Cửu Âm chân kinh. Những chiêu thức tuy nhiên đều đảo ngược và cách biến hoá của chúng tuân theo một sự mạch lạc mà người ngoài không thể hiểu: ấy là sự mạch lạc của người điên. Hoá ra người điên cũng có lý của họ và không có gì, dù tạp loạn đến đâu, mà người ta không thể đưa tới một thế tương tất. Chỉ cần một luận lý khác! Nhưng mẩu chuyện ấy không đủ chứng tỏ tinh thần nhân bản của Kim Dung. Cái gì người ta còn thấy là, xô đến tận chỗ nghịch lý, cái nên thơ của cơ cấu luận.
5. Sự tương đối hoá võ học và thế đa nguyên của võ lâm
Một cơ cấu là một cá thể độc đáo. Nhưng nó cũng định một giới hạn. Cái độc đáo vốn là cái không phổ biến thì những gì, ở chỗ này, là những ưu điểm, ở chỗ khác, lại có thể xuất hiện như những khuyết điểm. Như những ngôn ngữ, mỗi võ công chỉ đáp ứng một số nhu cầu nhất định. Không thể có võ công toàn năng. Lạc Anh chưởng chẳng hạn có mau nhưng không mạnh, Hàm Mô công mạnh nhưng thân pháp lại khó coi, Nhất Dương chỉ thì chỉ có bọn đồng tử mới học được. Thất Thương quyền lợi hại bao nhiêu! Nhưng muốn luyện được môn võ ấy thì trước hết phải tự đả thương tạng phủ đến bẩy lần. Trong khi ấy thì Lăng Ba vi bộ chỉ là một phép tránh đòn cũng đủ để Đoàn Dự có thể buộc một hung thần ác sát lậy mình làm sư phụ. Nhưng đem bộ pháp ấy đối phó với cảnh loạn đả không theo qui tắc nào của những người không biết võ lại bằng thừa. Cái khéo của Kim Dung là đã chia những ưu điểm và những khuyết điểm ấy như thế nào để vừa giữ cái bản sắc đặc biệt của mỗi võ công vừa duy trì sự diễn tiến của truyện trong một tình trạng bất trắc thường xuyên. Thử tưởng tượng một nhân vật có một võ công cứ giở ra là ai cũng thua thì truyện sẽ chán biết mấy! Cái thú với Đoàn Dự chẳng hạn là không ai có thể biết trước khi nào Lục Mạch thần kiếm của chàng ta “chạy” và khi nào không. Nhưng nó chỉ có trong chừng nào kiến thức võ học của Đoàn Dự còn đầy khuyết điểm. Khuyết điểm chính là cái độc đáo và một dịp cho mọi bất ngờ. Cho nên trong Kim Dung nhân vật nào cũng có sở trường và sở đoản. Giỏi võ công thì không có nội lực. Người có nội lực thượng thừa lại không biết võ công. Có người giỏi ám khí. Có người tài khinh công. Có người sành độc dược. Nhưng được một đằng lại mất đi một nẻo. Võ công nào trong thiên hạ mà Vương Ngọc Yến không biết? Nhưng nàng lại không biết dùng võ công. Mưu trí như Hoàng Dung thì môn Song thủ Hổ bác đòi hỏi một tâm hồn chất phác nàng lại không tài nào học được. Tưởng một Tạ Tốn thì cái gì chẳng hơn người! Thế mà lại thua Trương Thuý Sơn ở thư pháp cũng như Vương phu nhân đã thua Đoàn Dự ở kiến thức về hoa trà. Ngược lại thì một Trương Quân Bảo chỉ có mấy miếng quyền nhập môn mà làm cho Côn Luân tam thánh liểng xiểng ôm hận thề không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa. Và để kết luận người ta bảo nhau rằng thật là ngoài trời lại có trời. Có Ỷ Thiên kiếm thì có Đồ Long đao, có Cửu Âm chân kinh thì có Cửu Dương chân kinh, có độc dược của Vương Nạn Cô thì có giải dược của Hồ Thanh Ngưu, có kiếm pháp của Tuyết Sơn thì phái Kim Cô phái cũng có đao pháp để phá giải. Không có cái gì sau cùng không có khắc tinh của nó. Cao thủ này lại dẫn người ta gặp cao thủ khác tài hơn. Người ta càng đi lại càng thấy kiến thức của mình chật hẹp. Võ lâm trở nên một thế giới vô cùng và đã mất trung tâm. Mỗi phương xuất hiện một anh hùng. Khi Anh hùng xạ điêu bắt đầu thì Vương Trùng Dương, con người duy nhất có thể xứng ngôi Minh Chủ võ lâm đã tạ thế. Để môn phái ông ngày một suy đốn và các bạn ông, những người còn sót lại trong Võ lâm Ngũ bá, cứ năm năm một lại trở về Hoa Sơn, tiếp tục những cuộc luận võ không ai được và ai thua. Cũng như thể cái chết của Dương Phá Thiên làm những anh hùng của Minh giáo phân tán, không ai phục ai, mỗi người theo đuổi một cuộc phiêu lưu riêng ở một góc trời. Võ lâm sa vào cảnh chia năm và xẻ bẩy. Xưa các cao thủ đều nhìn về Thiếu Lâm như cái nguồn của võ học. Cái nguồn ấy giờ ở chỗ nào? Thiếu lâm chỉ còn là một môn phái như các môn phái khác. Và võ học cũng như Thượng đế của Pascal là một tinh cầu trung tâm ở khắp nơi, nhưng không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ, và võ công nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch. Làm thế nào có thể thu cái thế giới đã nát vụn ấy vào một mối. Ai cũng muốn làm bá chủ võ lâm. Người ta giết nhau như ngóe để độc chiếm những võ công kỳ bí có thể cho phép người ta khuất phục chúng anh hùng. Câu chuyện nghĩa hiệp đã nhường chỗ cho những cuộc tranh cường đẫm máu. Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy tuy nhiên, cái gì người ta thấy là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất.
6. Trở về nguyên lý
Muốn thống nhất võ lâm thì phải là một cao thủ vô địch. Nhưng khi chẳng võ công nào vô địch cã thì làm sao? Tưởng chỉ có một cách duy nhất là nghiên cứu tất cả những võ công của thiên hạ. Ấy là tham vọng của Mộ Dung. Nhưng ai có thể thực hiện được? Khi ngay võ công của môn phái mình cũng chẳng mấy người luyện hết. Hơn thế nữa những võ công phức tạp đòi hỏi một nội lực thâm hậu. Nội lực thâm hậu thì không những võ công nào cũng luyện được mà, như người ta biết, có thể lấy những miếng võ thuật là thô thiển để thắng những võ công ảo diệu hơn. Như thế thì điều trọng yếu của võ học không cứ ở võ công, mà tới một độ nào người ta chỉ coi là những khoa chân múa tay, mà thật ra ở nội lực. Nội lực mới là căn bản của võ học. Nhưng người ta hiểu rằng có sự trở về nguồn ấy là tại võ học không còn thống nhất nữa. Và nếu sau này Vô Kỵ có thể thu võ lâm vào một mối thì cũng tại chàng đã tìm lại được nguyên bản của Cửu chương Chân kinh và luyện một cách chu toàn môn thần công chép trong kinh ấy. Sự thâm hậu của nội lực, tuy nhiên, mới là một điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cái may thứ hai của Vô Kỵ là đã vớ được Càn khôn Đại nã Di Tâm pháp mà, nhờ một nội lực siêu phàm, chàng có thể lãnh hội trọn vẹn. Võ công trong thiên hạ, có nhiều thật, nhưng đều cùng một gốc và chẳng ra khỏi những quy luật của tự nhiên. Sao người ta không thể tìm ra những quy luật chung cho những võ công trên đời? Càn khôn Đại nã Di Tâm pháp không phải là một võ công ảo diệu hơn những võ công khác, nó là nguyên lý của mọi võ công, và người ta có thể coi nó như một thứ văn phạm đại cương tổng hợp và giải thích những văn phạm đặc biệt. Cho nên dù gặp những võ công phức tạp đến mấy thì, nhờ Tâm pháp ấy, Vô Kỵ cũng có thể định ra cơ thức của nó và phá giải được. Khi thì chàng dùng ngay võ công của đối thủ để trả đòn làm cho y ngơ ngác không biết tên này làm thế nào mà biết được những tuyệt kỹ bí truyền của môn phái mình, khi thì, ngộ nghĩnh hơn, chàng chuyển những đòn của đối thủ trở về đánh lại y và đồng bọn gây ra không biết bao nhiêu cảnh khôi hài. Ai chẳng còn nhớ trận Huyền minh nhị lão vây đánh Vô Kỵ bị chàng giở Đại nã di Tâm pháp, làm cho nhị lão, đòn người này trúng phải người kia, và sau cùng, giận quá đâm ra đánh nhau thực sự. Ấy là thuật “lấy gậy ông đập lưng ông” và chính nó đã cho phép Vô Kỵ khuất phục chúng anh hùng và thống nhất võ lâm.
7. Giấc mộng bách khoa
Nhưng đâu có phải ai cũng biết Càn khôn Đại nã di Tâm pháp? Cái may của Vô Kỵ chỉ đến một lần. Khi Triệu Minh muốn nghiên cứu võ học Trung Nguyên thì nàng chẳng biết làm gì hơn là bắt cóc những cao thủ của chín đại môn phái buộc họ phải thi triển những tuyệt kỹ của bản môn cho nàng xem. Những người khác cũng có thể tìm cách học từng võ công một. Càng nhiều càng hay. Và trên con đường của tri thức, võ học từ một phương tiện dần dần trở nên một cứu cánh tự tại. Khi ấy sinh ra những nhân vật như Vương Nạn Cô chuyên chế những độc dược càng ngày càng độc, để hết bỏ cho người này lại bỏ cho người khác, và sau cùng bỏ ngay cho chính nàng nữa, trong mục đích duy nhất là để cho chồng nàng là Thần y Hồ Thanh Ngưu phải xin chịu là thua. Lại có Châu Bá Thông mê học võ công hơn mê gái, luyện võ công không để áp chế ai cả, nhưng vì võ công và như để chơi. Ấy là không kể một Cưu Ma Trí võ công đầy mình mà cứ hết chạy ngang lại chạy dọc, suốt đời bôn ba tìm cách học thêm, tuy chẳng ai biết là để làm gì. Nhưng ai ngờ rằng sự uyên bác, mai mỉa thay, trong cái thế giới bạo động và sự công hiệu trực tiếp ấy, lại trở nên một giá trị? Nó là tất cả uy danh của họ Mộ Dung, cái nên thơ của Vương Ngọc Yến, và biến Tàng Kim Các, nơi tích trữ những võ học kỳ thư trong Thiếu Lâm tự thành một ám ảnh cho những người luyện võ. Ai chẳng còn nhớ cuộc gặp gỡ mở đầu truyện Đồ Long Đao giữa Quách Tường và sư Vô Sắc? Vô Sắc ỷ vào kinh nghiệm và kiến thức của mình, cuộc rằng sau mười thế võ ông có thể nhận ra môn phái của Quách Tường. Nhưng Quách Tường cướp tiên cơ, công một loạt mười thế võ nguồn gốc khác nhau mà nàng được những cao thủ danh trấn giang hồ truyền thọ cho, trước khi chấm dứt bằng một thế của chính Thiếu Lâm tự, làm cho, nếu không xảy ra một chuyện tình cờ, Vô Sắc suýt nữa đành chịu thua. Hào hứng của câu chuyện là cuộc đấu võ đã thành ra một cuộc đấu trí. Thắng Quách Tường thì làm gì Vô Sắc không thắng nổi. Nhưng ông muốn lấy cái học của mình để khuất phục người con gái ngỗ ngược ấy. Và người ta không biết phục gì hơn giữa tác phong của nhà sư và sự uyên bác của một cô gái mười mấy tuổi đầu. Cuộc đua võ học ấy, tuy nhiên trong cái phong thái tài tử của nó, như ngấm ngầm lên án cái võ lực thuần tuý. Sự thắng trận nà có ý nghĩa khi tất cả đều bị tương đối hoá? Con người võ hiệp của Kim Dung trong một thế giới đã mất nguyên lý, trước khi, như Đoàn Dự, nguyền rủa võ học để tôn thờ nhan sắc, bắt đầu quên sứ mạng nhập thế của mình để lạc vào một giấc mộng bách khoa.
Tham vọng bách khoa ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi võ học. Như để nhuốm võ học một sắc thái tinh thần ngày càng đậm, người ta thấy các cao thủ tìm mọi cách để thực hiện sự tương kết giữa võ học và các môn học khác. Triết học có: ấy là những võ công khi thì dựa trên kinh dịch, khi mượn Phật học làm căn bản, khi thì lấy cảm hứng trong Lão giáo; y học có: ấy là cả cái hệ thống huyệt đạo và kinh mạch trên thân thể con người; dược khoa có: ấy là cái nghề chế thuốc độc và linh đơn tinh vi và phức tạp; nhạc thuật có: ấy là tiếng sáo thống thiết của Hoàng Dược Sư, tiếng đàn tranh gay gắt của Âu Dương Phong, tiếng đàn cầm não nùng của A Bích; thi ca có: ấy là Đồ long công mà Trương Tam Phong đã tạo ra từ tự hoạch của mấy câu ca dao truyền tụng cái bí mật của đao Đồ Long và cây kiếm Ỷ Thiên. Ấy là không kể những võ công dựa trên một nghệ thuật cắm hoa, pha trà, đánh cờ, viết chữ v.v… Một cảnh thác đổ, một thế chim bay, một kiểu rắn bò, một cảnh cọp ngồi, không có gì trong tạo vật giờ lại không thể là một nguồn cho võ học. Và con người võ hiệp của Kim Dung, ngoài võ học, còn có hơn một sở trường. Mấy ai đã quên những tận đồ của Hoàng Dược sư? Vừa là một kỹ sư con người kỳ quặc ấy vừa là một nghệ sĩ tài hoa. Không những được tôn là kiếm khách, Hà Túc Đạo còn là kỳ thánh và cầm thánh nữa. Người ta thường gặp chàng, trong những khu rừng vắng, đánh cờ một mình và gẩy đàn gọi chim ngàn ca múa. Trong khi ấy thì Tạ Tốn vẫn mang sử ra minh chứng cho tác phong bạo ngược của mình, Trương Thuý Sơn vẫn đam mê thư pháp, Đoàn Dự vẫn diễn thuyết về trà hoa, Hàn Tố Tố vẫn bình văn Trang Tử, Anh Cô vẫn bạc đầu nghiên cứu toán pháp, Hoàng Dung vẫn thừa sức thi thơ với các danh tài nước Đại Lý. Nhưng có gì mà Hoàng Dung không biết? Kể cả khoa nấu bếp làm cho Hồng Thất Công thán phục phải truyền thọ võ công cho nàng trước khi để nàng kế nghiệp mình làm bang chủ Cái bang. Và còn tài cải trang của A chu nữa, thoắt cái nàng biến thành bà lão, thoắt cái thành một nam tử hán, và sau cùng đưa nàng đến một cái chết thảm khốc.
Con người võ học càng ngày càng muốn kiêm bác. Tượng trưng cho cái tham vọng bách khoa ấy là Tô Tinh Hà. Không môn học nào là ông không nghiên cứu. Nhưng rốt cuộc trong môn nào sở năng của ông cũng dở dang. Làm thế nào một cá nhân có thể tinh thâm được tất cả những môn học ở trên đời, khi một cái mênh mông của võ học cũng đủ làm người ta chóng mặt? Sự thất bại của Tô Tinh Hà như đã nói lên tâm sự của một thời đại trước cái kiến thức chung càng ngày càng tăng trưởng và phức tạp, nhưng cũng ngày càng tản mác. Trong Tàng Kinh Các những võ học kỳ thư vẫn xếp thành chồng dầy. Ai là người đã thực hiện được sự tổng hợp của cái di sản ấy? Nhưng ngay biết hết được cái di sản ấy cũng chưa có người. Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt. Nàng có thể nói lên từ lịch sử đến những cơ thức và khả năng của một võ công của môn phái một cách tường tận hơn là ngay những người của môn phái ấy. Cao thủ của môn phái này mới xuất thủ thì nàng đã biết là môn võ nào và cao thủ của môn phái kia sẽ dùng môn võ nào để ứng phó. Khi những đối thủ còn mò mẫm chưa biết nên giở những đòn gì cho phải thì nàng đã tiên liệu được tất cả diễn biến của trận đấu. Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác ấy, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần tuý. Tiếc sao võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy cũng như Đoàn Dư, ngoài thình yêu, chẳng coi gì là trọng. Hai người sinh ra để lấy nhau: một người gần như biết tất cả võ công của thiên hạ và một người, nhờ Chu Cáp thần công có sức hút công lực của người khác, mà súc tích trong người nội lực của không biết bao nhiêu anh hùng. Sự tương kết giữa đôi trai gái ấy, sẽ đưa tới kết quả nào? Không ai biết. Nhưng người ta biết rằng cả hai đều coi võ học như một cái gì phù phiếm, và trước thế chia đôi ấy giữa kiến thức và nội lực, người ta không thể không nghĩ rằng cái thời đã hết khi một Vô Kỵ, vừa có Cửu dương Chân công, vừa có Càn Khôn Đại Mã Di Tâm pháp, thâu tóm trong một cái tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy sau Vô Kỵ, không xảy ra một lần nữa.
Nhưng trong Thiếu Lâm Tự cũng như trong lòng người võ lâm, Tàng Kinh Các vẫn sừng sững làm chứng cho một chí chinh phục không bao giờ nguôi. Vẫn có người giết nhau, và khó hiểu thay! Thí mạng để độc chiếm một võ công như ông và trong nhóm Trường Bạch tam cầm, đã trúng độc sắp chết, mà cứ giữ khư khư ôm lấy con dao Đồ Long không chịu mang ra đổi lấy giải dược, chỉ vì nghĩ rằng trong con dao ấy có giữ một võ học kì thư, vẫn có những Châu Bá Thông, sau khi đã chán tất cả, mà vẫn chưa biết chán võ học bao giờ, vẫn có những Cưu Ma Trí suốt đời đi tìm những võ công lạ và sẵn sàng làm tất cả để đổi lấy tuyệt kỹ mà mình chưa được biết. Nhưng võ học mênh mông. Võ công này chưa thông đạt thì đã xuất hiện võ công khác phức tạp hơn. Khi chưa nắm được cái nguyên lý của võ học thì có biết bao nhiêu cũng là một cái biết dở dang. Các cao thủ phải học từng võ công một cũng như trong Tàng Kinh Các cuốn võ học kỳ thư này xếp lên cuốn võ học kì thư kia. Trí nhớ khi ấy có một ý nghĩa nên thơ khác thường. Nhưng kiến thức vẫn chỉ là một tổng số không bao giờ đóng thành tổng hợp. Ngay Càn Khôn Đại Nã Di Tâm pháp cũng chỉ là một tổng hợp rất lớn chứ chưa có thể nói là đã đạt tới nguyên lý cuối cùng của võ học. Người ta nhớ rằng Vô Kỵ đã luyện thông bảy lớp của Tâm pháp ấy một cách dễ dàng. Nhưng tới lớp thứ tám thì chàng thấy rất khó và gặp những đoạn văn tối nghĩa và chứa những mâu thuẫn không giải quyết được. Hình như người sáng tạo ra Tâm pháp ấy tới một độ nào cũng đã vấp phải một bức tường không thể nào vượt qua. Hay là tại Kim Dung vẫn muốn dành một phần cho thượng đế? Những Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn sau một đời khổ luyện tưởng đã đạt tới giới hạn cuối cùng của võ học thì, ngay khi ấy, họ chợt khám phá ra rằng cái tham vọng vượt bậc của họ nghịch lại những võ công tối cao họ luyện được, mà mục đích là dẫn tới cái ý của võ học trong một sự lãng quên và sự tương nghịch ấy đang ngấm ngầm dẫn họ đến chỗ bị tẩu hoả nhập ma. Cảnh tượng ấy mới tuyệt vọng làm sao! Nhưng con người của Kim Dung trong giấc mộng bách khoa, trong ý chỉ sáng tạo, trong tinh thần chinh phục của nó, ngay khi đã bị cái tham vọng của nó quật ngã, không phải đã không nói lên một cái gì vượt bực trong con người. Sự vượt bực ấy tuy nhiên mang sẵn trong nó cái ngòi của thất bại. Con người có một sức sáng tạo không cùng. Nhưng tất cả xảy ra như người ta càng sáng tạo càng xa chân lý, và càng thất lạc trong cảnh tạp loạn của cái kiến thức người ta đã tạo ra. Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và của sự tìm thấy lại.
Thường thì ai cũng công nhận rằng truyện Kim Dung “hay” hơn những truyện võ hiệp cổ điển. Và để minh chứng cho thiên kiến ấy, người ta đã viện ra nhiều lý do: nào là tâm lý phức tạp, tình tiết éo le, truyện kể hồi hộp, nào là thiện và ác không còn minh định một cách ngây ngô như xưa nữa mà, trái lại, người ta không còn biết ai phải và ai trái, ai giỏi võ hơn ai và ai sẽ thắng… Những lý do ấy tuy nhiên, xét cho cùng, không diễn tả gì hơn là tâm sự của người đọc. Không phải thời nào người ta cũng tìm trong những truyện kể cái hồi hộp, sự phức tạp tâm lý và những xung đột khả nghi không biết ai phải và ai trái. Ấy là những đặc tính giờ làm người ta đam mê. Sự đam mê ấy nói lên rằng lòng người ta đã thay đổi. Nó không có nghĩa là người ta đã tìm ra những tiêu chuẩn khách quan của một cái “hay” muôn thuở. Truyện Kim Dung không hay hơn những truyện võ hiệp xưa. Chúng khác hẳn. Tại chúng đáp lại những nhu cầu tâm lý khác. Và công của Kim Dung không phải là đã cải thiện nghệ thuật viết truyện võ hiệp. Ông đã sáng tác ra một kiểu truyện võ hiệp mới.
II. Quan niệm võ học
1. Trong truyền thống hoang đường
Cái ấy mới có lẽ người ta không ngờ rằng nó đã bắt đầu ngay trong quan niệm võ học. Ai cũng biết là từ Kim Dung mới thịnh những chuyện chưởng và nội lực. Chưởng pháp dựa vào sức của bàn tay, như một biến thể của quyền thuật, thật ra không có gì lạ. Nhưng khi tự lòng tay người ta có thể vận ra những luồng khí giết người, thời cái hoang đường nghĩ lại cũng chẳng khác gì những truyện kiếm quang. Táo bạo đầu tiên của Kim Dung là đã nối lại một truyền thống hoang đường mà truyện võ hiệp có thời đã bỏ dở. Ấy là thời được tung ra những truyện võ hiệp gọi là đứng đắn. Trong những truyện ấy người ta cam đoan rằng những thế võ được sử dụng đều là võ thực, nghĩa là đều có tên trong những sách chân truyền, và, sợ thế cũng chưa đủ, người ta lại kèm theo những hoạ đồ trình bầy động tác của từng thế một. Những độc giả thực tế và nghiêm trang được yên tâm là đã không mất tiền và thì giờ một cách vô ích. Hơn thế nữa họ lại có dịp khoe rằng đã tiếp xúc một cách ích lợi với võ học chính tông. Nhưng ai đọc truyện võ hiệp để học võ bao giờ? Võ học trong những truyện là một dịp để người ta tưởng tượng, cũng như người ta đọc những truyện khoa học giả tưởng không để trở thành kỹ sư, mà để tưởng tượng trên những có thể, tưởng là không thể tưởng tượng được, của khoa học. Nhưng người ta hiểu tại sao cái hoang đường của những truyện luyện kiếm lại có thể cám dỗ người ta hơn là tất cả những thứ võ thuộc những truyện khác.
Một thỏi sắt luyện thành một thanh kiếm tốt đã khó. Nhưng khó hơn nữa là luyện thế nào để tự nó thu nhỏ lại bằng cái lá. Khi ấy người ta có một diệp kiếm; nhỏ hơn, bằng một viên ngọc, là hoàn kiếm, nhỏ hơn nữa, bằng hạt cát, là sa kiếm. Lạ là càng thu nhỏ thì năng lực của kiếm càng lớn. Tất cả xẩy ra như năng lực ấy, càng bị dồn trong một khối thể chất nhỏ bao nhiêu, lại càng tăng trưởng bấy nhiêu. Và đến khi miếng thép ấy hoá ra nước làm thuỷ kiếm, ra hơi làm khí kiếm, ra ánh sáng làm quang kiếm, thì năng lực phát huy được kể như không cùng. Tương quan ấy giữa năng lực và thể chất không làm người ta suy nghĩ ra sao? Nhưng tôi không muốn nói rằng những tác giả võ hiệp là những Einstein bị người đời quên lãng.
2. Ý nghĩa của nội lực
Kiếm tuy nhiên vẫn chỉ là một vật ngoại thân. Căn bản của võ học theo Kim Dung lại ở nội lực. Nội lực là cái nguyên khí tản mác ngoài thiên nhiên mà, theo những cách luyện đặc biệt, người ta thâu nạp được trong người. Khi giao đấu thì nội lực ấy có thể, từ lòng bàn tay, xuất phát ra những ngọn gió lớn có sức đánh gẫy cây và đập nát đá. Nói theo kiểu của giới đọc võ hiệp, người ta gọi thế là dấu chưởng. Xem như thế thì chưởng phong còn hoang đường gấp mấy lần quang kiếm. Uy lực của quang kiếm dù sao cũng là thể chất. Sức của chưởng phong thì tuỳ ở nội lực. Và nội lực là một cái gì cũng mơ hồ như nguyên khí của thiên nhiên. Người luyện kiếm tiếp tục một truyền thống thợ rèn, tìm cách chế hoá thể chất ra năng lượng. Nội lực trái lại, là một sức mạnh vô hình. Cũng như tinh thần. Và người ta không thể ngờ rằng võ học Kim Dung cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của thần bí học. Ấy là một thần bí học duy tự nhiên. Cho nên người anh hùng Kim Dung là người nhờ gặp may uống được máu rắn, ăn được kỳ hoa, nuốt được dị quả mà tiếp thu những mãnh lực nguyên thuỷ của vũ trụ súc tích trong những vật ấy để trong chốc lát, đạt tới nội lực thượng thừa. Luyện nội lực như thế, để nói như những triết gia là một cách trở lại nguồn. Thường thường một nội lực thâm hậu đòi ở người ta một công phu dài mấy chục năm. Nhưng như người ta thấy, được một dịp may trời cho, thì mấy mươi năm luyện tập cũng chưa bằng. Trời trong Kim Dung có những đặc ân như muốn riễu những cố gắng của con người. Kể cả khả nghi. Nhưng không thế thì làm sao võ lâm có thể đổi mới và sinh ra những biến cố bất ngờ?.
Nội lực đã thâm hậu thì võ công nào người ta cũng học được. Luyện những võ công tinh xảo quá mà thiếu nội lực thì trái lại người ta có thể bị tẩu hoả nhập ma, và dù có luyện được, cũng không thể nào phát huy được hết uy lực của nó. Người giàu nội lực thời dùng một thế võ tầm thường cũng có thể đạt tới một uy lực siêu phàm và khắc chế những võ công tinh xảo, như Trương Quân Bảo lấy mấy ngọn quyền nhập môn của phái Thiếu Lâm mà thắng được một Hà Túc Đạo mà đời xưng tụng là kiếm khách. Nhưng đặt nội lực trên cái tinh xảo của võ công, phải chăng một lần nữa Kim Dung lại đặt tự nhiên trên sức chế hoá và công phu của con người? Cũng có lẽ. Nhất là khi người ta nhớ rằng trong truyện ông, đạt tới tuyệt đỉnh của võ học không phải là một Hoàng Dược Sư chẳng hạn, muốn lấy trí năng của mình để đoạt quyền tạo hoá, mà, những nhân vật độc ác như Âu Dương Phong, ngay thẳng như Hồng Thất Công, thật thà như Quách Tĩnh, ngây thơ như Châu Bá Thông, sống toàn theo năng tính nghĩa là con người tự nhiên của họ. Trở về tự nhiên, trở về nguồn, khi ấy, cũng là trở về cái phần nguyên thuỷ của mình. Và người ta có thể nghĩ rằng lấy nội lực làm căn bản cho võ học, Kim Dung đã chẳng làm gì hơn là đặt căn bản võ học trong lòng người. Uy lực của người anh hùng từ giờ không ở cái sảo của võ công và của khí giới nữa cũng như cái gì đe doạ chàng trên giang hồ không còn là những nguy hiểm của thế giới bên ngoài mà ở ngay chỗ sâu xa nhất trong người chàng. Nguy hiểm ngoại tại người ta có thể lấy trí năng để giải hoá. Nhưng đấu nội lực thì ai cũng biết là chỉ có một mất và một còn. Cả con người mình khi ấy phải ngưng tụ để chống trả. Suy tính gì được nữa? Sểnh một cái, tâm hồn giao động, thế là bị phân tâm và nội lực ly tán. Khi ấy thì không chết người ta cũng bị trọng thương. Và kẻ thắng trận trước hết là kẻ giữ được cái tĩnh của lòng mình trước những xôn xao của ngoại giới. Nhưng ý nghĩa của võ học cũng thay đổi hẳn. Võ học trở nên một kỷ luật của nội tâm và nội lực cũng giống cái mà, theo ngôn ngữ khác, người ta gọi là đức tin.
Sự nội tâm hoá ấy tuy nhiên lại mở rộng phạm vi võ học. Xưa võ học không ra ngoài một nghệ thuật sử dụng quyền, cước và khí giới thì giờ người ta có thể giết nhau trong một tiếng cười, một tiếng rống, một tiếng sáo, một tiếng đàn. Tất cả là làm thế nào cho tinh thần đối phương rối loạn. À! Các tác giả võ hiệp đã không sống uổng trong thời đại của tâm lý chiến! Nhưng còn gì đẹp và ghê người hơn cảnh một đôi cao thủ, người đàn và người sáo, một đêm trăng trên mặt bể, vận nội lực trong những tiếng nhạc thâu hồn? Tệ hơn nữa người ta có thể dùng những điệu thoát y vũ! Nhưng bị võ lâm nguyền rủa như môn võ ác độc nhất vẫn là “Hoá công đại pháp” chuyên môn dùng để phá nội lực của con người. Hình như chạm đến nội lực là chạm đến một cái gì thiêng liêng. Võ học chính tông trong Kim Dung tuy nhiên cũng giống như đạo. Ở chỗ tối cao của nó thì người ta trở nên “tĩnh” như Thái Sơn. Ấy là cái tĩnh của người đã đạt tới cái chân nguyên của tự nhiên và của lòng mình. Người và tự nhiên khi ấy là một. Những xôn xao của ngoại giới không còn làm gì được người ta nữa. Và trong cái tự do tuyệt đối của tinh thần, người ta có thể, không những như Hà Túc Đạo, tay kiếm tay đàn không sợ rối chí mà, xa hơn nữa, không cần xuất thủ, còn có thể ngồi yên lấy ý điều khiển nội lực đánh lại người.
3. Võ học như một yếu tố của truyện kể
Cái tĩnh ấy lẽ dĩ nhiên chỉ có thể có với một nội lực siêu phàm. Sức mạnh thực không cần phô trương. Ít khi Kim Dung dùng những tĩnh từ mỹ lệ để mô tả cách biểu diễn của một võ công. Ông không tìm trong võ công cái ngoạn mục của những động tác. Trông không còn gì tầm thường hơn là những cuộc đấu nội lực? Nhưng ấy cũng là những cuộc đấu khẩn trương nhất và tất cả nghệ thuật giờ là làm ta tham dự vào sự khẩn trương ấy. Hết làm vui mắt, võ học trở nên một yếu tố gây xúc động nghĩa là để nói với tâm hồn. Xu hướng của nó là càng ngày càng tiết kiệm những động tác. Nhưng sự kín đáo ấy đã thành ra một dấu hiệu của sức mạnh thực. Hãy nhìn thế võ ấy chẳng hạn: xem thật là đơn sơ, nhưng thủ có, công có, và hàm chứa không biết bao nhiêu cách biến hoá, xem nhẹ nhàng, nhưng cực kỳ độc lạt, xem chậm chạp nhưng uy mãnh vô cùng. Cây cổ thụ ấy ngang nhiên đứng thẳng. Nhưng sẽ phất ống tay áo là nó đổ. Khi ấy người ta mới thấy rằng những thớ gỗ trong cây đã nát. Nó đã trúng Thất Thương quyền. Sự ngạc nhiên của người ta khi ấy, một võ công ồn ào hơn làm gì có thể gây nên. Cái ngoạn mục bớt đi. Nhưng chấn động tâm lý lại càng lớn. Quãng cách giữa nguyên nhân và kết quả, nghĩa là cái phần biểu diễn ấy, được thu giảm đến cùng cực. Và người ta như bị đẩy trước một huyền bí. Ấy là cái cảnh, chẳng hạn, “không biết người khách ấy xuất thủ như thế nào mà đối phương hự lên một cái rồi ngã lăn ra chết”. Võ công gì mà lạ thế? Không ai nhận ra, nhưng, như một tia chớp, nó vụt lòe lên như tiêu ký của bóng tối. Các môn phái thành danh, trong khi ấy, đều có những võ công đặc biệt. Và một miếng võ thường là một căn cước. Nhưng trước miếng võ kỳ bí ấy ai chẳng rùng mình. Rắc rối hơn nữa là có những cao thủ dùng võ công của môn phái này để giết người môn phái kia. Ấy là một dịp cho không biết bao nhiêu nghi vấn như khi trên thân thể dập nát của Dư Đại Nham ấn tích của “Kim cương chỉ” vốn là một tuyệt kỹ bí truyền của Thiếu Lâm, làm mọi người hoang mang không biết ai là hung thủ. Chẳng lẽ lại là một trong những thần tăng uy đức trấn giang hồ? Nhưng chắc không thể không là một cao thủ tuyệt luân và món “Kim cương chỉ” trở nên một nỗi ám ảnh nhức nhối để, như một tang vật của tội ác trong những chuyện trinh thám, ngưng tụ quanh nó cả một không gian chập trùng đe doạ và bí mật. Ấy là không kể những khi trên giang hồ xuất hiện những miếng võ thất truyền làm người ta sực nhớ lại cả một dĩ vãng hoang đường.
Nói tóm lại thì võ lực trong Kim Dung không phải chỉ có những cái tên rất đẹp. Nó không chỉ là cơ hội cho những vũ điệu ngoạn mục mà còn góp phần vào sự diễn biến và sức dẫn cảm của truyện. Cho nên tuy những môn võ quan trọng trong Kim Dung chẳng có mấy và toàn là võ bịa, nhưng đã đọc qua thì người ta không thể dễ dàng quên. Ai chẳng còn nhớ đến Nhất Dương chỉ, Lạc Anh quyền, Đả Cẩu bổng, Lăng Ba vi bộ v.v… Những võ công ấy cứ trở lại, không những trong một truyện, mà từ truyện này sang truyện khác như những thể tài của một nhạc tấu. Và sự thường trở lại ấy cũng đủ cho chúng một cá thể đặc biệt. Hơn thế nữa võ công nào cũng gắn vào một nhân vật, nhắc lại một diễn biến trọng yếu, có những đặc điểm và một lịch sử riêng; như Giáng long Thập bát chưởng, truyền từ đời này sang đời khác, cho đến khi đã thất truyền mà kỷ niệm còn chấn động giang hồ. Sự có mặt của chúng chẳng khác nào của những nhân vật. Ấy là không kể có khi một võ công có thể thực sự trở nên một nhân vật chính của truyện như Cửu âm chân công mà trong võ lâm ai cũng muốn luyện cho được để xẩy ra bao nhiêu vụ tương tàn. Và tập Đồ long đaochẳng hạn có kể gì hơn là sự phân tán và tái thống nhất của võ lâm qua sự phân tán và tìm lại thấy của Cửu Dương thần công? Truyện võ hiệp của Kim Dung cũng là truyện võ học nữa.
4. Võ học và cơ cấu luận
Trong truyện võ hiệp cổ điển thì võ học không đặt ra một nghi vấn nào. Chính phái và tà môn cũng dùng một thứ võ. Ấy là một kiến thức chung cho mọi giới trong giang hồ. Những môn phái có thể đánh nhau, nhưng từ môn phái này sang môn phái khác, người ta vẫn thấy những miếng võ ấy được sử dụng. Võ học khi ấy cũng vô danh như ngôn ngữ và như ngôn ngữ, chỉ có giá trị của một phhương tiện. Phương tiện chung. Hơn nhau duy ở kinh nghiệm, tài và sức riêng của mỗi người. Nhưng truyện Kim Dung bắt đầu khi võ học đã mất sự thống nhất ấy. Mỗi môn phái giờ có một thứ võ. Lẽ dĩ nhiên người ta vẫn coi Đạt Ma sư tổ là ông tổ của võ học Trung Nguyên. Nhưng cái vốn của ông truyền lại, những kẻ đến sau, mỗi người chỉ lĩnh hội được một phần. Và cái phần ấy, mỗi người lại hiểu theo một cách, tuỳ tư chất và kiến thức của mỗi người, để từ đó tham bác, chế hoá và sáng tạo thêm ra. Thành ra cũng cùng một gốc mà võ công trong thiên hạ tại không cùng lịch sử: một môn phái là một truyền thống.
Những trang đầu của truyện Đồ long đao cho người ta thấy từ những đoạn của Cửu Dương chân kinh nghe lỏm được ở miệng Giác Viễn lúc lâm chung, Quách Tường và Trương Quân Bảo, tư chất và kiến thức khác nhau, đã lập ra hai môn phái khác nhau thế nào. Sự biến hoá ấy của võ học làm người ta nghĩ đến sự biến hoá của ngôn ngữ. Cũng một ngôn ngữ mẹ mà tuỳ theo địa phương biến hoá đến nỗi người địa phương này không còn hiểu được người địa phương kia. Võ học cũng thế, tuy cùng một gốc mà giờ võ công của mõi môn phái lại tuân theo một qui tắc, đòi hỏi một cách luyện tập, và có một lối phá giải riêng. Muốn phá giải một võ công thì trước hết phải biết cách biến hoá nghĩa là cái văn phạm đặc biệt của nó. Cho nên không thể lấy võ công này mà thắng võ công khác cũng như không thể nói là có võ công nào hơn võ công nào. Nhưng có những võ công mà văn phạm phức tạp hơn, khó phá giải hơn và biến hoá khó lường trước được hơn. Một khi tuy nhiên đã biết cái văn phạm ấy rồi thì sự phá giải không còn là một nan đề. Lưỡng Nghi đao pháp triền miên bất tuyệt như thế mà chỉ cần biết rằng sự biến hoá của nó dựa trên một cách chuyển bộ theo Bát quái là Vô Kỵ có thể thoát khỏi vòng vây của nó một cách dễ dàng. Cái gì Kim Dung muốn người ta thưởng thức trong một võ công, một lần nữa, không phải là cái ngoạn mục của sự biểu diễn mà là văn phạm, cơ thức, nguyên lý, nói tóm lại, sự mạch lạc nội tại của nó. Mạch lạc đến nỗi có khi một miếng võ có thể sử dụng ngược chiều mà vẫn được như thường. Lẽ dĩ nhiên thế chỉ là một chuyện nên thơ. Và cái nên thơ ấy mà Kim Dung mang lại cho võ học là cái nên thơ của cơ cấu luận. Nghĩa là của những gì phân tích được.
Cái huyền bí mà những võ công của Kim Dung thoạt cho người ta thấy chợt tiêu thất. Và sự sáng sủa bắt đầu của những lý do và số lượng. Cái văn phạm khúc chiết của mỗi võ công không kể, mỗi võ công lại chia làm nhiều chiêu, mỗi chiêu lại gồm nhiều thức, mỗi thức lại chia nhiều thế. Hơn thế nữa, lại có thể tính xem mỗi võ công người ta luyện được mấy thành hoả hầu và được sử dụng với mấy thành công lực. “Thành” là đơn vị để ước lượng mức thành đạt của người luyện võ cũng như uy lực của mỗi đòn tung ra. Nói tóm lại thì tất cả đều đo được, tích giải được, phân chiết được. Và người ta vào thế giới của những phức thể. Ấy là thân thể con người chằng chịt những huyệt đạo và kinh mạch như một cái lưới tinh vi, những độc dược mà thứ nào cũng là một pha trộn theo những phân lượng bí truyền, giữa rất nhiều dị thảo, những kiếm pháp chung đúc cái tinh hoa của không biết bao nhiêu môn phái khác nhau, sự phối hợp ảo điệu giữa hai cao thủ, người này sử dụng võ công vốn tương khắc với võ công của người kia, thành một thế liên hoàn không có gì phá nổi, môn Phân thân Tâm pháp cho phép người ta mỗi tay dùng một tuyệt kỹ để biến một người duy nhất thành một cao thủ… Phân tích, phối hợp, ấy là những động tác căn bản của cơ cấu luận. Nhưng có lẽ không chỗ nào ấn tích của cơ cấu luận lại rõ ràng hơn trên những môn võ dựa vào thư pháp, như Đồ long công chẳng hạn, mà mỗi đòn là một nét chữ. Mỗi chữ khi ấy trở nên hoạ đồ của một chiêu số. Không những đọc được mà như người ta thấy, cái văn phạm nội tại của môn võ lại có thể vẽ ra được nữa! Ai làm thế nào để một người không biết võ, không cần giải thích dài lời, có thể thất và thông đạt những cơ thức của một võ công một cách dễ dàng hơn? Nhưng còn chuyện Cửu Âm chân kinh…
Cửu Âm chân kinh là một võ học kỳ thư. Và các cao thủ ai cũng muốn cướp nó cho được để luyện những võ học tuyệt luân có ghi trữ. Khốn nỗi tự bản duy nhất của nó đã bị huỷ và chỉ có Quách Tĩnh là người đã học nó thuộc lòng. Người ta còn nhớ Âu Dương Phong đã tìm cách buộc Quách Tĩnh phải chép lại bản kinh ấy cho y như thế nào. Không thể làm khác, Quách Tĩnh đành y lời, nhưng khôn ngoan, lại cố ý, chữ “tác” đánh ra chữ “tộ”, chép cho sai. Lẽ dĩ nhiên Âu Dương Phong đọc không hiểu. Nhưng nhũn nhặn nghĩ rằng ấy là tại văn của Cửu Âm chân kinh uẩn súc quá và cái óc thô bạo của mình không nhìn thấy chỗ tinh tế của nó, y bắt Hoàng Dung, người yêu cực kỳ thông minh của Quách Tĩnh, giảng cho vỡ lẽ. Hoàng Dung cũng nói dựa mà giảng bừa cốt cho xuôi tai thì thôi. Âu Dương Phong cứ theo những lời giảng ấy mà luyện, thấy rất khó, nhưng vẫn tự cưỡng. Là người khác thì đã “tẩu hoả nhập ma” mà chết. Nhưng nội lực Âu Dương Phong đã tới chỗ siêu phàm. Y không chết, nhưng tất cả kinh mạch trong người đều chạy ngược, y phải đi bằng hai tay, chân chổng lên trời và rốt cuộc không còn nhớ Âu Dương Phong là ai nữa. Võ công của y, trong khi ấy, lại trở nên vô địch. Ấy cũng là võ công của Cửu Âm chân kinh. Những chiêu thức tuy nhiên đều đảo ngược và cách biến hoá của chúng tuân theo một sự mạch lạc mà người ngoài không thể hiểu: ấy là sự mạch lạc của người điên. Hoá ra người điên cũng có lý của họ và không có gì, dù tạp loạn đến đâu, mà người ta không thể đưa tới một thế tương tất. Chỉ cần một luận lý khác! Nhưng mẩu chuyện ấy không đủ chứng tỏ tinh thần nhân bản của Kim Dung. Cái gì người ta còn thấy là, xô đến tận chỗ nghịch lý, cái nên thơ của cơ cấu luận.
5. Sự tương đối hoá võ học và thế đa nguyên của võ lâm
Một cơ cấu là một cá thể độc đáo. Nhưng nó cũng định một giới hạn. Cái độc đáo vốn là cái không phổ biến thì những gì, ở chỗ này, là những ưu điểm, ở chỗ khác, lại có thể xuất hiện như những khuyết điểm. Như những ngôn ngữ, mỗi võ công chỉ đáp ứng một số nhu cầu nhất định. Không thể có võ công toàn năng. Lạc Anh chưởng chẳng hạn có mau nhưng không mạnh, Hàm Mô công mạnh nhưng thân pháp lại khó coi, Nhất Dương chỉ thì chỉ có bọn đồng tử mới học được. Thất Thương quyền lợi hại bao nhiêu! Nhưng muốn luyện được môn võ ấy thì trước hết phải tự đả thương tạng phủ đến bẩy lần. Trong khi ấy thì Lăng Ba vi bộ chỉ là một phép tránh đòn cũng đủ để Đoàn Dự có thể buộc một hung thần ác sát lậy mình làm sư phụ. Nhưng đem bộ pháp ấy đối phó với cảnh loạn đả không theo qui tắc nào của những người không biết võ lại bằng thừa. Cái khéo của Kim Dung là đã chia những ưu điểm và những khuyết điểm ấy như thế nào để vừa giữ cái bản sắc đặc biệt của mỗi võ công vừa duy trì sự diễn tiến của truyện trong một tình trạng bất trắc thường xuyên. Thử tưởng tượng một nhân vật có một võ công cứ giở ra là ai cũng thua thì truyện sẽ chán biết mấy! Cái thú với Đoàn Dự chẳng hạn là không ai có thể biết trước khi nào Lục Mạch thần kiếm của chàng ta “chạy” và khi nào không. Nhưng nó chỉ có trong chừng nào kiến thức võ học của Đoàn Dự còn đầy khuyết điểm. Khuyết điểm chính là cái độc đáo và một dịp cho mọi bất ngờ. Cho nên trong Kim Dung nhân vật nào cũng có sở trường và sở đoản. Giỏi võ công thì không có nội lực. Người có nội lực thượng thừa lại không biết võ công. Có người giỏi ám khí. Có người tài khinh công. Có người sành độc dược. Nhưng được một đằng lại mất đi một nẻo. Võ công nào trong thiên hạ mà Vương Ngọc Yến không biết? Nhưng nàng lại không biết dùng võ công. Mưu trí như Hoàng Dung thì môn Song thủ Hổ bác đòi hỏi một tâm hồn chất phác nàng lại không tài nào học được. Tưởng một Tạ Tốn thì cái gì chẳng hơn người! Thế mà lại thua Trương Thuý Sơn ở thư pháp cũng như Vương phu nhân đã thua Đoàn Dự ở kiến thức về hoa trà. Ngược lại thì một Trương Quân Bảo chỉ có mấy miếng quyền nhập môn mà làm cho Côn Luân tam thánh liểng xiểng ôm hận thề không bao giờ trở lại Trung Nguyên nữa. Và để kết luận người ta bảo nhau rằng thật là ngoài trời lại có trời. Có Ỷ Thiên kiếm thì có Đồ Long đao, có Cửu Âm chân kinh thì có Cửu Dương chân kinh, có độc dược của Vương Nạn Cô thì có giải dược của Hồ Thanh Ngưu, có kiếm pháp của Tuyết Sơn thì phái Kim Cô phái cũng có đao pháp để phá giải. Không có cái gì sau cùng không có khắc tinh của nó. Cao thủ này lại dẫn người ta gặp cao thủ khác tài hơn. Người ta càng đi lại càng thấy kiến thức của mình chật hẹp. Võ lâm trở nên một thế giới vô cùng và đã mất trung tâm. Mỗi phương xuất hiện một anh hùng. Khi Anh hùng xạ điêu bắt đầu thì Vương Trùng Dương, con người duy nhất có thể xứng ngôi Minh Chủ võ lâm đã tạ thế. Để môn phái ông ngày một suy đốn và các bạn ông, những người còn sót lại trong Võ lâm Ngũ bá, cứ năm năm một lại trở về Hoa Sơn, tiếp tục những cuộc luận võ không ai được và ai thua. Cũng như thể cái chết của Dương Phá Thiên làm những anh hùng của Minh giáo phân tán, không ai phục ai, mỗi người theo đuổi một cuộc phiêu lưu riêng ở một góc trời. Võ lâm sa vào cảnh chia năm và xẻ bẩy. Xưa các cao thủ đều nhìn về Thiếu Lâm như cái nguồn của võ học. Cái nguồn ấy giờ ở chỗ nào? Thiếu lâm chỉ còn là một môn phái như các môn phái khác. Và võ học cũng như Thượng đế của Pascal là một tinh cầu trung tâm ở khắp nơi, nhưng không biết đâu là giới hạn. Ngần ấy võ công là ngần ấy ngôn ngữ, và võ công nào, trong giới hạn của nó, cũng có thể gọi là vô địch. Làm thế nào có thể thu cái thế giới đã nát vụn ấy vào một mối. Ai cũng muốn làm bá chủ võ lâm. Người ta giết nhau như ngóe để độc chiếm những võ công kỳ bí có thể cho phép người ta khuất phục chúng anh hùng. Câu chuyện nghĩa hiệp đã nhường chỗ cho những cuộc tranh cường đẫm máu. Ẩn tàng trong cảnh tương tàn ấy tuy nhiên, cái gì người ta thấy là sự huy hoàng của một giấc mơ thống nhất.
6. Trở về nguyên lý
Muốn thống nhất võ lâm thì phải là một cao thủ vô địch. Nhưng khi chẳng võ công nào vô địch cã thì làm sao? Tưởng chỉ có một cách duy nhất là nghiên cứu tất cả những võ công của thiên hạ. Ấy là tham vọng của Mộ Dung. Nhưng ai có thể thực hiện được? Khi ngay võ công của môn phái mình cũng chẳng mấy người luyện hết. Hơn thế nữa những võ công phức tạp đòi hỏi một nội lực thâm hậu. Nội lực thâm hậu thì không những võ công nào cũng luyện được mà, như người ta biết, có thể lấy những miếng võ thuật là thô thiển để thắng những võ công ảo diệu hơn. Như thế thì điều trọng yếu của võ học không cứ ở võ công, mà tới một độ nào người ta chỉ coi là những khoa chân múa tay, mà thật ra ở nội lực. Nội lực mới là căn bản của võ học. Nhưng người ta hiểu rằng có sự trở về nguồn ấy là tại võ học không còn thống nhất nữa. Và nếu sau này Vô Kỵ có thể thu võ lâm vào một mối thì cũng tại chàng đã tìm lại được nguyên bản của Cửu chương Chân kinh và luyện một cách chu toàn môn thần công chép trong kinh ấy. Sự thâm hậu của nội lực, tuy nhiên, mới là một điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cái may thứ hai của Vô Kỵ là đã vớ được Càn khôn Đại nã Di Tâm pháp mà, nhờ một nội lực siêu phàm, chàng có thể lãnh hội trọn vẹn. Võ công trong thiên hạ, có nhiều thật, nhưng đều cùng một gốc và chẳng ra khỏi những quy luật của tự nhiên. Sao người ta không thể tìm ra những quy luật chung cho những võ công trên đời? Càn khôn Đại nã Di Tâm pháp không phải là một võ công ảo diệu hơn những võ công khác, nó là nguyên lý của mọi võ công, và người ta có thể coi nó như một thứ văn phạm đại cương tổng hợp và giải thích những văn phạm đặc biệt. Cho nên dù gặp những võ công phức tạp đến mấy thì, nhờ Tâm pháp ấy, Vô Kỵ cũng có thể định ra cơ thức của nó và phá giải được. Khi thì chàng dùng ngay võ công của đối thủ để trả đòn làm cho y ngơ ngác không biết tên này làm thế nào mà biết được những tuyệt kỹ bí truyền của môn phái mình, khi thì, ngộ nghĩnh hơn, chàng chuyển những đòn của đối thủ trở về đánh lại y và đồng bọn gây ra không biết bao nhiêu cảnh khôi hài. Ai chẳng còn nhớ trận Huyền minh nhị lão vây đánh Vô Kỵ bị chàng giở Đại nã di Tâm pháp, làm cho nhị lão, đòn người này trúng phải người kia, và sau cùng, giận quá đâm ra đánh nhau thực sự. Ấy là thuật “lấy gậy ông đập lưng ông” và chính nó đã cho phép Vô Kỵ khuất phục chúng anh hùng và thống nhất võ lâm.
7. Giấc mộng bách khoa
Nhưng đâu có phải ai cũng biết Càn khôn Đại nã di Tâm pháp? Cái may của Vô Kỵ chỉ đến một lần. Khi Triệu Minh muốn nghiên cứu võ học Trung Nguyên thì nàng chẳng biết làm gì hơn là bắt cóc những cao thủ của chín đại môn phái buộc họ phải thi triển những tuyệt kỹ của bản môn cho nàng xem. Những người khác cũng có thể tìm cách học từng võ công một. Càng nhiều càng hay. Và trên con đường của tri thức, võ học từ một phương tiện dần dần trở nên một cứu cánh tự tại. Khi ấy sinh ra những nhân vật như Vương Nạn Cô chuyên chế những độc dược càng ngày càng độc, để hết bỏ cho người này lại bỏ cho người khác, và sau cùng bỏ ngay cho chính nàng nữa, trong mục đích duy nhất là để cho chồng nàng là Thần y Hồ Thanh Ngưu phải xin chịu là thua. Lại có Châu Bá Thông mê học võ công hơn mê gái, luyện võ công không để áp chế ai cả, nhưng vì võ công và như để chơi. Ấy là không kể một Cưu Ma Trí võ công đầy mình mà cứ hết chạy ngang lại chạy dọc, suốt đời bôn ba tìm cách học thêm, tuy chẳng ai biết là để làm gì. Nhưng ai ngờ rằng sự uyên bác, mai mỉa thay, trong cái thế giới bạo động và sự công hiệu trực tiếp ấy, lại trở nên một giá trị? Nó là tất cả uy danh của họ Mộ Dung, cái nên thơ của Vương Ngọc Yến, và biến Tàng Kim Các, nơi tích trữ những võ học kỳ thư trong Thiếu Lâm tự thành một ám ảnh cho những người luyện võ. Ai chẳng còn nhớ cuộc gặp gỡ mở đầu truyện Đồ Long Đao giữa Quách Tường và sư Vô Sắc? Vô Sắc ỷ vào kinh nghiệm và kiến thức của mình, cuộc rằng sau mười thế võ ông có thể nhận ra môn phái của Quách Tường. Nhưng Quách Tường cướp tiên cơ, công một loạt mười thế võ nguồn gốc khác nhau mà nàng được những cao thủ danh trấn giang hồ truyền thọ cho, trước khi chấm dứt bằng một thế của chính Thiếu Lâm tự, làm cho, nếu không xảy ra một chuyện tình cờ, Vô Sắc suýt nữa đành chịu thua. Hào hứng của câu chuyện là cuộc đấu võ đã thành ra một cuộc đấu trí. Thắng Quách Tường thì làm gì Vô Sắc không thắng nổi. Nhưng ông muốn lấy cái học của mình để khuất phục người con gái ngỗ ngược ấy. Và người ta không biết phục gì hơn giữa tác phong của nhà sư và sự uyên bác của một cô gái mười mấy tuổi đầu. Cuộc đua võ học ấy, tuy nhiên trong cái phong thái tài tử của nó, như ngấm ngầm lên án cái võ lực thuần tuý. Sự thắng trận nà có ý nghĩa khi tất cả đều bị tương đối hoá? Con người võ hiệp của Kim Dung trong một thế giới đã mất nguyên lý, trước khi, như Đoàn Dự, nguyền rủa võ học để tôn thờ nhan sắc, bắt đầu quên sứ mạng nhập thế của mình để lạc vào một giấc mộng bách khoa.
Tham vọng bách khoa ấy không chỉ giới hạn trong phạm vi võ học. Như để nhuốm võ học một sắc thái tinh thần ngày càng đậm, người ta thấy các cao thủ tìm mọi cách để thực hiện sự tương kết giữa võ học và các môn học khác. Triết học có: ấy là những võ công khi thì dựa trên kinh dịch, khi mượn Phật học làm căn bản, khi thì lấy cảm hứng trong Lão giáo; y học có: ấy là cả cái hệ thống huyệt đạo và kinh mạch trên thân thể con người; dược khoa có: ấy là cái nghề chế thuốc độc và linh đơn tinh vi và phức tạp; nhạc thuật có: ấy là tiếng sáo thống thiết của Hoàng Dược Sư, tiếng đàn tranh gay gắt của Âu Dương Phong, tiếng đàn cầm não nùng của A Bích; thi ca có: ấy là Đồ long công mà Trương Tam Phong đã tạo ra từ tự hoạch của mấy câu ca dao truyền tụng cái bí mật của đao Đồ Long và cây kiếm Ỷ Thiên. Ấy là không kể những võ công dựa trên một nghệ thuật cắm hoa, pha trà, đánh cờ, viết chữ v.v… Một cảnh thác đổ, một thế chim bay, một kiểu rắn bò, một cảnh cọp ngồi, không có gì trong tạo vật giờ lại không thể là một nguồn cho võ học. Và con người võ hiệp của Kim Dung, ngoài võ học, còn có hơn một sở trường. Mấy ai đã quên những tận đồ của Hoàng Dược sư? Vừa là một kỹ sư con người kỳ quặc ấy vừa là một nghệ sĩ tài hoa. Không những được tôn là kiếm khách, Hà Túc Đạo còn là kỳ thánh và cầm thánh nữa. Người ta thường gặp chàng, trong những khu rừng vắng, đánh cờ một mình và gẩy đàn gọi chim ngàn ca múa. Trong khi ấy thì Tạ Tốn vẫn mang sử ra minh chứng cho tác phong bạo ngược của mình, Trương Thuý Sơn vẫn đam mê thư pháp, Đoàn Dự vẫn diễn thuyết về trà hoa, Hàn Tố Tố vẫn bình văn Trang Tử, Anh Cô vẫn bạc đầu nghiên cứu toán pháp, Hoàng Dung vẫn thừa sức thi thơ với các danh tài nước Đại Lý. Nhưng có gì mà Hoàng Dung không biết? Kể cả khoa nấu bếp làm cho Hồng Thất Công thán phục phải truyền thọ võ công cho nàng trước khi để nàng kế nghiệp mình làm bang chủ Cái bang. Và còn tài cải trang của A chu nữa, thoắt cái nàng biến thành bà lão, thoắt cái thành một nam tử hán, và sau cùng đưa nàng đến một cái chết thảm khốc.
Con người võ học càng ngày càng muốn kiêm bác. Tượng trưng cho cái tham vọng bách khoa ấy là Tô Tinh Hà. Không môn học nào là ông không nghiên cứu. Nhưng rốt cuộc trong môn nào sở năng của ông cũng dở dang. Làm thế nào một cá nhân có thể tinh thâm được tất cả những môn học ở trên đời, khi một cái mênh mông của võ học cũng đủ làm người ta chóng mặt? Sự thất bại của Tô Tinh Hà như đã nói lên tâm sự của một thời đại trước cái kiến thức chung càng ngày càng tăng trưởng và phức tạp, nhưng cũng ngày càng tản mác. Trong Tàng Kinh Các những võ học kỳ thư vẫn xếp thành chồng dầy. Ai là người đã thực hiện được sự tổng hợp của cái di sản ấy? Nhưng ngay biết hết được cái di sản ấy cũng chưa có người. Ôi! Vương Ngọc Yến! Nàng ở đâu? Người con gái ấy chưa bao giờ động thủ, nhưng võ công nào cũng thấu triệt. Nàng có thể nói lên từ lịch sử đến những cơ thức và khả năng của một võ công của môn phái một cách tường tận hơn là ngay những người của môn phái ấy. Cao thủ của môn phái này mới xuất thủ thì nàng đã biết là môn võ nào và cao thủ của môn phái kia sẽ dùng môn võ nào để ứng phó. Khi những đối thủ còn mò mẫm chưa biết nên giở những đòn gì cho phải thì nàng đã tiên liệu được tất cả diễn biến của trận đấu. Và mỗi lần nàng mở miệng mách một thế võ cho một cao thủ thượng thừa thì, nghe cái giọng yêu kiều và xa xôi như đến từ một thế giới khác ấy, người ta muốn nghĩ rằng nàng ở giữa cuộc đời như nàng tiên của tri thức thuần tuý. Tiếc sao võ học trong đời nàng chỉ là chuyện phụ. Người con gái ấy cũng như Đoàn Dư, ngoài thình yêu, chẳng coi gì là trọng. Hai người sinh ra để lấy nhau: một người gần như biết tất cả võ công của thiên hạ và một người, nhờ Chu Cáp thần công có sức hút công lực của người khác, mà súc tích trong người nội lực của không biết bao nhiêu anh hùng. Sự tương kết giữa đôi trai gái ấy, sẽ đưa tới kết quả nào? Không ai biết. Nhưng người ta biết rằng cả hai đều coi võ học như một cái gì phù phiếm, và trước thế chia đôi ấy giữa kiến thức và nội lực, người ta không thể không nghĩ rằng cái thời đã hết khi một Vô Kỵ, vừa có Cửu dương Chân công, vừa có Càn Khôn Đại Mã Di Tâm pháp, thâu tóm trong một cái tất cả những có thể của võ học. Sự tổng hợp ấy sau Vô Kỵ, không xảy ra một lần nữa.
Nhưng trong Thiếu Lâm Tự cũng như trong lòng người võ lâm, Tàng Kinh Các vẫn sừng sững làm chứng cho một chí chinh phục không bao giờ nguôi. Vẫn có người giết nhau, và khó hiểu thay! Thí mạng để độc chiếm một võ công như ông và trong nhóm Trường Bạch tam cầm, đã trúng độc sắp chết, mà cứ giữ khư khư ôm lấy con dao Đồ Long không chịu mang ra đổi lấy giải dược, chỉ vì nghĩ rằng trong con dao ấy có giữ một võ học kì thư, vẫn có những Châu Bá Thông, sau khi đã chán tất cả, mà vẫn chưa biết chán võ học bao giờ, vẫn có những Cưu Ma Trí suốt đời đi tìm những võ công lạ và sẵn sàng làm tất cả để đổi lấy tuyệt kỹ mà mình chưa được biết. Nhưng võ học mênh mông. Võ công này chưa thông đạt thì đã xuất hiện võ công khác phức tạp hơn. Khi chưa nắm được cái nguyên lý của võ học thì có biết bao nhiêu cũng là một cái biết dở dang. Các cao thủ phải học từng võ công một cũng như trong Tàng Kinh Các cuốn võ học kỳ thư này xếp lên cuốn võ học kì thư kia. Trí nhớ khi ấy có một ý nghĩa nên thơ khác thường. Nhưng kiến thức vẫn chỉ là một tổng số không bao giờ đóng thành tổng hợp. Ngay Càn Khôn Đại Nã Di Tâm pháp cũng chỉ là một tổng hợp rất lớn chứ chưa có thể nói là đã đạt tới nguyên lý cuối cùng của võ học. Người ta nhớ rằng Vô Kỵ đã luyện thông bảy lớp của Tâm pháp ấy một cách dễ dàng. Nhưng tới lớp thứ tám thì chàng thấy rất khó và gặp những đoạn văn tối nghĩa và chứa những mâu thuẫn không giải quyết được. Hình như người sáng tạo ra Tâm pháp ấy tới một độ nào cũng đã vấp phải một bức tường không thể nào vượt qua. Hay là tại Kim Dung vẫn muốn dành một phần cho thượng đế? Những Cưu Ma Trí, Mộ Dung Bác, Tiêu Viễn Sơn sau một đời khổ luyện tưởng đã đạt tới giới hạn cuối cùng của võ học thì, ngay khi ấy, họ chợt khám phá ra rằng cái tham vọng vượt bậc của họ nghịch lại những võ công tối cao họ luyện được, mà mục đích là dẫn tới cái ý của võ học trong một sự lãng quên và sự tương nghịch ấy đang ngấm ngầm dẫn họ đến chỗ bị tẩu hoả nhập ma. Cảnh tượng ấy mới tuyệt vọng làm sao! Nhưng con người của Kim Dung trong giấc mộng bách khoa, trong ý chỉ sáng tạo, trong tinh thần chinh phục của nó, ngay khi đã bị cái tham vọng của nó quật ngã, không phải đã không nói lên một cái gì vượt bực trong con người. Sự vượt bực ấy tuy nhiên mang sẵn trong nó cái ngòi của thất bại. Con người có một sức sáng tạo không cùng. Nhưng tất cả xảy ra như người ta càng sáng tạo càng xa chân lý, và càng thất lạc trong cảnh tạp loạn của cái kiến thức người ta đã tạo ra. Cho nên người anh hùng đích thực của Kim Dung như Vô Kỵ, thường không phải là người của sáng tạo mà của sự trở về và của sự tìm thấy lại.
8. Tiến tới một sự phân loại
Cái bể võ học chập chùng chẳng biết đâu là giới hạn. Không võ công nào giống võ công nào. Nhưng nếu chưa thể thu ngần ấy cái độc đáo vào một mối, thì trong khi chờ đợi, sao không thể xếp loại chúng? Hình như Kim Dung đã chia tất cả võ công trên đời ra làm hai khối lớn: Âm công và Dương công. Võ công thuộc Âm công thì mau, mềm mại và ác độc; thuộc Dương thì chậm nhưng dũng mãnh và cương trực. Người đời coi thứ võ công này là chính giáo và thứ võ kia là môn. Võ công tuy nhiên chỉ là phương tiện. Khác nhau duy ở mục đích cuối cùng của người dụng võ. Âm hay Dương thì võ công nào mà chẳng giết người. Xem Kim Dung nhấn mạnh trên mọi sự phân biệt giữa Âm và Dương thì người ta thấy rằng tất cả cố gắng của ông là để xem những tiêu chuẩn tự nhiên thay thế cho những tiêu chuẩn nhân văn và đạo lý. Tà và Chính đổi thành Âm và Dương nghĩa là hai mãnh lực của tự nhiên; trong tự nhiên không có Tà và Chính, và Âu Dương Phong và Hồng Thất Công, một người đại diện cho Ác tâm và một người đại diện cho Thiện chí, sau mười mấy ngày đấu liên tiếp, lại có thể ôm nhau để cùng chết giữa lúc tiếng cười của họ càng chấn động cái hoang vu của những đỉnh núi tuyết nghìn năm. Mẹ tự nhiên đã giải hoà hai đứa con xung khắc của mình. Xã hội người đặt chúng vào cái thế tương nghịch. Ác của đứa này tuy nhiên cũng như thiện của đứa kia đều có gốc ở năng tính. Và năng tính giống như một mãnh lực của tự nhiên, trong Kim Dung, người ta biết là bao giờ cũng tốt. Khả nghi nhất là những con người của trí năng. Ấy là những Hoàng Dược sư chẳng hạn. Người đời thường hỏi họ thiện hay ác. Nhưng họ khinh dư luận, coi rẻ đạo lý của người đời và tự đặt những quy luật riêng để hành động. Tham vọng của họ là mang tài mình ra cướp quyền tạo hoá. Không những giỏi võ công mà, trong những lĩnh vực khác, kiến thức của họ thường cũng thâm viễn vô cùng. Ngoài cái tài hoa của một nghệ sĩ, Hoàng Dược sư còn thông thạo trận đồ, kiến trúc và những kỹ thuật làm máy móc. Xa lục địa, trên đảo Đào Hoa, ông xây dựng cả một giang sơn biệt lập cho mình. Cái trí, cái xảo, cái tài hoa ấy tuy nhiên có một cái gì điêu bạc. Những con người ấy quá nhậy cảm và giàu tưởng tượng. Óc của họ không ngừng làm việc, bầy mưu và thiết kế. Làm sao trong sự giao động thường xuyên họ có thể có cái tĩnh cần thiết để tới cái chân nguyên của võ học mà chỉ thông đạt những tâm hồn chất phác và đơn thuần nghĩa là gần tự nhiên hơn? Cho nên những võ công mà chính cái tài hoa của họ làm họ không tài nào luyện được. Và võ công của họ thường cũng mang ấn tích của cái tài hoa ấy mà họ vốn có thừa, nghĩa là phức tạp, khi thực khi hư, mau lẹ và uyển chuyển, nhưng nhu Lạc Anh quyền, đôi khi không khỏi thiếu phần cương trực. Người ta sẽ thường xuyên gặp trong Kim Dung thái độ nước đôi ấy trước trí năng, vừa cảm phục lại vừa nghi kị. Ấy là cái ngòi bảo thủ trong văn ông.
Năng tính là giải thuyết của sự đối lập giữa Thiện và Ác. Nhưng giữa năng tính và trí năng thì sao? Hình như Kim Dung lại muốn vượt sự đối lập ấy trong con người của Đạo. Sau khi nghe giảng Thái Cực quyền lần thứ nhất, thì Vô Kỵ chỉ nhớ một nửa những chiêu đã học. Nhưng nghe giảng một lần nữa thì xét lại, chàng còn nhớ có hai ba chiêu trong đầu. Người ta không khỏi ngạc nhiên. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn nữa là khi cái lối càng học càng quên ấy lại được coi là một tiến bộ. Cũng như thế, trong một truyện khác, người ta thấy một anh hùng giang hồ than thở là kiếm pháp trên đời tuy ông đã thuộc cả, nhưng vẫn chưa đến chỗ tối cao là quên được những kiếm pháp đã học ấy! Thì ra cái biết thực của võ học không ở những cách khoa chân và múa tay của những chiêu lẻ mà ở nguyên lý của chúng. Khi thấy cái nguyên lý ấy rối, nghĩa là đã thu những tạp chiêu ấy và một mối, thì người ta không cần nhớ đến chúng nữa. Một chiêu còn nhớ là một chiêu chưa thấu triệt, sự thống nhất chưa trọn vẹn, và cái biết còn dở dang. Cái biết thực của võ học cũng như trong đạo là một sự lãng quên những ảo ảnh của ngoại thể để tới cái chân nguyên của tất cả. Nhưng người và tự nhiên khi ấy mới thực tương đồng, trí năng và năng tính là một. Cá nhân thực hiện được sự thống nhất của mình. Những xôn xao của ngoại giới không thể làm hắn phân tâm nữa và cái tĩnh thuần nhất của lòng hắn không còn gì giao động nổi. Ngay võ công luyện được hắn cũng quên đi. Ấy là khi võ công đã thấm vào người hắn đến chỗ có thể tuỳ nghi tự ý phát động mà không cần sự can thiệp của ý chí. Tương Trùng Dương trong Anh hùng xạ điêu, Trương Tam Phong và bộ ba Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp trong truyện Đồ long đao, nhà sư già coi Tàng Kinh Các trong Thiên Long bát bộ là những người đã gần như tới độ tối cao của võ học. Không phải ngẫu nhiên họ là những đạo sĩ và tăng nhân đã thoát tục. Nhưng chẳng lẽ Kim Dung lại kể chuyện võ hiệp để ca ngợi cái đức của sự tu hành? Nhưng có lẽ một cái nhìn kỹ lưỡng vào thế giới và nghệ thuật Kim Dung sẽ cho người ta một đáp thuyết vững vàng hơn.
III. Truyện võ hiệp cổ điển
Như trên đã nói thì võ công, trong truyện võ hiệp cổ điển, có cái vô danh của một phương tiện. Không ai phân biệt Tà và Chính giữa những võ công. Nhưng giữa các môn phái thì sự phân biệt ấy càng minh bạch. Các môn phái đều dùng một thứ võ. Sự khác nhau trong bản chất giữa họ, tuy nhiên, là của đêm và ngày: Tà môn tượng trưng cho tội ác cũng như chính phái tượng trưng cho công lý và cái thế chia đôi ấy của võ lâm không để thừa chỗ cho một nghi vấn nào.
Người anh hùng là người của Công lý. Ấy thường là một thanh nhiên cha mẹ mất sớm bị hại và may được một võ lâm dị khách lượm về nuôi và truyền thụ võ công. Truyện bắt đầu khi, đã thành tài, chàng từ biệt ân sư xuống núi để phục thù. Nhưng trước khi công thành thì chàng đã bao lần sa vào ổ giặc, đã bao lần chàng phải đương đầu với cường quyền và bạo lực, đã bao lần chàng can thiệp trong những chuyện vong luân. Thù nhân của chàng lẽ dĩ nhiên cũng là một nhân vật trọng yếu của cái xã hội phức tạp ấy. Và người ta hiểu rằng trong công việc của chàng Công lý và tư thù chỉ là một. Con đường tầm cừu cũng là con đường nghĩa hiệp và khi thù nhân đã đền tội dưới tay chàng thì người anh hùng cũng biết rằng tất cả chỉ mới bắt đầu, và mối thâm thù của chàng chẳng qua là một cớ để mở màn và chấm dứt một cách dễ coi một giai đoạn trong cuộc xung đột muôn đời giữa Tà đạo và Chính nghĩa.
Chính nghĩa không thể nào thua. Cho nên khi người anh hùng xuống núi là người đầy những võ công cái thế. Không ai địch nổi, từ hắc điếm đến ác tù, đả lôi đài xong lại phá sơn trang, cướp pháp trường, giết tham quan, diệt thảo khấu, chàng theo đuổi một hành trình vạn thắng và không bao giờ trong đầu chàng một nghi ngờ có thể thoáng qua về cái sứ mệnh thiêng liêng của chàng. Truyện cũng diễn ra theo một đường thẳng như cuộc hành trình ấy. Lẽ dĩ nhiên cũng có lúc người anh hùng lâm nguy và tính mạng bị đe doạ. Ngay khi ấy người ta vẫn yên tâm, tại người ta biết rằng, dù chàng có chết thì ấy là một cái chết vinh quang cho sự thực hiện của công lý ở trên đời và người thắng trận rốt cuộc cũng là chàng. Sự hồi hộp không thể có trong truyện võ hiệp cổ điển. Người ta theo người anh hùng từ chiến công này đến chiến công khác. Ấy là ngần ấy giai đoạn của một con đường chỉ có một chiều và chúng tiếp theo nhau thành tràng hạt, nghĩa là giữa chúng không có tương quan nào khác sự tiếp theo nhau. Từ chiến công này đến chiến công khác, ý nghĩa của truyện cũng như tâm lý nhân vật không hề thay đổi. Chiến công nào cũng chỉ ca tụng một lần nữa cái anh hùng của ngưới anh hùng và sự thắng trận muôn đời của chính nghĩa trên Tà đạo.
Nhân loại tầm thường làm sao tham dự vào cuộc xung đột ấy giữa những ý tưởng? Họ chỉ có thể chiêm ngưỡng. Và tương quan duy nhất giữa họ và thế giới của truyện là một tương quan ngoại tại. Những nhân vật vốn là những Ý tưởng nhập thế không thể có tâm sự nào để họ chia xẻ. Kẻ được người thua lại định sẵn từ trước. Cho nên diễn biến của truyện không dành cho người ta một bất ngờ nào và người ta cũng không có dịp để tự hỏi và trông chờ những gì sẽ xảy ra. Tất cả đều sẵn có một ý nghĩa cố định và trong thế giới minh bạch ấy, người ta thừa đoán là không có chỗ nào cho bóng tối, cho nghi vấn, cho sự tò mò. Người đọc đã biến thành một khán giả để xem, nhìn, ngắm sự tái diễn của một vở tuồng mà người ta đã thuộc kỹ từng giai đoạn.
Vẫn những vai trò và một trò ấy. Khác duy ở diễn viên và cảnh trí nghĩa là ở những thay đổi ngoại tại. Nghệ thuật kể chuyện trở nên một nghệ thuật dàn cảnh. Và cái ngoạn mục trong nghệ thuật ấy là giá trị đầu tiên. Sự mô tả trong truyện võ hiệp cổ điển chiếm một phần quan trọng. Có gì mô tả được mà không được mô tả tỉ mỉ? Ấy là cái dị hình của những khí giới, cái hiểm hóc của những cơ quan, cái hùng vĩ của những sơn trại, cái uy nghi của những thao trường, cái náo nhiệt của những phồn hoa, cái sặc sỡ của áo gấm và quần mầu, cái nhịp nhàng của những võ công như vũ điệu… Tất cả đều đập vào mắt người ta, tất cả đều phô trương sự tinh xảo của những kỹ thuật nhân văn, tất cả đều biểu diễn một trật tự minh bạch và không thể nghi ngờ. Ý nghĩa của tất cả đều có thể đọc ngay lập tức nghĩa là đều xuất hiện ra ngoài mặt. Ngay những tình cảm cũng được diễn tả một cách trực tiếp. Khi tức giận thì thét ầm ĩ, khi thích chí thì cười um lên như phá, khi đau khổ thì rống như dã thú bị thương và đáng tiếc thay! Khi e lệ, những trang nữ hiệp cũng “mân mê tà áo” như một cô gái tầm thường. Nhưng người ta hiểu rằng trong cái thế giới để chiêm ngưỡng ấy, cũng như trên sân khấu, thực tình của những cử chỉ không quan trọng bằng ý nghĩa của chúng, và trước khi làm người ta cảm động, thì công việc là cho người ta thấy đã. Càng ước lệ thì sự diễn tả lại càng công hiệu.
Tâm lý nhân vật được giản lược một cách tối đa. Lẽ dĩ nhiên nhân vật nào cũng được gán cho một cá tính. Nhưng cá tính ấy không có gì giống cái phức tạp của một tâm hồn mà, nếu có thể nói như thế, chỉ có thể tính cách ngoại tại của một con số để phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, như có kẻ trung thì có người gian, có người nóng nẩy thì có kẻ ôn hoà, có kẻ mưu cơ thì có người chất phác. Cho nên không những tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ của nhân vật đều diễn tả một cách rõ ràng các cái cá tính người ta gán cho y mà cá tính ấy còn có thể trông thấy trên y phục, võ khí và diện mạo của y nữa. Nhất là trong các nhân vật phụ, thì người ta thấy rằng các dị điểm, từ cái răng vẩu đến một con mắt lồi, đều được tô đậm và thổi phồng lên, như những nghịch hoạ, để ai cũng có thể nhận ra cách dễ dàng. Người anh hùng tuy nhiên được miễn cái nạn tả chân thô thiển ấy. Ấy là tại con người chàng vốn là kết tinh của Chân, Thiện, Mỹ, trong sự tuyệt hảo của nó, chỉ có thể ở ngoài tầm những tĩnh từ. Uy vĩ, khôi ngô, tuấn tú v.v… chữ nào có thể xứng với cái bản chất siêu tục của người anh hùng? Cái mặt nạ người ta thấy chàng thường đeo khi hành hiệp lẽ dĩ nhiên không để làm tăng trưởng một bí mật vốn đã trong suốt như ban ngày, nhưng để xoá bỏ cái phần nhân loại cuối cùng trong con người chàng và đưa chàng tới cái vô danh của ý niệm. Con người sau cái mặt nạ ấy không còn là một cá nhân với những dị điểm và một đời sống riêng tư nữa. Hắn là thần công lý. Khi thì như ma quỷ, khi thì như thuiên thần, nhân vật võ hiệp cổ điển là những nhân vật quá độ. Không có gì giống nhau giữa họ và anh và tôi. Nhưng tất cả cố gắng của người kể truyện là để tách họ ra khỏi cái nhân loại thường ngày để thấy họ, là người ta biết ngay rằng các chuyện đang xảy ra không phải là một chuyện giữa người và người và những nhân vật ấy chỉ là những diễn viên của một vở tuồng kể lại cuộc xung đột muôn đời giữa Tà đạo và Chính nghĩa. Tất cả đều xảy ra trên bình diện của những ý tưởng.
IV. Nghi vấn đạo đức trong Kim Dung
Tới Kim Dung thì cái trời ý tưởng ấy sụp đổ.
Lẽ dĩ nhiên vẫn có những nhân vật tự xưng là đại diện cho chình nghĩa và những kẻ mang tiếng là của Tà đạo. Nhưng truyện Kim Dung sẽ cho người ta thấy sự phân biệt ấy là vô thực. Những người của tà đạo, ông cho tất cả những cám dỗ của nhan sắc, của sự thông minh, của tính anh hùng. Ấy là không kể người nào võ công cũng cao cường, cuộc đời cũng sôi nổi, tâm hồn cũng khoáng đạt. Cái tội duy nhất của họ là không coi đạo lý của thiên hạ vào đâu. Nhưng so với họ thì những người có trách nhiệm duy trì truyền thống đạo lý của võ lâm mới ương ngạnh, mới ngoan cố, mới câu nệ làm sao! Tiêu biểu cho thứ người này là Diệt Tuyệt sư thái thà chết chứ không để cho Vô Kỵ đụng tới vạt áo của bà, khi tên “tiểu dâm tặc” này định vận chưởng lực giúp bà nhảy xuống từ một lầu cao đang phát hoả. Diệt Tuyệt sư thái tuy nhiên mới là một cô gái già gàn dở. Cái gàn dở đó có khi tàn nhẫn, nhưng có thể tha thứ được, tại dù sao sư thái vẫn tin và thi hành cái đạo lý của bà. Nhưng sự sa đoạ xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử của phái Toàn Châu thì còn ai tin gì ở Chính nghĩa? Trên đường lưu vong của chàng, mỗi lần gặp một trong những người của Chính nghĩa ấy là Vô Kỵ lại gặp sự vong ân, sự ích kỷ, sự ác độc và người ta hiểu tại sao sau cùng chàng lại chọn những người của tà đạo để làm bạn đồng hành. Sự thật thì trong Kim Dung có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là của Chính nghĩa và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Cái đức đáng yêu nhất mà đôi khi ông cho người ta thấy trong họ là sự thật thà, sự chất phác, sự ngây ngô.
Ấy tuy nhiên không phải là một cái đức riêng của những người của chính nghĩa mà chung cho tất cả những đứa con của Đất, dù như Âu Dương Phong, đứa con ấy chỉ là một đứa con hư. Sự đề cao những giá trị của Đất ấy cho người ta thấy rằng cách phân loại nhân vật trong Kim Dung không trùng hợp hẳn với những nhãn hiệu đạo lý của họ.
Theo những nhãn hiệu đạo lý thì có kẻ Tà và Chính ở chỗ nào? Khi chúng anh hùng đến vây bắt Cừu Thiện Nhân để sửa tội cái tên đại-ma-đầu ấy thì y thản nhiên hỏi mọi người: “Ta giết người. Các người cũng giết người. Nhân danh cái gì các người có thể lên án ta?” Câu hỏi bất ngờ ấy không ai biết trả lời thế nào cho phải. Là người trong võ lâm thì tay ai chẳng đầy máu. Nhưng giữa lúc mọi người còn ngơ ngác thì may sao có Hồng Thất Công đứng ra dõng dạc trả lời rằng những kẻ ông giết là những kẻ như Cừu Thiện Nhân chuyên làm hại dân lành vô tội, và giết những người như thế thì giết bao nhiêu cũng được và càng nhiều càng hay. Sự minh định giữa Tà và Chính vẫn còn được duy trì. Nhưng người ta thấy rằng nó đã bị nghi vấn hoá và không còn dĩ nhiên như xưa nữa. Và ngoài một người ngay thẳng như Hồng Thất Công thì có lẽ không còn ai trong võ lâm có đủ ngây thơ để tự giải quyết nghi vấn ấy một cách đơn sơ như thế. Hồng Thất Công vả lại cũng là kẻ thù tri kỷ của một đại ma đầu khác là Âu Dương Phong và người bạn nữa của ông là Hoàng Dược sư thì đã nổi tiếng là một nhân vật đứng ra ngoài những thứ loại của Đạo lý thông thường. Người trên giang hồ gọi ông là con người tà ở phương Đông. Nhưng cái tà của Âu Dương Phong là của năng tính. Trong Hoàng Dược sư nó là một quyết định của lý trí. Hình như ông cho rằng Tà và Chính chỉ là những nhãn hiệu vô thực. Ai muốn xếp ông vào loại nào thì ông cũng mặc và coi như không. Con người kiêu ngạo ấy chỉ biết một quy luật duy nhất là cái tự do của mình. Trong lịch sử võ lâm, nhân vật ông tượng trưng cho sự nổi loạn của cá nhân chống lại những giới hạn giả tạo của một truyền thống sa đoạ.
Sự sa đoạ ấy bắt đầu khi người ta thấy những con người của Chính nghĩa không còn xứng đáng với vai trò của họ, và dưới tay họ, những giá trị thiêng liêng chỉ còn là những giáo điều nghiệt ngã nhưng trong thực tế thì lý do chính để không còn ai tin vào những giá trị ấy nữa là giữa Tà và Chính võ công bây giờ ai cũng như ai và chẳng còn mèo nào cắn được mỉu nào. Xưa người anh hùng là người bách thắng. Và cái vinh quang ấy cho những giá trị mà chàng đại diện cho cái đương nhiên rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng Chính nghĩa nào còn, khi từ trận này sang trận khác, người ta chỉ kéo dài những cuộc tương tàn không ai được và ai thua. Ngay những đối thủ cũng như đã quên mất những lý do đã làm họ xâu xé lẫn nhau. Xưa người ta giết một người để trừng phạt tội ác; giờ thì người ấy đã làm một tội ác nào chưa không ai cần biết. Nhưng đã thuộc vào một môn phái đối nghịch thì đương nhiên y là một kẻ thù để người ta thủ tiêu. Ai trách Tạ Tốn là ác độc thì ông sẽ lấy sử sách ra để chứng minh rằng từ xưa những kẻ ác độc bao giờ cũng thành công và những kẻ được tiếng là nhân tài thì xét cho cùng, sự nhân đức của họ cũng chỉ là một cái tiếng. Ông thì đương nhiên ông có thừa nghĩa khí để có thể bao giờ coi sự giết người là một trò lý thú, nhưng những nhu cầu của an ninh buộc ông thủ tiêu nhân vật vô tội đang cùng ông ôn tồn đàm thoại, và ông rất tiếc phải thất lễ với một người mà ông rất có cảm tình. Án mạng khi ấy chỉ là một phương thức cực đoan của vệ sinh. Nhưng Tạ Tốn là một trong những anh hùng của Tà đạo và người ta không thể chờ đợi ở ông một sự từ bi quá đáng. Có lẽ ngạc nhiên hơn là khi thấy Diệt Tuyệt Sư thái cầm Ỷ thiên kiếm giết một chốc mất trăm mạng người trong Minh Giáo mà không chớp mắt. Một Tà một Chính, khi ấy, ai tàn nhẫn hơn ai? Tà và Chính đều giết người. Họ là người của võ lâm, và trong cuộc giao tranh công việc đầu tiên của họ là cướp lấy phần thắng và tận giệt kẻ thù… người trưởng môn phái Nga My đã sáng tạo ra được hai bộ kiếm pháp: một tên là Diệt và một tên là Tuyệt. Nhưng độc âm cộc lốc ấy, trong sự thô bạo của chúng, đã tóm tắt cái đạo lý, đầy máu và đích thực của võ lâm. Cái thời của những anh hùng nghĩa hiệp thật đã xa và, trong cuộc tương tàn miên trường là vô độ của võ lâm, người ta chỉ còn thấy như sự xung đột của những mãnh lực tự nhiên. Trước khi biết ai phải và ai trái thì những đối thủ biết rằng họ phải thắng trước đã và ý chí thống trị làm suy tàn tinh thần võ hiệp cổ truyền.
Nghi vấn đạo lý tuy nhiên chưa mất hẳn. Nó đổi chỗ. Sự phân biệt giữa Tà và Chính xưa ở cứu cánh. Nhưng khi trong một xung đột không thể nào chấm dứt, mọi cứu cánh đều sa đoạ và môn phái cũng chỉ biết một tham vọng duy nhất là thiết lập bá nghiệp của mình trên Giang hồ thì người ta dựa vào cách đánh nhau của họ để phân biệt họ với nhau. Võ học đương nhiên mang một sắc thái đạo lý. Trong truyện võ hiệp cổ điển võ công là một phương tiện và tà cũng như chính đều sử dụng một thứ võ. Hơn thế nữa người ta thấy ngưới của chính giáo, như tin tưởng tuyệt đối vào lẽ phải của họ, không ngần ngại trước một phương tiện nào để thắng kẻ thù. Họ cũng nghe trộm, cũng đánh lén, cũng lừa bịp. Thôi thì không có thủ đoạn nào họ từ. Nhưng tất cả xảy ra như thiện chất trong người họ đã truyền cho những thủ đoạn ấy một ý nghĩa chính đáng và không bao giờ ai tự hỏi trên sự có nên chăng của chúng.
Sự thật thà có khi đến chỗ ngây ngô mà Kim Dung coi là một đức tính quý hoá thì truyện võ hiệp cổ điển lại dành cho những người của Tà đạo. Ngược lại thì một trong những ấn tích của Tà đạo trong Kim Dung lại là sự thông minh theo trực giác của những tâm hồn đơn giản, mà sự thông minh làm ra kế hoạch và mưu trước, nghĩa là cái tài sáng tạo, và người ta hiểu tại sao những võ công được coi là của tà đão bao giờ cũng phức tạp, biến ảo, nửa thực và nửa hư không biết đâu mà lường. Trong khi ấy thì người của chính giáo sẽ tự hào là có những võ công ngay thẳng, minh bạch và đường hoàng hơn. Một trưởng của họ là một trưởng và họ sẽ ít khi dùng đến ám khí, độc dược và mưu trước. Một bên thì nặng như núi, cứng như thép, rõ như ban ngày và một bên thì phức tạp, uyển chuyển, mơ hồ. Ấy tuy nhiên chỉ là những cách giết người khác nhau, và trong sự đối lập ấy, giữa Tà và Chính, người ta nhận ra sự đối lập giữa Âm và Dương nghĩa là giữa hai mặt của tự nhiên. Không có ai ngoài mấy kẻ ngây ngô, còn thì giờ nghĩ đến truyện nghĩa hiệp nữa. Và giờ nếu người ta có giết nhau thì chẳng qua là để cướp lấy những võ lâm kỳ thư có thể giúp người ta rhành bá chủ võ lâm. Khi những cao thủ tìm mọi cách để độc chiếm cái bí mật giấu trong con dao Đồ Long thì người ta nghĩ đến những tay gián điệp quốc tế đang tranh nhau một tài liệu quân sự hay những đảng cướp trong những truyện Seríe Noire xâu xé lẫn nhau để giành một món hàng. Ý nghĩa của truyện võ hiệp sẽ đổi khác. Và tổ chức của truyện cũng đổi theo. V. Nghệ thuật kể chuyện trong Kim Dung
Sự tương đối hoá những võ công, người ta thấy đã xô những môn phái vào trong cảnh bất phân thắng phụ. Và tình trạng ấy cũng làm mờ dần ý nghĩa nguyên thuỷ của sự xung đột giữa họ. Còn lại một thế giới của bạo động thuần tuý. Truyện võ hiệp cổ điển không kể gì hơn những cuộc thắng trận kế tiếp nhau của Chính nghĩa trên Tà đạo. Nhưng khi giữa Tà và chính sự phân biệt đã trở nên mơ hồ thì diễn tiến của truyện cũng mất sự tất yếu ấy đi. Không có lý do tiên quyết nào để môn phái này thắng môn phái khác và, như một quả dĩ nhiên, cũng không thể có môn phái nào có một võ công vô địch. Sự tương đối hoá những võ công đã dẫn tới sự tương đối hoá những giá trị đạo lý thì, ngược lại sự tương đối hoá những giá trị đạo lý lại đưa tới sự tương đối hoá những võ công. Ai sẽ thắng? Câu hỏi ấy giờ được đặt ra. Và truyện võ hiệp thêm một yếu tố mới là sự bất trắc. Tiểu thuyết bắt đầu. Nghĩa là truyện không còn là một cơ hội để chiêm ngưỡng, như một nghi lễ đề cao những giá trị đạo lý, những chiến công của người anh hùng nữa, mà để tìm, một cách sơ đẳng hơn, cái hồi hộp của sự trông chờ. Ai sẽ thắng? Nhưng không ai biết những gì sẽ xẩy ra.
Tại cái đang xảy ra người ta cũng chưa biết là cái gì. Mọi vật trong một thế giới của vật lực đã mất đi ý nghĩa cố định của chúng. Và tất cả đều trở thành nghi vấn. Cái bí mật của con đao Đồ Long như thế nào mà làm người ta giết nhau? Ai đã xuống tay giết một lúc mấy mươi mạng người của Long Môn tiêu cục? Không lẽ kẻ đã dùng Kim Cương Chỉ để tra khảo Dư Đại Nham lại là người của Thiếu Lâm Tự? Nhân vật tài hoa, uyên bác, phóng khoáng ấy sao có thể giết người như không để cả võ lâm nguyền rủa? Nhưng có gì trong lúc này không là một câu hỏi! Và chúng theo nhau đến rồn rập và nhức nhối. Người ta nóng ruột chờ đáp thuyết ở những sự đến sau. Cái tài của Kim Dung tuy nhiên sẽ dẫn người ta từ thắc mắc này đến thắc mắc khác. Nghi vấn này chưa được giải quyết thì nghi vấn khác đã được tung ra. Gay cấn hơn nữa là người anh hùng không biết mình phải làm gì và sẽ trở nên cái gì. Người anh hùng võ lâm cổ điển vào đời với một ý chí cố định, và những giai đoạn trên con đường thẳng dẫn chàng đến sự thực hiện của ý chí ấy. Những biến cố trong Kim Dung trái lại là ngần ấy chỗ quẹo tách chàng xa cái hướng đi thứ nhất của chàng. Và đôi khi như Đoàn Dự chàng cũng không có ý định nào khác hơn là đi chơi, nhưng tình cờ hết bị lôi vào chuyện lôi thôi này lại bị kéo sang chuyện rắc rối khác, để sau cùng sửng sốt thấy mình trở thành một cái gì mà mình cũng không bao giờ nghĩ tới. Người ta theo chàng vào một Bát Quái Trận Đồ và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc thất lạc trong Mê Cung. Ở chỗ nào cũng xuất hiện những biến cố lạ và những sự kiện khả nghi. Xưa tất cả có một ý nghĩa cố định. Thế giới sáng sủa. Không phải không có nguy hiểm nào đe doạ người anh hùng. Nhưng những nguy hiểm nào cũng có thể bị gọi tên, nghĩa là giới định và chỉ có ở ngoài. Mỗi sự kiện giờ trái lại là một sự ngỏ dẫn người ta vào một bí mật không thể nào lường. Ấy là một thế giới đầy ban đêm, đầy bất trắc và những quanh co như mắc cửi. Sau cái mặt nạ hàm hồ của mọi vật tất cả đều có thể xảy ra. Không biết chỗ quẹo này sẽ dẫn người ta tới đâu và cái gì chờ người ta ở cuối con đường kia. Sự nguy hiểm, cảnh nhá nhem ấy, như rình rập khắp nơi. Cái nguy hiểm đích thực tuy nhiên vẫn không phải là cái nguy hiểm sờ thấy được mà chính là sự ngờ vực ấy, như một bóng tối, không những trùng điệp trước mặt, mà càng ngày càng lớn trong lòng người anh hùng.
Thế giới ngoại tại đã khả nghi. Nhưng có khi ngay cả thân phận chàng ra sao người anh hùng cũng không chắc chắn. Không phải ngẫu nhiên mà chuyện võ hiệp mới là chuyện của người anh hùng đi tìm mình, khi thì nôm na như một thiếu niên một hôm nào đó biết mình chỉ là một đứa trẻ mồ côi và những người nuôi nó không phải là cha mẹ thực của nó, khi thì thống thiết như Kiều Phong chợt có người tố cáo rằng chàng không phải là người Hán mà lại mang dòng máu Khiết Đan nghĩa là của một dân tộc chàng luôn coi như tử thù, và cả sự nghiệp chàng như thế đã dựng trên một điêu trác khi thì khôi hài như Thạch Phá Thiên từ nhỏ mang tên Chó Lộn Giòng, để lớn lên ra đời ai cũng nhận là người của mình, trong khi ngay chàng cũng không biết chàng thực là ai. Lẽ dĩ nhiên người ta cũng không thể nào quên Âu Dương Phong luyện võ bị tẩu hoả nhập ma đến nỗi vừa nghe nói có một tên Âu Dương Phong còn giỏi võ hơn mình vội đâm bổ đi tìm và gặp ai cũng hỏi “Ai là Âu Dương Phong” và “Ta là ai”. Câu hỏi của ông già lộn đầu ấy tuy nhiên người anh hùng nào không có lần đặt ra? Không phải họ đều là những người không cha không mẹ. Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ: là bị ném vào một thế giới mà họ không hiểu trong đó họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không là Tà, Chính không ra Chính và cả thế giới, sa đoạ trong một tình trạng bạo động thường trực, không để lại gì hơn là những nghi vấn chập chùng. Đi tìm mình, người anh hùng cũng đi tìm một ý nghĩa cho thế giới; thế giới Kim Dung là một thế giới đang chờ được định nghĩa và truyện Kim Dung chỉ là truyện của một cái nghĩa đang hình thành. Ấy làm một truyện tầm-đạo trong phương thức của một truyện trinh thám.
Như trong truyện trinh thám, thoạt tiên người ta chỉ thấy những sự kiện lẻ bất ngờ và khó hiểu: tất cả thoạt tiên chỉ có giá trị như những manh mối của một bí mật cần phải truy tầm, như những di tích của một quá khứ cần được xây dựng lại, như những mảnh vụn của một toàn thể cần phải được khám phá dần dần. Người ta ngạc nhiên trước những gì đang xảy ra đến từ cái đã xảy ra, và công việc giờ, như trong truyện trinh thám, là đi ngược từ hiện tại đến quá khứ, từ kết quả đến nguyên nhân, từ xúc động đến giải thích. Nhưng trước hết phải có xúc động và những biến cố phải làm người ta ngạc nhiên và gây sự tò mò. Của Ưng Vương chẳng hạn, thoạt tiên, người ta chỉ thấy một tiếng hú kinh dị giữa một trời chiều và những xác chết ông để lại sau một cuộc giết người thần tốc. Nhưng thế cũng đủ để tiếng dội tâm lý trong độc giả còn vọng mãi. Và người ta phải chịu rằng Kim Dung, mỗi lần giới thiệu một nhân vật quan trọng, là ông biết sửa soạn những điều kiện để sự xuất hiện của nhân vật ấy đạt tới mức công hiệu tối đa. Người ta sẽ không quên những tiếng chân nặng nề của Tạ Tốn, giọng ho khan của Kim Hoa Bà Bà, cái nhìn trầm mặc của Phạm Giao và tiếng cười sảng khoái của Dương Tiêu trên Côn Luân Sơn, giữa những cảnh rừng thu lá đổ vàng. Có những nhân vật không có gì để người ta nhớ hơn là cách xuất hiện đột ngột lần đầu tiên của họ. Tại một khi đã định nghĩa thì như sự kiện đã được giải thích, nhân vật như đã chết và không còn tác dụng tiểu thuyết nào nữa. Nhưng khi còn là một nghi vấn, còn làm người ta thấy thắc mắc và trông chờ thì nhân vật còn sống và người ta hiểu tại sao người anh hùng trong Kim Dung chỉ có thể là người anh hùng tập sự, người anh hùng đi tìm mình, người anh hùng chưa thành anh hùng. Các nhân vật khác cũng thế: của họ thoạt tiên người ta chỉ biết có một nửa: Khi thì một người dị thường, tính khí ngang nhiên, võ công trác tuyệt, nhưng thân phận như chìm trong một dĩ vãng xa xôi và thần bí, khi thì như một cái tên truyền tụng trong giang hồ, người ta chỉ nhắc đến trong sự tôn kính và sợ hãi, nhưng chưa ai được thấy mặt bao giờ. Cũng có khi người ta có thể khám phá ra con người dị thường mà cứ một lần xuất hiện là gây cho người ta một nghi vấn ấy và cãi nhân vật chấn danh võ lâm mà người ta náo nức trông chờ chỉ là một, cũng như Kim Hoa Bà Bà, nào ai ngờ, chính là nhân vật của Minh Giáo đã từ lâu ngày biệt tăm chỉ để lưu lại trong trí nhớ của mọi người cái tên rực rỡ là Tỷ Sam Long Vương. Nhưng tất cả nghệ thuật kể chuyện trong lúc này là trì hoãn tối đa cái giờ xác định căn cước của nhân vật. Mộ Dung Phục có mặt nhất khi người ta chỉ biết chàng như một tiếng đồn trong võ lâm. Sự có mặt trong sự vắng mặt ấy là tất cả sức mạnh của truyện. Nó là nơi của nghi vấn, của trông chờ và mọi sự có thể. Nghĩa là của mọi sự bất ngờ.
Ai ngờ rằng Mộ Dung Phục, vẫn trong một phong độ tao nhã, một chốc có thể trở thành một sát thủ không gớm tay, rằng sự thuỳ mị của Chu Chỉ Nhược lại sửa soạn cho những tham vọng, những tuyệt vọng và những ác độc khôn lường, rằng tất cả những ân cần Trương Linh chỉ là một kế hoạch trong một kế hoạch dài hạn nhằm cướp con đao Đồ Long. Của nhân vật, người ta chỉ biết cái vai trò của họ, và đùng một cái, họ xuất hiện dưới một bộ mặt người ta không chờ đợi. Ấy có thể là một mặt nạ khác và cũng có thể là một con người thực chôn vùi trong tâm khảm chợt được một biến cố nào làm tỉnh giấc, như Tạ Tốn, nghe tiếng khóc của một đứa trẻ thơ mà tìm thấy sự sáng sủa của lương tri. Nhưng cũng có khi, như trong cơn tuý sát của Mộ Dung, người ta chứng kiến một đột biến tâm lý.
Cái bất ngờ, theo định nghĩa tầm thường nhất, là cái không ai chờ đợi: khi thì thê thảm như cái chết của A Chu dưới tay người nàng yêu, khi thì khôi hài như cảnh một đại-ma-đầu là Nam Hải Ngạc Thuần phải lạy Đoàn Dự, một thư sinh trói gà không chặt, làm thầy. Cũng có khi nó chỉ là một bất ngờ thuần tuý không có giá trị nào khác hơn là sự nên thơ như khi người ta khám phá ra rằng Côn Luân Tam Thánh không phải là ba người mà chỉ là một, rằng đứa ăn mày nhem nhuốc làm bạn cùng Quách Tĩnh là một người con gái đẹp giả trai, rằng Âu Dương Phong, vì học một võ công chép lộn mà trở thành đệ nhất cao thủ trong võ lâm. Lẽ dĩ nhiên cũng có những bất ngờ giả tạo để thoả mãn nhu cầu xúc động của người đọc, để thêm số dòng và số trang, để thêm đà cho một câu truyện đã tới chỗ sa lầy. Và cũng có những bất ngờ được sửa soạn hơn để giải quyết một tình thế đã đến chỗ bế tắc.
Cái bế tắc ấy, người ta thừa đoán, cũng là một bế tắc được sửa soạn. Tác giả cố tình đưa câu truyện đến một chỗ nghẽn để, khi ấy, mới tung ra một nhân vật mới, một biến cố mới, một phát giác mới làm tình thế đảo ngược và câu truyện tiếp tục theo một hướng mới. Khi người ta không chờ gì nữa, khi những nguy hiểm tưởng chừng như đã qua khỏi, khi mối hi vọng đã tàn lụi, thì tất cả đã xảy ra như đúng như người ta chờ, đúng như người ta đã chờ mong. Ấy là một thứ bất ngờ ở bậc hai. Khi Vô Kỵ yên chí rằng âm mưu của Hồ Thanh Ngưu đã thành công và họ đã thoát khỏi tay Kim Hoa Bà Bà để chỉ còn việc cùng nhau xây hạnh phúc đến mãn kiếp thì chàng khám phá ra xác chết của họ treo trên một cành cây, khi sau không biết bao nhiêu ngày theo đuổi, Đoàn Dự được láy được tình yêu của Vương Ngọc Yến, người ta thở dài nhẹ nhõm thì, tin đâu xét đánh! Điều người ta nghi ngại đã được chứng thực: Vương Ngọc Yến là con của Đoàn Chính Thuần và là em khác mẹ của Đoàn Dự, và thế là hai người không thể lấy nhau. Sự bất ngờ khi ấy đến như một sự thiếu: cái người ta tưởng thế nào cũng xảy ra lại không xảy ra. Nhưng giữa lúc người ta đang tuyệt vọng không biết câu chuyện sẽ ra sao thì, đùng một cái lại có tin Đoàn Dự không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà của Đoàn Diên Khánh, người đáng lẽ được trị vì nước đại lý mà vẫn lưu vong chờ cơ hội cướp lại ngai vàng. Cái tin ấy lại đảo ngược một lần nữa. Nó trả lại Vương Ngọc Yến cho Đoàn Dự. Hơn thế nữa, cái ngai vàng nước Đại Lý, chàng trở nên người thừa kế xứng đáng nhất. tất cả sau cùng đều xảy ra theo công lệ: người anh hùng sẽ lấy vợ và làm vua. Người ta có thể nghĩ rằng để đi đến cái kết luận cổ điển ấy có lẽ Kim Dung không cần phải bày ra nhiều chuyện như thế. Nhưng nếu không như thế, nếu không trải qua một cơn tuyệt vọng thì kết luận ấy còn giả tạo tới đâu? Tới sau một sự bế tắc cố ý thì sự giả tạo ấy lại xuất hiện như một chứng cớ của cái tài biến hoá của tác giả. Giả tạo một ít thì hỏng. Nhưng giả tạo hơn một ít nữa thì Kim Dung lại trả cho sự bất ngờ cái nên thơ của nó.
Sự thật thì ông có thể để cho Đoàn Dự lấy Vương Ngọc Yến và kế vị Đoàn Chính Thuần làm vua mà không ai thấy gì làm trái cựa và những cảnh tình thế kế tiếp đảo ngược ở phút chót, thoạt tiên có vẻ thừa và quá lôi thôi. Nhưng truyện không phải chỉ là truyện của Đoàn Dự. Không có những sự đảo ngược tình thế ấy thì nhân vật Đoàn Diên Khánh người ta biết xếp vào đâu? Hình như nhân vật ấy mà người ta vẫn chỉ biết như ác tinh của nhà họ Đoàn tới đó mới tìm ra lý do vi trò của nó: là để trả cho Đoàn Dự, cùng một lúc, và tình yêu, và ngai vàng, và cái kết luận mà người ta tưởng là dàn xếp ở phút trót ấy giờ, người ta mới biết rằng với nhân vật Đoàn Diên Khánh nó đã được định từ những trang đầu. Cảm tưởng sau cùng của người ta là một tổ chức cực kỳ chặt chẽ không để gì xảy ra một cách tình cờ và trong ấy cái bất ngờ chỉ là đáp thuyết thích hợp nhất cho một tình thế không thể nào gỡ nổi. Người ta cho đáp thuyết ấy là bất ngờ. nhưng bất ngờ nhất phải chăng là khi người ta thấy rằng cái bất ngờ ấy đã được sửa soạn từ lâu? Khi trông thấy Tiểu Siêu lần đầu thì Phạm Dao chợt giật mình. Nhưng cái giật mình nhỏ nhoi ấy, gần như không ai cần chú ý, báo hiệu kết cục của truyện khi Tiểu Siêu được nhận ra là con của Kim Hoa Bà Bà và, khi ấy, người ta mới hiểu tại sao, trước những sứ giả của minh giáo, nàng phảo méo mặt giả làm một đứa con gái xấu xí. Ấy chỉ là một trong những tỉ dụ của cách bố cục kĩ lưỡng cũa truyện Kim Dung. Như tất cả những truyện viết đăng từng số một, trong Kim Dung không ngớt xảy ra những biến cố khả nghi và bất ngờ. nhưng điều làm truyện ông vượt xa những truyện cùng loại là trong khi những tác giả khác như thất lạc giữa những sự kiện mà họ thả sức tung ra cho đầy trang giấy để sau cùng không ai biết kết luận ra sao thì trong Kim Dung tất cả những chi tiết rải rác mà thoạt tiên người ta tưởng rằng vẽ ra theo sự tình cờ của cảm hứng sau cùng đều giải thích lẫn nhau trong một kiến trúc nhịp nhàng. Nhưng trong sự mạch lạc ấy, ẩn sau những nghi vấn rối như tơ vò, người ta có gặp gì hơn là một đặc tính của truyện trinh thám? Như trong truyện trinh thám, công việc là tìm cho một số sự kiện khó hiểu mối tương quan thống nhất và giải thích chúng. ấy là công việc Hoàng Dung đã làm, khi từ những tang chứng để lại trên đào Hoa Đảo mà tang chứng nào cũng kết án cha nàng,nàng phải xây dựng lại dễn biến của vụ thảm sát đã xảy ra và truy định thủ phạm đích thực. Trên một quy mô lớn hơn thì truyện Đồ Long cũng sẽ không dẫn người ta đâu xa hơn là sự tái lập cái tổ chức của Minh Giáo đã từ lâu ly tán. Người ta thấy xuất hiện suốt truyện những nhân vật mới và cảm tưởng củangười ta là đứng trước một trí tưởng tượng không gì kiềm chế. Ngần ấy nhân vật tuy nhiên sau đều được khám phá là những nhân vật thất lạc của Minh Giáo và người ta sẽ không ngạc nhiên nếu, khi chức vụ của ai cũng được trả cho người ấy rồi, thì truyện coi như có thể đã gần xong. Tổ chức của Minh Giáo sẽ cho truyện sự mạch lạc của nó. Tất cả xảy ra như trong hoá học. Mỗi lần khám phá ra chất mới thì người ta cũng khám phá ra rằng cái chất ấy đã có một ô dành sẵn cho nó trong cái bảng Méndéleieff. Ngược lại thì mỗi ô để trống lại đòi hỏi khám phá ra một chất mới để bù vào. Những nhân vật tong truyện Đồ Long, cũng thế, như đều được sáng tạo để bù vào những chức vụ bỏ không của Minh Giáo và diễn tiến của truyện, tuần tự theo sự xuất hiện của họ sẽ trả lại cho Minh Giáo bộ mặt nguyên thuỷ của nó, nghĩa là dẫn người ta đến một tình trạng có trước của thế giới. Nói tóm lại thì, như trong truyện trinh thám, cái gì mà theo như người anh hùng, người ta khám phá ra là một dĩ vãng. Tổ chức của Minh Giáo vừa là khởi điểm vừa là tổ chức của truyện. Nếu những biến cố của truyện võ hiệp cổ điển nối tiếp nhau theo một đường thẳng thì truyện đồ long được viết theo một vòng tròn. Ấy là một thứ Bát quái trận đồ: người ta đi bao nhiêu sau cùng trở về chỗ cũ và sự phức tạp của nó ẩn chứa một sự mạch lạc căn bản. Không phải ngẫu nhiên mà giũa truyện ông, Kim Dung đã bày những trận đồ của Hoàng Dược Sư như một thách đố ám ảnh. Chúng tượng trưng cho cái nên thơ của sự mạch lạc mà tôi muốn người ta coi truyện Kim Dung như một cố gắng để đề cao.
Cái nên thơ ấy người ta sẽ gặp lại trong cách Kim Dung xếp những nhân vật thành từng bộ. Có những bộ ba như A Chu, A Bích, A Tỷ, mỗi người mang một mẫu áo, có bộ tư như Long Vương, Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương, mỗi người lấy một linh vật làm danh hiệu, có những bộ năm như Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái Trung Thần Thông, mỗi người xưng bá một phương và lẽ dĩ nhiên cũng cò những bộ bảy và bộ tám nữa. Sau cùng phải kể đến Quang Minh Lưỡng Sứ, người tên Tiêu người tên Dao như sinh ra là để đồng hành và được võ lâm xưng tụng là Tiêu Dao Nhị Tiên. Một điều đặc biệt trong những nhân vật ấy là bộ có trước nhân vật. Một bộ thoạt nhiên là lược đồ của một guồng máy mà những cơ quan là những nhân vật chờ được sáng tạo. Nhưng một khi những cơ quan đã lập, nghĩa là những nhân vật đã có những chức vụ đang chờ họ thì bộ, tuỳ theo những chuyển động riêng của mõi người, sẽ như một guồng máy có chuyển động riêng của nó. Ngược lại thì sự chuyển động của Bộ cũng làm nhân vật chuyển động theo. Nhân vật làm ra bộ. Nhưng trong Bộ nhân vật mới tìm thấy định nghĩa của nó. Ấy là một chức vụ, một địa vị, một màu sắc. Tâm lý nhân vật mất quan trọng và có lẽ Kim Dung, sau khi đã xác định nhân vật như một chiều sâu, sẽ tiến đến một quan niệm về nhân vật nhân vật giống truyện võ hiệp cổ điển, nhưng được khai thác một cách có ý thức và hệ thống hơn. Sự khác nhau giữa những nhân vật khi ấy chỉ còn là sự khác nhau giữa những vị trí của họ trong một bộ. Có những nhân vật tâm lý khôn có gì đặc sắc, nhưng thuộc vào một bộ, lại có một sự có mặt khác thường. Ngược lại thì đôi khi có thể nói rằng, Bộ đã ăn mất con người nhân vật để chỉ để lại một số hiệu. Quả Kim Dung đã không uổng là nhà văn của thời đại của tổ chức! Và trong truyện ông, Cái Bang, Minh Giáo, Thiếu Lâm nghĩa là những môn phái có tổ chức to lớn, chặt chẽ và phức tạp thường giữ một vai trò đôi khi còn quan trọng hơn của người anh hùng. Sự phức tạp ấy tuy nhiên Kim Dung không giới hạn vào một môn phái mà đã cho nó kích thước của một thế giới. Ấy là tất cả cái mênh mông của võ lâm trong cảnh ly tán, đa sắc và phồn tạp của nó mà theo người anh hùng người ta sẽ khám phá ra, người anh hùng không chỉ khám phá ra một thế giới. Cái gì chàng đã cho sống lại là cả một giai đoạn của lịch sử võ lâm, và chính trong lịch sử ấy mà chàng sẽ tìm ra lý do đã làm võ lâm ly tán, nghĩa là sự mạch lạc trong cảnh võ lâm ly tán ấy, của võ lâm, để sau cùng lai trả cho võ lâm sự thống nhất của nó.
Cái bể võ học chập chùng chẳng biết đâu là giới hạn. Không võ công nào giống võ công nào. Nhưng nếu chưa thể thu ngần ấy cái độc đáo vào một mối, thì trong khi chờ đợi, sao không thể xếp loại chúng? Hình như Kim Dung đã chia tất cả võ công trên đời ra làm hai khối lớn: Âm công và Dương công. Võ công thuộc Âm công thì mau, mềm mại và ác độc; thuộc Dương thì chậm nhưng dũng mãnh và cương trực. Người đời coi thứ võ công này là chính giáo và thứ võ kia là môn. Võ công tuy nhiên chỉ là phương tiện. Khác nhau duy ở mục đích cuối cùng của người dụng võ. Âm hay Dương thì võ công nào mà chẳng giết người. Xem Kim Dung nhấn mạnh trên mọi sự phân biệt giữa Âm và Dương thì người ta thấy rằng tất cả cố gắng của ông là để xem những tiêu chuẩn tự nhiên thay thế cho những tiêu chuẩn nhân văn và đạo lý. Tà và Chính đổi thành Âm và Dương nghĩa là hai mãnh lực của tự nhiên; trong tự nhiên không có Tà và Chính, và Âu Dương Phong và Hồng Thất Công, một người đại diện cho Ác tâm và một người đại diện cho Thiện chí, sau mười mấy ngày đấu liên tiếp, lại có thể ôm nhau để cùng chết giữa lúc tiếng cười của họ càng chấn động cái hoang vu của những đỉnh núi tuyết nghìn năm. Mẹ tự nhiên đã giải hoà hai đứa con xung khắc của mình. Xã hội người đặt chúng vào cái thế tương nghịch. Ác của đứa này tuy nhiên cũng như thiện của đứa kia đều có gốc ở năng tính. Và năng tính giống như một mãnh lực của tự nhiên, trong Kim Dung, người ta biết là bao giờ cũng tốt. Khả nghi nhất là những con người của trí năng. Ấy là những Hoàng Dược sư chẳng hạn. Người đời thường hỏi họ thiện hay ác. Nhưng họ khinh dư luận, coi rẻ đạo lý của người đời và tự đặt những quy luật riêng để hành động. Tham vọng của họ là mang tài mình ra cướp quyền tạo hoá. Không những giỏi võ công mà, trong những lĩnh vực khác, kiến thức của họ thường cũng thâm viễn vô cùng. Ngoài cái tài hoa của một nghệ sĩ, Hoàng Dược sư còn thông thạo trận đồ, kiến trúc và những kỹ thuật làm máy móc. Xa lục địa, trên đảo Đào Hoa, ông xây dựng cả một giang sơn biệt lập cho mình. Cái trí, cái xảo, cái tài hoa ấy tuy nhiên có một cái gì điêu bạc. Những con người ấy quá nhậy cảm và giàu tưởng tượng. Óc của họ không ngừng làm việc, bầy mưu và thiết kế. Làm sao trong sự giao động thường xuyên họ có thể có cái tĩnh cần thiết để tới cái chân nguyên của võ học mà chỉ thông đạt những tâm hồn chất phác và đơn thuần nghĩa là gần tự nhiên hơn? Cho nên những võ công mà chính cái tài hoa của họ làm họ không tài nào luyện được. Và võ công của họ thường cũng mang ấn tích của cái tài hoa ấy mà họ vốn có thừa, nghĩa là phức tạp, khi thực khi hư, mau lẹ và uyển chuyển, nhưng nhu Lạc Anh quyền, đôi khi không khỏi thiếu phần cương trực. Người ta sẽ thường xuyên gặp trong Kim Dung thái độ nước đôi ấy trước trí năng, vừa cảm phục lại vừa nghi kị. Ấy là cái ngòi bảo thủ trong văn ông.
Năng tính là giải thuyết của sự đối lập giữa Thiện và Ác. Nhưng giữa năng tính và trí năng thì sao? Hình như Kim Dung lại muốn vượt sự đối lập ấy trong con người của Đạo. Sau khi nghe giảng Thái Cực quyền lần thứ nhất, thì Vô Kỵ chỉ nhớ một nửa những chiêu đã học. Nhưng nghe giảng một lần nữa thì xét lại, chàng còn nhớ có hai ba chiêu trong đầu. Người ta không khỏi ngạc nhiên. Nhưng đáng ngạc nhiên hơn nữa là khi cái lối càng học càng quên ấy lại được coi là một tiến bộ. Cũng như thế, trong một truyện khác, người ta thấy một anh hùng giang hồ than thở là kiếm pháp trên đời tuy ông đã thuộc cả, nhưng vẫn chưa đến chỗ tối cao là quên được những kiếm pháp đã học ấy! Thì ra cái biết thực của võ học không ở những cách khoa chân và múa tay của những chiêu lẻ mà ở nguyên lý của chúng. Khi thấy cái nguyên lý ấy rối, nghĩa là đã thu những tạp chiêu ấy và một mối, thì người ta không cần nhớ đến chúng nữa. Một chiêu còn nhớ là một chiêu chưa thấu triệt, sự thống nhất chưa trọn vẹn, và cái biết còn dở dang. Cái biết thực của võ học cũng như trong đạo là một sự lãng quên những ảo ảnh của ngoại thể để tới cái chân nguyên của tất cả. Nhưng người và tự nhiên khi ấy mới thực tương đồng, trí năng và năng tính là một. Cá nhân thực hiện được sự thống nhất của mình. Những xôn xao của ngoại giới không thể làm hắn phân tâm nữa và cái tĩnh thuần nhất của lòng hắn không còn gì giao động nổi. Ngay võ công luyện được hắn cũng quên đi. Ấy là khi võ công đã thấm vào người hắn đến chỗ có thể tuỳ nghi tự ý phát động mà không cần sự can thiệp của ý chí. Tương Trùng Dương trong Anh hùng xạ điêu, Trương Tam Phong và bộ ba Độ Ách, Độ Nạn, Độ Kiếp trong truyện Đồ long đao, nhà sư già coi Tàng Kinh Các trong Thiên Long bát bộ là những người đã gần như tới độ tối cao của võ học. Không phải ngẫu nhiên họ là những đạo sĩ và tăng nhân đã thoát tục. Nhưng chẳng lẽ Kim Dung lại kể chuyện võ hiệp để ca ngợi cái đức của sự tu hành? Nhưng có lẽ một cái nhìn kỹ lưỡng vào thế giới và nghệ thuật Kim Dung sẽ cho người ta một đáp thuyết vững vàng hơn.
III. Truyện võ hiệp cổ điển
Như trên đã nói thì võ công, trong truyện võ hiệp cổ điển, có cái vô danh của một phương tiện. Không ai phân biệt Tà và Chính giữa những võ công. Nhưng giữa các môn phái thì sự phân biệt ấy càng minh bạch. Các môn phái đều dùng một thứ võ. Sự khác nhau trong bản chất giữa họ, tuy nhiên, là của đêm và ngày: Tà môn tượng trưng cho tội ác cũng như chính phái tượng trưng cho công lý và cái thế chia đôi ấy của võ lâm không để thừa chỗ cho một nghi vấn nào.
Người anh hùng là người của Công lý. Ấy thường là một thanh nhiên cha mẹ mất sớm bị hại và may được một võ lâm dị khách lượm về nuôi và truyền thụ võ công. Truyện bắt đầu khi, đã thành tài, chàng từ biệt ân sư xuống núi để phục thù. Nhưng trước khi công thành thì chàng đã bao lần sa vào ổ giặc, đã bao lần chàng phải đương đầu với cường quyền và bạo lực, đã bao lần chàng can thiệp trong những chuyện vong luân. Thù nhân của chàng lẽ dĩ nhiên cũng là một nhân vật trọng yếu của cái xã hội phức tạp ấy. Và người ta hiểu rằng trong công việc của chàng Công lý và tư thù chỉ là một. Con đường tầm cừu cũng là con đường nghĩa hiệp và khi thù nhân đã đền tội dưới tay chàng thì người anh hùng cũng biết rằng tất cả chỉ mới bắt đầu, và mối thâm thù của chàng chẳng qua là một cớ để mở màn và chấm dứt một cách dễ coi một giai đoạn trong cuộc xung đột muôn đời giữa Tà đạo và Chính nghĩa.
Chính nghĩa không thể nào thua. Cho nên khi người anh hùng xuống núi là người đầy những võ công cái thế. Không ai địch nổi, từ hắc điếm đến ác tù, đả lôi đài xong lại phá sơn trang, cướp pháp trường, giết tham quan, diệt thảo khấu, chàng theo đuổi một hành trình vạn thắng và không bao giờ trong đầu chàng một nghi ngờ có thể thoáng qua về cái sứ mệnh thiêng liêng của chàng. Truyện cũng diễn ra theo một đường thẳng như cuộc hành trình ấy. Lẽ dĩ nhiên cũng có lúc người anh hùng lâm nguy và tính mạng bị đe doạ. Ngay khi ấy người ta vẫn yên tâm, tại người ta biết rằng, dù chàng có chết thì ấy là một cái chết vinh quang cho sự thực hiện của công lý ở trên đời và người thắng trận rốt cuộc cũng là chàng. Sự hồi hộp không thể có trong truyện võ hiệp cổ điển. Người ta theo người anh hùng từ chiến công này đến chiến công khác. Ấy là ngần ấy giai đoạn của một con đường chỉ có một chiều và chúng tiếp theo nhau thành tràng hạt, nghĩa là giữa chúng không có tương quan nào khác sự tiếp theo nhau. Từ chiến công này đến chiến công khác, ý nghĩa của truyện cũng như tâm lý nhân vật không hề thay đổi. Chiến công nào cũng chỉ ca tụng một lần nữa cái anh hùng của ngưới anh hùng và sự thắng trận muôn đời của chính nghĩa trên Tà đạo.
Nhân loại tầm thường làm sao tham dự vào cuộc xung đột ấy giữa những ý tưởng? Họ chỉ có thể chiêm ngưỡng. Và tương quan duy nhất giữa họ và thế giới của truyện là một tương quan ngoại tại. Những nhân vật vốn là những Ý tưởng nhập thế không thể có tâm sự nào để họ chia xẻ. Kẻ được người thua lại định sẵn từ trước. Cho nên diễn biến của truyện không dành cho người ta một bất ngờ nào và người ta cũng không có dịp để tự hỏi và trông chờ những gì sẽ xảy ra. Tất cả đều sẵn có một ý nghĩa cố định và trong thế giới minh bạch ấy, người ta thừa đoán là không có chỗ nào cho bóng tối, cho nghi vấn, cho sự tò mò. Người đọc đã biến thành một khán giả để xem, nhìn, ngắm sự tái diễn của một vở tuồng mà người ta đã thuộc kỹ từng giai đoạn.
Vẫn những vai trò và một trò ấy. Khác duy ở diễn viên và cảnh trí nghĩa là ở những thay đổi ngoại tại. Nghệ thuật kể chuyện trở nên một nghệ thuật dàn cảnh. Và cái ngoạn mục trong nghệ thuật ấy là giá trị đầu tiên. Sự mô tả trong truyện võ hiệp cổ điển chiếm một phần quan trọng. Có gì mô tả được mà không được mô tả tỉ mỉ? Ấy là cái dị hình của những khí giới, cái hiểm hóc của những cơ quan, cái hùng vĩ của những sơn trại, cái uy nghi của những thao trường, cái náo nhiệt của những phồn hoa, cái sặc sỡ của áo gấm và quần mầu, cái nhịp nhàng của những võ công như vũ điệu… Tất cả đều đập vào mắt người ta, tất cả đều phô trương sự tinh xảo của những kỹ thuật nhân văn, tất cả đều biểu diễn một trật tự minh bạch và không thể nghi ngờ. Ý nghĩa của tất cả đều có thể đọc ngay lập tức nghĩa là đều xuất hiện ra ngoài mặt. Ngay những tình cảm cũng được diễn tả một cách trực tiếp. Khi tức giận thì thét ầm ĩ, khi thích chí thì cười um lên như phá, khi đau khổ thì rống như dã thú bị thương và đáng tiếc thay! Khi e lệ, những trang nữ hiệp cũng “mân mê tà áo” như một cô gái tầm thường. Nhưng người ta hiểu rằng trong cái thế giới để chiêm ngưỡng ấy, cũng như trên sân khấu, thực tình của những cử chỉ không quan trọng bằng ý nghĩa của chúng, và trước khi làm người ta cảm động, thì công việc là cho người ta thấy đã. Càng ước lệ thì sự diễn tả lại càng công hiệu.
Tâm lý nhân vật được giản lược một cách tối đa. Lẽ dĩ nhiên nhân vật nào cũng được gán cho một cá tính. Nhưng cá tính ấy không có gì giống cái phức tạp của một tâm hồn mà, nếu có thể nói như thế, chỉ có thể tính cách ngoại tại của một con số để phân biệt nhân vật này với nhân vật khác, như có kẻ trung thì có người gian, có người nóng nẩy thì có kẻ ôn hoà, có kẻ mưu cơ thì có người chất phác. Cho nên không những tác phong, cử chỉ, ngôn ngữ của nhân vật đều diễn tả một cách rõ ràng các cái cá tính người ta gán cho y mà cá tính ấy còn có thể trông thấy trên y phục, võ khí và diện mạo của y nữa. Nhất là trong các nhân vật phụ, thì người ta thấy rằng các dị điểm, từ cái răng vẩu đến một con mắt lồi, đều được tô đậm và thổi phồng lên, như những nghịch hoạ, để ai cũng có thể nhận ra cách dễ dàng. Người anh hùng tuy nhiên được miễn cái nạn tả chân thô thiển ấy. Ấy là tại con người chàng vốn là kết tinh của Chân, Thiện, Mỹ, trong sự tuyệt hảo của nó, chỉ có thể ở ngoài tầm những tĩnh từ. Uy vĩ, khôi ngô, tuấn tú v.v… chữ nào có thể xứng với cái bản chất siêu tục của người anh hùng? Cái mặt nạ người ta thấy chàng thường đeo khi hành hiệp lẽ dĩ nhiên không để làm tăng trưởng một bí mật vốn đã trong suốt như ban ngày, nhưng để xoá bỏ cái phần nhân loại cuối cùng trong con người chàng và đưa chàng tới cái vô danh của ý niệm. Con người sau cái mặt nạ ấy không còn là một cá nhân với những dị điểm và một đời sống riêng tư nữa. Hắn là thần công lý. Khi thì như ma quỷ, khi thì như thuiên thần, nhân vật võ hiệp cổ điển là những nhân vật quá độ. Không có gì giống nhau giữa họ và anh và tôi. Nhưng tất cả cố gắng của người kể truyện là để tách họ ra khỏi cái nhân loại thường ngày để thấy họ, là người ta biết ngay rằng các chuyện đang xảy ra không phải là một chuyện giữa người và người và những nhân vật ấy chỉ là những diễn viên của một vở tuồng kể lại cuộc xung đột muôn đời giữa Tà đạo và Chính nghĩa. Tất cả đều xảy ra trên bình diện của những ý tưởng.
IV. Nghi vấn đạo đức trong Kim Dung
Tới Kim Dung thì cái trời ý tưởng ấy sụp đổ.
Lẽ dĩ nhiên vẫn có những nhân vật tự xưng là đại diện cho chình nghĩa và những kẻ mang tiếng là của Tà đạo. Nhưng truyện Kim Dung sẽ cho người ta thấy sự phân biệt ấy là vô thực. Những người của tà đạo, ông cho tất cả những cám dỗ của nhan sắc, của sự thông minh, của tính anh hùng. Ấy là không kể người nào võ công cũng cao cường, cuộc đời cũng sôi nổi, tâm hồn cũng khoáng đạt. Cái tội duy nhất của họ là không coi đạo lý của thiên hạ vào đâu. Nhưng so với họ thì những người có trách nhiệm duy trì truyền thống đạo lý của võ lâm mới ương ngạnh, mới ngoan cố, mới câu nệ làm sao! Tiêu biểu cho thứ người này là Diệt Tuyệt sư thái thà chết chứ không để cho Vô Kỵ đụng tới vạt áo của bà, khi tên “tiểu dâm tặc” này định vận chưởng lực giúp bà nhảy xuống từ một lầu cao đang phát hoả. Diệt Tuyệt sư thái tuy nhiên mới là một cô gái già gàn dở. Cái gàn dở đó có khi tàn nhẫn, nhưng có thể tha thứ được, tại dù sao sư thái vẫn tin và thi hành cái đạo lý của bà. Nhưng sự sa đoạ xuống tới sự bất nhân, sự dâm loạn, sự ngu xuẩn của những đệ tử của phái Toàn Châu thì còn ai tin gì ở Chính nghĩa? Trên đường lưu vong của chàng, mỗi lần gặp một trong những người của Chính nghĩa ấy là Vô Kỵ lại gặp sự vong ân, sự ích kỷ, sự ác độc và người ta hiểu tại sao sau cùng chàng lại chọn những người của tà đạo để làm bạn đồng hành. Sự thật thì trong Kim Dung có một cố gắng đánh tụt giá những người tự nhận là của Chính nghĩa và qua họ, những giá trị mà họ tượng trưng. Cái đức đáng yêu nhất mà đôi khi ông cho người ta thấy trong họ là sự thật thà, sự chất phác, sự ngây ngô.
Ấy tuy nhiên không phải là một cái đức riêng của những người của chính nghĩa mà chung cho tất cả những đứa con của Đất, dù như Âu Dương Phong, đứa con ấy chỉ là một đứa con hư. Sự đề cao những giá trị của Đất ấy cho người ta thấy rằng cách phân loại nhân vật trong Kim Dung không trùng hợp hẳn với những nhãn hiệu đạo lý của họ.
Theo những nhãn hiệu đạo lý thì có kẻ Tà và Chính ở chỗ nào? Khi chúng anh hùng đến vây bắt Cừu Thiện Nhân để sửa tội cái tên đại-ma-đầu ấy thì y thản nhiên hỏi mọi người: “Ta giết người. Các người cũng giết người. Nhân danh cái gì các người có thể lên án ta?” Câu hỏi bất ngờ ấy không ai biết trả lời thế nào cho phải. Là người trong võ lâm thì tay ai chẳng đầy máu. Nhưng giữa lúc mọi người còn ngơ ngác thì may sao có Hồng Thất Công đứng ra dõng dạc trả lời rằng những kẻ ông giết là những kẻ như Cừu Thiện Nhân chuyên làm hại dân lành vô tội, và giết những người như thế thì giết bao nhiêu cũng được và càng nhiều càng hay. Sự minh định giữa Tà và Chính vẫn còn được duy trì. Nhưng người ta thấy rằng nó đã bị nghi vấn hoá và không còn dĩ nhiên như xưa nữa. Và ngoài một người ngay thẳng như Hồng Thất Công thì có lẽ không còn ai trong võ lâm có đủ ngây thơ để tự giải quyết nghi vấn ấy một cách đơn sơ như thế. Hồng Thất Công vả lại cũng là kẻ thù tri kỷ của một đại ma đầu khác là Âu Dương Phong và người bạn nữa của ông là Hoàng Dược sư thì đã nổi tiếng là một nhân vật đứng ra ngoài những thứ loại của Đạo lý thông thường. Người trên giang hồ gọi ông là con người tà ở phương Đông. Nhưng cái tà của Âu Dương Phong là của năng tính. Trong Hoàng Dược sư nó là một quyết định của lý trí. Hình như ông cho rằng Tà và Chính chỉ là những nhãn hiệu vô thực. Ai muốn xếp ông vào loại nào thì ông cũng mặc và coi như không. Con người kiêu ngạo ấy chỉ biết một quy luật duy nhất là cái tự do của mình. Trong lịch sử võ lâm, nhân vật ông tượng trưng cho sự nổi loạn của cá nhân chống lại những giới hạn giả tạo của một truyền thống sa đoạ.
Sự sa đoạ ấy bắt đầu khi người ta thấy những con người của Chính nghĩa không còn xứng đáng với vai trò của họ, và dưới tay họ, những giá trị thiêng liêng chỉ còn là những giáo điều nghiệt ngã nhưng trong thực tế thì lý do chính để không còn ai tin vào những giá trị ấy nữa là giữa Tà và Chính võ công bây giờ ai cũng như ai và chẳng còn mèo nào cắn được mỉu nào. Xưa người anh hùng là người bách thắng. Và cái vinh quang ấy cho những giá trị mà chàng đại diện cho cái đương nhiên rực rỡ của Chính nghĩa. Nhưng Chính nghĩa nào còn, khi từ trận này sang trận khác, người ta chỉ kéo dài những cuộc tương tàn không ai được và ai thua. Ngay những đối thủ cũng như đã quên mất những lý do đã làm họ xâu xé lẫn nhau. Xưa người ta giết một người để trừng phạt tội ác; giờ thì người ấy đã làm một tội ác nào chưa không ai cần biết. Nhưng đã thuộc vào một môn phái đối nghịch thì đương nhiên y là một kẻ thù để người ta thủ tiêu. Ai trách Tạ Tốn là ác độc thì ông sẽ lấy sử sách ra để chứng minh rằng từ xưa những kẻ ác độc bao giờ cũng thành công và những kẻ được tiếng là nhân tài thì xét cho cùng, sự nhân đức của họ cũng chỉ là một cái tiếng. Ông thì đương nhiên ông có thừa nghĩa khí để có thể bao giờ coi sự giết người là một trò lý thú, nhưng những nhu cầu của an ninh buộc ông thủ tiêu nhân vật vô tội đang cùng ông ôn tồn đàm thoại, và ông rất tiếc phải thất lễ với một người mà ông rất có cảm tình. Án mạng khi ấy chỉ là một phương thức cực đoan của vệ sinh. Nhưng Tạ Tốn là một trong những anh hùng của Tà đạo và người ta không thể chờ đợi ở ông một sự từ bi quá đáng. Có lẽ ngạc nhiên hơn là khi thấy Diệt Tuyệt Sư thái cầm Ỷ thiên kiếm giết một chốc mất trăm mạng người trong Minh Giáo mà không chớp mắt. Một Tà một Chính, khi ấy, ai tàn nhẫn hơn ai? Tà và Chính đều giết người. Họ là người của võ lâm, và trong cuộc giao tranh công việc đầu tiên của họ là cướp lấy phần thắng và tận giệt kẻ thù… người trưởng môn phái Nga My đã sáng tạo ra được hai bộ kiếm pháp: một tên là Diệt và một tên là Tuyệt. Nhưng độc âm cộc lốc ấy, trong sự thô bạo của chúng, đã tóm tắt cái đạo lý, đầy máu và đích thực của võ lâm. Cái thời của những anh hùng nghĩa hiệp thật đã xa và, trong cuộc tương tàn miên trường là vô độ của võ lâm, người ta chỉ còn thấy như sự xung đột của những mãnh lực tự nhiên. Trước khi biết ai phải và ai trái thì những đối thủ biết rằng họ phải thắng trước đã và ý chí thống trị làm suy tàn tinh thần võ hiệp cổ truyền.
Nghi vấn đạo lý tuy nhiên chưa mất hẳn. Nó đổi chỗ. Sự phân biệt giữa Tà và Chính xưa ở cứu cánh. Nhưng khi trong một xung đột không thể nào chấm dứt, mọi cứu cánh đều sa đoạ và môn phái cũng chỉ biết một tham vọng duy nhất là thiết lập bá nghiệp của mình trên Giang hồ thì người ta dựa vào cách đánh nhau của họ để phân biệt họ với nhau. Võ học đương nhiên mang một sắc thái đạo lý. Trong truyện võ hiệp cổ điển võ công là một phương tiện và tà cũng như chính đều sử dụng một thứ võ. Hơn thế nữa người ta thấy ngưới của chính giáo, như tin tưởng tuyệt đối vào lẽ phải của họ, không ngần ngại trước một phương tiện nào để thắng kẻ thù. Họ cũng nghe trộm, cũng đánh lén, cũng lừa bịp. Thôi thì không có thủ đoạn nào họ từ. Nhưng tất cả xảy ra như thiện chất trong người họ đã truyền cho những thủ đoạn ấy một ý nghĩa chính đáng và không bao giờ ai tự hỏi trên sự có nên chăng của chúng.
Sự thật thà có khi đến chỗ ngây ngô mà Kim Dung coi là một đức tính quý hoá thì truyện võ hiệp cổ điển lại dành cho những người của Tà đạo. Ngược lại thì một trong những ấn tích của Tà đạo trong Kim Dung lại là sự thông minh theo trực giác của những tâm hồn đơn giản, mà sự thông minh làm ra kế hoạch và mưu trước, nghĩa là cái tài sáng tạo, và người ta hiểu tại sao những võ công được coi là của tà đão bao giờ cũng phức tạp, biến ảo, nửa thực và nửa hư không biết đâu mà lường. Trong khi ấy thì người của chính giáo sẽ tự hào là có những võ công ngay thẳng, minh bạch và đường hoàng hơn. Một trưởng của họ là một trưởng và họ sẽ ít khi dùng đến ám khí, độc dược và mưu trước. Một bên thì nặng như núi, cứng như thép, rõ như ban ngày và một bên thì phức tạp, uyển chuyển, mơ hồ. Ấy tuy nhiên chỉ là những cách giết người khác nhau, và trong sự đối lập ấy, giữa Tà và Chính, người ta nhận ra sự đối lập giữa Âm và Dương nghĩa là giữa hai mặt của tự nhiên. Không có ai ngoài mấy kẻ ngây ngô, còn thì giờ nghĩ đến truyện nghĩa hiệp nữa. Và giờ nếu người ta có giết nhau thì chẳng qua là để cướp lấy những võ lâm kỳ thư có thể giúp người ta rhành bá chủ võ lâm. Khi những cao thủ tìm mọi cách để độc chiếm cái bí mật giấu trong con dao Đồ Long thì người ta nghĩ đến những tay gián điệp quốc tế đang tranh nhau một tài liệu quân sự hay những đảng cướp trong những truyện Seríe Noire xâu xé lẫn nhau để giành một món hàng. Ý nghĩa của truyện võ hiệp sẽ đổi khác. Và tổ chức của truyện cũng đổi theo. V. Nghệ thuật kể chuyện trong Kim Dung
Sự tương đối hoá những võ công, người ta thấy đã xô những môn phái vào trong cảnh bất phân thắng phụ. Và tình trạng ấy cũng làm mờ dần ý nghĩa nguyên thuỷ của sự xung đột giữa họ. Còn lại một thế giới của bạo động thuần tuý. Truyện võ hiệp cổ điển không kể gì hơn những cuộc thắng trận kế tiếp nhau của Chính nghĩa trên Tà đạo. Nhưng khi giữa Tà và chính sự phân biệt đã trở nên mơ hồ thì diễn tiến của truyện cũng mất sự tất yếu ấy đi. Không có lý do tiên quyết nào để môn phái này thắng môn phái khác và, như một quả dĩ nhiên, cũng không thể có môn phái nào có một võ công vô địch. Sự tương đối hoá những võ công đã dẫn tới sự tương đối hoá những giá trị đạo lý thì, ngược lại sự tương đối hoá những giá trị đạo lý lại đưa tới sự tương đối hoá những võ công. Ai sẽ thắng? Câu hỏi ấy giờ được đặt ra. Và truyện võ hiệp thêm một yếu tố mới là sự bất trắc. Tiểu thuyết bắt đầu. Nghĩa là truyện không còn là một cơ hội để chiêm ngưỡng, như một nghi lễ đề cao những giá trị đạo lý, những chiến công của người anh hùng nữa, mà để tìm, một cách sơ đẳng hơn, cái hồi hộp của sự trông chờ. Ai sẽ thắng? Nhưng không ai biết những gì sẽ xẩy ra.
Tại cái đang xảy ra người ta cũng chưa biết là cái gì. Mọi vật trong một thế giới của vật lực đã mất đi ý nghĩa cố định của chúng. Và tất cả đều trở thành nghi vấn. Cái bí mật của con đao Đồ Long như thế nào mà làm người ta giết nhau? Ai đã xuống tay giết một lúc mấy mươi mạng người của Long Môn tiêu cục? Không lẽ kẻ đã dùng Kim Cương Chỉ để tra khảo Dư Đại Nham lại là người của Thiếu Lâm Tự? Nhân vật tài hoa, uyên bác, phóng khoáng ấy sao có thể giết người như không để cả võ lâm nguyền rủa? Nhưng có gì trong lúc này không là một câu hỏi! Và chúng theo nhau đến rồn rập và nhức nhối. Người ta nóng ruột chờ đáp thuyết ở những sự đến sau. Cái tài của Kim Dung tuy nhiên sẽ dẫn người ta từ thắc mắc này đến thắc mắc khác. Nghi vấn này chưa được giải quyết thì nghi vấn khác đã được tung ra. Gay cấn hơn nữa là người anh hùng không biết mình phải làm gì và sẽ trở nên cái gì. Người anh hùng võ lâm cổ điển vào đời với một ý chí cố định, và những giai đoạn trên con đường thẳng dẫn chàng đến sự thực hiện của ý chí ấy. Những biến cố trong Kim Dung trái lại là ngần ấy chỗ quẹo tách chàng xa cái hướng đi thứ nhất của chàng. Và đôi khi như Đoàn Dự chàng cũng không có ý định nào khác hơn là đi chơi, nhưng tình cờ hết bị lôi vào chuyện lôi thôi này lại bị kéo sang chuyện rắc rối khác, để sau cùng sửng sốt thấy mình trở thành một cái gì mà mình cũng không bao giờ nghĩ tới. Người ta theo chàng vào một Bát Quái Trận Đồ và con đường bách thắng đã trở thành một cuộc thất lạc trong Mê Cung. Ở chỗ nào cũng xuất hiện những biến cố lạ và những sự kiện khả nghi. Xưa tất cả có một ý nghĩa cố định. Thế giới sáng sủa. Không phải không có nguy hiểm nào đe doạ người anh hùng. Nhưng những nguy hiểm nào cũng có thể bị gọi tên, nghĩa là giới định và chỉ có ở ngoài. Mỗi sự kiện giờ trái lại là một sự ngỏ dẫn người ta vào một bí mật không thể nào lường. Ấy là một thế giới đầy ban đêm, đầy bất trắc và những quanh co như mắc cửi. Sau cái mặt nạ hàm hồ của mọi vật tất cả đều có thể xảy ra. Không biết chỗ quẹo này sẽ dẫn người ta tới đâu và cái gì chờ người ta ở cuối con đường kia. Sự nguy hiểm, cảnh nhá nhem ấy, như rình rập khắp nơi. Cái nguy hiểm đích thực tuy nhiên vẫn không phải là cái nguy hiểm sờ thấy được mà chính là sự ngờ vực ấy, như một bóng tối, không những trùng điệp trước mặt, mà càng ngày càng lớn trong lòng người anh hùng.
Thế giới ngoại tại đã khả nghi. Nhưng có khi ngay cả thân phận chàng ra sao người anh hùng cũng không chắc chắn. Không phải ngẫu nhiên mà chuyện võ hiệp mới là chuyện của người anh hùng đi tìm mình, khi thì nôm na như một thiếu niên một hôm nào đó biết mình chỉ là một đứa trẻ mồ côi và những người nuôi nó không phải là cha mẹ thực của nó, khi thì thống thiết như Kiều Phong chợt có người tố cáo rằng chàng không phải là người Hán mà lại mang dòng máu Khiết Đan nghĩa là của một dân tộc chàng luôn coi như tử thù, và cả sự nghiệp chàng như thế đã dựng trên một điêu trác khi thì khôi hài như Thạch Phá Thiên từ nhỏ mang tên Chó Lộn Giòng, để lớn lên ra đời ai cũng nhận là người của mình, trong khi ngay chàng cũng không biết chàng thực là ai. Lẽ dĩ nhiên người ta cũng không thể nào quên Âu Dương Phong luyện võ bị tẩu hoả nhập ma đến nỗi vừa nghe nói có một tên Âu Dương Phong còn giỏi võ hơn mình vội đâm bổ đi tìm và gặp ai cũng hỏi “Ai là Âu Dương Phong” và “Ta là ai”. Câu hỏi của ông già lộn đầu ấy tuy nhiên người anh hùng nào không có lần đặt ra? Không phải họ đều là những người không cha không mẹ. Nhưng tất cả họ cùng có một cảnh ngộ: là bị ném vào một thế giới mà họ không hiểu trong đó họ phải tự chọn. Mà chọn gì khi Tà không là Tà, Chính không ra Chính và cả thế giới, sa đoạ trong một tình trạng bạo động thường trực, không để lại gì hơn là những nghi vấn chập chùng. Đi tìm mình, người anh hùng cũng đi tìm một ý nghĩa cho thế giới; thế giới Kim Dung là một thế giới đang chờ được định nghĩa và truyện Kim Dung chỉ là truyện của một cái nghĩa đang hình thành. Ấy làm một truyện tầm-đạo trong phương thức của một truyện trinh thám.
Như trong truyện trinh thám, thoạt tiên người ta chỉ thấy những sự kiện lẻ bất ngờ và khó hiểu: tất cả thoạt tiên chỉ có giá trị như những manh mối của một bí mật cần phải truy tầm, như những di tích của một quá khứ cần được xây dựng lại, như những mảnh vụn của một toàn thể cần phải được khám phá dần dần. Người ta ngạc nhiên trước những gì đang xảy ra đến từ cái đã xảy ra, và công việc giờ, như trong truyện trinh thám, là đi ngược từ hiện tại đến quá khứ, từ kết quả đến nguyên nhân, từ xúc động đến giải thích. Nhưng trước hết phải có xúc động và những biến cố phải làm người ta ngạc nhiên và gây sự tò mò. Của Ưng Vương chẳng hạn, thoạt tiên, người ta chỉ thấy một tiếng hú kinh dị giữa một trời chiều và những xác chết ông để lại sau một cuộc giết người thần tốc. Nhưng thế cũng đủ để tiếng dội tâm lý trong độc giả còn vọng mãi. Và người ta phải chịu rằng Kim Dung, mỗi lần giới thiệu một nhân vật quan trọng, là ông biết sửa soạn những điều kiện để sự xuất hiện của nhân vật ấy đạt tới mức công hiệu tối đa. Người ta sẽ không quên những tiếng chân nặng nề của Tạ Tốn, giọng ho khan của Kim Hoa Bà Bà, cái nhìn trầm mặc của Phạm Giao và tiếng cười sảng khoái của Dương Tiêu trên Côn Luân Sơn, giữa những cảnh rừng thu lá đổ vàng. Có những nhân vật không có gì để người ta nhớ hơn là cách xuất hiện đột ngột lần đầu tiên của họ. Tại một khi đã định nghĩa thì như sự kiện đã được giải thích, nhân vật như đã chết và không còn tác dụng tiểu thuyết nào nữa. Nhưng khi còn là một nghi vấn, còn làm người ta thấy thắc mắc và trông chờ thì nhân vật còn sống và người ta hiểu tại sao người anh hùng trong Kim Dung chỉ có thể là người anh hùng tập sự, người anh hùng đi tìm mình, người anh hùng chưa thành anh hùng. Các nhân vật khác cũng thế: của họ thoạt tiên người ta chỉ biết có một nửa: Khi thì một người dị thường, tính khí ngang nhiên, võ công trác tuyệt, nhưng thân phận như chìm trong một dĩ vãng xa xôi và thần bí, khi thì như một cái tên truyền tụng trong giang hồ, người ta chỉ nhắc đến trong sự tôn kính và sợ hãi, nhưng chưa ai được thấy mặt bao giờ. Cũng có khi người ta có thể khám phá ra con người dị thường mà cứ một lần xuất hiện là gây cho người ta một nghi vấn ấy và cãi nhân vật chấn danh võ lâm mà người ta náo nức trông chờ chỉ là một, cũng như Kim Hoa Bà Bà, nào ai ngờ, chính là nhân vật của Minh Giáo đã từ lâu ngày biệt tăm chỉ để lưu lại trong trí nhớ của mọi người cái tên rực rỡ là Tỷ Sam Long Vương. Nhưng tất cả nghệ thuật kể chuyện trong lúc này là trì hoãn tối đa cái giờ xác định căn cước của nhân vật. Mộ Dung Phục có mặt nhất khi người ta chỉ biết chàng như một tiếng đồn trong võ lâm. Sự có mặt trong sự vắng mặt ấy là tất cả sức mạnh của truyện. Nó là nơi của nghi vấn, của trông chờ và mọi sự có thể. Nghĩa là của mọi sự bất ngờ.
Ai ngờ rằng Mộ Dung Phục, vẫn trong một phong độ tao nhã, một chốc có thể trở thành một sát thủ không gớm tay, rằng sự thuỳ mị của Chu Chỉ Nhược lại sửa soạn cho những tham vọng, những tuyệt vọng và những ác độc khôn lường, rằng tất cả những ân cần Trương Linh chỉ là một kế hoạch trong một kế hoạch dài hạn nhằm cướp con đao Đồ Long. Của nhân vật, người ta chỉ biết cái vai trò của họ, và đùng một cái, họ xuất hiện dưới một bộ mặt người ta không chờ đợi. Ấy có thể là một mặt nạ khác và cũng có thể là một con người thực chôn vùi trong tâm khảm chợt được một biến cố nào làm tỉnh giấc, như Tạ Tốn, nghe tiếng khóc của một đứa trẻ thơ mà tìm thấy sự sáng sủa của lương tri. Nhưng cũng có khi, như trong cơn tuý sát của Mộ Dung, người ta chứng kiến một đột biến tâm lý.
Cái bất ngờ, theo định nghĩa tầm thường nhất, là cái không ai chờ đợi: khi thì thê thảm như cái chết của A Chu dưới tay người nàng yêu, khi thì khôi hài như cảnh một đại-ma-đầu là Nam Hải Ngạc Thuần phải lạy Đoàn Dự, một thư sinh trói gà không chặt, làm thầy. Cũng có khi nó chỉ là một bất ngờ thuần tuý không có giá trị nào khác hơn là sự nên thơ như khi người ta khám phá ra rằng Côn Luân Tam Thánh không phải là ba người mà chỉ là một, rằng đứa ăn mày nhem nhuốc làm bạn cùng Quách Tĩnh là một người con gái đẹp giả trai, rằng Âu Dương Phong, vì học một võ công chép lộn mà trở thành đệ nhất cao thủ trong võ lâm. Lẽ dĩ nhiên cũng có những bất ngờ giả tạo để thoả mãn nhu cầu xúc động của người đọc, để thêm số dòng và số trang, để thêm đà cho một câu truyện đã tới chỗ sa lầy. Và cũng có những bất ngờ được sửa soạn hơn để giải quyết một tình thế đã đến chỗ bế tắc.
Cái bế tắc ấy, người ta thừa đoán, cũng là một bế tắc được sửa soạn. Tác giả cố tình đưa câu truyện đến một chỗ nghẽn để, khi ấy, mới tung ra một nhân vật mới, một biến cố mới, một phát giác mới làm tình thế đảo ngược và câu truyện tiếp tục theo một hướng mới. Khi người ta không chờ gì nữa, khi những nguy hiểm tưởng chừng như đã qua khỏi, khi mối hi vọng đã tàn lụi, thì tất cả đã xảy ra như đúng như người ta chờ, đúng như người ta đã chờ mong. Ấy là một thứ bất ngờ ở bậc hai. Khi Vô Kỵ yên chí rằng âm mưu của Hồ Thanh Ngưu đã thành công và họ đã thoát khỏi tay Kim Hoa Bà Bà để chỉ còn việc cùng nhau xây hạnh phúc đến mãn kiếp thì chàng khám phá ra xác chết của họ treo trên một cành cây, khi sau không biết bao nhiêu ngày theo đuổi, Đoàn Dự được láy được tình yêu của Vương Ngọc Yến, người ta thở dài nhẹ nhõm thì, tin đâu xét đánh! Điều người ta nghi ngại đã được chứng thực: Vương Ngọc Yến là con của Đoàn Chính Thuần và là em khác mẹ của Đoàn Dự, và thế là hai người không thể lấy nhau. Sự bất ngờ khi ấy đến như một sự thiếu: cái người ta tưởng thế nào cũng xảy ra lại không xảy ra. Nhưng giữa lúc người ta đang tuyệt vọng không biết câu chuyện sẽ ra sao thì, đùng một cái lại có tin Đoàn Dự không phải là con của Đoàn Chính Thuần mà của Đoàn Diên Khánh, người đáng lẽ được trị vì nước đại lý mà vẫn lưu vong chờ cơ hội cướp lại ngai vàng. Cái tin ấy lại đảo ngược một lần nữa. Nó trả lại Vương Ngọc Yến cho Đoàn Dự. Hơn thế nữa, cái ngai vàng nước Đại Lý, chàng trở nên người thừa kế xứng đáng nhất. tất cả sau cùng đều xảy ra theo công lệ: người anh hùng sẽ lấy vợ và làm vua. Người ta có thể nghĩ rằng để đi đến cái kết luận cổ điển ấy có lẽ Kim Dung không cần phải bày ra nhiều chuyện như thế. Nhưng nếu không như thế, nếu không trải qua một cơn tuyệt vọng thì kết luận ấy còn giả tạo tới đâu? Tới sau một sự bế tắc cố ý thì sự giả tạo ấy lại xuất hiện như một chứng cớ của cái tài biến hoá của tác giả. Giả tạo một ít thì hỏng. Nhưng giả tạo hơn một ít nữa thì Kim Dung lại trả cho sự bất ngờ cái nên thơ của nó.
Sự thật thì ông có thể để cho Đoàn Dự lấy Vương Ngọc Yến và kế vị Đoàn Chính Thuần làm vua mà không ai thấy gì làm trái cựa và những cảnh tình thế kế tiếp đảo ngược ở phút chót, thoạt tiên có vẻ thừa và quá lôi thôi. Nhưng truyện không phải chỉ là truyện của Đoàn Dự. Không có những sự đảo ngược tình thế ấy thì nhân vật Đoàn Diên Khánh người ta biết xếp vào đâu? Hình như nhân vật ấy mà người ta vẫn chỉ biết như ác tinh của nhà họ Đoàn tới đó mới tìm ra lý do vi trò của nó: là để trả cho Đoàn Dự, cùng một lúc, và tình yêu, và ngai vàng, và cái kết luận mà người ta tưởng là dàn xếp ở phút trót ấy giờ, người ta mới biết rằng với nhân vật Đoàn Diên Khánh nó đã được định từ những trang đầu. Cảm tưởng sau cùng của người ta là một tổ chức cực kỳ chặt chẽ không để gì xảy ra một cách tình cờ và trong ấy cái bất ngờ chỉ là đáp thuyết thích hợp nhất cho một tình thế không thể nào gỡ nổi. Người ta cho đáp thuyết ấy là bất ngờ. nhưng bất ngờ nhất phải chăng là khi người ta thấy rằng cái bất ngờ ấy đã được sửa soạn từ lâu? Khi trông thấy Tiểu Siêu lần đầu thì Phạm Dao chợt giật mình. Nhưng cái giật mình nhỏ nhoi ấy, gần như không ai cần chú ý, báo hiệu kết cục của truyện khi Tiểu Siêu được nhận ra là con của Kim Hoa Bà Bà và, khi ấy, người ta mới hiểu tại sao, trước những sứ giả của minh giáo, nàng phảo méo mặt giả làm một đứa con gái xấu xí. Ấy chỉ là một trong những tỉ dụ của cách bố cục kĩ lưỡng cũa truyện Kim Dung. Như tất cả những truyện viết đăng từng số một, trong Kim Dung không ngớt xảy ra những biến cố khả nghi và bất ngờ. nhưng điều làm truyện ông vượt xa những truyện cùng loại là trong khi những tác giả khác như thất lạc giữa những sự kiện mà họ thả sức tung ra cho đầy trang giấy để sau cùng không ai biết kết luận ra sao thì trong Kim Dung tất cả những chi tiết rải rác mà thoạt tiên người ta tưởng rằng vẽ ra theo sự tình cờ của cảm hứng sau cùng đều giải thích lẫn nhau trong một kiến trúc nhịp nhàng. Nhưng trong sự mạch lạc ấy, ẩn sau những nghi vấn rối như tơ vò, người ta có gặp gì hơn là một đặc tính của truyện trinh thám? Như trong truyện trinh thám, công việc là tìm cho một số sự kiện khó hiểu mối tương quan thống nhất và giải thích chúng. ấy là công việc Hoàng Dung đã làm, khi từ những tang chứng để lại trên đào Hoa Đảo mà tang chứng nào cũng kết án cha nàng,nàng phải xây dựng lại dễn biến của vụ thảm sát đã xảy ra và truy định thủ phạm đích thực. Trên một quy mô lớn hơn thì truyện Đồ Long cũng sẽ không dẫn người ta đâu xa hơn là sự tái lập cái tổ chức của Minh Giáo đã từ lâu ly tán. Người ta thấy xuất hiện suốt truyện những nhân vật mới và cảm tưởng củangười ta là đứng trước một trí tưởng tượng không gì kiềm chế. Ngần ấy nhân vật tuy nhiên sau đều được khám phá là những nhân vật thất lạc của Minh Giáo và người ta sẽ không ngạc nhiên nếu, khi chức vụ của ai cũng được trả cho người ấy rồi, thì truyện coi như có thể đã gần xong. Tổ chức của Minh Giáo sẽ cho truyện sự mạch lạc của nó. Tất cả xảy ra như trong hoá học. Mỗi lần khám phá ra chất mới thì người ta cũng khám phá ra rằng cái chất ấy đã có một ô dành sẵn cho nó trong cái bảng Méndéleieff. Ngược lại thì mỗi ô để trống lại đòi hỏi khám phá ra một chất mới để bù vào. Những nhân vật tong truyện Đồ Long, cũng thế, như đều được sáng tạo để bù vào những chức vụ bỏ không của Minh Giáo và diễn tiến của truyện, tuần tự theo sự xuất hiện của họ sẽ trả lại cho Minh Giáo bộ mặt nguyên thuỷ của nó, nghĩa là dẫn người ta đến một tình trạng có trước của thế giới. Nói tóm lại thì, như trong truyện trinh thám, cái gì mà theo như người anh hùng, người ta khám phá ra là một dĩ vãng. Tổ chức của Minh Giáo vừa là khởi điểm vừa là tổ chức của truyện. Nếu những biến cố của truyện võ hiệp cổ điển nối tiếp nhau theo một đường thẳng thì truyện đồ long được viết theo một vòng tròn. Ấy là một thứ Bát quái trận đồ: người ta đi bao nhiêu sau cùng trở về chỗ cũ và sự phức tạp của nó ẩn chứa một sự mạch lạc căn bản. Không phải ngẫu nhiên mà giũa truyện ông, Kim Dung đã bày những trận đồ của Hoàng Dược Sư như một thách đố ám ảnh. Chúng tượng trưng cho cái nên thơ của sự mạch lạc mà tôi muốn người ta coi truyện Kim Dung như một cố gắng để đề cao.
Cái nên thơ ấy người ta sẽ gặp lại trong cách Kim Dung xếp những nhân vật thành từng bộ. Có những bộ ba như A Chu, A Bích, A Tỷ, mỗi người mang một mẫu áo, có bộ tư như Long Vương, Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương, mỗi người lấy một linh vật làm danh hiệu, có những bộ năm như Đông Tà, Tây Độc, Nam Đế, Bắc Cái Trung Thần Thông, mỗi người xưng bá một phương và lẽ dĩ nhiên cũng cò những bộ bảy và bộ tám nữa. Sau cùng phải kể đến Quang Minh Lưỡng Sứ, người tên Tiêu người tên Dao như sinh ra là để đồng hành và được võ lâm xưng tụng là Tiêu Dao Nhị Tiên. Một điều đặc biệt trong những nhân vật ấy là bộ có trước nhân vật. Một bộ thoạt nhiên là lược đồ của một guồng máy mà những cơ quan là những nhân vật chờ được sáng tạo. Nhưng một khi những cơ quan đã lập, nghĩa là những nhân vật đã có những chức vụ đang chờ họ thì bộ, tuỳ theo những chuyển động riêng của mõi người, sẽ như một guồng máy có chuyển động riêng của nó. Ngược lại thì sự chuyển động của Bộ cũng làm nhân vật chuyển động theo. Nhân vật làm ra bộ. Nhưng trong Bộ nhân vật mới tìm thấy định nghĩa của nó. Ấy là một chức vụ, một địa vị, một màu sắc. Tâm lý nhân vật mất quan trọng và có lẽ Kim Dung, sau khi đã xác định nhân vật như một chiều sâu, sẽ tiến đến một quan niệm về nhân vật nhân vật giống truyện võ hiệp cổ điển, nhưng được khai thác một cách có ý thức và hệ thống hơn. Sự khác nhau giữa những nhân vật khi ấy chỉ còn là sự khác nhau giữa những vị trí của họ trong một bộ. Có những nhân vật tâm lý khôn có gì đặc sắc, nhưng thuộc vào một bộ, lại có một sự có mặt khác thường. Ngược lại thì đôi khi có thể nói rằng, Bộ đã ăn mất con người nhân vật để chỉ để lại một số hiệu. Quả Kim Dung đã không uổng là nhà văn của thời đại của tổ chức! Và trong truyện ông, Cái Bang, Minh Giáo, Thiếu Lâm nghĩa là những môn phái có tổ chức to lớn, chặt chẽ và phức tạp thường giữ một vai trò đôi khi còn quan trọng hơn của người anh hùng. Sự phức tạp ấy tuy nhiên Kim Dung không giới hạn vào một môn phái mà đã cho nó kích thước của một thế giới. Ấy là tất cả cái mênh mông của võ lâm trong cảnh ly tán, đa sắc và phồn tạp của nó mà theo người anh hùng người ta sẽ khám phá ra, người anh hùng không chỉ khám phá ra một thế giới. Cái gì chàng đã cho sống lại là cả một giai đoạn của lịch sử võ lâm, và chính trong lịch sử ấy mà chàng sẽ tìm ra lý do đã làm võ lâm ly tán, nghĩa là sự mạch lạc trong cảnh võ lâm ly tán ấy, của võ lâm, để sau cùng lai trả cho võ lâm sự thống nhất của nó.
VI. Thế giới Kim Dung
Nhưng trước khi chắp xong những mảnh vụn ấy, thu tất cả những đầu dây vào một mối và tìm ra cái chốt của mọi sự kiện thì chàng đã trải qua những rừng nghi vấn. Hơn một lần những bất ngờ đã vồ lấy chàng. Và cuộc phiêu lưu của chàng đã là một thất lạc giữa những đe doạ chập chùng. Không có ai trong truyện võ hiệp cổ điển dễ nghi ngờ cái ý nghĩa sẵn có của mọi vật. Nhưng người anh hùng Kim Dung trái lại vào đời để ngạc nhiên khám phá rằng thế giới to, rộng và phức tạp hơn người ta đã dạy chàng. Ấy thường là một thiếu niên thật thà, võ công chẳng có mấy cũng như chẳng có mấy kinh nghiệm giang hồ. Khác hẳn những anh hùng cổ điển khi xuống núi là đã có sẵn những võ công trác tuyệt và chỉ có việc mang cái đạo có sẵn ra thi hành để tiếp tục một truyền thống đã gần trở thành tự nhiên thì chàng, chàng phải học tất cả từ đầu. Những tình cờ của cuộc đời sẽ dạy chàng võ công cũng như đạo lý. Theo chàng người ta tham dự vào sự khám phá một thế giới mới, lạ và bí mật. Và đồng thời truyện của sự khám phá ấy cũng là truyện của sự trở thành của người anh hùng. Không thuộc môn phái nào cố định, nhưng học ở khắp nơi, người anh hùng Kim Dung là con của kinh nghiệm và của sự tình cờ. Ấy là con người của những thuở giao thời khi truyền thống sụp đổ mà những giá trị mới vẫn chưa xuất hiện một cách rõ ràng. Con người ấy do cuộc đời làm ra, và có khi cuộc đời biến chàng ra một cái gì khác hẳn những tham vọng nguyên thuỷ của chàng. Truyện võ hiệp cổ điển trình bày những giai đoạn của sự thực hiện theo một đường thẳng của một dự định từ đầu tới cuối vẫn là một. Khi cuộc phiêu lưu của Vô Kỵ chấm dứt thì còn gì của ý chí phục thù của chàng? Hình như chàng đã quên nó từ bao giờ không biết.
Con người bị thế giới thay đổi. Ấy là tại thế giới lớn hơn con người. Người anh hùng Kim Dung thường xuyên bị vây giữa cái chưa biết. Tương lai thì mịt mù, hiện tại lại khó hiểu mà sau lưng chàng còn cả một dĩ vãng mà chàng không hề tham dự, nhưng đôi khi một võ công thất truyền nhắc lại như tiếng vọng của một cái gì thần bí và hoang đường. Chàng phải khám phá ra thế giới từng bước một. Nhưng thế giới như không có giới hạn. Hết sự lạ này lại đến sự lạ khác, hết võ công này lại có võ công khác cao hơn và như người ta nói, ngoài trời lại có trời.
Kinh nghiệm của người anh hùng là kinh nghiệm của cái vô cùng, cái bên kia, cái khác. Từ cái phồn hoa của những đô thị đến những cơ quan ác hiểm, tất cả, trong truyện võ hiệp cổ điển, đều làm chứng cho sự nhân loại hoá của thế giới. Cảnh trí trong truyện võ hiệp mới khác hẳn. Hang sâu, vực thẳm, rừng hoang, đảo vắng, sa mạc mênh mông, một thiên nhiên dữ tợn vây con người ở khắp nơi. Ở khắp nơi xao xác tiếng gọi của Huyền bí và của Vô cùng.
Tà đạo trong Kim Dung cũng có lưỡng tính ấy. Vừa đe doạ nó vừa cám dỗ. Như người của Chính phái, khi lâm sự, người của Tà đạo cũng mười phần ác độc, và đôi khi những đòn của họ còn thâm hiểm gấp bội: chỉ có người Tà đạo, chẳng hạn, mới nuôi rắn ở trong túi để đề phòng khi họ bị thua, kẻ thù có lục xác sẽ bị rắn cắn chết. Nhưng họ không bao giờ tìm cách cho sự ác độc ấy một minh chứng. Hơn thế nữa họ còn cười đạo lý của những môn phái khác là ngây thơ, giả dối và hủ lậu. Cám dỗ đầu tiên họ mang lại là một tự do không biên giới. Người lương thiện trước họ sửng sốt tự hỏi sao trên đời lại có người như thế? Làm sao tuy nhiên có thể vô tình trước sự thông minh của Hoàng Dung, nhan sắc của Hân Tố Tố, sự uyên bác của Tạ Tốn, tính ngạo mạn của của Hoàng Dược Sư? Những đức tính ấy tuy nhiên chỉ là những cám dỗ bề ngoài. Xa hơn nữa Kim Dung sẽ cho người ta thấy rằng tội ác tự nó có một sức thu hút lạ thường. Ai có thể đoan trang hơn Mục Niêm Từ? Nhưng người con gái ấy sẽ suốt đời giữ thuỷ chung với Dương Khang là một con người ung thối, gian xảo và ngoài danh vọng ra thì chẳng thiết gì. Cũng như thế, Kỷ Hiểu Phù sẽ chịu chết mà không chịu phản bội Dương Tiêu mà sư phụ nàng gọi là một tên dâm tặc và cũng là người tình của chính nàng. Trong những mối tình ấy có một cái gì người ta không thể hiểu hết và người ta tự hỏi khi tả chúng thì Kim Dung đã muốn nói lên cái gì. Sự thôi miên của tội ác, sự phi lý của tình yêu hay cái thiêng liêng mà người ta muốn xác định trong những con người sa đoạ nhất? Tất cả những ý tưởng ấy có lẽ cùng một lúc đã thoáng qua trong đầu người ta, khi cái xác của Dương Khang phơi ở ngoài một miếu vắng, đàn quạ no nê chỉ để lại một mớ xương hoang. Con người gian xảo ấy đã đền tội một cách xứng đáng. Nhưng trong một ngôi chùa xa, ít người lai vãng, Mục Niệm Từ sẽ giữ nguyên dưới đáy lòng ảnh tượng của một người yêu.
Cái chí của Dương Khang không cao, tham vọng duy nhất của chàng là thừa kế cái địa vị của người cha nuôi để có thể tận hưởng phú quý. Nhưng để thực hiện tham vọng ấy chàng đã phản bội tất cả: quê hương, cha mẹ, anh em, bằng hữu và sau cùng trở thành một kẻ sát nhân. Cái hoạ là tâm hồn chàng, vẫn còn có chỗ bị cái đạo lý truyền thống uy hiếp, và cứ gặp cái nhìn của Mục Nhiệm Từ là chàng lại như thấy sự oán trách của lương tri. Tội ác chàng làm tự chàng coi là tội ác, và đứa con sa đoạ ấy của một dòng nghĩa hiệp sẽ không bao giờ biết gót chân nhẹ nhàng của những người đi chinh phục những vùng đất cấm. Xã hội lên án những người ấy là tà đạo. Nhưng họ có làm gì hơn là muốn vượt khỏi giới hạn của cuộc sống tầm thường? Giới hạn của đạo lý lẽ dĩ nhiên, nhưng cả giiới hạn tự nhiên của con người, họ cũng muốn vượt qua, và không vượt qua được thì đến Trời họ cũng chửi. Nhưng trong sự nổi loạn ấy người ta đã nhận ra người anh hùng của văn học lãng mạn. Cơn thịnh nộ của Tạ Tốn, trong cơn bão đánh bạt thuyền ông lên Băng Hoa Đảo, chống lại cái mà ông nguyền rủa là Lão Tặc Thiên làm người ta nghĩ đến thuyền trưởng Achab của Melville và không phải ngẫu nhiên mà đã hai lần Kim Dung lấy cái tên Phá Thiên để đặt cho nhân vật của mình. Tà đạo trong ông không chỉ gồm có những quân đầu trộm đuôi cướp mà những người mang cái chí muốn đoạt quyền tạo hoá. Họ đã ly khai khỏi cái đạo lý của tất cả mọi người. Lẽ dĩ nhiên họ bị nguyền rủa. Tham vọng điên cuồng của họ trong khi ấy chỉ có thể đưa họ đến thất bại và sự thất bại ấy lại xuất hiện như một nguyền rủa lớn hơn nữa, là của định mệnh. Họ là những người đã thách đố thần linh. Và như trong những truyện cổ Hy Lạp, Thần linh đã trừng phạt sự kiêu ngạo của họ và làm họ hoá điên. Hơn là tham vọng của họ, hơn là cái tài của họ, sự thất bại của họ làm người ta sợ hãi, tại trong sự thất bại ấy người ta đã không gặp gì hơn là cái bất nhân. Ấy là ấn tượng của người ta trước định mệnh của một Hoàng Dược Sư, một Tạ Tốn, một Kiều Phong. Lại có những nhân vật như Dương Khang, Chu Chỉ Nhược, Du Thản Chi chẳng có gì vượt bực. Nhưng thảm kịch của đời họ đặt cho người ta những nghi vấn. Sao lại có thể có một Du Thản Chi, từ thể xác đến tinh thần, như tụ hội tất cả những tật nguyền. Những nhân vật như thế tuy nhiên, trong Kim Dung, không chỉ giữ một vai bàn đạp để tuyên dương cái tích cực rạng rỡ chuyên chở trong những nhân vật chính. Tai hoạ mà họ phải gánh chịu ông còn cho người ta biết như một điều oan uổng. Người ta chạm trán trong họ với cái phi lý của định mệnh.
Định mệnh, Thần linh, Thiên nhiên, Thế giới, tất cả đều lớn hơn con người như sa mạc lớn hơn ý chí của Thiết Mộc Chân. Và cái gì ông hoàng Mông Cổ, sau khhi đã khuất phục cái mênh mông của sa mạc, sẽ gặp lại, trước giờ nhắm mắt là một cô độc không thể vãn hồi. Sự thất bại sau cùng ấy Kim Dung cũng sẽ dành cho những Vô Kỵ, Mộ Dung, Tạ Tốn. Truyện ông như muốn quật ngã cái ý chí anh hùng và cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người thống trị. Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị, khi uy quyền đã vững và tới bậc cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang giai đoạn của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp? Thì người ta sẵn sàng dành cho họ cái dễ thương của sự nhẹ dạ và ngu đần! Và có lẽ cũng như tác giả Don Quichott, ở cái thời mà vàng của Mỹ Châu tràn ngập những thị trường Địa Trung Hải, làm sống lại sự giao thương, tao loạn và những thuyết nhân bản, xoá nhoà trong trí nhớ của mọi người sự nghiệp oai hùng của những chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện võ hiệp để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc tiếu ngạo giang hồ. Những anh hùng của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có những cá nhân.
Cái gì người ta chiêm ngưỡng trong những nhân vật cổ điển không phải là cá nhân họ mà những giá trị họ tượng trưng. Nhưng sự sụp đổ của những giá trị trước một thế giới của vật lực cũng làm rơi những mặt nạ, và con người trong Kim Dung xuất hiện như một mớ đam mê. Khi Trương Thuý Sơn ôm cái xác gẫy của Dư Đại Nham về Võ Đường thì cái gì sư huynh đệ chàng chợt giác ngộ là sự thật đơn giản rằng họ không phải là những thiên thần. Họ có một thân thể để mang bệnh, trúng thương và chết, không phải cái chết vinh quang người ta thường đợi ở những người anh hùng, mà cái chết tăm tối, ô nhục và khả nghi không biết tại sao chết và chết dưới tay ai, có thể xảy ra cho bất cứ kẻ vô danh nào lạc bước trên giang hồ. Sinh ra ở đời mà không ai chết! Tiếng thở dài của Tương Tam Phong trước cảnh hấp hối của đứa học trò yêu của mình như cáo chung một giai đoạn trong lịch sử võ hiệp. Những người anh hùng giờ sẽ biết sự đau khổ. Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tâm hồn họ sẽ là nơi giao động của thất tình. Và những biến cố tâm lý cũng có một trọng lực không kém gì những biến cố ngoại tại. Tương quan giữa người đọc và truyện cũng đổi hẳn. Từ địa vị của một khán giả của một buổi trình diễn, người ta phải chia sẻ tâm sự của nhân vật, vui, buồn, thắc mắc cùng nhân vật, nói tóm lại tham dự trực tiếp vào cuộc phiêu lưu.
Xa cái vui mắt của những đô thị, người ta theo người anh hùng tiếp xúc với cái trữ tình của những mặt hồ man mác, những chuyến đi thuyền đêm dưới trăng, những cảnh rừng hoang xào xạc lá rụng. Ấy là những cảnh để nói với llòng người và trong truyện, chúng là một yếu tố dẫn cảm. Cũng như thế, quan trọng của biến cố không còn ở yếu tố đạo lý chúng có thể trình diễn mà ở tiếng dội tân lý của chúng. Khi thì chúng làm người ta sửng sốt và trông chờ, lại có khi chúng gây ra những tình cảm nhân loại hơn: lãng mạn như cuộc tương ngộ đầu tiên giữa một đôi tri kỉ, nhưng thương tâm cũng có như cái chết của một nhân vật người ta đã theo như một người bạn đường. Ai có thể nghĩ rằng những Hân Tố Tố, Trương Thuý Sơn, Kỉ Hiểu Phù, A Chu, Kiều Phong, A Tỷ… lại có thể bị hy sinh? Nhưng Kim Dung sẽ đi rất xa. Ông sẵn sàng cho chết ngang xương những nhân vật được người đọc cảm tình nhất. Và lẽ dĩ nhiên cái chết nào, dù là cái chết xứng đáng của một Dương Khang, cũng đủ thảm khốc để có vẻ oan uổng. Cái gì tác giả muốn là gây cho người đọc một cảm động mạnh. Cảm động trên hết, cảm động trước đã và cảm động sẽ thắng, những giá trị của truyện võ hiệp mới là những giá trị của tâm hồn. Ai có thể chờ gì hơn ở một truyện kể khi ngay những nhân vật của truyện cũng không còn thiết đến ý nghĩa đạo lý của nó? Tất cả là làm thế nào cho người ta động lòng. Xưa thế giới chia đôi: một Tà và một Chính. Giờ thì những tiêu chuẩn tình cảm sẽ thay thế những tiêu chuẩn đạo lý: sẽ có những nhân vật để người ta cảm tình với và những nhân vật để nhận tất cả ác cảm của người ta. Cho nên để gợi sự thương tâm trong độc giả, anh hùng giờ sẽ là người anh hùng lâm nạn và truyện sẽ không kể lại những chiến công mà những tai hoạ kế tiếp nhau trong đời chàng. Ấy là Dương Qua trong tay những ông thầy bất công và nghiệt ngã, ấy là Thạch Phá Thiên ở với một người mẹ nuôi thù hằn, ấy là Vô Kỵ suốt thiếu thời mang một chứng bệnh nan y. Nhỏ thì chịu nỗi nhục của một đứa trẻ vô thừa nhận, lớn lên họ lại bị xã hội nghi ngờ, xua đuổi, nguyền rủa, uy hiếp. Ngoài ra còn đủ các thứ cảnh ngộ éo le mà cái tình cờ của phiêu lưu thường xô họ vào để họ phải chọn giữa những tình cảm đối nghịch. Không có gì trong thế giờ là minh định như xưa. Họ thường xuyên phải ngạc nhiên, tự tra vấn, xét lại những thành kiến và những ước định của mình. Cho nên người nào cũng có một đời sống bên trong cực kì sôi động. Hơn thế nữa, chẳng mấy người từng trải qua những cay đắng của giang hồ, và đem trong mình một quá khứ nặng nề. Kinh nghiệm ấy cho họ một tâm hồn đầy uẩn khúc, và mỗi nhân vật giờ xuất hiện như một sự sâu xa thần bí. Ấy là nguồn của cái tâm lý phức tạp mà người ta thường ca tụng Kim Dung là đã mang vào truyện võ hiệp. Tâm lý trong kim Dung có lẽ cũng không phức tạp như người ta nói. Nhưng ít nhất thì nhân vật của ông cũng không phải là những vai trò mang những nhãn hiệu cố định. Sau những nhãn hiệu là một thế giới riêng tư, sau những vai trò còn có con người, và con người đích thực theo Kim Dung là con người năng tính. Ông sẽ cho người ta thấy trong những tên đại ma đầu, một người cha muôn thuở đang ngủ. Tiếng khóc của một trẻ thơ thức tỉnh Tạ Tốn khỏi cơn mê sảng đẫm máu từ bao lâu đã vùi ông trong một cuộc tàn sát tưởng không bao giờ thôi. Và cái sướng nhất đời của Âu Dương Phong, có ai ngờ là được một thằng bé con gọi là cha. Mất con, Diệp Mị Nương bắt trẻ của người để ăn tim uống máu. Nhưng chỉ cần nhìn thấy lại đứa con mụ vẫn mong thầm nhớ trộm là mụ chợt giác ngộ và lên án cả quá khứ của mình. Cũng như thế một Lý Mạc Thu có thể nhảy vào lửa để cứu một đứa trẻ thơ. Nhưng dưới tác phong tàn bạo của họ, nhân vật nào trong Kim Dung lại không đa sầu, đa cảm và đa tình? Người ta chỉ cần nhớ đến sự thuỷ chung của Hoàng Diệp Sư với người vợ sớm qua đời, và tiếng sáo của ông trên nước biếc, khi một mình trên chiếc thuyền ông đi khắp bốn bể tìm con.
Cái tình là tiếng nói của cái phần sâu xa nhất trong cơ thể con người. Không có tình giữa nhưng vai trò xã hội. Nhưng khi hai nhân vật khám phá nhau như những con người, nghĩa là khi Trương Thuý Sơn thấy Hân Tố Tố không giống hẳn cái ảnh tượng mà mấy tiếng nữ ma đầu gợi ra trong đầu chàng thì aí tình giữa hai người đã bắt đầu. Nhân vật của truyện võ hiệp cổ điển cũng biết yêu nhau. Nhưng trong thế giới của họ chữ tình chỉ mang một tương quan tại ngoại, ước lệ và trừu tượng qui định bởi thứ bậc xã hội và những tiêu chuẩn đạo lý. Không thể tưởng tượng được chẳng hạn một cuộc yêu đương giữa những người của Tà môn và của chính giáo. Nhưng trong Kim Dung cái tình là tinh hoa của năng tính. Nó sẽ thành những giới hạn giả tạo ấy và làm cho Dương Quá chẳng hạn suốt đời phải thương nhớ một người cha sa đoạ. Tình cha, mẹ, con cái, tình thầy trò, tình đồng môn, tình bằng hữu, không tình nào Kim Dung lại không mô tả qua. Và lẽ dĩ nhiên phải kể đến những sắc màu của tình yêu: tri kỉ như giữa Hoàng Dung và Quách Tĩnh, thần tiên như giữa Dương Quá và Long Nữ, ác độc như giữa Du Thản Chi va A Tỷ. Có những mối tình trưởng thành trong sự chia sẻ nguy hiểm và gian khổ chung và những mối tình như của Lân Ly với Vô Kỵ kết tinh từ một kỉ niệm nhỏ thiếu thời. Lại có những mối tình sét đánh như Đoàn Dự vừa trông thấy Vương Ngọc Yến là tưởng như tất cả những nhan sắc khác đều bị xoá nhoà. Những người yêu thì có kẻ đào hoa như Đoàn Chính Thuần, thờ phụng như Đoàn Dự, ngây thơ như Hân Ly, đau khổ như Chu Chỉ Nhược, dịu dàng như A Chu, nhưng người nào cũng yêu đắm đuối như đã gặp trong người mình yêu một cái gì không thể gặp được một lần thứ hai ở trên đời. Cho nên A Chu có chết đi mà ảnh tượng nàng còn thao thức mãi trong lòng Kiều Phong. Hai tâm hồn gặp nhau tương đắc, giao hội và không có gì có thể chia rẽ họ. Trương Thuý Sơn, Kỷ Hiểu Phù, A Chu sẽ nhận cái chết để không phải lên án người yêu của họ, và Mục Niệm Từ sẽ giữ thuỷ chung với Dương Khang cho đến cùng. Tình yêu không kể tới đạo lý. Nó cũng không thể giải thích được. Ai biết đâu sự sa đoạ của Dương Khang chẳng là cái đã cám dỗ Mục Niệm Từ, cái ngây ngô của Quách Tĩnh là cái đã cám dỗ Hoàng Dung, sự lơ đãng của Mộ Dung Phục là cái đã cám dỗ Dương Ngọc Yến? Tham vọng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Nhưng tình yêu là cái duy nhất trong Kim Dung không bao giờ biết đến sự ăn năn. Cái tên Bất Hói mà Kỷ Hiếu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trứng phạt đến hoá điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn mà tại chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu.
Sự giá trị hoá cái tình trong Kim Dung, tuy nhiên chỉ là tỉ dụ điển hình nhất của sự giá trị hoá đời sống tâm hồn. Tâm hồn của nhân vật võ hiệp cổ điển có thể đọc trên mặt họ. Ấy không phải một tâm hồn mà một vai trò, một nhãn hiệu, nhiều lắm là một cá tính. Tất cả những cử chỉ của nhân vật đều mang sắc thái của cá tính ấy mà mục đích của chúng là trình diễn cho ai cũng có thể thấy rõ. Nhưng Kim Dung biết rằng sự thật cuối cùng của một người không bao giờ có thể đạt tới. Nhân vật của ông thường là những nhân vật đa diện, và trong họ lúc nào cũng có thể xuất hiện một con người khác hẳn con người vẫn thường biết. Hơn thế nữa, trong Kim Dung, người ta vào đời là để tự khám phá, tự đào luyện, tự xây dựng. Cho nên cái vô định tính thường là đặc tính đầu tiên của nhân vật - và nhân vật nào cũng chỉ dần dần người ta mới có thể nhận rõ. Thoạt tiên của họ người ta biết có những cử chỉ. Nhưng cử chỉ, diện mạo, ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết được sự thực của người ta? Cái vỏ ngoài ấy trái lại thường ẩn những nội dung khác hẳn. Sự chất phác ở sau cái cục mịch, sự tàn nhẫn ở sau cái dịu dàng, sự thuỷ chung ở sau cái ương ngạnh. Tác phong của nhân vật Kim Dung không diễn tả cái tâm hồn của họ. Nó dấu cái tâm hồn ấy đi và tâm hồn ấy lại xuất hiện như một cái gì rất sâu xa. Giông tố nào sau cái mặt nạ lạnh như tiền của Hoàng Dược Sư? Tham vọng nào trong con mắt lơ đãng của Mộ Dung Phục? Tuyệt vọng nào trong cơn say phá trời của Hoàng Dung? Nhân vật võ hiệp cổ điển, ngược lại, cảm ra sao thì tình cảm ấy xuất hiện ra ngoài, nghĩa là diễn tả một cách trực tiếp và minh bạch qua những cử chỉ ước lệ và cố định. Không ai có thể hiểu lầm một tiếng cười, một điệu khóc, một cơn giận dữ của họ. Nhưng cũng vì thế mà càng cố làm ra như thực, những tình cảm của họ lại càng có vẻ ngoại tại và giả tạo. Chợt bùng lên, chúng lại chợt tắt đi và những nhân vật, sau một lúc ồn ào, lại tiếp tục như không có gì xảy ra. Nhưng trong Kim Dung những tình cảm đích thực thường ít nói. Khi biết rằng không còn cách nào để chữa cho Dư Đại Nham thì Trương Tam Phong chỉ yên lặng thở dài quay lại nhìn các môn đệ của mình và nói một câu chậm chạp: Làm người ai chẳng chết một lần? Để rồi suốt đêm ấy, ngồi một mình suy nghĩ trên mấy câu thơ đang tàng trữ cái bí mật về cái tai nạn đã xảy ra cho đứa học trò yêu của mình và sáng tạo ra bộ Đồ Long công. Nỗi buồn không được nói ra nhưng nó đè nặng trên mỗi cử chỉ. Ấy là mọt nỗi buồn đã ngấm vào thân thể, một nỗi buồn để người ta nghiền ngẫm, một nỗi buồn đã hoá ra chất liệu của cuộc đời. Sự kín đáo của nhân vật cho nó một sự sâu xa mà không ngôn ngữ nào đạt tới. Hay là ngôn ngữ, trong một thế giới mà đối thoại duy nhất có thể có là của võ lực chỉ còn là một thứ xa hoa? Cho nên mới có một Hoàng Dược Sư, mặc cho người đời nguyền rủa và nghi ngờ, vẫn thản nhiên tiếp tục con đường của mình mà không bao giờ tìm cách tự minh chứng. Hình như ông cho rằng ai cũng có lý do riêng để làm cái việc mình làm, và những cố gắng để thuyết phục cũng như giải thích đều thừa. Khi thật tức giận ông cũng chỉ “hừ” một tiếng ngắn ngủi. Nhưng càng ít nói thì những tình cảm càng nói nhiều. Và cái gì ở sau cái mặt nạ của Hoàng Dược Sư là một tâm hồn đầy bão tố. Người ta bước vào từ chương của những yên lặng đầy ý nghĩa, và cái Kim Dung mang vào truyện võ hiệp là một ngôn ngữ cho tâm hồn, khi tâm hồn của mỗi người là một tâm sự không thể nào chia sẻ. Và có lẽ cũng tại thế mà trong Kim Dung, người ta thích trá hình - theo nghĩa bóng và theo cả nghĩa đen của chữ ấy - như người ta chỉ thấy trong cái hàm hồ của những cử chỉ một cơ hội cho sự lường đảo và cái nguồn của ngộ nhận.
Mình Trương Thuý Sơn biết rằng chàng không có cơ hội. Nhưng làm thế nào chàng có thể tự minh oan, khi tất cả những sự kiện kiểm soát được đều lên án chàng là một sát nhân? Quả Hân Tố Tố có đả thương Dư Đại Nham. Theo qui củ trong giang hồ thế chẳng có gì là trái đạo. Huống chi nàng đã tìm hết cách để cứu chữa thương thế cho chàng. Nhưng ngờ đâu sự ân cần ấy lại gây thêm tai vạ, và con người đã bị nàng biến thành một phế nhân ấy sẽ là anh chồng của nàng.
Chủ quan mà xét thì nàng không có tội. Nhưng sự thật của những chứng nhân đâu giống sự thật của những tác nhân! Hơn ai hết Kim Dung đã dùng cái mâu thuẫn ấy để xây dựng một tâm sự, sửa soạn một thảm kịch, dẫn đường cho một bất ngờ và không đợi những lý thuyết gia mới của tiểu thuyết ông đã khai thác trong truyện ông sự tương đối của những quan điểm. Khi nghe Hân Ly kể lại mối tình của nàng với Vô Kỵ, thì có ai, kể cả Vô Kỵ, có thể nhận ra những gì đã xảy ra? Trong thực tế thì chỉ có một cuộc cãi lộn giữa hai đứa trẻ trong một chốc tình cờ gặp nhau. Nhưng trong trí nhớ của Hàn Ly câu chuỵên ấy đã biến thành một thiên tình sử giao động đẫm nước mắt. Cũng một sự kiện ấy, nhưng tuỳ nhân vật, người ta có thể có nhiều chuyện khác nhau, và ngược lại những chuyện tưởng khác nhau sau cùng chỉ là những mặt khác nhau của một chuyện duy nhất. Cái khéo của Kim Dung là bao giờ cũng trình bày những biến cố từ quan niệm đặc biệt của một nhân vật, không biết gì hơn nhân vật và lẽ dĩ nhiên sẽ tham dự vào cuộc phiêu lưu của nhân vật như nhân vật. Sự tham dự ấy cho truyện một sức dẫn cảm gia tăng. Nhưng nếu có sự tham dự ấy thì không những tại chủ quan đã được trả lại cho nhân vật để người đọc có thể cùng nhân vật đồng hoá, nghĩa là cùng có một ý nghĩ, một tình cảm, một xúc động mà ngược lại thì những xúc động, tình cảm, suy nghĩ mà người đọc, nghĩa là bất cứ một người tầm thường nào cũng có thể có. Nhân vật võ hiệp của Kim Dung là những nhân vật đã được nhân loại hoá.
Không những có một thân thể, họ còn có một tâm hồn. Hơn một tâm hồn, họ có một tâm sự. Những ý tưởng đại cương sụp đổ. Và giá trị một nhân vật giờ là ở cái phần độc đáo nhất của nó. Những khác biệt thi nhau đua nở và người ta ngạc nhiên trước cảnh đa sắc ấy của nhân loại. Sức sáng tạo tâm lý của Kim Dung người ta sẽ công nhận là phi thường và có thể gọi ông là một thứ Shakespeare của truyện võ hiệp. Suốt mấy cuốn truyện số nhân vật của ông không sao kể hết. Không nhân vật nào tuy nhiên giống nhân vật nào. Ấy là những tổ hợp phức tạp, theo những tỷ lệ biến đổi, giữa sự thông minh, sự độc ác, sự thuỳ mỵ, sự thanh cao, sự quật cường, sự kiêu ngạo, sự ngây ngô. Một cố gắng để phân loại những nhân vật Kim Dung theo những cá tính và những đam mê của họ có lẽ sẽ có ích trong việc tìm hiểu tư tưởng Kim Dung hơn là những lý luận dài dòng. Nhưng điều quan trọng giờ không phải là nội dung của sự khác biệt giữa những nhân vật, mà là chính sự khác biệt ấy, nghĩa là sự giá trị hoá nhân vật như những cá nhân. Nhân vật Kim Dung có một trọng lực khác thường. Có nhân vật như Hà Túc Đạo chỉ xuất hiện có một lần mà ấn tượng để lại không thể nào phai. Mà đặc biệt đã xuất hiện thì một nhân vật Kim Dung, dù nhỏ tới đâu, khi truyện kết thúc, người ta cũng biết là nó trở nên cái gì. Không những đã cho nó một tâm hồn, Kim Dung còn cho nó một tiểu sử. Và đôi khi tiểu sử ấy sẽ giải thích tâm hồn của nhân vật như những tai biến trong đời Tạ Tốn sẽ giúp chúng ta hiểu sự tàn bạo của ông. Sự khác biệt mà thoạt tiên Kim Dung xác định trong nhân vật của ông như điều huyền bí sau cùng ông cho người ta thấy rằng nó không phải là không có nguyên do. Và đào sự khác biệt ấy sâu hơn một tí, cái gì người ta gặp cũng chỉ là một người như tất cả mọi người, không giống ai, nhưng như bất cứ ai, một nửa do mình tạo ra và một nửa do cuộc đời làm thành, nói tóm lại, một cá nhân. Nhân vật cổ điển cũng có những đặc tính để người ta phân biệt họ lẫn nhau. Hơn thế nữa những đặc tính ấy thường được phóng đại một cách quá đáng. Làm thế nào tuy nhiên thì nó cũng chỉ có một tính cách ngoại tại. Trong căn bản, nhân vật vẫn chỉ là tương thân cho những ý tưởng. Nhưng nốt ruồi nhỏ trên mép A chu, khuôn mặt chữ điền của Vô Kỵ, dáng đi cục mịch của Quách Tĩnh, những chi tiết kín đáo đấy, trái lại không để tách nhân vật ra khỏi cái nhân loại thường ngày mà để mang họ lại gần người ta hơn. Ý nghĩ của chúng ta là câu chuyện giờ không xảy ra giữa thiên thần và ác quỷ, mà giữa người và người, không phải những nhân vật mà là những cá nhân - nghĩa là những người, giống như bất cứ người nào ta có thể gặp ngoài đường, chỉ có một trên đời và không ai có thể thay thế.
Nhưng nhân vật Kim Dung như chỉ xác định sự khác biệt của họ để trở về cái vô danh của tất cả mọi người. Sự kín đáo ấy, trên bộ mặt, ngôn ngữ, cử chỉ, người ta lại thấy trong tên của họ. Truyện võ hiệp cổ điển thường cho nhân vật của họ những tên thật kêu. Thoạt tiên nghe tưởng họ đều là thần, tiên, ma, quái. Nhưng Quách Tĩnh, Dương Qua, Vô Kỵ, những tên ấy lại gợi cho người ta hơn là một nhân loại tầm thường? Có khi Kim Dung lại cố tìm cho nhân vật những cái tên thật xấu như Vô Phúc, Vô Thọ. Xét trên phương diện ấy thì truyện của ông thật là những truyện phản anh hùng và chúng mở đường cho sự đột nhập của cái nôm na vào cái trời tưởng của võ hiệp cổ điển. Cái tên sang trọng nhất trong Kim Dung là Vương Ngọc Yến. Nhưng người ta nhớ rằng Đoàn Dự đã coi nó như khuyết điểm duy nhất trong con người thần tiên ấy và chàng chỉ tiếc sao người ta không gọi nàng một cách mộc mạc là A Bích, A Tỷ, A Chu… Nói tóm lại, sau khi xác định sự khác biệt của cá nhân chống cái trừu tượng của những nhãn hiệu xã hội, Kim Dung, để chống cái lãng mạn của sự khác biệt, lại xác định sự khác biệt ấy như một sự tầm thường và tìm cách giá trị hoá cái tầm thường, cái nôm na, cái vô danh. Ấy là giai đoạn thứ hai trong cái tiến trình quen thuộc của mọi văn học trưởng giả.
Nhân vật được nhân loại hoá, và, như người ta đã thấy, người đọc có thể tham dự vào truyện một cách dễ dàng hơn. Xưa mục đích của truyện là trình diễn một ý nghĩa đạo lý. Người ta kể theo quan điểm của chính nghĩa. Hay đúng hơn thì trong những chuyện ấy chỉ có chính nghĩa là có thực, chứ tà đạo chỉ có như một đồ phụ thuộc, một thứ ký sinh, một bóng tối cốt làm nổi sự rực rỡ của chính nghĩa. Nhưng khi tà và chính không còn minh định thì lẽ dĩ nhiên không có quan điểm nào được coi là ưu tiên. Quan điểm tốt nhất là quan điểm người đọc có thể đồng hoá một cách dễ dàng nhất. Mà người đọc, nhất là người đọc truyện võ hiệp thường không có máu anh hùng. Cho nên người anh hùng Kim Dung cũnh không còn gì của những thiên thần giáng thế để ra oai và tác phúc nữa mà là một người, như thường thấy, đầy thiện chí, lương thiện và ngu dốt bị lôi vào những xung đột mà chàng không thể hiểu lý do. Làm thế nào một Dư Đại Nham có thể hiểu tại sao người ta có thể giết nhau vì một võ công kì thư? Người anh hùng của Kim Dung trước hết là một người xa lạ với võ lâm và những quy luật của nó. Xét những cách mở đầu của truyện ông thì người ta thấy ngay rằng phiêu lưu thường đến cho họ bất ngờ. Giữa một ngày đẹp trời, khi người ta nghĩ rằng cuộc đời đáng sống hơn bao giờ hết và người ta chỉ có việc tiếp tục cuộc sống đã thành nếp từ trước đến giờ, thì tất cả xảy ra. Tất cả xảy ra khi, dưới một trời mưa tuyết êm đềm, Dương và Quách hai nhà đang ngồi uống rượu, tính chuyện vợ đẻ và ước định tương lai của con, khi Quách Tường thơ thẩn ngao du bên sườn núi Thiếu Thất, khi trên núi Võ Đương người ta đang tưng bừng sửa soạn như thường lệ sinh nhật của Trương Tam Phong. Truyện võ hiệp cổ điển thường bắt đầu, khi trong cái lâm ly của đêm khuya, cảnh vắng, gió thốc từng cơn, khi giữa cái ồn ào của những đô thị là chỗ những anh hùng tứ chiếng đến tìm nhau kiếm chuyện, nhưng bao giờ cũng là trong không khí và môi trường của phiêu lưu – phiêu lưu trong Kim Dung xuất hiện như một điểm bất thường giữa cái trưởng giả của một cuộc sống thanh bình và có ngăn nắp. Võ Đương thất hiệp là những người cuối cùng còn muốn tiếp tục truyền thống của người anh hùng thế thiên hành đạo. Nhưng ở một thời thiên đạo đã suy, can thiệp vào những xung đột của giang hồ chỉ mang lại cho họ phiền luỵ, tai hoạ, và những thù oán không đâu. Có khi họ không tìm đến người ta thì người ta cũng tìm đến họ gây sự. Mới đặt chân đến Trung Nguyên thì vợ chồng Trương Thuý Sơn đã bị võ lâm đuổi theo, chặn đường, tróc nã. Vô Kỵ có làm gì ai đâu mà ai cũng muốn hại nó? Nếu ở lại trên Băng Hoa Đảo thì đâu có xảy ra chuyện gia đình tan nát ấy để kẻ bị bức tử và người thì lưu vong! Cho nên người anh hùng Kim Dung sẽ đầy nghi kị với những chuyện của võ lâm mà đôi khi còn coi võ học như độc vật. Một Đoàn Dự sẽ bỏ nhà đi để khỏi phải học võ. Nhưng sự mai mỉa là chính con người ngoài cuộc ấy giờ người ta muốn lôi vào cuộc, chính con người phản anh hùng ấy người ta muốn bắt làm anh hùng, chính con người vô tội ấy mà người ta bắt phải trình những minh chứng của sự vô tội của mình. Ôi! Cuộc đời sao mà đẹp trên Băng Hoa Đảo với một con vượn lông đỏ. Nhưng không bao giờ, không bao giờ Kiều Phong sẽ được trở về Nhạn Môn Quan cùng A Chu chăn cừu.
VII. Giấc mộng thái bình ấy làm người ta ngạc nhiên trong một truyện võ hiệp.
Nhưng có lẽ Kim Dung đã không sáng tạo ra một thứ võ hiệp mới như người ta đã tưởng. Ông sửa soạn đưa nó đến nơi yên nghỉ cuối cùng trong những cuộc sống tầm thường thi vị hoá. Ấy là sự kết thúc của một biến tính mà đã tới lúc ngưới ta có thể tóm tắt lại trong một cái nhìn tổng quát.
Thoạt tiên có một sự suy đốn đã xảy ra. Của cái đạo lý truyền thống không còn gì hơn là những giáo điều. Sự nghiệt ngã của chúng làm người ta ghét bỏ. Sự hẹp hòi của chúng làm người ta chê cười, sự giả tạo của chúng làm người ta ghê tởm. Những cá nhân lớn nổi lên để vượt qua những giới hạn giả tạo của chúng. Ấy là thời của sự đại ly khai, anh hùng xuất hiện ở khắp nơi, mỗi người xưng bá một phương, lập ra một môn phái riêng, theo đuổi một lý tưởng riêng và sâu xé lẫn nhau. Sự thống nhất không còn nữa mà cũng không ai có đủ sức khuất phục cả võ lâm dưới uy quyền của họ. Kết quả là một cảnh phân hoá cùng cực. Những tiêu chuẩn đạo lý đều bị thủ tiêu. Tà và Chính sau cùng đều như nhau và những xung đột của võ lâm chẳng có nghĩa gì hơn những cuộc tương tàn của thú dữ. Ấy là thế giới của tự nhiên mà vật lực làm chủ, và cũng là thế giới của ảo tưởng. Người ta giết nhau cho những danh từ. Không ai thắng được ai. Nhưng trong cuộc xung đột không thể kết thúc ấy mọi ý nghĩa đều sa đoạ. Lý tưởng cũng viển vông như tham vọng. Người anh hùng giác ngộ sẽ tự phế võ công để đi tu. Không phải ngẫu nhiên mà ở chỗ cao nhất của võ lâm, Kim Dung lại để những đạo sĩ và những thiền sư mà ông thường mô tả như một cảnh thần tiên những ngày thất lạc vào một vùng đất vắng người ta may mắn thoát được những chuyện thị phi trong giang hồ. Người anh hùng của Kim Dung sẽ là người chống bạo động. Giặc đánh nhau ở đâu là họ nhảy vào để can gián. Ấy là cái đam mê của họ. Xúng xính trong bộ áo thư sinh, một Đoàn Dự, tuy chẳng biết tí võ công nào, cũng mang đạo lý thánh hiền ra khuyên mọi người buông khí giới. Xa hơn nũa thì Không Kiến thiền sư sẽ đem mình ra để cứu Thành Khôn khỏi cơn giận của Tạ Tốn; và A Chu, để khỏi thấy những người thân yêu của mình giết lẫn nhau, đành chịu chết dưới chưởng của Kiều Phong. Lẽ dĩ nhiên người ta cũng phải kể đến Vô Kỵ. Như tất cả những anh hùng của võ hiệp Vô Kỵ đã mang từ nhỏ ý chí trả thù cho cha mẹ chàng mà chàng đã thấy ngay dưới mắt những người tự xưng là của Chính giáo bức tử. Khác là cái thù ấy chàng lại quên ngay đi. Có lẽ tại trúng trọng thương ngay từ lúc đầu tiên vào võ lâm chàng đã sống thường trực trong sự trông chờ cái chết và chẳng có mấy thì giờ để nghĩ đến trả thù. Hơn thế nữa thì trên đường lưu vong chàng đã thấy và đã phải chịu quá nhiều lừa đảo, bất công, oan uổng để cái chết của cha mẹ chàng còn có một ý nghĩa nặng nề giữa cái ác nghiệt mêng mông như biển của giang hồ. Người đời lên án mẹ chàng như một nữ ma đầu, nhưng cha chàng là người của truyền thống nghĩa hiệp và đứa con cua mối tình trái đạo ấy như mang sẵn trong người những xung đột đang xâu xé võ lâm. Trong tâm hồn chàng vừa là người của Tà môn vừa là người của Chính giáo. Cái lưỡng tính ấy tuy nhiên như cái tên Vô Kỵ mà Tạ Tốn đã tặng chàng khi mới ra đời, cái lưỡng tính ấy cho phép chàng nhìn tất cả dưới con mắt không thành kiến, không sợ hãi, và vô tư của trẻ thơ. Tất cả những môn phái chàng đều coi như nhau và một khi đã nhận bạo động như một định đề của đời sống võ lâm, ai chàng cũng thấy đáng yêu, đáng trọng và đầy nghĩa khí. Những xung đột giữa họ chàng thấy là một điều khó hiểu, vô lý và đau lòng. Nhưng cũng vì đã sống sự xung đột ấy như một xung đột giữa mình với mình mà chàng có thể vượt nó để giải hoà võ lâm. Cho nên thực hiện được sự giải hoà ấy không phải là những lý thuyết suông của Đoàn Dự mà là Vô Kỵ, khi trên Quang Minh Đỉnh, chàng đứng ra lấy mạng mình đổi lấy mạng của những người của Minh giáo đang bị chúng anh hùng uy hiếp. Vô Kỵ đã thành công, không những chàng đã giải hoà các môn phái mà sau cùng lại đoàn kết họ trong công trình giải phóng võ lâm. Nhưng sự đoàn kết ấy cũng chỉ bắt đầu từ sau khi người ta đã xô sự xung đột tới cái độ cao nhất của nó. Và sự ngược đời là nó đã được thực hiện từ những nhân vật mà cả võ lâm đều nguyền rủa.
Ấy là tại khác hẳn những truyện võ hiệp cổ điển trong ấy Tà đạo chỉ có một ý nghĩa tiêu cực của một cái gì trái với Chính nghĩa thì trong Kim Dung, Tà và Chính chỉ là hai mặt của một thực tại duy nhất như sai lầm là mặt trái của chân lý.
Truyện Kim Dung dẫn người ta từ một sụp đổ đến một trật tự mới. Ấy là truyện của một cuộc giao thời: thời của phiêu lưu, của sáng tạo, của khám phá, nhưng cũng là thời của nghi vấn, của bất trắc, của lưu vong, thời của mâu thuẫn, của xung đột và của sự bùng nổ của tất cả những năng lực cá nhân. Kì vọng của Kim Dung là cái trật tự mới sẽ duy trì trong nó tất cả những chinh phục của giai đoạn tổng ly khai và thực hiện sự thống nhất võ lâm trong sự tương kết giữa mọi khác biệt. người ta hiểu tại sao Kim Dung đã lấy Minh giáo làm dụng cụ cho sự tương kết ấy. Tại Minh giáo - cũng gọi là Mani giáo - chính là một chi nhánh của cái truyền thống lưỡng nguyên mà gốc ở Ba Tư và chủ trương Tà và Chính là những nguyên lý căn bản muôn đời cùng có và cùng xung đột nhau của thế giới. Một chủ trương như thế không thể nào không dẫn đến một chính sách độc tôn. Nhưng sang Trung Hoa, trở nên một thiểu số và môn phái bị truy bức, đương nhiên là minh giáo, trong sự đảo lộn ấy của những vai trò, khi nó tập trung tất cả những môn phái chống lại mình, sẽ là một cơ hội để biến sự xung đột giữa Tà và Chính ra một thế đồng minh và tương đối hoá những tiêu chuẩn cổ truyền của đạo lý võ lâm. Cái người ta gọi là tội ác khi ấy lại xuất hiện như một cách độ thế, sự lưu vong như con đường về tổ quốc, sự ly khai như một cơ hội cho thống nhất. Không còn Tà và Chính nữa mà những vai trò khác nhau trong cái trật tự của thế giới, những mãnh lực tự nhiên mà sự trường tồn của toàn thể đòi hỏi sự tương kết.
Cái nên thơ của trật tự mới là cái nên thơ của một cơ cấu. Và người ta có thể coi truyện Kim Dung, khi nó tập trung trong một truyện kể vô cùng phức tạp không biết bao nhiêu định mệnh cá nhân mà chẳng định mệnh nào giống định mệnh nào là cái mẫu tương xứng của cái nên thơ ấy mà Kim Dung đề cao trong truyện ông: trong quan niệm Bách Khoa về võ học, trong tổ chức phức tạp của những môn phái lớn, trong mối tình của những nhân vật thuộc những trường phái đối lập: giữa Dương Tiêu và Kỉ Hiểu Phù, giữa Vô Kỵ và Triệu Minh, giữa Quách Tĩnh và Hoàng Dung, đứa con của sa mạc và đứa con của biển xanh. Và lẽ dĩ nhiên phải kể đến Vương Nạn Cô chuyên môn chế độc dược bỏ cho những nhân vật giang hồ để chồng nàng là Hồ Thanh Ngưu mang cái y học uyên thâm của mình ra cứu chữa. Nhưng thực hiện được sự tương kết giữa những đối cực ấy để trở thành nơi giao hội của tất cả những xu hướng của võ lâm, người ta hiểu tại sao không thể làm một nhân vật của một truyền thống nào sẵn có mà là một người như bất cứ ai, mình là ai không biết nhưng mà cái vô định tính giống như sự có thể và sự ngây thơ tựa hồ một trí thức uyên thâm.
Sự tương kết ấy tuy nhiên, Kim Dung biết là rất mong manh. Những môn phái vừa mới thống nhất nhau thì ngay trong minh giáo sự khủng hoảng nội bộ đã bắt đầu: Vô Kỵ bị Chu Nguyên Chương loại và người ta thừa đoán rằng những cuộc thanh toán khác sẽ tiếp theo. Xung đột giữa người và người cũng phi lý như là không thể tránh được. Cho nên Tạ Tốn mới tự phế võ công để vào chùa đi tu, Vô Kỵ từ giã giang hồ để tô son cho người yêu và Đoàn Dự mới nhất quyết không chịu học võ công để chọn cái đẹp làm tôn giáo duy nhất. Truyện Thiên Long bát bộ có lẽ là truyện võ hiệp hay nhất được viết từ xưa đến giờ. Nhưng trong truyện ấy cám dỗ của võ công là của một kiến thức thuần tuý, và bắt đầu trong cảnh tưng bừng của thần thoại nó kết thúc giữa một cảnh sụp đổ lâm ly: Kiều Phong chết, Mộ Dung điên và Cưu Ma Trí, sau một đời khổ luyện, đành chịu mất hết võ công để tiếp tục cuộc đời của một tu sĩ tầm thường. Tình yêu trở nên một cuộc chạy đuổi: Đoàn Dự yêu Vương Ngọc Yến, Vương Ngọc Yến lại yêu Mộ Dung vÀ Mộ Dung lại đắm mình trong giấc mơ phục quốc. Cũng như thế trong khi Du Thản Chi yêu A Tỷ thí A Tỷ lại yêu Kiều Phong và Kiều Phong lại chỉ biết có kỉ niệm của A Chu. Ấy là không kể Đoàn Chính Thuần, sau khi đã yêu và được không biết bao nhiêu người yêu lại, rốt cuộc lại để ngần ấy mối tình dang dở và trước khi chết mới khám phá rằng đứa con duy nhất của ông cũng không thực là của ông và đành ngồi bó tay nhìn người ta lần lượt hạ sát tất cả nhữg người yêu của mình. Người yêu giết người yêu, đồng bạn giết đồng bạn, tham vọng và ân ái, tất cả đều tan ra mây khói. Người anh hùng Kim Dung (và ấy là điểm làm chàng vượt lên trên những thứ cảnh sát không lương của truyện võ hiệp cổ điển) thường có những hoài bão lớn, và đôi khi định mệnh của chàng có kích thước của một đế quốc. Nhưng còn gì của tham vọng của Thiết Mộc Chân trong cơn mê sảng của Mộ Dung? Sự tan vỡ của những ảo tưởng rực rỡ là đề tài của Thiên Long bát bộ: từ nhan sắc thần tiên của Vương Ngoc Yến đến uy danh lừng lẫy của Mộ Dung Phục, tất cả đều dẫn đến nụ cười gằn của một thực tại nham nhở và tầm thường. Pho tượng ngọc dưới đáy hồ ở sau núi Vô Lượng mà người ta trông chờ như cái chìa khoá của tất cả những nghi vấn của truyện sau cùng vẫn giữ nguyên cái bí mật của nó và từ khuyết điểm ấy cơ cấu ly tâm của truyện lại xuất hiện rõ ràng.
Trong sự xung đột giữa con người và thế giới, sự thắng trận sau cùng trong Kim Dung bao giờ cũng thuộc về thế giới. Thế giới sẽ thường xuyên vượt khỏi vòng tay ôm của con người. Con người Kim Dung đã biết tất cả những cám dỗ: của đạo lý nghiêm khắc, của ý chí thống trị, của tinh thần cứu rỗi. Tiếng gọi lớn nhất tuy nhiên sẽ là tiếng gọi của cuộc đời xuất thế nghĩa là của sự trở về. Khi xét đến võ học trong Kim Dung người ta thấy rằng ông rất ngờ vực trí năng và sức sáng tạo của con người. Ấy theo ông là mầm của mọi ly tán. Cho nên không có gì lạ nếu sau cùng, mặc dầu tính chất lãng mạn, một Vô Kỵ sẽ kết thúc những phiêu lưu của mình như Candide của Voltaire. Sự thất bại ấy của người anh hùng thật là quá êm đềm để không có vẻ khả nghi. Nhưng người ta hiểu rằng trong Kim Dung cái lãng mạn chỉ có một giá trị giai đoạn: ông đã lấy cái mênh mông của thế giới để thoái chí anh hùng, lấy một nhân loại đa sắc ra làm đảo lộn những ý nghĩa đạo lý, lấy cảm động làm ý thức suy vong, lấy ngây ngô chống lại tài mưu trí, nói tóm lại lấy tự nhiên chống lại cái nhân văn, và kết quả là sự thất bại của người anh hùng trước cuộc đời như thế. Hơn ai hết Kim Dung đã biết làm sống lại trong tiểu thuyết, ở một thời mà tiểu thuyết đã mất hết tiểu thuyết tính để chỉ còn là những cơ hội cho những luận án triết lý, một không khí lãng mạn dễ làm người ta say mê. Nhưng người ta không thể hiểu lầm. Như tất cả những nhà văn vượt bậc, cái gì ông đã lên án thì ông mô tả lại càng tài tình. Có lẽ tại nó là phần xấu xa nhất trong người ông?
VIII. Truyện Kim Dung lưu ý người ta trên hơn một quan điểm.
Như một tài liệu văn học, nó làm chứng cho sự chuyển mình của một thứ văn cổ truyền là văn võ hiệp. Một thế giới của những ý nghĩa rõ ràng chuyển mình sang một nghi vấn của nghi vấn. Tất cả cũng chuyển mình theo cách kể chuyện, cách giàn cảnh, cách cấu tạo nhân vật. Ngay quan niệm võ học, như người ta thấy, cũng đã chịu ảnh hưởng sâu xa. Tham vọng duy nhất trong bài này là trình bày sự mạch lạc của sự chuyển mình ấy, theo một giả thuyết mà giờ ai cũng đã thừa nhận, là một văn thể không phải là một cái bình rỗng có thể chứa bất cứ một thứ nội dung nào mà tự nó đã là một cách tổ chức thế giới để cho thế giới nghĩa cũng như dụng cụ của người sưu tầm đã bao hàm những kết quả có thể của sự sưu tầm của ông. Như ngôn ngữ người ta dùng đã quy định trước những tư tưởng người ta có thể có. Kỹ thuật không vô tội. Ấy là điều những kỹ thuật gia chưa chịu thừa nhận. Người làm văn tuy nhiên đã biết thế từ lâu. Một văn thể là một hệ thống diễn tả mà tất cả những yếu tố gắn liền nhau trong một thế giới tương biến, nghĩa là người ta không thể biến đổi một yếu tố mà không làm những yếu tố khác cùng biến đổi theo trong một chiều. Trở lại Kim Dung, và để tóm tắt câu chuyện trong một câu, người ta có thể mượn ý của Georg Lukács để nói rằng ông đã mang truyện võ hiệp từ thể anh hùng ca sang thể tiểu thuyết.
Của anh hùng ca, truyện võ hiệp cổ điển, ngoài cái nhân loại anh hùng, có những ý nghĩa cố định, cái cơ cấu đường thẳng, cái trình bày ngoại tại, nói tóm lại, một thế giới rõ ràng trong ấy không có gì xảy ra mà người ta không thể đoán trước là sẽ kết thúc ra sao. Nhưng sự bất trắc, sự bất ngờ, sự trông chờ là cái thú của tiểu thuyết. Lẽ dĩ nhiên tiểu thuyết không phải chỉ có thế và người ta có thể cho rằng Kim Dung không là một tiểu thuyết gia mà một người kể chuyện tài tình. Nhận xét ấy không phải là không có lý: càng ngày ông càng làm chủ nghệ thuật của mình thì người ta thấy nhân vật ông càng trở nên sơ sài như không có một trọng lực nào hơn là những con tốt trong một thế cờ cực kỳ biến hoá mà sự giải quyết chỉ còn là một thứ trí thức thanh cao. Nhưng làm sao phủ nhận được rằng, ngoài những cám dỗ thông thường của phiêu lưu, Kim Dung, ở khắp nơi trong truyện ông, đã mang lại một sức sáng tạo tâm lý mà văn võ hiệp chưa từng thấy. Cái tâm lý phức tạp ấy, sự bất trắc ấy, những xung đột ở bên kia đạo lý ấy là tiểu thuyết. Người ta đã đón tiếp những đặc tính ấy của truyện Kim Dung như là một cái gì thật mới. Nhưng cái mới của Kim Dung là đã làm mới lại tiểu thuyết tính bằng cách đưa nó vào văn võ hiệp. Tại tiểu thuyết nếu người ta có thể định nghĩa thứ văn không biên giới ấy, đã bắt đầu, khi, những ý nghĩ cố định sụp đổ, thế giới trở nên một huyền bí, con người, không còn là một vai trò mà phải tự làm ra mình, giác ngộ mình như một cá nhân mà định mệnh thường xuyên bị nghi vấn hoá.
Người ta biết rằng tiểu thuyết bắt đầu khi, tiếp theo sự phát triển của thương mại và của kỹ nghệ nghĩa là của văn minh thành phố, cuộc đời, hết bị quy định bởi những giáo điều và những nghi lễ truyền thống của xã hội nông nghiệp, xô cá nhân vào một thế giới của nghi vấn, của phiêu lưu và của sự tranh sống. Sự bùng nổ của tiểu thuyết tính trong Kim Dung có lẽ cũng phản ảnh một xu hướng tương tự trong xã hội đương thời cùa chúng ta. Nhưng sự mở mang của những thành phố của chúng ta đã không phải là một sự kiện phát triển từ trong ra mà đã diễn tiến theo những kế hoạch và với tài nguyên của Tư Bản Quốc Tế, để phụng sự cho quyền lợi của họ. Nhất là cái tư bản ấy lại là thứ tư bản độc quyền mà ưu tư tiên quyết là tập trung, tổ chức và kế hoạch. Ấy là một lý do người ta có thể tạm lấy để giải thích tại sao trong Kim Dung giai đoạn anh hùng lại quá ngắn và sự nổi loạn lãng mạn tại truyện sao lại sớm bị thâu hồi trong trật tự. Cách tổ chức theo kiểu truyện trinh thám của truyện ông cũng đủ cho người ta thấy rằng xã hội tiêu thụ trong những truyện ấy không phải là một xã hội sống trong sự sợ ngày mai. Nếu tôi không lầm thì truyện trinh thám đã ra đời dưới thời Nữ Hoàng Victoria, ở giai đoạn phát triển tối đa của đế quốc Anh. Khi truyện Kim Dung bắt đầu thì thời của sáng tạo đã hết và những cá nhân lớn như Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Tạ Tốn v.v… chỉ còn là những tiền bối đã trở về già để lại sân khấu võ lâm cho những thiếu niên ngu ngốc, giằng co giữa Tà và Chính, cố vá víu lại một di sản tan hoang.
Xung đột giữa Tà và Chính ấy có lẽ đã diễn tả mâu thuẫn chính yếu trong những xã hội còn ở tình trạng bán thuộc địa như xã hội chúng ta. Một đằng thì xã hội ấy, mà những điều kiện lịch sử không cho phép sự trở thành của một giai cấp tư sản đủ sức tự lập, trong chừng nào nền kinh tế của họ còn thiết yếu dựa trên sự tự do doanh thương, thì dường như khó tránh được một sự phụ thuộc chặt chẽ vào cái tổ chức liên lục địa của tư bản chế, và một đằng khác cũng không thể để sự phụ thuộc ấy trở nên một sự lệ thuộc mới, người ta thấy họ thường xuyên phải duy trì áp lực của một ý thức hệ quốc gia cực đoan. Ấy là một điều dễ hiểu. Nhưng tai hoạ bắt đầu khi ý thức hệ ấy lại trở nên một dụng cụ để đàn áp những thành phần khác của xã hội và dưới những nhãn hiệu khác nhau người ta gọi là phi dân tộc và để biến những thành phần khác thành những dụng cụ để bảo vệ chính cái phi dân tộc của chế độ tư bản. Những mâu thuẫn cam go ấy mà sự can thiệp võ trang của người ngoại quốc lại gia tăng gấp bội, chúng ta thường tự hỏi là chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu. Nhưng có những xã hội sống bằng sự nhất trí thì cũng có những xã hội dựa trên sự mâu thuẫn của nó để trường tồn. Sự mai mỉa là tất cả xảy ra như trên sự đổ vỡ của quê hương, những mâu thuẫn của chúng ta càng ngày càng làm chúng ta trở nên phì nộn. Cho nên không có gì lạ nếu sau cùng Tà và Chính, Thiện và Ác, Phúc và Hoạ, Kim Dung sẽ coi như Âm và Dương nghĩa là sức mạnh của tự nhiên có khi thuận và có khi nghịch, nhưng không thể tách khỏi nhau đều cần thiết cho sự tiến hoá như chiến tranh thuộc địa cần thiết cho sự phồn thịnh của thương mại.
Xu hướng tư tưởng Kim Dung là một cố gắng để trả lại cho tự nhiên những xung đột giữa người và người. Ấy là một điểm tiến bộ. Tại chỉ trong chừng nào thế giới hết bị chế ngự bởi những cái thiêng liêng thì con người mới tìm thấy tự do và sức sáng tạo của mình. Nhưng cũng không phải ngẫu nhiên mà những xu hướng tư tưởng như thế, từ Thái hoà luận của Leibnitz đến gần chúng ta hơn, Cơ cấu luận của Claude Lévi-Strauss, thường xuất hiện ở những thời mà sự bành trướng của Tây phương đã mang lại cho nhân loại không biết bao nhiêu là đau khổ.
Hai trăm năm trước, Voltaire, ở thời đang lên của tư bản, đã từ chối những lý thuyết cho rằng ác nghiệp ở trên đời là một phần cần thiết cho sự quân bình của toàn thể và ông đã trở nên một chiến sĩ tiền phong trong cuộc tranh đấu chống lại những giáo điều mà, trong quan niệm của người thời ấy ông cho là một cản trở của tiến bộ và sự thực đã gây ra không biết bao nhiêu xung đột đẫm máu. Người ta cũng nhớ rằng Marx muốn thủ tiêu những mâu thuẫn xã hội ngay trong nguyên nhân của chúng là những tương quan sản xuất, và thế, bằng một cuộc cánh mạng bởi và cho quần chúng vô sản. Nhưng thời đại này là của quần chúng bị đóng khuôn và của những mâu thuẫn có tổ chức. Cho nên người ta không ngạc nhiên nếu Kim Dung không nhìn thấy một tổ hợp mới và chủ trương một đạo lý xuất thế và của sự từ bi. Hình như ông cho rằng ác nghiệt ở trên đời là một phần đã được dự trù sẵn trong trật tự của tự nhiên. Nhưng trên phương diện cá nhân thì ông nghĩ rằng ác nghiệt ấy không hẳn là không chữa được như Vô Kỵ đã chữa cho Vi Nhất Tiếu khỏi cái bệnh hút máu người đã làm cho con người nghĩa hiệp mang tiếng ấy là một đại ma đầu của võ lâm. Y học trong Kim Dung giữ một phần quan trọng và Vô Kỵ cũng là thầy thuốc. Cũng như thế, người ta thấy rằng tác phong cổ quái của nhân vật trong truyện ông không bao giờ có tính cách như không mà trái lại ông thường cho nó một nguyên nhân trong tiểu sử của họ.
Cái đạo lý Thuỵ Sĩ ấy không phải là không cao quý. Người ta có thể chê nó là đạo lý của một người ngoài cuộc. Ấy tuy nhiên là một điều dễ hiểu nếu người ta nhớ rằng Kim Dung là một nhà văn ăn khách nhất của cái vùng mà một đồng bào danh tiếng của ông đã gọi là vùng bão tố. Nhưng ở thời đại của những nhà cách mạng có giấy phép, khi những anh hùng có thể sản xuất từng loạt như xe Ford, khi để cứu những trẻ con nghèo đang chết đói ở những vùng chậm tiến, người ta thấy rằng cái việc đầu tiên là phải thiêu huỷ đồng ruộng của họ thì ai biết đâu nó đã chẳng là sự trung thực cuối cùng của người làm văn? Người làm văn vào đời như xướng ca. Nhưng thế giới từ nghìn xưa vẫn thuộc những người có khí giới và những người có của. Ngôn ngữ cũng của họ. Thì làm văn nghĩa gì hơn là đã xin vâng lời? “Xin vâng lời, nhưng mà”. Cái “nhưng mà”, theo Roland Barthes, có thể tóm tắt thái độ của Kafka trước cuộc đời. Cũng chính vì nó mà vẫn có người đang chết.
Nhưng trước khi chắp xong những mảnh vụn ấy, thu tất cả những đầu dây vào một mối và tìm ra cái chốt của mọi sự kiện thì chàng đã trải qua những rừng nghi vấn. Hơn một lần những bất ngờ đã vồ lấy chàng. Và cuộc phiêu lưu của chàng đã là một thất lạc giữa những đe doạ chập chùng. Không có ai trong truyện võ hiệp cổ điển dễ nghi ngờ cái ý nghĩa sẵn có của mọi vật. Nhưng người anh hùng Kim Dung trái lại vào đời để ngạc nhiên khám phá rằng thế giới to, rộng và phức tạp hơn người ta đã dạy chàng. Ấy thường là một thiếu niên thật thà, võ công chẳng có mấy cũng như chẳng có mấy kinh nghiệm giang hồ. Khác hẳn những anh hùng cổ điển khi xuống núi là đã có sẵn những võ công trác tuyệt và chỉ có việc mang cái đạo có sẵn ra thi hành để tiếp tục một truyền thống đã gần trở thành tự nhiên thì chàng, chàng phải học tất cả từ đầu. Những tình cờ của cuộc đời sẽ dạy chàng võ công cũng như đạo lý. Theo chàng người ta tham dự vào sự khám phá một thế giới mới, lạ và bí mật. Và đồng thời truyện của sự khám phá ấy cũng là truyện của sự trở thành của người anh hùng. Không thuộc môn phái nào cố định, nhưng học ở khắp nơi, người anh hùng Kim Dung là con của kinh nghiệm và của sự tình cờ. Ấy là con người của những thuở giao thời khi truyền thống sụp đổ mà những giá trị mới vẫn chưa xuất hiện một cách rõ ràng. Con người ấy do cuộc đời làm ra, và có khi cuộc đời biến chàng ra một cái gì khác hẳn những tham vọng nguyên thuỷ của chàng. Truyện võ hiệp cổ điển trình bày những giai đoạn của sự thực hiện theo một đường thẳng của một dự định từ đầu tới cuối vẫn là một. Khi cuộc phiêu lưu của Vô Kỵ chấm dứt thì còn gì của ý chí phục thù của chàng? Hình như chàng đã quên nó từ bao giờ không biết.
Con người bị thế giới thay đổi. Ấy là tại thế giới lớn hơn con người. Người anh hùng Kim Dung thường xuyên bị vây giữa cái chưa biết. Tương lai thì mịt mù, hiện tại lại khó hiểu mà sau lưng chàng còn cả một dĩ vãng mà chàng không hề tham dự, nhưng đôi khi một võ công thất truyền nhắc lại như tiếng vọng của một cái gì thần bí và hoang đường. Chàng phải khám phá ra thế giới từng bước một. Nhưng thế giới như không có giới hạn. Hết sự lạ này lại đến sự lạ khác, hết võ công này lại có võ công khác cao hơn và như người ta nói, ngoài trời lại có trời.
Kinh nghiệm của người anh hùng là kinh nghiệm của cái vô cùng, cái bên kia, cái khác. Từ cái phồn hoa của những đô thị đến những cơ quan ác hiểm, tất cả, trong truyện võ hiệp cổ điển, đều làm chứng cho sự nhân loại hoá của thế giới. Cảnh trí trong truyện võ hiệp mới khác hẳn. Hang sâu, vực thẳm, rừng hoang, đảo vắng, sa mạc mênh mông, một thiên nhiên dữ tợn vây con người ở khắp nơi. Ở khắp nơi xao xác tiếng gọi của Huyền bí và của Vô cùng.
Tà đạo trong Kim Dung cũng có lưỡng tính ấy. Vừa đe doạ nó vừa cám dỗ. Như người của Chính phái, khi lâm sự, người của Tà đạo cũng mười phần ác độc, và đôi khi những đòn của họ còn thâm hiểm gấp bội: chỉ có người Tà đạo, chẳng hạn, mới nuôi rắn ở trong túi để đề phòng khi họ bị thua, kẻ thù có lục xác sẽ bị rắn cắn chết. Nhưng họ không bao giờ tìm cách cho sự ác độc ấy một minh chứng. Hơn thế nữa họ còn cười đạo lý của những môn phái khác là ngây thơ, giả dối và hủ lậu. Cám dỗ đầu tiên họ mang lại là một tự do không biên giới. Người lương thiện trước họ sửng sốt tự hỏi sao trên đời lại có người như thế? Làm sao tuy nhiên có thể vô tình trước sự thông minh của Hoàng Dung, nhan sắc của Hân Tố Tố, sự uyên bác của Tạ Tốn, tính ngạo mạn của của Hoàng Dược Sư? Những đức tính ấy tuy nhiên chỉ là những cám dỗ bề ngoài. Xa hơn nữa Kim Dung sẽ cho người ta thấy rằng tội ác tự nó có một sức thu hút lạ thường. Ai có thể đoan trang hơn Mục Niêm Từ? Nhưng người con gái ấy sẽ suốt đời giữ thuỷ chung với Dương Khang là một con người ung thối, gian xảo và ngoài danh vọng ra thì chẳng thiết gì. Cũng như thế, Kỷ Hiểu Phù sẽ chịu chết mà không chịu phản bội Dương Tiêu mà sư phụ nàng gọi là một tên dâm tặc và cũng là người tình của chính nàng. Trong những mối tình ấy có một cái gì người ta không thể hiểu hết và người ta tự hỏi khi tả chúng thì Kim Dung đã muốn nói lên cái gì. Sự thôi miên của tội ác, sự phi lý của tình yêu hay cái thiêng liêng mà người ta muốn xác định trong những con người sa đoạ nhất? Tất cả những ý tưởng ấy có lẽ cùng một lúc đã thoáng qua trong đầu người ta, khi cái xác của Dương Khang phơi ở ngoài một miếu vắng, đàn quạ no nê chỉ để lại một mớ xương hoang. Con người gian xảo ấy đã đền tội một cách xứng đáng. Nhưng trong một ngôi chùa xa, ít người lai vãng, Mục Niệm Từ sẽ giữ nguyên dưới đáy lòng ảnh tượng của một người yêu.
Cái chí của Dương Khang không cao, tham vọng duy nhất của chàng là thừa kế cái địa vị của người cha nuôi để có thể tận hưởng phú quý. Nhưng để thực hiện tham vọng ấy chàng đã phản bội tất cả: quê hương, cha mẹ, anh em, bằng hữu và sau cùng trở thành một kẻ sát nhân. Cái hoạ là tâm hồn chàng, vẫn còn có chỗ bị cái đạo lý truyền thống uy hiếp, và cứ gặp cái nhìn của Mục Nhiệm Từ là chàng lại như thấy sự oán trách của lương tri. Tội ác chàng làm tự chàng coi là tội ác, và đứa con sa đoạ ấy của một dòng nghĩa hiệp sẽ không bao giờ biết gót chân nhẹ nhàng của những người đi chinh phục những vùng đất cấm. Xã hội lên án những người ấy là tà đạo. Nhưng họ có làm gì hơn là muốn vượt khỏi giới hạn của cuộc sống tầm thường? Giới hạn của đạo lý lẽ dĩ nhiên, nhưng cả giiới hạn tự nhiên của con người, họ cũng muốn vượt qua, và không vượt qua được thì đến Trời họ cũng chửi. Nhưng trong sự nổi loạn ấy người ta đã nhận ra người anh hùng của văn học lãng mạn. Cơn thịnh nộ của Tạ Tốn, trong cơn bão đánh bạt thuyền ông lên Băng Hoa Đảo, chống lại cái mà ông nguyền rủa là Lão Tặc Thiên làm người ta nghĩ đến thuyền trưởng Achab của Melville và không phải ngẫu nhiên mà đã hai lần Kim Dung lấy cái tên Phá Thiên để đặt cho nhân vật của mình. Tà đạo trong ông không chỉ gồm có những quân đầu trộm đuôi cướp mà những người mang cái chí muốn đoạt quyền tạo hoá. Họ đã ly khai khỏi cái đạo lý của tất cả mọi người. Lẽ dĩ nhiên họ bị nguyền rủa. Tham vọng điên cuồng của họ trong khi ấy chỉ có thể đưa họ đến thất bại và sự thất bại ấy lại xuất hiện như một nguyền rủa lớn hơn nữa, là của định mệnh. Họ là những người đã thách đố thần linh. Và như trong những truyện cổ Hy Lạp, Thần linh đã trừng phạt sự kiêu ngạo của họ và làm họ hoá điên. Hơn là tham vọng của họ, hơn là cái tài của họ, sự thất bại của họ làm người ta sợ hãi, tại trong sự thất bại ấy người ta đã không gặp gì hơn là cái bất nhân. Ấy là ấn tượng của người ta trước định mệnh của một Hoàng Dược Sư, một Tạ Tốn, một Kiều Phong. Lại có những nhân vật như Dương Khang, Chu Chỉ Nhược, Du Thản Chi chẳng có gì vượt bực. Nhưng thảm kịch của đời họ đặt cho người ta những nghi vấn. Sao lại có thể có một Du Thản Chi, từ thể xác đến tinh thần, như tụ hội tất cả những tật nguyền. Những nhân vật như thế tuy nhiên, trong Kim Dung, không chỉ giữ một vai bàn đạp để tuyên dương cái tích cực rạng rỡ chuyên chở trong những nhân vật chính. Tai hoạ mà họ phải gánh chịu ông còn cho người ta biết như một điều oan uổng. Người ta chạm trán trong họ với cái phi lý của định mệnh.
Định mệnh, Thần linh, Thiên nhiên, Thế giới, tất cả đều lớn hơn con người như sa mạc lớn hơn ý chí của Thiết Mộc Chân. Và cái gì ông hoàng Mông Cổ, sau khhi đã khuất phục cái mênh mông của sa mạc, sẽ gặp lại, trước giờ nhắm mắt là một cô độc không thể vãn hồi. Sự thất bại sau cùng ấy Kim Dung cũng sẽ dành cho những Vô Kỵ, Mộ Dung, Tạ Tốn. Truyện ông như muốn quật ngã cái ý chí anh hùng và cái đạo lý của ông không giống cái đạo lý của người thống trị. Hay đúng hơn ấy chính là sự thống trị, khi uy quyền đã vững và tới bậc cuối cùng của tham vọng người ta có thể bước sang giai đoạn của ăn năn. Còn những kẻ muốn tiếp tục truyền thống nghĩa hiệp? Thì người ta sẵn sàng dành cho họ cái dễ thương của sự nhẹ dạ và ngu đần! Và có lẽ cũng như tác giả Don Quichott, ở cái thời mà vàng của Mỹ Châu tràn ngập những thị trường Địa Trung Hải, làm sống lại sự giao thương, tao loạn và những thuyết nhân bản, xoá nhoà trong trí nhớ của mọi người sự nghiệp oai hùng của những chàng nghĩa sĩ của Charlemagne, Kim Dung đã viết những truyện võ hiệp để vừa tiếc chúng vừa mua một cuộc tiếu ngạo giang hồ. Những anh hùng của ông sẽ biết sự thất bại. Nhưng còn đâu nữa những anh hùng? Chỉ có những cá nhân.
Cái gì người ta chiêm ngưỡng trong những nhân vật cổ điển không phải là cá nhân họ mà những giá trị họ tượng trưng. Nhưng sự sụp đổ của những giá trị trước một thế giới của vật lực cũng làm rơi những mặt nạ, và con người trong Kim Dung xuất hiện như một mớ đam mê. Khi Trương Thuý Sơn ôm cái xác gẫy của Dư Đại Nham về Võ Đường thì cái gì sư huynh đệ chàng chợt giác ngộ là sự thật đơn giản rằng họ không phải là những thiên thần. Họ có một thân thể để mang bệnh, trúng thương và chết, không phải cái chết vinh quang người ta thường đợi ở những người anh hùng, mà cái chết tăm tối, ô nhục và khả nghi không biết tại sao chết và chết dưới tay ai, có thể xảy ra cho bất cứ kẻ vô danh nào lạc bước trên giang hồ. Sinh ra ở đời mà không ai chết! Tiếng thở dài của Tương Tam Phong trước cảnh hấp hối của đứa học trò yêu của mình như cáo chung một giai đoạn trong lịch sử võ hiệp. Những người anh hùng giờ sẽ biết sự đau khổ. Hỉ, nộ, ai, cụ, ái, ố, dục, tâm hồn họ sẽ là nơi giao động của thất tình. Và những biến cố tâm lý cũng có một trọng lực không kém gì những biến cố ngoại tại. Tương quan giữa người đọc và truyện cũng đổi hẳn. Từ địa vị của một khán giả của một buổi trình diễn, người ta phải chia sẻ tâm sự của nhân vật, vui, buồn, thắc mắc cùng nhân vật, nói tóm lại tham dự trực tiếp vào cuộc phiêu lưu.
Xa cái vui mắt của những đô thị, người ta theo người anh hùng tiếp xúc với cái trữ tình của những mặt hồ man mác, những chuyến đi thuyền đêm dưới trăng, những cảnh rừng hoang xào xạc lá rụng. Ấy là những cảnh để nói với llòng người và trong truyện, chúng là một yếu tố dẫn cảm. Cũng như thế, quan trọng của biến cố không còn ở yếu tố đạo lý chúng có thể trình diễn mà ở tiếng dội tân lý của chúng. Khi thì chúng làm người ta sửng sốt và trông chờ, lại có khi chúng gây ra những tình cảm nhân loại hơn: lãng mạn như cuộc tương ngộ đầu tiên giữa một đôi tri kỉ, nhưng thương tâm cũng có như cái chết của một nhân vật người ta đã theo như một người bạn đường. Ai có thể nghĩ rằng những Hân Tố Tố, Trương Thuý Sơn, Kỉ Hiểu Phù, A Chu, Kiều Phong, A Tỷ… lại có thể bị hy sinh? Nhưng Kim Dung sẽ đi rất xa. Ông sẵn sàng cho chết ngang xương những nhân vật được người đọc cảm tình nhất. Và lẽ dĩ nhiên cái chết nào, dù là cái chết xứng đáng của một Dương Khang, cũng đủ thảm khốc để có vẻ oan uổng. Cái gì tác giả muốn là gây cho người đọc một cảm động mạnh. Cảm động trên hết, cảm động trước đã và cảm động sẽ thắng, những giá trị của truyện võ hiệp mới là những giá trị của tâm hồn. Ai có thể chờ gì hơn ở một truyện kể khi ngay những nhân vật của truyện cũng không còn thiết đến ý nghĩa đạo lý của nó? Tất cả là làm thế nào cho người ta động lòng. Xưa thế giới chia đôi: một Tà và một Chính. Giờ thì những tiêu chuẩn tình cảm sẽ thay thế những tiêu chuẩn đạo lý: sẽ có những nhân vật để người ta cảm tình với và những nhân vật để nhận tất cả ác cảm của người ta. Cho nên để gợi sự thương tâm trong độc giả, anh hùng giờ sẽ là người anh hùng lâm nạn và truyện sẽ không kể lại những chiến công mà những tai hoạ kế tiếp nhau trong đời chàng. Ấy là Dương Qua trong tay những ông thầy bất công và nghiệt ngã, ấy là Thạch Phá Thiên ở với một người mẹ nuôi thù hằn, ấy là Vô Kỵ suốt thiếu thời mang một chứng bệnh nan y. Nhỏ thì chịu nỗi nhục của một đứa trẻ vô thừa nhận, lớn lên họ lại bị xã hội nghi ngờ, xua đuổi, nguyền rủa, uy hiếp. Ngoài ra còn đủ các thứ cảnh ngộ éo le mà cái tình cờ của phiêu lưu thường xô họ vào để họ phải chọn giữa những tình cảm đối nghịch. Không có gì trong thế giờ là minh định như xưa. Họ thường xuyên phải ngạc nhiên, tự tra vấn, xét lại những thành kiến và những ước định của mình. Cho nên người nào cũng có một đời sống bên trong cực kì sôi động. Hơn thế nữa, chẳng mấy người từng trải qua những cay đắng của giang hồ, và đem trong mình một quá khứ nặng nề. Kinh nghiệm ấy cho họ một tâm hồn đầy uẩn khúc, và mỗi nhân vật giờ xuất hiện như một sự sâu xa thần bí. Ấy là nguồn của cái tâm lý phức tạp mà người ta thường ca tụng Kim Dung là đã mang vào truyện võ hiệp. Tâm lý trong kim Dung có lẽ cũng không phức tạp như người ta nói. Nhưng ít nhất thì nhân vật của ông cũng không phải là những vai trò mang những nhãn hiệu cố định. Sau những nhãn hiệu là một thế giới riêng tư, sau những vai trò còn có con người, và con người đích thực theo Kim Dung là con người năng tính. Ông sẽ cho người ta thấy trong những tên đại ma đầu, một người cha muôn thuở đang ngủ. Tiếng khóc của một trẻ thơ thức tỉnh Tạ Tốn khỏi cơn mê sảng đẫm máu từ bao lâu đã vùi ông trong một cuộc tàn sát tưởng không bao giờ thôi. Và cái sướng nhất đời của Âu Dương Phong, có ai ngờ là được một thằng bé con gọi là cha. Mất con, Diệp Mị Nương bắt trẻ của người để ăn tim uống máu. Nhưng chỉ cần nhìn thấy lại đứa con mụ vẫn mong thầm nhớ trộm là mụ chợt giác ngộ và lên án cả quá khứ của mình. Cũng như thế một Lý Mạc Thu có thể nhảy vào lửa để cứu một đứa trẻ thơ. Nhưng dưới tác phong tàn bạo của họ, nhân vật nào trong Kim Dung lại không đa sầu, đa cảm và đa tình? Người ta chỉ cần nhớ đến sự thuỷ chung của Hoàng Diệp Sư với người vợ sớm qua đời, và tiếng sáo của ông trên nước biếc, khi một mình trên chiếc thuyền ông đi khắp bốn bể tìm con.
Cái tình là tiếng nói của cái phần sâu xa nhất trong cơ thể con người. Không có tình giữa nhưng vai trò xã hội. Nhưng khi hai nhân vật khám phá nhau như những con người, nghĩa là khi Trương Thuý Sơn thấy Hân Tố Tố không giống hẳn cái ảnh tượng mà mấy tiếng nữ ma đầu gợi ra trong đầu chàng thì aí tình giữa hai người đã bắt đầu. Nhân vật của truyện võ hiệp cổ điển cũng biết yêu nhau. Nhưng trong thế giới của họ chữ tình chỉ mang một tương quan tại ngoại, ước lệ và trừu tượng qui định bởi thứ bậc xã hội và những tiêu chuẩn đạo lý. Không thể tưởng tượng được chẳng hạn một cuộc yêu đương giữa những người của Tà môn và của chính giáo. Nhưng trong Kim Dung cái tình là tinh hoa của năng tính. Nó sẽ thành những giới hạn giả tạo ấy và làm cho Dương Quá chẳng hạn suốt đời phải thương nhớ một người cha sa đoạ. Tình cha, mẹ, con cái, tình thầy trò, tình đồng môn, tình bằng hữu, không tình nào Kim Dung lại không mô tả qua. Và lẽ dĩ nhiên phải kể đến những sắc màu của tình yêu: tri kỉ như giữa Hoàng Dung và Quách Tĩnh, thần tiên như giữa Dương Quá và Long Nữ, ác độc như giữa Du Thản Chi va A Tỷ. Có những mối tình trưởng thành trong sự chia sẻ nguy hiểm và gian khổ chung và những mối tình như của Lân Ly với Vô Kỵ kết tinh từ một kỉ niệm nhỏ thiếu thời. Lại có những mối tình sét đánh như Đoàn Dự vừa trông thấy Vương Ngọc Yến là tưởng như tất cả những nhan sắc khác đều bị xoá nhoà. Những người yêu thì có kẻ đào hoa như Đoàn Chính Thuần, thờ phụng như Đoàn Dự, ngây thơ như Hân Ly, đau khổ như Chu Chỉ Nhược, dịu dàng như A Chu, nhưng người nào cũng yêu đắm đuối như đã gặp trong người mình yêu một cái gì không thể gặp được một lần thứ hai ở trên đời. Cho nên A Chu có chết đi mà ảnh tượng nàng còn thao thức mãi trong lòng Kiều Phong. Hai tâm hồn gặp nhau tương đắc, giao hội và không có gì có thể chia rẽ họ. Trương Thuý Sơn, Kỷ Hiểu Phù, A Chu sẽ nhận cái chết để không phải lên án người yêu của họ, và Mục Niệm Từ sẽ giữ thuỷ chung với Dương Khang cho đến cùng. Tình yêu không kể tới đạo lý. Nó cũng không thể giải thích được. Ai biết đâu sự sa đoạ của Dương Khang chẳng là cái đã cám dỗ Mục Niệm Từ, cái ngây ngô của Quách Tĩnh là cái đã cám dỗ Hoàng Dung, sự lơ đãng của Mộ Dung Phục là cái đã cám dỗ Dương Ngọc Yến? Tham vọng có thể dẫn đến tuyệt vọng. Nhưng tình yêu là cái duy nhất trong Kim Dung không bao giờ biết đến sự ăn năn. Cái tên Bất Hói mà Kỷ Hiếu Phù đã đặt cho đứa con hoang của mình có lẽ đã đánh dấu trang sử diễm lệ nhất của võ lâm và có lẽ Mộ Dung Phục sẽ bị trứng phạt đến hoá điên, không phải vì tham vọng của chàng quá lớn mà tại chàng là nhân vật rất hiếm của Kim Dung đã không biết thế nào là tình yêu.
Sự giá trị hoá cái tình trong Kim Dung, tuy nhiên chỉ là tỉ dụ điển hình nhất của sự giá trị hoá đời sống tâm hồn. Tâm hồn của nhân vật võ hiệp cổ điển có thể đọc trên mặt họ. Ấy không phải một tâm hồn mà một vai trò, một nhãn hiệu, nhiều lắm là một cá tính. Tất cả những cử chỉ của nhân vật đều mang sắc thái của cá tính ấy mà mục đích của chúng là trình diễn cho ai cũng có thể thấy rõ. Nhưng Kim Dung biết rằng sự thật cuối cùng của một người không bao giờ có thể đạt tới. Nhân vật của ông thường là những nhân vật đa diện, và trong họ lúc nào cũng có thể xuất hiện một con người khác hẳn con người vẫn thường biết. Hơn thế nữa, trong Kim Dung, người ta vào đời là để tự khám phá, tự đào luyện, tự xây dựng. Cho nên cái vô định tính thường là đặc tính đầu tiên của nhân vật - và nhân vật nào cũng chỉ dần dần người ta mới có thể nhận rõ. Thoạt tiên của họ người ta biết có những cử chỉ. Nhưng cử chỉ, diện mạo, ngôn ngữ nào có thể diễn tả hết được sự thực của người ta? Cái vỏ ngoài ấy trái lại thường ẩn những nội dung khác hẳn. Sự chất phác ở sau cái cục mịch, sự tàn nhẫn ở sau cái dịu dàng, sự thuỷ chung ở sau cái ương ngạnh. Tác phong của nhân vật Kim Dung không diễn tả cái tâm hồn của họ. Nó dấu cái tâm hồn ấy đi và tâm hồn ấy lại xuất hiện như một cái gì rất sâu xa. Giông tố nào sau cái mặt nạ lạnh như tiền của Hoàng Dược Sư? Tham vọng nào trong con mắt lơ đãng của Mộ Dung Phục? Tuyệt vọng nào trong cơn say phá trời của Hoàng Dung? Nhân vật võ hiệp cổ điển, ngược lại, cảm ra sao thì tình cảm ấy xuất hiện ra ngoài, nghĩa là diễn tả một cách trực tiếp và minh bạch qua những cử chỉ ước lệ và cố định. Không ai có thể hiểu lầm một tiếng cười, một điệu khóc, một cơn giận dữ của họ. Nhưng cũng vì thế mà càng cố làm ra như thực, những tình cảm của họ lại càng có vẻ ngoại tại và giả tạo. Chợt bùng lên, chúng lại chợt tắt đi và những nhân vật, sau một lúc ồn ào, lại tiếp tục như không có gì xảy ra. Nhưng trong Kim Dung những tình cảm đích thực thường ít nói. Khi biết rằng không còn cách nào để chữa cho Dư Đại Nham thì Trương Tam Phong chỉ yên lặng thở dài quay lại nhìn các môn đệ của mình và nói một câu chậm chạp: Làm người ai chẳng chết một lần? Để rồi suốt đêm ấy, ngồi một mình suy nghĩ trên mấy câu thơ đang tàng trữ cái bí mật về cái tai nạn đã xảy ra cho đứa học trò yêu của mình và sáng tạo ra bộ Đồ Long công. Nỗi buồn không được nói ra nhưng nó đè nặng trên mỗi cử chỉ. Ấy là mọt nỗi buồn đã ngấm vào thân thể, một nỗi buồn để người ta nghiền ngẫm, một nỗi buồn đã hoá ra chất liệu của cuộc đời. Sự kín đáo của nhân vật cho nó một sự sâu xa mà không ngôn ngữ nào đạt tới. Hay là ngôn ngữ, trong một thế giới mà đối thoại duy nhất có thể có là của võ lực chỉ còn là một thứ xa hoa? Cho nên mới có một Hoàng Dược Sư, mặc cho người đời nguyền rủa và nghi ngờ, vẫn thản nhiên tiếp tục con đường của mình mà không bao giờ tìm cách tự minh chứng. Hình như ông cho rằng ai cũng có lý do riêng để làm cái việc mình làm, và những cố gắng để thuyết phục cũng như giải thích đều thừa. Khi thật tức giận ông cũng chỉ “hừ” một tiếng ngắn ngủi. Nhưng càng ít nói thì những tình cảm càng nói nhiều. Và cái gì ở sau cái mặt nạ của Hoàng Dược Sư là một tâm hồn đầy bão tố. Người ta bước vào từ chương của những yên lặng đầy ý nghĩa, và cái Kim Dung mang vào truyện võ hiệp là một ngôn ngữ cho tâm hồn, khi tâm hồn của mỗi người là một tâm sự không thể nào chia sẻ. Và có lẽ cũng tại thế mà trong Kim Dung, người ta thích trá hình - theo nghĩa bóng và theo cả nghĩa đen của chữ ấy - như người ta chỉ thấy trong cái hàm hồ của những cử chỉ một cơ hội cho sự lường đảo và cái nguồn của ngộ nhận.
Mình Trương Thuý Sơn biết rằng chàng không có cơ hội. Nhưng làm thế nào chàng có thể tự minh oan, khi tất cả những sự kiện kiểm soát được đều lên án chàng là một sát nhân? Quả Hân Tố Tố có đả thương Dư Đại Nham. Theo qui củ trong giang hồ thế chẳng có gì là trái đạo. Huống chi nàng đã tìm hết cách để cứu chữa thương thế cho chàng. Nhưng ngờ đâu sự ân cần ấy lại gây thêm tai vạ, và con người đã bị nàng biến thành một phế nhân ấy sẽ là anh chồng của nàng.
Chủ quan mà xét thì nàng không có tội. Nhưng sự thật của những chứng nhân đâu giống sự thật của những tác nhân! Hơn ai hết Kim Dung đã dùng cái mâu thuẫn ấy để xây dựng một tâm sự, sửa soạn một thảm kịch, dẫn đường cho một bất ngờ và không đợi những lý thuyết gia mới của tiểu thuyết ông đã khai thác trong truyện ông sự tương đối của những quan điểm. Khi nghe Hân Ly kể lại mối tình của nàng với Vô Kỵ, thì có ai, kể cả Vô Kỵ, có thể nhận ra những gì đã xảy ra? Trong thực tế thì chỉ có một cuộc cãi lộn giữa hai đứa trẻ trong một chốc tình cờ gặp nhau. Nhưng trong trí nhớ của Hàn Ly câu chuỵên ấy đã biến thành một thiên tình sử giao động đẫm nước mắt. Cũng một sự kiện ấy, nhưng tuỳ nhân vật, người ta có thể có nhiều chuyện khác nhau, và ngược lại những chuyện tưởng khác nhau sau cùng chỉ là những mặt khác nhau của một chuyện duy nhất. Cái khéo của Kim Dung là bao giờ cũng trình bày những biến cố từ quan niệm đặc biệt của một nhân vật, không biết gì hơn nhân vật và lẽ dĩ nhiên sẽ tham dự vào cuộc phiêu lưu của nhân vật như nhân vật. Sự tham dự ấy cho truyện một sức dẫn cảm gia tăng. Nhưng nếu có sự tham dự ấy thì không những tại chủ quan đã được trả lại cho nhân vật để người đọc có thể cùng nhân vật đồng hoá, nghĩa là cùng có một ý nghĩ, một tình cảm, một xúc động mà ngược lại thì những xúc động, tình cảm, suy nghĩ mà người đọc, nghĩa là bất cứ một người tầm thường nào cũng có thể có. Nhân vật võ hiệp của Kim Dung là những nhân vật đã được nhân loại hoá.
Không những có một thân thể, họ còn có một tâm hồn. Hơn một tâm hồn, họ có một tâm sự. Những ý tưởng đại cương sụp đổ. Và giá trị một nhân vật giờ là ở cái phần độc đáo nhất của nó. Những khác biệt thi nhau đua nở và người ta ngạc nhiên trước cảnh đa sắc ấy của nhân loại. Sức sáng tạo tâm lý của Kim Dung người ta sẽ công nhận là phi thường và có thể gọi ông là một thứ Shakespeare của truyện võ hiệp. Suốt mấy cuốn truyện số nhân vật của ông không sao kể hết. Không nhân vật nào tuy nhiên giống nhân vật nào. Ấy là những tổ hợp phức tạp, theo những tỷ lệ biến đổi, giữa sự thông minh, sự độc ác, sự thuỳ mỵ, sự thanh cao, sự quật cường, sự kiêu ngạo, sự ngây ngô. Một cố gắng để phân loại những nhân vật Kim Dung theo những cá tính và những đam mê của họ có lẽ sẽ có ích trong việc tìm hiểu tư tưởng Kim Dung hơn là những lý luận dài dòng. Nhưng điều quan trọng giờ không phải là nội dung của sự khác biệt giữa những nhân vật, mà là chính sự khác biệt ấy, nghĩa là sự giá trị hoá nhân vật như những cá nhân. Nhân vật Kim Dung có một trọng lực khác thường. Có nhân vật như Hà Túc Đạo chỉ xuất hiện có một lần mà ấn tượng để lại không thể nào phai. Mà đặc biệt đã xuất hiện thì một nhân vật Kim Dung, dù nhỏ tới đâu, khi truyện kết thúc, người ta cũng biết là nó trở nên cái gì. Không những đã cho nó một tâm hồn, Kim Dung còn cho nó một tiểu sử. Và đôi khi tiểu sử ấy sẽ giải thích tâm hồn của nhân vật như những tai biến trong đời Tạ Tốn sẽ giúp chúng ta hiểu sự tàn bạo của ông. Sự khác biệt mà thoạt tiên Kim Dung xác định trong nhân vật của ông như điều huyền bí sau cùng ông cho người ta thấy rằng nó không phải là không có nguyên do. Và đào sự khác biệt ấy sâu hơn một tí, cái gì người ta gặp cũng chỉ là một người như tất cả mọi người, không giống ai, nhưng như bất cứ ai, một nửa do mình tạo ra và một nửa do cuộc đời làm thành, nói tóm lại, một cá nhân. Nhân vật cổ điển cũng có những đặc tính để người ta phân biệt họ lẫn nhau. Hơn thế nữa những đặc tính ấy thường được phóng đại một cách quá đáng. Làm thế nào tuy nhiên thì nó cũng chỉ có một tính cách ngoại tại. Trong căn bản, nhân vật vẫn chỉ là tương thân cho những ý tưởng. Nhưng nốt ruồi nhỏ trên mép A chu, khuôn mặt chữ điền của Vô Kỵ, dáng đi cục mịch của Quách Tĩnh, những chi tiết kín đáo đấy, trái lại không để tách nhân vật ra khỏi cái nhân loại thường ngày mà để mang họ lại gần người ta hơn. Ý nghĩ của chúng ta là câu chuyện giờ không xảy ra giữa thiên thần và ác quỷ, mà giữa người và người, không phải những nhân vật mà là những cá nhân - nghĩa là những người, giống như bất cứ người nào ta có thể gặp ngoài đường, chỉ có một trên đời và không ai có thể thay thế.
Nhưng nhân vật Kim Dung như chỉ xác định sự khác biệt của họ để trở về cái vô danh của tất cả mọi người. Sự kín đáo ấy, trên bộ mặt, ngôn ngữ, cử chỉ, người ta lại thấy trong tên của họ. Truyện võ hiệp cổ điển thường cho nhân vật của họ những tên thật kêu. Thoạt tiên nghe tưởng họ đều là thần, tiên, ma, quái. Nhưng Quách Tĩnh, Dương Qua, Vô Kỵ, những tên ấy lại gợi cho người ta hơn là một nhân loại tầm thường? Có khi Kim Dung lại cố tìm cho nhân vật những cái tên thật xấu như Vô Phúc, Vô Thọ. Xét trên phương diện ấy thì truyện của ông thật là những truyện phản anh hùng và chúng mở đường cho sự đột nhập của cái nôm na vào cái trời tưởng của võ hiệp cổ điển. Cái tên sang trọng nhất trong Kim Dung là Vương Ngọc Yến. Nhưng người ta nhớ rằng Đoàn Dự đã coi nó như khuyết điểm duy nhất trong con người thần tiên ấy và chàng chỉ tiếc sao người ta không gọi nàng một cách mộc mạc là A Bích, A Tỷ, A Chu… Nói tóm lại, sau khi xác định sự khác biệt của cá nhân chống cái trừu tượng của những nhãn hiệu xã hội, Kim Dung, để chống cái lãng mạn của sự khác biệt, lại xác định sự khác biệt ấy như một sự tầm thường và tìm cách giá trị hoá cái tầm thường, cái nôm na, cái vô danh. Ấy là giai đoạn thứ hai trong cái tiến trình quen thuộc của mọi văn học trưởng giả.
Nhân vật được nhân loại hoá, và, như người ta đã thấy, người đọc có thể tham dự vào truyện một cách dễ dàng hơn. Xưa mục đích của truyện là trình diễn một ý nghĩa đạo lý. Người ta kể theo quan điểm của chính nghĩa. Hay đúng hơn thì trong những chuyện ấy chỉ có chính nghĩa là có thực, chứ tà đạo chỉ có như một đồ phụ thuộc, một thứ ký sinh, một bóng tối cốt làm nổi sự rực rỡ của chính nghĩa. Nhưng khi tà và chính không còn minh định thì lẽ dĩ nhiên không có quan điểm nào được coi là ưu tiên. Quan điểm tốt nhất là quan điểm người đọc có thể đồng hoá một cách dễ dàng nhất. Mà người đọc, nhất là người đọc truyện võ hiệp thường không có máu anh hùng. Cho nên người anh hùng Kim Dung cũnh không còn gì của những thiên thần giáng thế để ra oai và tác phúc nữa mà là một người, như thường thấy, đầy thiện chí, lương thiện và ngu dốt bị lôi vào những xung đột mà chàng không thể hiểu lý do. Làm thế nào một Dư Đại Nham có thể hiểu tại sao người ta có thể giết nhau vì một võ công kì thư? Người anh hùng của Kim Dung trước hết là một người xa lạ với võ lâm và những quy luật của nó. Xét những cách mở đầu của truyện ông thì người ta thấy ngay rằng phiêu lưu thường đến cho họ bất ngờ. Giữa một ngày đẹp trời, khi người ta nghĩ rằng cuộc đời đáng sống hơn bao giờ hết và người ta chỉ có việc tiếp tục cuộc sống đã thành nếp từ trước đến giờ, thì tất cả xảy ra. Tất cả xảy ra khi, dưới một trời mưa tuyết êm đềm, Dương và Quách hai nhà đang ngồi uống rượu, tính chuyện vợ đẻ và ước định tương lai của con, khi Quách Tường thơ thẩn ngao du bên sườn núi Thiếu Thất, khi trên núi Võ Đương người ta đang tưng bừng sửa soạn như thường lệ sinh nhật của Trương Tam Phong. Truyện võ hiệp cổ điển thường bắt đầu, khi trong cái lâm ly của đêm khuya, cảnh vắng, gió thốc từng cơn, khi giữa cái ồn ào của những đô thị là chỗ những anh hùng tứ chiếng đến tìm nhau kiếm chuyện, nhưng bao giờ cũng là trong không khí và môi trường của phiêu lưu – phiêu lưu trong Kim Dung xuất hiện như một điểm bất thường giữa cái trưởng giả của một cuộc sống thanh bình và có ngăn nắp. Võ Đương thất hiệp là những người cuối cùng còn muốn tiếp tục truyền thống của người anh hùng thế thiên hành đạo. Nhưng ở một thời thiên đạo đã suy, can thiệp vào những xung đột của giang hồ chỉ mang lại cho họ phiền luỵ, tai hoạ, và những thù oán không đâu. Có khi họ không tìm đến người ta thì người ta cũng tìm đến họ gây sự. Mới đặt chân đến Trung Nguyên thì vợ chồng Trương Thuý Sơn đã bị võ lâm đuổi theo, chặn đường, tróc nã. Vô Kỵ có làm gì ai đâu mà ai cũng muốn hại nó? Nếu ở lại trên Băng Hoa Đảo thì đâu có xảy ra chuyện gia đình tan nát ấy để kẻ bị bức tử và người thì lưu vong! Cho nên người anh hùng Kim Dung sẽ đầy nghi kị với những chuyện của võ lâm mà đôi khi còn coi võ học như độc vật. Một Đoàn Dự sẽ bỏ nhà đi để khỏi phải học võ. Nhưng sự mai mỉa là chính con người ngoài cuộc ấy giờ người ta muốn lôi vào cuộc, chính con người phản anh hùng ấy người ta muốn bắt làm anh hùng, chính con người vô tội ấy mà người ta bắt phải trình những minh chứng của sự vô tội của mình. Ôi! Cuộc đời sao mà đẹp trên Băng Hoa Đảo với một con vượn lông đỏ. Nhưng không bao giờ, không bao giờ Kiều Phong sẽ được trở về Nhạn Môn Quan cùng A Chu chăn cừu.
VII. Giấc mộng thái bình ấy làm người ta ngạc nhiên trong một truyện võ hiệp.
Nhưng có lẽ Kim Dung đã không sáng tạo ra một thứ võ hiệp mới như người ta đã tưởng. Ông sửa soạn đưa nó đến nơi yên nghỉ cuối cùng trong những cuộc sống tầm thường thi vị hoá. Ấy là sự kết thúc của một biến tính mà đã tới lúc ngưới ta có thể tóm tắt lại trong một cái nhìn tổng quát.
Thoạt tiên có một sự suy đốn đã xảy ra. Của cái đạo lý truyền thống không còn gì hơn là những giáo điều. Sự nghiệt ngã của chúng làm người ta ghét bỏ. Sự hẹp hòi của chúng làm người ta chê cười, sự giả tạo của chúng làm người ta ghê tởm. Những cá nhân lớn nổi lên để vượt qua những giới hạn giả tạo của chúng. Ấy là thời của sự đại ly khai, anh hùng xuất hiện ở khắp nơi, mỗi người xưng bá một phương, lập ra một môn phái riêng, theo đuổi một lý tưởng riêng và sâu xé lẫn nhau. Sự thống nhất không còn nữa mà cũng không ai có đủ sức khuất phục cả võ lâm dưới uy quyền của họ. Kết quả là một cảnh phân hoá cùng cực. Những tiêu chuẩn đạo lý đều bị thủ tiêu. Tà và Chính sau cùng đều như nhau và những xung đột của võ lâm chẳng có nghĩa gì hơn những cuộc tương tàn của thú dữ. Ấy là thế giới của tự nhiên mà vật lực làm chủ, và cũng là thế giới của ảo tưởng. Người ta giết nhau cho những danh từ. Không ai thắng được ai. Nhưng trong cuộc xung đột không thể kết thúc ấy mọi ý nghĩa đều sa đoạ. Lý tưởng cũng viển vông như tham vọng. Người anh hùng giác ngộ sẽ tự phế võ công để đi tu. Không phải ngẫu nhiên mà ở chỗ cao nhất của võ lâm, Kim Dung lại để những đạo sĩ và những thiền sư mà ông thường mô tả như một cảnh thần tiên những ngày thất lạc vào một vùng đất vắng người ta may mắn thoát được những chuyện thị phi trong giang hồ. Người anh hùng của Kim Dung sẽ là người chống bạo động. Giặc đánh nhau ở đâu là họ nhảy vào để can gián. Ấy là cái đam mê của họ. Xúng xính trong bộ áo thư sinh, một Đoàn Dự, tuy chẳng biết tí võ công nào, cũng mang đạo lý thánh hiền ra khuyên mọi người buông khí giới. Xa hơn nũa thì Không Kiến thiền sư sẽ đem mình ra để cứu Thành Khôn khỏi cơn giận của Tạ Tốn; và A Chu, để khỏi thấy những người thân yêu của mình giết lẫn nhau, đành chịu chết dưới chưởng của Kiều Phong. Lẽ dĩ nhiên người ta cũng phải kể đến Vô Kỵ. Như tất cả những anh hùng của võ hiệp Vô Kỵ đã mang từ nhỏ ý chí trả thù cho cha mẹ chàng mà chàng đã thấy ngay dưới mắt những người tự xưng là của Chính giáo bức tử. Khác là cái thù ấy chàng lại quên ngay đi. Có lẽ tại trúng trọng thương ngay từ lúc đầu tiên vào võ lâm chàng đã sống thường trực trong sự trông chờ cái chết và chẳng có mấy thì giờ để nghĩ đến trả thù. Hơn thế nữa thì trên đường lưu vong chàng đã thấy và đã phải chịu quá nhiều lừa đảo, bất công, oan uổng để cái chết của cha mẹ chàng còn có một ý nghĩa nặng nề giữa cái ác nghiệt mêng mông như biển của giang hồ. Người đời lên án mẹ chàng như một nữ ma đầu, nhưng cha chàng là người của truyền thống nghĩa hiệp và đứa con cua mối tình trái đạo ấy như mang sẵn trong người những xung đột đang xâu xé võ lâm. Trong tâm hồn chàng vừa là người của Tà môn vừa là người của Chính giáo. Cái lưỡng tính ấy tuy nhiên như cái tên Vô Kỵ mà Tạ Tốn đã tặng chàng khi mới ra đời, cái lưỡng tính ấy cho phép chàng nhìn tất cả dưới con mắt không thành kiến, không sợ hãi, và vô tư của trẻ thơ. Tất cả những môn phái chàng đều coi như nhau và một khi đã nhận bạo động như một định đề của đời sống võ lâm, ai chàng cũng thấy đáng yêu, đáng trọng và đầy nghĩa khí. Những xung đột giữa họ chàng thấy là một điều khó hiểu, vô lý và đau lòng. Nhưng cũng vì đã sống sự xung đột ấy như một xung đột giữa mình với mình mà chàng có thể vượt nó để giải hoà võ lâm. Cho nên thực hiện được sự giải hoà ấy không phải là những lý thuyết suông của Đoàn Dự mà là Vô Kỵ, khi trên Quang Minh Đỉnh, chàng đứng ra lấy mạng mình đổi lấy mạng của những người của Minh giáo đang bị chúng anh hùng uy hiếp. Vô Kỵ đã thành công, không những chàng đã giải hoà các môn phái mà sau cùng lại đoàn kết họ trong công trình giải phóng võ lâm. Nhưng sự đoàn kết ấy cũng chỉ bắt đầu từ sau khi người ta đã xô sự xung đột tới cái độ cao nhất của nó. Và sự ngược đời là nó đã được thực hiện từ những nhân vật mà cả võ lâm đều nguyền rủa.
Ấy là tại khác hẳn những truyện võ hiệp cổ điển trong ấy Tà đạo chỉ có một ý nghĩa tiêu cực của một cái gì trái với Chính nghĩa thì trong Kim Dung, Tà và Chính chỉ là hai mặt của một thực tại duy nhất như sai lầm là mặt trái của chân lý.
Truyện Kim Dung dẫn người ta từ một sụp đổ đến một trật tự mới. Ấy là truyện của một cuộc giao thời: thời của phiêu lưu, của sáng tạo, của khám phá, nhưng cũng là thời của nghi vấn, của bất trắc, của lưu vong, thời của mâu thuẫn, của xung đột và của sự bùng nổ của tất cả những năng lực cá nhân. Kì vọng của Kim Dung là cái trật tự mới sẽ duy trì trong nó tất cả những chinh phục của giai đoạn tổng ly khai và thực hiện sự thống nhất võ lâm trong sự tương kết giữa mọi khác biệt. người ta hiểu tại sao Kim Dung đã lấy Minh giáo làm dụng cụ cho sự tương kết ấy. Tại Minh giáo - cũng gọi là Mani giáo - chính là một chi nhánh của cái truyền thống lưỡng nguyên mà gốc ở Ba Tư và chủ trương Tà và Chính là những nguyên lý căn bản muôn đời cùng có và cùng xung đột nhau của thế giới. Một chủ trương như thế không thể nào không dẫn đến một chính sách độc tôn. Nhưng sang Trung Hoa, trở nên một thiểu số và môn phái bị truy bức, đương nhiên là minh giáo, trong sự đảo lộn ấy của những vai trò, khi nó tập trung tất cả những môn phái chống lại mình, sẽ là một cơ hội để biến sự xung đột giữa Tà và Chính ra một thế đồng minh và tương đối hoá những tiêu chuẩn cổ truyền của đạo lý võ lâm. Cái người ta gọi là tội ác khi ấy lại xuất hiện như một cách độ thế, sự lưu vong như con đường về tổ quốc, sự ly khai như một cơ hội cho thống nhất. Không còn Tà và Chính nữa mà những vai trò khác nhau trong cái trật tự của thế giới, những mãnh lực tự nhiên mà sự trường tồn của toàn thể đòi hỏi sự tương kết.
Cái nên thơ của trật tự mới là cái nên thơ của một cơ cấu. Và người ta có thể coi truyện Kim Dung, khi nó tập trung trong một truyện kể vô cùng phức tạp không biết bao nhiêu định mệnh cá nhân mà chẳng định mệnh nào giống định mệnh nào là cái mẫu tương xứng của cái nên thơ ấy mà Kim Dung đề cao trong truyện ông: trong quan niệm Bách Khoa về võ học, trong tổ chức phức tạp của những môn phái lớn, trong mối tình của những nhân vật thuộc những trường phái đối lập: giữa Dương Tiêu và Kỉ Hiểu Phù, giữa Vô Kỵ và Triệu Minh, giữa Quách Tĩnh và Hoàng Dung, đứa con của sa mạc và đứa con của biển xanh. Và lẽ dĩ nhiên phải kể đến Vương Nạn Cô chuyên môn chế độc dược bỏ cho những nhân vật giang hồ để chồng nàng là Hồ Thanh Ngưu mang cái y học uyên thâm của mình ra cứu chữa. Nhưng thực hiện được sự tương kết giữa những đối cực ấy để trở thành nơi giao hội của tất cả những xu hướng của võ lâm, người ta hiểu tại sao không thể làm một nhân vật của một truyền thống nào sẵn có mà là một người như bất cứ ai, mình là ai không biết nhưng mà cái vô định tính giống như sự có thể và sự ngây thơ tựa hồ một trí thức uyên thâm.
Sự tương kết ấy tuy nhiên, Kim Dung biết là rất mong manh. Những môn phái vừa mới thống nhất nhau thì ngay trong minh giáo sự khủng hoảng nội bộ đã bắt đầu: Vô Kỵ bị Chu Nguyên Chương loại và người ta thừa đoán rằng những cuộc thanh toán khác sẽ tiếp theo. Xung đột giữa người và người cũng phi lý như là không thể tránh được. Cho nên Tạ Tốn mới tự phế võ công để vào chùa đi tu, Vô Kỵ từ giã giang hồ để tô son cho người yêu và Đoàn Dự mới nhất quyết không chịu học võ công để chọn cái đẹp làm tôn giáo duy nhất. Truyện Thiên Long bát bộ có lẽ là truyện võ hiệp hay nhất được viết từ xưa đến giờ. Nhưng trong truyện ấy cám dỗ của võ công là của một kiến thức thuần tuý, và bắt đầu trong cảnh tưng bừng của thần thoại nó kết thúc giữa một cảnh sụp đổ lâm ly: Kiều Phong chết, Mộ Dung điên và Cưu Ma Trí, sau một đời khổ luyện, đành chịu mất hết võ công để tiếp tục cuộc đời của một tu sĩ tầm thường. Tình yêu trở nên một cuộc chạy đuổi: Đoàn Dự yêu Vương Ngọc Yến, Vương Ngọc Yến lại yêu Mộ Dung vÀ Mộ Dung lại đắm mình trong giấc mơ phục quốc. Cũng như thế trong khi Du Thản Chi yêu A Tỷ thí A Tỷ lại yêu Kiều Phong và Kiều Phong lại chỉ biết có kỉ niệm của A Chu. Ấy là không kể Đoàn Chính Thuần, sau khi đã yêu và được không biết bao nhiêu người yêu lại, rốt cuộc lại để ngần ấy mối tình dang dở và trước khi chết mới khám phá rằng đứa con duy nhất của ông cũng không thực là của ông và đành ngồi bó tay nhìn người ta lần lượt hạ sát tất cả nhữg người yêu của mình. Người yêu giết người yêu, đồng bạn giết đồng bạn, tham vọng và ân ái, tất cả đều tan ra mây khói. Người anh hùng Kim Dung (và ấy là điểm làm chàng vượt lên trên những thứ cảnh sát không lương của truyện võ hiệp cổ điển) thường có những hoài bão lớn, và đôi khi định mệnh của chàng có kích thước của một đế quốc. Nhưng còn gì của tham vọng của Thiết Mộc Chân trong cơn mê sảng của Mộ Dung? Sự tan vỡ của những ảo tưởng rực rỡ là đề tài của Thiên Long bát bộ: từ nhan sắc thần tiên của Vương Ngoc Yến đến uy danh lừng lẫy của Mộ Dung Phục, tất cả đều dẫn đến nụ cười gằn của một thực tại nham nhở và tầm thường. Pho tượng ngọc dưới đáy hồ ở sau núi Vô Lượng mà người ta trông chờ như cái chìa khoá của tất cả những nghi vấn của truyện sau cùng vẫn giữ nguyên cái bí mật của nó và từ khuyết điểm ấy cơ cấu ly tâm của truyện lại xuất hiện rõ ràng.
Trong sự xung đột giữa con người và thế giới, sự thắng trận sau cùng trong Kim Dung bao giờ cũng thuộc về thế giới. Thế giới sẽ thường xuyên vượt khỏi vòng tay ôm của con người. Con người Kim Dung đã biết tất cả những cám dỗ: của đạo lý nghiêm khắc, của ý chí thống trị, của tinh thần cứu rỗi. Tiếng gọi lớn nhất tuy nhiên sẽ là tiếng gọi của cuộc đời xuất thế nghĩa là của sự trở về. Khi xét đến võ học trong Kim Dung người ta thấy rằng ông rất ngờ vực trí năng và sức sáng tạo của con người. Ấy theo ông là mầm của mọi ly tán. Cho nên không có gì lạ nếu sau cùng, mặc dầu tính chất lãng mạn, một Vô Kỵ sẽ kết thúc những phiêu lưu của mình như Candide của Voltaire. Sự thất bại ấy của người anh hùng thật là quá êm đềm để không có vẻ khả nghi. Nhưng người ta hiểu rằng trong Kim Dung cái lãng mạn chỉ có một giá trị giai đoạn: ông đã lấy cái mênh mông của thế giới để thoái chí anh hùng, lấy một nhân loại đa sắc ra làm đảo lộn những ý nghĩa đạo lý, lấy cảm động làm ý thức suy vong, lấy ngây ngô chống lại tài mưu trí, nói tóm lại lấy tự nhiên chống lại cái nhân văn, và kết quả là sự thất bại của người anh hùng trước cuộc đời như thế. Hơn ai hết Kim Dung đã biết làm sống lại trong tiểu thuyết, ở một thời mà tiểu thuyết đã mất hết tiểu thuyết tính để chỉ còn là những cơ hội cho những luận án triết lý, một không khí lãng mạn dễ làm người ta say mê. Nhưng người ta không thể hiểu lầm. Như tất cả những nhà văn vượt bậc, cái gì ông đã lên án thì ông mô tả lại càng tài tình. Có lẽ tại nó là phần xấu xa nhất trong người ông?
VIII. Truyện Kim Dung lưu ý người ta trên hơn một quan điểm.
Như một tài liệu văn học, nó làm chứng cho sự chuyển mình của một thứ văn cổ truyền là văn võ hiệp. Một thế giới của những ý nghĩa rõ ràng chuyển mình sang một nghi vấn của nghi vấn. Tất cả cũng chuyển mình theo cách kể chuyện, cách giàn cảnh, cách cấu tạo nhân vật. Ngay quan niệm võ học, như người ta thấy, cũng đã chịu ảnh hưởng sâu xa. Tham vọng duy nhất trong bài này là trình bày sự mạch lạc của sự chuyển mình ấy, theo một giả thuyết mà giờ ai cũng đã thừa nhận, là một văn thể không phải là một cái bình rỗng có thể chứa bất cứ một thứ nội dung nào mà tự nó đã là một cách tổ chức thế giới để cho thế giới nghĩa cũng như dụng cụ của người sưu tầm đã bao hàm những kết quả có thể của sự sưu tầm của ông. Như ngôn ngữ người ta dùng đã quy định trước những tư tưởng người ta có thể có. Kỹ thuật không vô tội. Ấy là điều những kỹ thuật gia chưa chịu thừa nhận. Người làm văn tuy nhiên đã biết thế từ lâu. Một văn thể là một hệ thống diễn tả mà tất cả những yếu tố gắn liền nhau trong một thế giới tương biến, nghĩa là người ta không thể biến đổi một yếu tố mà không làm những yếu tố khác cùng biến đổi theo trong một chiều. Trở lại Kim Dung, và để tóm tắt câu chuyện trong một câu, người ta có thể mượn ý của Georg Lukács để nói rằng ông đã mang truyện võ hiệp từ thể anh hùng ca sang thể tiểu thuyết.
Của anh hùng ca, truyện võ hiệp cổ điển, ngoài cái nhân loại anh hùng, có những ý nghĩa cố định, cái cơ cấu đường thẳng, cái trình bày ngoại tại, nói tóm lại, một thế giới rõ ràng trong ấy không có gì xảy ra mà người ta không thể đoán trước là sẽ kết thúc ra sao. Nhưng sự bất trắc, sự bất ngờ, sự trông chờ là cái thú của tiểu thuyết. Lẽ dĩ nhiên tiểu thuyết không phải chỉ có thế và người ta có thể cho rằng Kim Dung không là một tiểu thuyết gia mà một người kể chuyện tài tình. Nhận xét ấy không phải là không có lý: càng ngày ông càng làm chủ nghệ thuật của mình thì người ta thấy nhân vật ông càng trở nên sơ sài như không có một trọng lực nào hơn là những con tốt trong một thế cờ cực kỳ biến hoá mà sự giải quyết chỉ còn là một thứ trí thức thanh cao. Nhưng làm sao phủ nhận được rằng, ngoài những cám dỗ thông thường của phiêu lưu, Kim Dung, ở khắp nơi trong truyện ông, đã mang lại một sức sáng tạo tâm lý mà văn võ hiệp chưa từng thấy. Cái tâm lý phức tạp ấy, sự bất trắc ấy, những xung đột ở bên kia đạo lý ấy là tiểu thuyết. Người ta đã đón tiếp những đặc tính ấy của truyện Kim Dung như là một cái gì thật mới. Nhưng cái mới của Kim Dung là đã làm mới lại tiểu thuyết tính bằng cách đưa nó vào văn võ hiệp. Tại tiểu thuyết nếu người ta có thể định nghĩa thứ văn không biên giới ấy, đã bắt đầu, khi, những ý nghĩ cố định sụp đổ, thế giới trở nên một huyền bí, con người, không còn là một vai trò mà phải tự làm ra mình, giác ngộ mình như một cá nhân mà định mệnh thường xuyên bị nghi vấn hoá.
Người ta biết rằng tiểu thuyết bắt đầu khi, tiếp theo sự phát triển của thương mại và của kỹ nghệ nghĩa là của văn minh thành phố, cuộc đời, hết bị quy định bởi những giáo điều và những nghi lễ truyền thống của xã hội nông nghiệp, xô cá nhân vào một thế giới của nghi vấn, của phiêu lưu và của sự tranh sống. Sự bùng nổ của tiểu thuyết tính trong Kim Dung có lẽ cũng phản ảnh một xu hướng tương tự trong xã hội đương thời cùa chúng ta. Nhưng sự mở mang của những thành phố của chúng ta đã không phải là một sự kiện phát triển từ trong ra mà đã diễn tiến theo những kế hoạch và với tài nguyên của Tư Bản Quốc Tế, để phụng sự cho quyền lợi của họ. Nhất là cái tư bản ấy lại là thứ tư bản độc quyền mà ưu tư tiên quyết là tập trung, tổ chức và kế hoạch. Ấy là một lý do người ta có thể tạm lấy để giải thích tại sao trong Kim Dung giai đoạn anh hùng lại quá ngắn và sự nổi loạn lãng mạn tại truyện sao lại sớm bị thâu hồi trong trật tự. Cách tổ chức theo kiểu truyện trinh thám của truyện ông cũng đủ cho người ta thấy rằng xã hội tiêu thụ trong những truyện ấy không phải là một xã hội sống trong sự sợ ngày mai. Nếu tôi không lầm thì truyện trinh thám đã ra đời dưới thời Nữ Hoàng Victoria, ở giai đoạn phát triển tối đa của đế quốc Anh. Khi truyện Kim Dung bắt đầu thì thời của sáng tạo đã hết và những cá nhân lớn như Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Tạ Tốn v.v… chỉ còn là những tiền bối đã trở về già để lại sân khấu võ lâm cho những thiếu niên ngu ngốc, giằng co giữa Tà và Chính, cố vá víu lại một di sản tan hoang.
Xung đột giữa Tà và Chính ấy có lẽ đã diễn tả mâu thuẫn chính yếu trong những xã hội còn ở tình trạng bán thuộc địa như xã hội chúng ta. Một đằng thì xã hội ấy, mà những điều kiện lịch sử không cho phép sự trở thành của một giai cấp tư sản đủ sức tự lập, trong chừng nào nền kinh tế của họ còn thiết yếu dựa trên sự tự do doanh thương, thì dường như khó tránh được một sự phụ thuộc chặt chẽ vào cái tổ chức liên lục địa của tư bản chế, và một đằng khác cũng không thể để sự phụ thuộc ấy trở nên một sự lệ thuộc mới, người ta thấy họ thường xuyên phải duy trì áp lực của một ý thức hệ quốc gia cực đoan. Ấy là một điều dễ hiểu. Nhưng tai hoạ bắt đầu khi ý thức hệ ấy lại trở nên một dụng cụ để đàn áp những thành phần khác của xã hội và dưới những nhãn hiệu khác nhau người ta gọi là phi dân tộc và để biến những thành phần khác thành những dụng cụ để bảo vệ chính cái phi dân tộc của chế độ tư bản. Những mâu thuẫn cam go ấy mà sự can thiệp võ trang của người ngoại quốc lại gia tăng gấp bội, chúng ta thường tự hỏi là chúng sẽ dẫn chúng ta tới đâu. Nhưng có những xã hội sống bằng sự nhất trí thì cũng có những xã hội dựa trên sự mâu thuẫn của nó để trường tồn. Sự mai mỉa là tất cả xảy ra như trên sự đổ vỡ của quê hương, những mâu thuẫn của chúng ta càng ngày càng làm chúng ta trở nên phì nộn. Cho nên không có gì lạ nếu sau cùng Tà và Chính, Thiện và Ác, Phúc và Hoạ, Kim Dung sẽ coi như Âm và Dương nghĩa là sức mạnh của tự nhiên có khi thuận và có khi nghịch, nhưng không thể tách khỏi nhau đều cần thiết cho sự tiến hoá như chiến tranh thuộc địa cần thiết cho sự phồn thịnh của thương mại.
Xu hướng tư tưởng Kim Dung là một cố gắng để trả lại cho tự nhiên những xung đột giữa người và người. Ấy là một điểm tiến bộ. Tại chỉ trong chừng nào thế giới hết bị chế ngự bởi những cái thiêng liêng thì con người mới tìm thấy tự do và sức sáng tạo của mình. Nhưng cũng không phải ngẫu nhiên mà những xu hướng tư tưởng như thế, từ Thái hoà luận của Leibnitz đến gần chúng ta hơn, Cơ cấu luận của Claude Lévi-Strauss, thường xuất hiện ở những thời mà sự bành trướng của Tây phương đã mang lại cho nhân loại không biết bao nhiêu là đau khổ.
Hai trăm năm trước, Voltaire, ở thời đang lên của tư bản, đã từ chối những lý thuyết cho rằng ác nghiệp ở trên đời là một phần cần thiết cho sự quân bình của toàn thể và ông đã trở nên một chiến sĩ tiền phong trong cuộc tranh đấu chống lại những giáo điều mà, trong quan niệm của người thời ấy ông cho là một cản trở của tiến bộ và sự thực đã gây ra không biết bao nhiêu xung đột đẫm máu. Người ta cũng nhớ rằng Marx muốn thủ tiêu những mâu thuẫn xã hội ngay trong nguyên nhân của chúng là những tương quan sản xuất, và thế, bằng một cuộc cánh mạng bởi và cho quần chúng vô sản. Nhưng thời đại này là của quần chúng bị đóng khuôn và của những mâu thuẫn có tổ chức. Cho nên người ta không ngạc nhiên nếu Kim Dung không nhìn thấy một tổ hợp mới và chủ trương một đạo lý xuất thế và của sự từ bi. Hình như ông cho rằng ác nghiệt ở trên đời là một phần đã được dự trù sẵn trong trật tự của tự nhiên. Nhưng trên phương diện cá nhân thì ông nghĩ rằng ác nghiệt ấy không hẳn là không chữa được như Vô Kỵ đã chữa cho Vi Nhất Tiếu khỏi cái bệnh hút máu người đã làm cho con người nghĩa hiệp mang tiếng ấy là một đại ma đầu của võ lâm. Y học trong Kim Dung giữ một phần quan trọng và Vô Kỵ cũng là thầy thuốc. Cũng như thế, người ta thấy rằng tác phong cổ quái của nhân vật trong truyện ông không bao giờ có tính cách như không mà trái lại ông thường cho nó một nguyên nhân trong tiểu sử của họ.
Cái đạo lý Thuỵ Sĩ ấy không phải là không cao quý. Người ta có thể chê nó là đạo lý của một người ngoài cuộc. Ấy tuy nhiên là một điều dễ hiểu nếu người ta nhớ rằng Kim Dung là một nhà văn ăn khách nhất của cái vùng mà một đồng bào danh tiếng của ông đã gọi là vùng bão tố. Nhưng ở thời đại của những nhà cách mạng có giấy phép, khi những anh hùng có thể sản xuất từng loạt như xe Ford, khi để cứu những trẻ con nghèo đang chết đói ở những vùng chậm tiến, người ta thấy rằng cái việc đầu tiên là phải thiêu huỷ đồng ruộng của họ thì ai biết đâu nó đã chẳng là sự trung thực cuối cùng của người làm văn? Người làm văn vào đời như xướng ca. Nhưng thế giới từ nghìn xưa vẫn thuộc những người có khí giới và những người có của. Ngôn ngữ cũng của họ. Thì làm văn nghĩa gì hơn là đã xin vâng lời? “Xin vâng lời, nhưng mà”. Cái “nhưng mà”, theo Roland Barthes, có thể tóm tắt thái độ của Kafka trước cuộc đời. Cũng chính vì nó mà vẫn có người đang chết.
Nguồn: Nxb Trình Bầy. Ban chủ trương: Diễm Châu, Trịnh
Viết Đức, Lê Văn Hảo, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Khắc Ngữ, Thế Nguyên, Trần Tuấn
Nhậm, Nguyễn Văn Trung, Thảo Trường, Đỗ Long Vân. Thư từ và tác phẩm xin gửi
cho: Ô. Thế Nguyên, 80/80 Trần Quang Diệu, Sài Gòn. Phát hành tại: Quán sách số
34 (Trước cửa Pharmacie Diệu Tâm), 117, Lê Lợi, Sài Gòn. In xong ngày
24-12-1967 tại nhà in Trình Bầy, 291 Lý Thái Tổ, Sài Gòn. Ngoài những bản thường
còn in thêm 40 bản đặc biệt, không bán, trong đó hai mươi bản đánh số từ Đ.L.V
I đến Đ.L.V XX và hai mươi bản từ T.B. I đến T.B. XX. Copyright by Đỗ Long Vân,
1967. Bản điện tử do talawas thực hiện.
Đỗ Long Vân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét