Dân ca dân nhạc Việt Nam - Dân ca K'Ho (Cơ Ho)
Dân tộc K’Ho, còn có các tên khác như: Cơ Ho, Cờ Ho, Kơ
Ho, Srê, Nộp, Cơ Dòn, Chil, Lạt (Lạch), T’ring.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người K’Ho ở Việt
Nam có dân số 166.112 người, cư trú tại 46 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người
K’Ho cư trú tập trung tại các tỉnh: Lâm Đồng (145.665 người, chiếm 12,3% dân số
toàn tỉnh và 87,7% tổng số người K’Ho tại Việt Nam), Bình Thuận (11.233 người),
Khánh Hòa (4.778 người), Ninh Thuận (2.860 người), Đồng Nai (792 người), Sài
Gòn (247 người).
Người Cơ Ho chia ra thành mấy nhóm, phân biệt bởi địa bàn cư
trú và sinh hoạt cũng như ngôn ngữ:
Nhóm Cơ Ho Srê là nhóm có dân số đông nhất trong
các dân tộc Cơ Ho.
Nhóm Cơ Ho Chil (ngày 1 tháng 4 năm 1989) có khoảng
18.000 người. Trước đây, họ cư trú rải rác trên vùng núi cao thuộc thượng lưu
sông Krông Knô (Bắc và Tây-Bắc cao nguyên Lang Biang). Nhưng do sống du canh,
du cư, nên từ lâu, họ đã di chuyển xuống phía Nam (vùng Bắc và Đông-Bắc thành
phố Đà Lạt) kế cận với địa bàn cư trú của nhóm Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và
Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc
Dương, Đơn Dươngvà vùng phụ cận thành phố Đà Lạt…
Nhóm Cơ Ho Lạt (Lạch) cư trú tập trung ở Xã Lát và
một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Do có điều kiện tiếp xúc,
giao lưu lâu dài với người Kinh, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ
nhất định so với các nhóm Cơ Ho Dòn, Nộp, Chil…
Nhóm Cơ Ho Nộp cư trú phía Nam Di Linh, ven đường số
từ Di Linh đi Phan Thiết. Do quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu đời với các
dân tộc anh em ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên người Cơ Ho Nộp còn lưu giữ
một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng trầu, cau
xung quanh địa điểm cư trú của mình.
Nhóm Cơ Ho Cờ Dòn cư trú ở miền núi phía Đông-Nam
Di Linh, gọi là vùng Gia Bắc, kế cận với địa bàn cư trú của người Cơ Ho Nộp, tập
trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Nam, nữ dân tộc K’Ho.
Người K’Ho sinh sống chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngoài
ra còn có săn bắt và hái lượm lâm thổ sản và một số nghề thủ công như rèn, đan
lát, dệt.
Trồng trọt: tùy theo đặc điểm địa lý và xã hội của mỗi
nhóm mà ngành trồng trọt ở mỗi nhóm có những nét khác nhau. Riêng đối với người
Srê, phương thức canh tác chủ đạo là trồng lúa trên ruộng nước ở các thung lũng
(Srê nghĩa là ruộng nước) còn những nhóm người Cơ Ho khác do cư trú ở vùng núi
cao, nên phát rừng làm rẫy (mir) để trồng ngô, lúa rẫy, sắn. Họ thường phát rẫy
như sau: trước tiên, đàn bà, trẻ em dùng chà gạc (woát) chặt những cây nhỏ và
dây leo nhưng không cần chặt đứt hẳn, tiếp đó, đàn ông dùng rìu (sùng) đốn những
cây lớn dần từ dưới lên đỉnh dốc, những cây này ngã sẽ kéo theo cây nhỏ và dây
leo. Sau khi phơi nắng độ hơn một tháng, người ta châm lửa đốt rồi dọn rẫy để
gieo hạt khi mùa mưa bắt đầu (khoảng tháng tư). Những nhóm làm rẫy thường sống
du cư, khi đất canh tác bạc màu lại chuyển đến nơi khác. Ngoài những cây lương
thực chủ yếu, người Cơ Ho còn trồng lẫn các loại rau (bầu, bí, mướp, đậu…). Họ
cũng làm vườn, trồng cây ăn quả như mít, bơ, chuối, đu đủ…
Chăn nuôi: gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn (heo), dê,
gà, vịt… theo phương thức thả rông. Trâu, bò chỉ dùng làm sức kéo ở những vùng
làm ruộng nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các nghi lễ.
Các nghề khác: săn bắt thú rừng, đánh cá, hái lượm lâm
thổ sản vẫn rất phổ biến. Các nghề thủ công phổ biến nhất là đan lát và rèn,
riêng người Chil còn có thêm nghề dệt, ngoài ra một số nơi có nghề gốm (làm
theo phương thức không có bàn xoay).
Chà gạc (yoas) là dụng cụ để chặt cây, phát rẫy của người Cơ
Ho. Cán chà gạc được làm bằng một đoạn gốc tre già và phía gốc, chỗ tra lưỡi
dao được uốn cong khá cầu kỳ. Người ta uốn một lúc nhiều cán chà gạc trên một
chiếc cột như thấy trong ảnh.
Công cụ sản xuất truyền thống: rìu (sùng); chà gạc (woáthay yoas –
dùng để chặt cây, là một đoạn tre già uốn cong một đầu để tra lưỡi sắt), gậy chọc
lỗ tra hạt (chrmul), riêng nhóm Chil ngoài gậy chọc lỗ tra hạt còn có thêm p’hal(dùng
khi vừa chọc lỗ vừa tra hạt, có cán bằng gỗ, lưỡi sắt dài khoảng 28 cm, rộng
3–4 cm). Công cụ canh tác lúa nước của người Srê có cuốc; cày (ngal) làm bằng gỗ,
trước đây lưỡi cũng bằng gỗ nhưng gần đây thay bằng sắt; bừa (Sơkam) răng gỗ và Kơr (dùng
để trang đất cho bằng phẳng). Cày, bừa và kơr đều do 2 trâu kéo.
Trong xã hội truyền thống của người K’Ho đã tồn tại hai hình
thức gia đình theo chế độ mẫu hệ: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Người phụ nữ
đúng vai trò chủ động trong hôn nhân, sau hôn lễ, người đàn ông về nhà vợ ở (nếu
gặp trường hợp gia đình hiếm muộn thì người phụ nữ vẫn có thể ở nhà chồng), con
cái tính dòng họ theo mẹ, con gái là người thừa kế. Tập tục cổ truyền của người
K’Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết nôn giữa những người có cùng một dòng họ, nhất
là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại,
con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục.
Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với người em gái
của vợ. Và ngược lại, nếu chồng chết, người vợ góa có thể kết hôn với người em
trai của chồng nếu đôi bên ưng thuận. Hôn nhân của người K’Ho dựa trên cơ sở sự
ưng thuận giữa hai bên trai gái, cha mẹ không quyết định.
Theo xu thế phát triển quá trình giải thể các gia đình lớn
chuyển dần sang gia đình nhỏ đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở những vùng
kinh tế phát triển hơn hoặc ở gần đường giao thông lớn, đô thị. Độ tuổi kết hôn
của người Cơ Ho thường là 16 – 17 tuổi đối với nữ và 18 – 20 tuổi đối với nam,
bình quân một phụ nữ sinh 5 – 6 con nên tỷ lệ sinh cao.
Ẩm thực: Người K’Ho thường ăn ba bữa, theo tập quán ăn bốc,
lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt, rau. Trước kia, họ nấu
ăn bằng ống nứa, sau này mới dùng các dụng cụ nấu ăn bằng đất nung, đồng, gang.
Các món ăn thường chế biến khô để thuận tiện cho ăn bốc. Thực phẩm kho hoặc luộc,
canh được chế biến từ rau trộn với tấm và cho thêm ớt, muối. Thức uống là nước
suối, dụng cụ trữ nước uống là những quả bầu khô hoặc ghè. Người Cơ Ho hút các
loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, rượu cần (tơrnơm) làm từ gạo, ngô, sắn…với
men chế biến từ cây rừng rất được ưa chuộng trong các bữa tiệc, lễ hội…
Trang phục: Trang phục của đàn ông là khố bằng vải bản rộng,
dài khoảng 1,5 – 2 m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm vải
quấn quanh người rồi giắt cạp. Vay nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết
lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và
khuyên căng tai làm đồ trang sức.
Nhà ở: Người K’Ho ở nhà sàn dài bằng gỗ, hai mái uốn
cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng lợp tranh để chống
lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống, vách đối diện với cửa để ché, giỏ
đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt chủ yếu (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách)
đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.
Gùi đi rẫy của dân tộc K’Ho.
Người K’Ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực
siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan niệm của người Cơ Ho
có tính chất đa thần…Thần linh (yang) là thế lực phù hộ cho con người vị và ma
quỷ (chà) lại gây tai họa. Vị thần tối cao là Nđu, rồi có thần Mặt Trời, Mặt
Trăng, thần Núi, thần Sông, thần Đất, thần Lúa…Họ cúng tế trong những dịp thực
hiện hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những giai đoạn trong sản
xuất, ốm đau bệnh tật…). Liên quan đến trồng lúa, người K’Ho thực hiện các lễ
nghi ở từng công đoạn như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào
kho. Trong các nghi lễ cúng tế, tuỳ tầm quan trọng của buổi lễ họ dùng trâu, lợn,
dê, hoặc gà để tế sống cùng với rượu. Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng
và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ ngày trước làm bằng ván gỗ có chạm trổ
nhưng nay hầu như không còn nữa, giờ đây người ta nhận ra chỗ thờ cúng nhờ những
nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người K’Ho vẫn
còn được bảo lưu. Bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người
K’Ho đã theo đức tin Kitô giáo, bao gồm cả Công giáo và Tin lành. Kinh thánh và
các tài liệu truyền giáo khác được dịch ra tiếng K’Ho và các nhà truyền giáo đã
sử dụng ngôn ngữ đó trong việc truyền giảng đạo.
Hàng năm, người K’Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch
xong (theo thời vụ hiện nay thường vào tháng 12 dương lịch). Tết này có ý nghĩa
đón lúa về nhà (Nhô Lir Bông hay Nhô Lirvong). Theo tập quán, các gia đình thay
phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (nho sa rơ
pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ có vật hiến tế, nhà già
làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây nêu trang
trí sặc sỡ. Mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho
từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc.
Lễ tết kéo dài 7 – 10 ngày, trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng
gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến tế gà, bôi máu lên vựa
thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực
hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng…
Vốn văn học nghệ thuật dân gian người K’Ho khá phong phú. Thơ
ca đậm chất trữ tình và giàu nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn
trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống
bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)… có khả năng hòa âm với lời
ca hoặc độc tấu. Gần đây, ông Nguyễn Huy Trọng, một linh mục ở giáo xứ Kala,
huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đã sưu tập được khoảng 400 truyện cổ tích, nhiều
câu thơ (tam pla) và 30 trường ca, sử thi của người K’Ho trong đó có trường ca
Gơ Plom Kòn Yồi dài hơn 6.000 câu. Những kết quả sưu tập này bước đầu đã được gửi
cho cơ quan chuyên môn.
Dưới đây mình có các bài:
– Tìm Hiểu Ca Dao, Dân Ca Dân Tộc Cơ Ho
– Đặc điểm dân tộc K’Ho
– Độc đáo Lễ cúng thần Lửa của người Cơ Ho
– Lễ dâng trâu tế thần của tộc người Cơ Ho, Bình Thuận
– Lễ mừng lúa trổ bông của người Cơ Ho, Lâm Đồng
– Nghi lễ đặt tên cho con của người Cơ Ho, Lâm Đồng
– Nhà sàn – Kiến trúc độc đáo của người Cơ Ho, Lâm Đồng
– Đặc sắc trang phục dân tộc Cơ Ho
– Người giữ “kho báu văn hóa” Cơ-ho
– Đặc điểm dân tộc K’Ho
– Độc đáo Lễ cúng thần Lửa của người Cơ Ho
– Lễ dâng trâu tế thần của tộc người Cơ Ho, Bình Thuận
– Lễ mừng lúa trổ bông của người Cơ Ho, Lâm Đồng
– Nghi lễ đặt tên cho con của người Cơ Ho, Lâm Đồng
– Nhà sàn – Kiến trúc độc đáo của người Cơ Ho, Lâm Đồng
– Đặc sắc trang phục dân tộc Cơ Ho
– Người giữ “kho báu văn hóa” Cơ-ho
Cùng với 10 clips tổng thể văn hóa truyền thống dân tộc K’Ho
và 4 links của 4 bài dân ca K’Ho với các thể điệu Đơs Crih (Đơs: nói, kể – Crih:
chuyện lạ) nguyên thủy ngữ hệ K’Ho để các bạn tiện việc tham khảo và thưởng thức.
Mời các bạn.
Túy Phượng
(Theo Wikipedia)
Những nét
văn hóa độc đáo của
đồng bào K’ho ở Phan Tiến
đồng bào K’ho ở Phan Tiến
Đàn đá: một
nét đẹp về văn hoá K’ho
Giai điệu
K’ho – Lâm Đồng Đà Lạt
Giao lưu
múa dân tộc K’ho
Điệu múa
dân tộc
nhóm Lạch ở Dalat:
nhóm Lạch ở Dalat:
Điệu múa
cúng thần linh
nhóm Lạch ở Đà Lạt
nhóm Lạch ở Đà Lạt
Nghề dệt
của người K’ho ở Bình Thuận
Nghề dệt
của người K’ho ở Lâm Đồng
Luật tục
bắt chồng người K’Ho P1
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét