Lược sử thời gian (A Brief History of Time)
Phần 2
Phần 2
Thuật ngữ "hố đen"
(black hole) xuất hiện cách đây không lâu. Nó được khoa học gia người Mỹ John
Wheeler đặt ra năm 1969 để miêu tả hình ảnh về một ý tưởng đã có ít nhất là hai
trăm năm trước đó, vào thời có hai lý thuyết về ánh sáng: một lý thuyết - mà
Newton tin tưởng - cho rằng ánh sáng là do các hạt tạo thành; một lý thuyết
khác cho rằng ánh sáng do các sóng tạo thành. Ngày nay chúng ta biết rằng thật
sự cả hai lý thuyết đều đúng. Theo lưỡng tính sóng/hạt của cơ học lượng tử, ánh
sáng có thể vừa được coi là sóng vừa là hạt. Với thuyết nói rằng ánh sáng được
tạo bởi các sóng thì người ta không rõ nó phản ứng với hấp lực như thế nào.
Nhưng nếu ánh sáng tạo bởi các hạt thì người ta có thể dự liệu nó bị ảnh hưởng
bởi hấp lực giống như những viên đạn súng đại bác, những hỏa tiễn, và những
hành tinh. Lúc đầu người ta cho rằng các hạt của ánh sáng di chuyển với tốc độ
nhanh vô tận, do đó hấp lực không thể khiến nó đi chậm lại; nhưng khám phá của
Roemer rằng ánh sáng di chuyển với một tốc độ giới hạn có nghĩa là hấp lực phải
có một ảnh hưởng quan trọng.
Năm 1783, John Michell, một
giáo sư Đại Học Cambridge, dựa trên giả thuyết này để viết một luận văn đăng
trong tập san Philosophical Transactions of the Royal Society of London (Những
Trao Đổi Triết Học của Học Hội Hoàng Gia Luân Đôn), trong đó ông vạch ra rằng một
ngôi sao có chất lượng đủ lớn và đủ chặt chẽ sẽ có một trường hấp lực mạnh đến
nỗi ánh sáng không thể thoát ra được: bất cứ luồng ánh sáng nào phát ra từ bề mặt
của ngôi sao đó sẽ bị hấp lực của nó kéo lui trước khi ánh sáng có thể đi xa.
Michell cho rằng có một số lớn những ngôi sao loại đó. Tuy chúng ta không thể
nhìn thấy chúng, vì ánh sáng từ chúng chiếu ra không thể đi tới trái đất, nhưng
chúng ta vẫn có thể cảm thấy hấp lực của chúng. Những vật thể như vậy được gọi
là "hố đen," vì chữ này mô tả đúng: những khoảng trống đen trong
không gian. Mấy năm sau, khoa học gia Pháp Hầu Tước de Laplace cũng nêu ra ý kiến
tương tự, có vẻ không dính dáng tới Michell. Có điều thú vị là Laplace chỉ đem
ý kiến này vào ấn bản thứ nhất và thứ nhì của cuốn sách The System of the
World, và gạt nó đi trong những ấn bản sau này; có lẽ ông nghĩ rằng đó là một ý
tưởng điên rồ. (Vả lại, thuyết coi ánh sáng do hạt tạo nên đã trở thành thất sủng
trong thế kỷ 19; có vẻ như mọi sự đều có thể giải thích bằng thuyết luồng sóng,
và theo thuyết luồng sóng, người ta không biết rõ nó có chịu ảnh hưởng của hấp
lực hay không.)
Thật ra, bởi vì vận tốc của
ánh sáng là cố định, nếu coi nó giống như những viên đạn đại bác thì không phù
hợp. (Một viên đạn đại bác bắn lên không trung từ mặt đất sẽ bị hấp lực khiến
nó đi chậm lại, rồi cuối cùng nó ngừng lại và rơi xuống mặt đất; nhưng một
quang tử (photon) thì phải tiếp tục phóng lên không trung với một vận tốc cố định.
Vậy thì hấp lực kiểu Newton có thể ảnh hưởng tới ánh sáng như thế nào?) Mãi cho
tới khi Einstein đề ra thuyết tương đối tổng quát năm 1915 thì người ta mới có
một lý thuyết nhất quán về vấn đề hấp lực ảnh hưởng đối với ánh sáng như thế
nào. Và thậm chí tới lúc đó cũng vẫn còn phải chờ một thời gian dài người ta mới
hiểu những hàm ý của thuyết đó đối với những ngôi sao có chất lượng lớn lao.
Để hiểu một hố đen làm thế
nào hình thành, trước tiên chúng ta cần phải hiểu chu kỳ đời sống của một ngôi
sao. Một ngôi sao được hình thành khi một lượng khí (phần lớn là khinh khí) lớn
lao bắt đầu bị hấp lực tự thân khiến nó co rút lại. Trong khi co rút, các
nguyên tử ở thể khí đụng chạm vào nhau càng lúc càng thường xuyên hơn và với vận
tốc càng nhanh hơn – lúc đó chất khí nóng lên. Sau cùng, chất khí sẽ nóng tới độ
khi các nguyên tử khinh khí đụng nhau chúng không còn nẩy ra nữa, mà trái lại
chúng kết hợp với nhau để trở thành những nguyên tử helium. Sức nóng phát ra từ
phản ứng này – giống như một vụ nổ bom khinh khí có kiểm soát – là điều khiến
cho ngôi sao chiếu sáng. Sức nóng gia tăng này cũng làm tăng thêm sức ép của chất
khí cho tới khi nó đủ mạnh để quân bình với hấp lực, và chất khí ngừng co rút.
Điều này gần giống như một cái bong bóng: Có sự quân bình giữa sức ép của không
khí bên trong quả bóng (sức này cố gắng làm cho quả bóng phồng lớn hơn), và sức
căng của cao-su (sức này cố gắng làm cho quả bóng nhỏ hơn). Các ngôi sao sẽ ở
tình trạng ổn dịnh như vậy torng một thời gian lâu dài, khi sức nóng từ những
phản ứng hạt nhân quân bình với hấp lực. Nhưng cuối cùng ngôi sao sẽ đốt hết
khinh khí và các nhiên liệu hạt nhân khác. Một điều nghịch lý là một ngôi sao
khởi sự với khối lượng nhiên liệu càng cao thì nó lại càng mau hết nhiên liệu.
Điều này là vì khi ngôi sao càng có khối lượng lớn thì nó càng cần phải nóng
hơn để có thể quân bình với hấp lực của nó. Và khi càng nóng thì nó càng mau đốt
hết nhiên liệu. Mặt trời của chúng ta có đủ nhiên liệu cho khoảng năm ngàn triệu
năm nữa, nhưng các ngôi sao có khối lượng lớn hơn mặt trời có thể đốt hết nhiên
liệu chỉ trong khoảng một trăm triệu năm, thật là quá ngắn ngủi so với tuổi của
vũ trụ. Khi một ngôi sao đốt hết nhiên liệu, nó bắt đầu nguội dần và do đó nó
co rút lại. Chỉ mãi tới cuối thập niên 1920 người ta mới hiểu điều gì sẽ xẩy ra
cho một ngôi sao ở giai đoạn đó.
Năm 1928, một sinh viên bậc
cử nhân người Ấn Độ, Subrahmanyan Chandrasekhar, đi tầu thủy sang Anh Quốc để
theo học tại Đại Học Cambridge với nhà thiên văn Anh Sir Arthur Eddington, một
chuyên gia về thuyết tương đối tổng quát. (Theo người ta thuật lại, trong đầu
thập niên 1920 một ký giả bảo Eddington rằng ông ta nghe nói trên thế giới chỉ
có ba người hiểu được tương đối luận tổng quát. Eddington ngẫm nghĩ một lát rồi
trả lời: "Tôi đang cố gắng nghĩ xem người thứ ba là ai."). Trong cuộc
hành trình từ Ấn Độ, Chandrasekhar tìm hiểu xem một ngôi sao có thể lớn tới mức
nào mà vẫn còn tự chống đỡ đối với hấp lực của chính nó, sau khi đã đốt hết
nhiên liệu. Sự thể như thế này: Khi ngôi sao trở thành nhỏ, những hạt vật chất
sáp lại rất gần nhau, và theo nguyên tắc loại trừ của Pauli thì chúng phải có
những vận tốc rất khác nhau. Điều này khiến chúng di chuyển xa rời nhau và do
đó khiến cho ngôi sao bành trướng. Vì vậy một ngôi sao có thể tự duy trì ở một
bán kính cố định nhờ sự quân bình giữa hấp lực và sức đẩy phát xuất từ nguyên tắc
loại trừ, cũng giống như thời kỳ đầu sau khi hình thành hấp lực được quân bình
bởi sức nóng.
Tuy nhiên, Chandrasekhar nhận
thấy có một giới hạn đối với sức đẩy mà nguyên tắc loại trừ có thể cung cấp.
Theo thuyết tương đối thì sự khác biệt tối đa trong vận tốc của những hạt vật
chất trong ngôi sao chỉ có giới hạn, đó là vận tốc của ánh sáng. Điều này có
nghĩa rằng khi ngôi sao có tỷ trọng đủ nặng thì sức đẩy do nguyên tắc loại trừ
sẽ yếu hơn hấp lực. Chandrasekhar tính toán rằng một ngôi sao nguội có khối lượng
lớn hơn 1.5 khối lượng mặt trời thì nó sẽ không thể chống đỡ với trọng lực của
chính nó. (Khối lượng này ngày nay được coi là "giới hạn
Chandrasekhar"). Một khám phá tương tự cũng đã được khoa học gia Nga Lev
Davidovich Landau tìm ra vào khoảng cùng một thời gian với Chandrasekhar.
Điều này có những hàm ý quan
trọng đối với số phận tối hậu của những ngôi sao có khối lượng lớn. Nếu một
ngôi sao có khối lượng nhỏ hơn giới hạn Chandrasekhar, nó có thể ngừng co rút rồi
cuối cùng có thể trở thành một "bạch tiểu tinh" ("white
dwarf") với bán kính vài ngàn dặm và mật độ nặng hàng trăm tấn mỗi phân khối
Anh. Một bạch tiểu tinh được chống đỡ bởi sức đẩy, theo nguyên tắc loại trừ, giữa
các điện tử trong vật chất của nó. Chúng ta quan sát được một số lớn những ngôi
sao thuộc loại bạch tiểu tinh này. Một trong những khám phá đầu tiên là một
ngôi sao quay xung quanh sao Sirius (sao Thiên Lang) – ngôi sao sáng nhất trong
bầu trời ban đêm.
Landau vạch ra rằng còn có một
trạng thái chung cuộc có thể xẩy ra cho một ngôi sao cũng có khối lượng giới hạn
vào khoảng một hay hai lần khối lượng mặt trời nhưng nhỏ hơn cả một bạch tiểu
tinh. Những ngôi sao này sẽ được chống đỡ sức đẩy theo nguyên tắc loại trừ giữa
các trung hòa tử và các proton, thay vì giữa các điện tử. Vì vậy chúng được gọi
là "trung tử tinh" (neutron star). Chúng có bán kính chỉ vào khoảng
mười dặm và có mật độ hàng trăm triệu tấn mỗi phân khối Anh. Khi các khoa học
gia lần đầu ước đoán sự hiện hữu của trung tử tinh thì họ không có cách nào để
quan sát chúng. Mãi về sau này người ta mới có thể dò tìm ra chúng.
Mặt khác, những ngôi sao có
khối lượng cao hơn giới hạn Chandrasekhar gặp phải một vấn đề lớn khi chúng
tiêu thụ gần hết nhiên liệu. Trong một số trường hợp chúng có thể bùng nổ hoặc
xoay xở để liệng bỏ bớt vật chất để giảm bớt khối lượng xuống dưới mức giới hạn
và nhờ vậy chúng tránh khỏi bị trọng lực làm sụp đổ, nhưng khó có thể tin rằng
điều này luôn luôn xẩy ra, dù ngôi sao lớn tới mức nào. Làm sao ngôi sao biết
được rằng nó cần phải mất bớt sức nặng? Dù nếu mỗi ngôi sao đều xoay xở để mất
bớt khối lượng hầu tránh xụp đổ, điều gì sẽ xẩy ra nếu bạn bồi thêm khối lượng
vào một bạch tiểu tinh hoặc một trung tử tinh để khiến nó nặng hơn giới hạn
Chandrasekhar? Liệu nó có co sụp tới mật độ vô hạn không? Hàm ý này đã khiến
cho Eddington sửng sốt, và ông không tin vào kết quả của Chandrasekhar.
Eddington cho rằng một ngôi sao không thể nào co sụp thành một cái chấm.
Đây là quan điểm của đa số
khoa học gia: Chính Einstein đã viết một luận văn trong đó ông nói rằng các
ngôi sao không thể nào co rút thành số không. Sự chống đối của các khoa học gia
khác, nhất là từ Eddington, vị thầy cũ của ông, khiến cho Chandrasekhar từ bỏ
con đường nghiên cứu đó và quay sang nghiên cứu những vấn đề thiên văn khác ,
như sự chuyển động của các chùm sao. Tuy nhiên, khi ông được tặng giải Nobel
năm 1983 thì ít nhất cũng phần nào dành cho công việc nghiên cứu lúc trước về
khối lượng giới hạn của các ngôi sao nguội.
Chandrasekhar đã cho thấy rằng
nguyên tắc loại trừ không thể chận đứng sự co sụp của một ngôi sao có khối lượng
lớn hơn giới hạn Chandrasekhar, nhưng căn cứ vào thuyết tương đối tổng quát thì
điều gì sẽ xẩy ra cho một ngôi sao như vậy? Vấn đề này được một khoa học gia Mỹ
trẻ tuổi là Robert Openheimer lý giải lần đầu năm 1939. Tuy nhiên, kết quả của
ông ngụ ý rằng vào thời đó không có viễn vọng kính nào có thể quan sát được những
hệ quả của những ngôi sao loại đó. Tới khi xẩy ra Đệ Nhị Thế Chiến, Openheimer
bận rộn với chương trình nghiên cứu bom nguyên tử. Sau chiến tranh vấn đề co sụp
vì hấp lực của các ngôi sao đã bị bỏ quên, vì đa số các khoa học gia bị thu hút
bởi những vấn đề thuộc địa hạt nguyên tử và hạch tâm của nó. Tuy nhiên, trong
thập niên 1960, sự quan tâm về những vấn đề vĩ mô của thiên văn học và vũ trụ
luận đã được làm hồi sinh bởi một số lớn những quan sát thiên văn nhờ áp dụng
những kỹ thuật tân tiến. Tới lúc đó, khảo cứu của Openheimer được nhiều người
tái khám phá và khai triển thêm.
Bức tranh từ công cuộc khảo
cứu của Openheimer mà ngày nay chúng ta có là như sau: Trường hấp lực của ngôi
sao làm thay đổi những đường đi của các tia sáng trong không-thời gian, so với
những con đường mà đáng lẽ chúng đi nếu không có sự hiện diện của ngôi sao đó.
Những hình nón ánh sáng – cho thấy những đường đi trong không gian và thời gian
nhờ những tia sáng phát ra từ đỉnh hình nón – bị uốn cong vào phía trong gần bề
mặt của ngôi sao. Điều này có thể nhận thấy qua hiện tượng ánh sáng uốn cong
khi phát ra từ những ngôi sao ở xa mà chúng ta quan sát trong khi có nhật thực.
Khi ngôi sao co rút, trường hấp lực tại bề mặt của nó trở thành mạnh hơn và những
hình nón ánh sáng bị uốn cong nhiều hơn vào phía trong. Điều này khiến cho ánh
sáng từ ngôi sao càng khó thoát ra từ ngôi sao, và ánh sáng có vẻ mờ hơn và đỏ
hơn đối với một quan sát viên từ xa. Sau cùng khi ngôi sao đã co rút tới một
bán kính giới hạn nào đó, trường hấp lực tại bề mặt trở thành mạnh đến nỗi những
hình nón ánh sáng bị uốn cong vào phía trong nhiều tới độ ánh sáng không còn có
thể thoát ra được (H. 6.1). Theo thuyết tương đối, không có cái gì có thể đi
nhanh hơn ánh sáng. Do đó, nếu ánh sáng không thể thoát ra thì không một cái gì
khác có thể thoát ra; mọi thứ đều bị trường hấp lực kéo ngược trở lại. Vì vậy
chúng ta có một tập hợp những biến cố, một vùng của không-thời gian, từ nơi đó
ánh sáng hoặc bất cứ vật gì đều không thể thoát ra để đạt tới người quan sát từ
xa. Cái vùng này bây giờ chúng ta gọi là một hố đen. Ranh giới của nó được gọi
là chân trời biến cố và nó trùng hợp với những đường đi của các tia sáng không
thể thoát ra khỏi hố đen.
Để hiểu bạn sẽ trông thấy những
gì nếu bạn có thể quan sát một ngôi sao co rút để tạo thành một hố đen, bạn cần
phải nhớ rằng trong thuyết tương đối không có thời gian tuyệt đối. Mỗi quan sát
viên có sự đo lường thời gian riêng của họ. Thời gian của một một người nào đó
trên một ngôi sao sẽ khác với thời gian của một người ở cách xa ngôi sao, do ảnh
hưởng trường hấp lực của ngôi sao. Giả thử có một phi hành gia liều lĩnh đứng trên
bề mặt ngôi sao đang co rút, và người này cũng di chuyển theo sự co rút vào
phía trong cùng với ngôi sao. Phi hành gia này gửi đi một tín hiệu bằng tia
sáng mỗi giây đồng hồ – căn cứ vào chiếc đồng hồ đeo tay của ông ta – cho chiếc
phi thuyền của ông đang bay xung quanh ngôi sao. Ở thời điểm nào đó trên chiếc
đồng hồ, chẳng hạn đúng 11:00 giờ, ngôi sao sẽ co rút tới dưới bán kính giới hạn
– nơi mà trường hấp lực trở thành mạnh đến nỗi không một vật gì có thể thoát ra
– và tín hiệu của ông không thể đạt tới phi thuyền. Khi gần tới 11:00 giờ các bạn
của ông trên phi thuyền nhìn xuống sẽ thấy những khoảng cách thời gian giữa những
tín hiệu phát xuất từ phi hành gia dưới ngôi sao càng lúc càng dài hơn, nhưng
hiệu ứng này trước 10 giờ 59 phút 59 giây rất nhỏ. Họ chỉ cần chờ lâu hơn một
giây một chút giữa hai tín hiệu của phi hành gia gửi đi lúc 10:59:58 và lúc
10:59:59, theo đồng hồ của ông; nhưng họ sẽ phải chờ đợi thời gian vô hạn cho
tín hiệu gửi đi lúc 11:00 giờ. Những sóng ánh sáng phát ra từ bề mặt ngôi sao
giữa lúc 10:59:59 và 11:00 giờ, theo đồng hồ của phi hành gia, sẽ lan rộng trên
một khoảng thời gian vô hạn, như được nhìn thấy từ phi thuyền. Khoảng cách thời
gian giữa lúc phi thuyền nhận được hai tín hiệu liên tiếp sẽ càng lúc càng dài
hơn, vì vậy ánh sáng từ ngôi sao càng lúc càng thấy đỏ hơn và mờ hơn. Sau cùng,
ngôi sau trở thành tối đến nỗi những người trên phi thuyền không còn có thể
trông thấy nó nữa: tất cả những gì còn lại chỉ là một hố đen trong không gian.
Tuy nhiên, ngôi sao đó tiếp tục gây ra một hấp lực như cũ đối với phi thuyền,
trong khi nó tiếp tục bay quanh hố đen.
Nhưng diễn tiến này không
hoàn toàn hiện thực, vì có những vấn đề sau đây. Hấp lực càng yếu hơn khi một vật
càng cách xa ngôi sao hơn, vì vậy hấp lực trên hai chân của phi hành gia liều
lĩnh luôn luôn mạnh hơn hấp lực trên đầu ông. Sự khác biệt về hấp lực này sẽ
kéo dài nhà phi hành của chúng ta giống như sợi bún hoặc xé ông ra từng mảnh
trước khi ngôi sao co rút tới bán kính giới hạn, nơi mà chân trời biến cố thành
hình! Tuy nhiên, người ta tin rằng có những thiên thể rất lớn hơn thế trong vũ
trụ – như những vùng trung tâm của các thiên hà – cũng có thể trải qua sự co
rút hấp lực để tạo thành những hố đen; một phi hành gia trên những thiên thể đó
sẽ không bị xé từng mảnh trước khi hố đen thành hình. Thật ra, phi hành gia sẽ
không cảm thấy điều gì đặc biệt khi ông đạt tới bán kính giới hạn, và có thể vượt
qua điểm bất phản hồi mà không nhận thấy gì khác thường. Tuy nhiên, chỉ trong
vài giờ đồng hồ, khi vùng đó tiếp tục co rút, sự khác biệt về hấp lực trên đầu
và trên chân ông sẽ trở thành mạnh đến nỗi nó lại xé ông thành từng mảnh.
Cuộc nghiên cứu mà Roger
Penrose và tôi đã thi hành giữa năm 1965 và năm 1970 cho thấy rằng theo thuyết
tương đối tổng quát thì trong hố đen phải có một điểm kỳ dị (singularity) có mật
độ vô hạn và độ cong không-thời gian vô hạn. Điều này giống như vụ nổ lớn khi bắt
đầu có thời gian, nhưng đây là sự tận cùng của thời gian đối với thiên thể co sụp
và phi hành gia. Ở điểm kỳ dị này những định luật khoa học và khả năng dự đoán
tương lai của chúng ta sẽ mất hiệu quả. Tuy nhiên, bất cứ quan sát viên nào ở
ngoài hố đen sẽ vẫn còn có thể dự đoán được, bởi vì ánh sáng và bất cứ tín hiệu
nào khác vẫn còn đạt tới ông từ điểm kỳ dị.
Sự kiện đáng kể này khiến
Roger Penrose đề xuất giả thuyết "vũ trụ kiểm duyệt" mà chúng ta có
thể nói là "Thượng Đế rất ghét một điểm kỳ dị trần truồng." Nói cách
khác, những điểm kỳ dị do sự co sụp hấp lực tạo thành chỉ xẩy ra trong những
nơi như các hố đen, nơi mà chúng được chân trời biến cố che đậy để bên ngoài khỏi
nhìn thấy chúng. Nói cho đúng, điều sau đây được coi là "giả thuyết vũ trụ
kiểm duyệt yếu": nó bảo vệ các quan sát viên ở bên ngoài hố đen khỏi chịu
những hậu quả của sự mất hiệu lực dự đoán xẩy ra tại điểm kỳ dị, nhưng nó chẳng
làm gì cả để giúp nhà phi hành xấu số bị rơi vào hố.
Có một số giải đáp của những
phương trình thuộc thuyết tương đối tổng quát mà trong đó phi hành gia của
chúng ta có thể nhìn thấy một điểm kỳ dị trần truồng: ông có thể tránh khỏi bị
đụng vào điểm kỳ dị và rơi vào một "hố trùng" ("wormhole")
và đi vào một vùng khác trong vũ trụ. Điều này sẽ cống hiến những khả thể lớn
lao để du hành trong vũ trụ và trong thời gian, nhưng chẳng may những giải đáp
này có vẻ không vững chắc; một xáo trộn nhỏ nhất, chẳng hạn như sự hiện diện của
một phi hành gia, có thể làm chúng thay đổi và khiến cho phi hành gia không thể
nhìn thấy điểm kỳ dị trước khi ông đụng vào nó và thời gian của ông ta chấm dứt.
Nói cách khác, điểm kỳ dị luôn luôn nằm trong tương lai của ông ta và không bao
giờ nằm trong quá khứ của ông ta. Theo lối giải thích của "giả thuyết vũ
trụ kiểm duyệt mạnh" trong một giải đáp hiện thực, những điểm kỳ dị luôn
luôn nằm hoàn toàn trong tương lai (như những điểm kỳ dị do sự co sụp hấp lực tạo
thành) hoặc hoàn toàn trong quá khứ (như vụ nổ lớn). Người ta hy vọng rằng một
trong những giả thuyết kiểm duyệt có thể đứng vững, vì gần tới những điểm kỳ dị
phi hành gia có thể đi vào quá khứ. Đây là điều hứng thú đối với các nhà văn viết
truyện khoa học giả tưởng, nhưng nó có nghĩa rằng cuộc đời của bất cứ ai cũng
không bao giờ được an toàn: Một kẻ nào đó có thể đi vào quá khứ để giết cha hay
mẹ bạn trước khi bạn được thụ thai!
Chân trời biến cố – ranh giới
của vùng không-thời gian mà từ đó không có vật gì có thể thoát ra – xử sự giống
như một cái màng một chiều vây phủ xung quanh hố đen: các vật thể, chẳng hạn
như các phi hành gia bất cẩn, có thể rơi qua chân trời biến cố và lọt vào hố
đen, nhưng không vật nào có thể thoát ra khỏi hố đen qua chân trời biến cố.
(Hãy nhớ rằng chân trời biến cố là con đường trong không thời gian của ánh sáng
cố gắng thoát ra khỏi hố đen, nhưng không có vật gì có thể đi nhanh hơn ánh
sáng). Người ta có thể nói về chân trời biến cố giống như thi hào Dante nói về
chuyện đi vào địa ngục: "Ai vào đây thì hết mọi hy vọng." Bất cứ vật
gì hoặc bất cứ ai rơi qua chân trời biến cố sẽ mau chóng tiến vào vùng mật độ
vô hạn và sự tận cùng của thời gian.
Thuyết tương đối tổng quát dự
đoán rằng các vật nặng đang di chuyển sẽ phát ra những sóng hấp lực trong đường
cong của không gian di chuyển ở vận tốc của ánh sáng. Những sóng hấp lực này giống
như sóng ánh sáng, là những gợn sóng của điện-từ trường, nhưng người ta khó dò
tìm ra chúng hơn. Giống như ánh sáng, chúng đem năng lượng ra khỏi những vật thể
phát ra chúng. Vì vậy người ta trông đợi một hệ thống gồm những thiên thể có khối
lượng lớn cuối cùng sẽ ngừng lại ở một nơi, vì năng lượng trong bất cứ sự chuyển
động nào sẽ bị những sóng hấp lực lấy đi khi chúng phát xuất. (Gần giống như liệng
một cái nút chai bằng vỏ cây xuống nước: lúc đầu nó trồi lên ngụp xuống nhiều lần,
nhưng vì các gợn sóng lấy đi năng lượng của nó, cuối cùng cái nút chai đứng im
một chỗ). Thí dụ sự chuyển động của trái đất trên quỹ đạo của nó xung quanh mặt
trời tạo nên những sóng hấp lực. Ảnh hưởng của sự thất thoát năng lượng sẽ làm
thay đổi quỹ đạo của trái đất khiến nó dần dần xáp lại gần mặt trời hơn, cuối
cùng sẽ đụng vào mặt trời và đứng im. Mức năng lượng bị thất thoát trong trường
hợp của trái đất và mặt trời rất thấp – chỉ đủ để chạy một cái máy sưởi điện nhỏ
bé. Điều này có nghĩa là phải tới một ngàn triệu triệu triệu triệu năm nữa thì
trái đất mới đụng vào mặt trời, vì vậy bây giờ chẳng có gì phải lo về chuyện
này! Sự thay đổi nơi quỹ đạo của trái đất quá chậm để có thể quan sát được,
nhưng loại hiệu ứng này trong mấy năm qua đã được các nhà thiên văn nhận thấy xẩy
ra trong hệ thống thiên thể gọi là PSR 1913 + 16 (PSR là chữ viết tắt của
"pulsar", một loại trung tử tinh đặc biệt phát ra những xung sóng vô
tuyến đều đặn). Hệ thống này gồm có hai trung tử tinh quay xung quanh lẫn nhau,
và năng lượng mà chúng thất thoát vì phát ra những sóng hấp lực đang khiến
chúng xáp lại gần nhau theo đường xoáy trôn ốc.
Trong thời gian một ngôi sao
co sụp vì hấp lực để trở thành một hố đen, những chuyển động của nó sẽ nhanh
hơn nhiều, vì vậy tốc độ thất thoát năng lượng cũng cao hơn nhiều. Do đó, chẳng
bao lâu sau nó sẽ đứng im. Trạng thái cuối cùng này sẽ như thế nào? Người ta có
thể cho rằng nó sẽ tùy thuộc vào tất cả những đặc tính phức tạp của ngôi sao mà
từ đó nó hình thành – không phải chỉ tùy thuộc vào khối lượng và tốc độ chuyển
động mà còn tùy thuộc vào những mật độ khác biệt ở những phần khác nhau của
ngôi sao, và những sự vận chuyển phức tạp của các thứ khí bên trong ngôi sao.
Và nếu các hố đen cũng khác nhau như những thiên thể đã co sụp để tạo thành
chúng thì người ta rất khó đưa ra những dự đoán về các hố đen một cách tổng
quát.
Tuy nhiên, năm 1967, việc khảo
cứu các hố đen đã được nhà khoa học Gia Nã Đại Werner Israel – sinh tại Berlin,
lớn lên ở Nam Phi và lấy bằng tiến sĩ ở Ái Nhĩ Lan – cách mạng hóa. Israel cho
thấy rằng, theo thuyết tương đối tổng quát, các hố đen nào không quay tròn phải
có hình thái rất đơn giản; chúng có hình cầu hoàn hảo, tầm cỡ của chúng chỉ tùy
thuộc vào khối lượng của chúng, và bất cứ hai hố đen nào có khối lượng bằng
nhau thì giống y hệt nhau. Sự thật, chúng có thể được mô tả bằng một giải đáp đặc
biệt theo những phương trình của Einstein mà người ta đã biết từ năm 1917, do
Karl Schwarzschild tìm ra ít lâu sau khi có thuyết tương đối tổng quát. Lúc ban
đầu nhiều người – kể cả chính Israel – lý luận rằng vì các hố đen phải là những
khối hình cầu hoàn hảo, cho nên một hố đen chỉ có thể hình thành từ sự co sụp của
một vật thể có hình cầu hoàn hảo. Vì vậy, bất cứ ngôi sao thực tế nào – chúng
không bao giờ có hình cầu hoàn hảo – chỉ có thể co sụp thành một điểm kỳ dị trần
trụi.
Tuy nhiên, có một cách giải
thích khác theo kết quả của Israel mà Roger Penrose và John Wheeler đưa ra. Họ
lý luận rằng những chuyển động nhanh liên quan tới sự co sụp của một ngôi sao
có nghĩa rằng những sóng hấp lực mà nó phát ra sẽ khiến cho nó có hình cầu tròn
hơn, và tới lúc nó đứng lại ở trạng thái bất động thì nó sẽ trở thành một hình
cầu hoàn hảo. Theo quan điểm này, bất cứ ngôi sao nào không quay tròn, dù hình
thù và cấu trúc bên trong của nó phức tạp tới đâu chăng nữa, nó cũng sẽ có
chung kết là một hố đen hình cầu hoàn hảo sau khi co sụp vì hấp lực, và tầm cỡ
lớn hay nhỏ sẽ chỉ tùy thuộc vào khối lượng của nó. Những tính toán về sau đã hỗ
trợ cho quan điểm này, và chẳng bao lâu sau nó được mọi người tiếp nhận.
Kết quả của Israel chỉ được
áp dụng cho trường hợp của những hố đen hình thành từ những thiên thể không
xoay tròn. Năm 1963, Roy Kerr, người Tân Tây Lan, tìm ra một tập hợp những giải
đáp cho những phương trình của thuyết tương đối tổng quát để mô tả những hố đen
xoay tròn. Những hố đen "loại Kerr" này xoay tròn ở một tốc độ cố định,
tầm cỡ và hình thù của chúng chỉ tùy thuộc vào khối lượng và tốc độ xoay tròn của
chúng. Nếu sự xoay tròn của nó là số không thì hố đen có hình cầu hoàn hảo và
giải đáp giống y hệt như giải đáp của Schwarzschild. Nếu sự xoay tròn không phải
là số không thì hố đen phình ra ở xích đạo của nó (giống như trái đất hoặc mặt
trời phình ra do sức xoay tròn), và nếu nó xoay càng nhanh thì nó càng phình lớn.
Vì vậy, để nới rộng kết quả của Israel để bao gồm cả những thiên thể xoay tròn,
người ta phỏng đoán rằng bất cứ thiên thể nào xoay tròn mà co sụp để tạo thành
một hố đen thì cuối cùng sẽ ổn định ở trạng thái đứng một chỗ như giải đáp của
Israel mô tả.
Năm 1970, Brandon Carter, một
đồng sự và bạn sinh viên nghiên cứu của tôi Đại Học Cambridge, thi hành bước đầu
tiên để chứng minh điều phỏng đoán này. Ông cho thấy rằng nếu một hố đen xoay
tròn có trục đối xứng – gống như một con quay bông vụ – thì tầm cỡ và hình thù
của nó sẽ chỉ tùy thuộc vào khối lượng và tốc độ xoay của nó. Cuối cùng, năm
1973, David Robinson của trường Kings College ở Luân Đôn đã dùng những kết quả
của Carter và của tôi để cho thấy rằng sự phỏng đoán này là đúng: một hố đen
như vậy phải là giải đáp kiểu Kerr. Vì vậy sau khi co sụp do hấp lực một hố đen
phải ổn định trong một trạng thái mà nó có thể xoay tròn, nhưng không phát ra
những xung động. Hơn nữa, tầm cỡ và hình dạng của nó sẽ chỉ tùy thuộc vào khối
lượng và tốc độ xoay tròn của nó, và không tùy thuộc vào thiên thể đã co sụp để
tạo nên nó. Kết quả này ghi nhớ qua câu ngạn ngữ: "Một hố đen không có
lông" ("A black hole has no hair"). Định lý "không
lông" có tánh trọng yếu thực tế lớn, bởi vì nó rất hạn chế các loại hố đen
có thể hiện hữu. Vì vậy người ta có thể tạo những mô hình chi tiết của những vật
thể có thể chứa đựng những hố đen và so sánh những dự đoán về những mô hình đó
với những điều quan sát. Nó cũng có nghĩa rằng một số lớn những tin tức về
thiên thể đã co sụp phải bị mất khi một hố đen được hình thành, bởi vì sau đó tất
cả những gì mà chúng ta có thể đo lường về thiên thể đó là khối lượng và tốc độ
xoay của nó. Trong chương sau chúng ta sẽ thấy ý nghĩa đáng kể của điều này.
Hố đen là một trong những
trường hợp khá hiếm trong lịch sử khoa học mà một lý thuyết được khai triển một
cách chi tiết như là một mô hình toán học, trước khi có chứng cớ qua quan sát
cho thấy lý thuyết đó đúng. Thật ra, điều này trước đây thường là luận cứ của
những người bác bỏ sự hiện hữu của hố đen: làm sao người ta có thể tin vào những
vật thể mà chứng cớ độc nhất của chúng là những tính toán dựa vào thuyết tương
đối tổng quát mơ hồ? Tuy nhiên, năm 1963, Maarten Schmidt, một nhà thiên văn tại
Đài Thiên Văn Palomar ở California, đo sự chuyển dịch về phía đỏ của một thiên
thể giống như ngôi sao có ánh sáng mờ theo chiều hướng của một nguồn sóng vô
tuyến gọi là 3C273 (có nghĩa là nguồn số 273 trong cuốn danh mục thứ ba của Đại
Học Cambridge ghi những nguồn vô tuyến). Ông thấy rằng sự chuyển đỏ này quá lớn
để có thể gây ra bởi một trường hấp lực: Nếu nó là một chuyển đỏ thì thiên thể
đó phải có khối lượng thật lớn và ở gần chúng ta đến nỗi nó phải làm xáo động
quỹ đạo của các hành tinh trong Thái Dương Hệ. Sự kiện này hàm ý rằng chuyển đỏ
thật ra gây ra bởi sự bành trướng của vũ trụ và điều này có nghĩa rằng thiên thể
đó ở rất xa chúng ta. Và khi mà chúng ta có thể trông thấy nó ở xa như vậy thì
thiên thể đó phải rất sáng, nghĩa là nó phải phát ra năng lượng lớn lao. Cơ chế
duy nhất mà người ta có thể nghĩ rằng nó sản xuất ra những lượng năng lượng lớn
như vậy phải là sự co sụp của cả một khu trung tâm của một thiên hà, chứ không
phải chỉ là một ngôi sao mà thôi. Một số những thiên thể khác cùng thuộc loại
"hầu như sao" – "quasi-stellar" hay "quasar" – đã
được tìm thấy, chúng đều có những chuyển đỏ rất lớn. Nhưng chúng đều ở quá xa
nên quá khó quan sát để có thể cung cấp chứng cớ xác định những hố đen.
Một khích lệ nữa về sự hiện
hữu của những hố đen xẩy ra năm 1967, qua sự khám phá bởi một sinh viên nghiên
cứu tại Đại Học Cambridge, Jocelyn Bell, về những thiên thể trong vũ trụ phát
ra những xung sóng vô tuyến đều đặn. Lúc đầu Bell và người giám sát của bà,
Antony Hewish, tưởng rằng có thể họ đã liên lạc được với một nền văn minh xa lạ
trong thiên hà! Tôi còn nhớ rằng tại một cuộc hội thảo để công bố khám phá này
họ đã gọi bốn nguồn đầu tiên mà họ tìm thấy là "LGM 1-4" – LGM là chữ
viết tắt của "Little Green Men" ("Tiểu Lục Nhân" – ám chỉ
những người thuộc nền văn minh xa lạ). Tuy nhiên, cuối cùng họ và mọi người
khác đành phải kết luận một cách kém lãng mạn rằng những vật thể này – được gọi
là những "pulsars" (những tinh tú xung động) – thật ra là những trung
tử tinh xoay tròn phát ra những xung sóng vô tuyến gây ra bởi sự tương tác phức
tạp giữa những từ trường và vật chất xung quanh chúng. Đây là một tin xấu đối với
các nhà văn viết truyện thám hiểm không gian, nhưng là một tin rất lạc quan đối
với một số nhỏ trong chúng tôi, gồm những người tin vào sự hiện hữu của những hố
đen ở thời đó: nó là chứng cớ xác thực đầu tiên về sự hiện hữu của các trung tử
tinh. Một trung tử tinh có đường bán kính khoảng mười dặm, nghĩa là chỉ lớn hơn
vài lần bán kính giới hạn mà một ngôi sao biến thành một hố đen. Nếu một ngôi
sao co sụp tới mức nhỏ bé như vậy thì người ta có quyền trông mong rằng những
ngôi sao khác cũng có thể co sụp tới cỡ nhỏ hơn để trở thành hố đen.
Làm sao chúng ta có thể hi vọng
dò tìm một hố đen, khi mà nó không phát ra ánh sáng? Việc này gần giống như tìm
kiếm một con mèo đen trong kho chứa than đá. May thay, có một cách. Như John
Michell năm 1783 vạch ra trong luận văn có tính cách khai phá của ông, một hố
đen vẫn còn tạo hấp lực lên những thiên thể ở gần nó. Các nhà thiên văn đã quan
sát nhiều hệ thống trong đó hai tinh tú chạy quanh nhau, hấp dẫn nhau bởi hấp lực.
Họ cũng quan sát những hệ thống trong đó họ chỉ nhìn thấy một tinh tú đang quay
xung quanh một thiên thể khác mà họ không nhìn thấy. Người ta không thể kết luận
ngay tức khắc rằng thiên thể không nhìn thấy đó là một hố đen: có thể nó chỉ là
một ngôi sao có ánh sáng quá mờ nên không thể nhìn thấy. Tuy nhiên, một số hệ
thống này, như hệ thống tên là Cygus X-1 (H. 6.2), cũng là những nguồn tia
phóng xạ X rất mạnh. Cách giải thích tốt nhất cho hiện tượng này là vật chất đã
bị thổi ra khỏi bề mặt của ngôi sao có thể trông thấy. Khi vật chất rơi về phía
ngôi sao không trông thấy, nó đi theo đường xoáy ốc (gần giống như nước thoát
ra từ bồn tắm), và nó trở thành rất nóng, phát ra những tia X (H. 6.3). Để cơ
chế này tác động, thiên thể không trông thấy phải rất nhỏ, như một bạch tiểu
tinh, một trung tử tinh, hay một hố đen. Suy ra từ quỹ đạo của ngôi sao có thể
trông thấy, người ta xác định được khối lượng tối thiểu mà thiên thể không
trông thấy phải có. Trong trường hợp của Cygnus X-1, khối lượng tối thiểu này
là khoảng sáu lần lớn hơn khối lượng mặt trời; và theo giới hạn Chandrasekhar
thì thiên thể không trông thấy đó có khối lượng quá lớn để có thể là một bạch
tiểu tinh. Nó cũng quá lớn để có thể là một trung tử tinh. Cho nên có vẻ như nó
phải là một hố đen.
Có những mô hình khác để giải
thích Cygnus X-1 mà không bao gồm một hố đen, nhưng tất cả những cách giải
thích hầu như quá xa vời. Một hố đen có vẻ là cách giải thích thực sự tự nhiên
duy nhất hợp với những quan sát. Bất kể điều này, tôi đã cá với Kip Thorne thuộc
học viện California Institute of Technology rằng thật ra Cygnus X-1 không chứa
một hố đen! Đối với tôi đây là một hình thức bảo hiểm. Tôi đã công phu nghiên cứu
về những hố đen, và tất cả sẽ thành uổng phí nếu hóa ra các hố đen không hiện hữu.
Nhưng trong trường hợp đó tôi sẽ được an ủi nhờ thắng vụ cá cược mà tôi sẽ được
hưởng bốn năm mua dài hạn tạp chí Private Eye. Nếu các hố đen thực sự hiện hữu,
Kip sẽ được hưởng một năm mua dài hạn tạp chí Penthouse. Khi chúng tôi giao hẹn
đánh cá vào năm 1975, chúng tôi tin chắc 80% rằng Cygnus là một hố đen. Đến
nay, tôi có thể nói rằng chúng tôi tin chắc khoảng 95%, nhưng kết quả vụ cá cược
chưa thể coi là ngã ngũ.
Ngày nay chúng ta cũng có chứng
cớ cho vài hố đen khác trong những hệ thống giống như Cygnus X-1 trong thiên hà
của chúng ta và trong hai thiên hà lân cận tên là Magellanic Clouds. Tuy nhiên,
con số những hố đen hầu như chắc chắn phải cao hơn nhiều; trong lịch sử lâu dài
của vũ trụ, nhiều ngôi sao phải đốt hết tất cả nhiên liệu hạch tâm của chúng và
phải co sụp. Con số những hố đen có thể nhiều hơn cả con số những ngôi sao mà
chúng ta có thể trông thấy – mà chỉ riêng trong thiên hà của chúng ta có khoảng
một trăm ngàn triệu. Hấp lực gia trọng của một số lớn hố đen như vậy có thể giải
thích tại sao thiên hà của chúng ta xoay với tốc độ hiện thời: khối lượng của
những ngôi sao khả kiến không đủ để làm nó xoay nhanh như vậy. Chúng ta cũng có
chứng cớ rằng có một hố đen lớn hơn nhiều – với khối lượng khoảng một trăm ngàn
lần khối lượng mặt trời – tại trung tâm thiên hà của chúng ta. Những ngôi sao
tiến đến quá gần hố đen này sẽ bị xâu xé thành từng mảnh bởi sự sai biệt của hấp
lực tác động lên phía gần và phía xa của chúng. Những mảnh vụn của chúng và chất
khí bay ra từ các ngôi sao khác sẽ rơi về phía hố đen. Giống như trong trường hợp
của Cygnus X-1, chất khí sẽ xoáy theo đường trôn ốc về phía hố đen và sẽ nóng
lên, tuy rằng không nóng nhiều như trong trường hợp đó. Nó sẽ không đủ nóng để
phát ra những tia X, nhưng đủ để giải thích về nguồn gốc rất chặt chẽ của những
sóng vô tuyến và những tia hồng ngoại tuyến mà chúng ta đã thấy tại trung tâm
thiên hà.
Người ta cho rằng tại trung
tâm của những quasars có những hố đen lớn hơn nữa, với khối lượng khoảng một
trăm triệu lần khối lượng mặt trời. Vật chất rơi vào một hố đen có khối lượng cực
kỳ lớn như vậy sẽ cung cấp nguồn năng lực duy nhất đủ mạnh để giải thích số
năng lượng lớn lao mà những vật thể này phát ra. Khi vật chất rơi theo đường
trôn ốc vào hố đen, nó sẽ khiến cho hố đen quay theo cùng chiều với nó, khiến
nó phát triển một từ trường gần giống như từ trường của trái đất. Những hạt có
năng lượng rất cao sẽ được phát ra ở gần hố đen bởi vật chất rơi xuống. Từ trường
sẽ mạnh tới độ nó có thể quy tụ những hạt này thành những luồng bắn ra ngoài, dọc
theo trục quay của hố đen, nghĩa là theo những chiều của bắc cực và nam cực của
hố đen. Thật sự là người ta đã quan sát những luồng như vậy trong một số thiên
hà và quasar.
Người ta cũng có thể xét tới
khả năng có những hố đen với khối lượng nhỏ hơn mặt trời nhiều. Những hố đen
như vậy không thể được hình thành bởi sự co sụp hấp lực, vì khối lượng của
chúng ở dưới giới hạn Chandrasekhar: Các ngôi sao có khối lượng nhỏ như vậy có
thể tự chống đỡ đối với hấp lực, ngay cả khi chúng đã tiêu thụ hết năng lượng hạch
tâm. Những hố đen có khối lượng nhỏ chỉ có thể hình thành nếu vật chất của
chúng bị nén chặt tới mật độ lớn lao bởi những sức ép ngoại tại rất lớn. Những
điều kiện như vậy có thể xẩy ra trong một trái bom khinh khí rất lớn: nhà vật
lý John Wheeler đã tính toán rằng nếu lấy tất cả nước nặng (D2O) trong tất cả
các đại dương trên thế giới, người ta có thể tạo một trái bom khinh khí có sức
ép mạnh đến nỗi nó nén vật chất bên trong thành một hố đen. (Dĩ nhiên là chẳng
còn người nào sống sót để mà quan sát hiện tượng đó!) Một khả thể thực tế hơn
là những hố đen có khối lượng nhỏ như vậy có thể đã được hình thành trong nhiệt
độ và sức ép thật cao của vũ trụ ở thời rất sơ khai. Những hố đen chỉ có thể
hình thành nếu vũ trụ thời sơ khai đã không trơn tru và không đồng nhất một
cách hoàn hảo, vì chỉ một vùng nhỏ có mật độ cao hơn trung bình mới có thể bị
nén chặt theo cách này để biến thành hố đen. Nhưng chúng ta biết rằng phải có
những bất bình thường, vì nếu không có những nơi bất thường thì vật chất trong
vũ trụ ngày nay phải được phân phối một cách hoàn toàn đồng nhất, thay vì tụ tập
thành những tinh tú và thiên hà.
Những nơi bất thường – tạo
nên tinh tú và thiên hà – có dẫn tới sự hình thành một số đáng kể những hố đen
"ban đầu" hay không thì tùy thuộc vào những điều kiện trong vũ trụ
thuở sơ khai. Vì vậy, nếu chúng ta có thể xác định ngày nay có bao nhiêu hố đen
ban đầu thì chúng ta sẽ biết được nhiều điều về những giai đoạn rất sớm của vũ
trụ. Những hố đen ban đầu có khối lượng nặng hơn một ngàn triệu tấn (tương
đương với khối lượng của một hòn núi lớn) chỉ có thể dò tìm được nhờ ảnh hưởng
hấp lực của chúng đối với vật chất khác có thể trông thấy được, hoặc đối với sự
bành trướng của vũ trụ. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy trong chương sau, các hố
đen chẳng phải thực sự đen tối: chúng chiếu sáng như một vật thể nóng, và chúng
càng nhỏ thì lại càng chiếu sáng hơn. Vì vậy, có điều nghịch lý là các hố đen
càng nhỏ thì có thể càng dễ tìm thấy hơn những hố đen lớn!.
CHƯƠNG 7
HỐ ĐEN KHÔNG ĐEN LẮM
Trước năm 1970, cuộc nghiên
cứu của tôi về thuyết tương đối tổng quát đã tập trung vào vấn đề phải chăng có
một nhất thể bùng nổ lớn. Tuy nhiên, một buổi tối trong tháng 11 năm đó, ít
ngày sau khi con gái tôi, Lucy, ra đời, tôi bắt đầu suy nghĩ về những hố đen
trong lúc tôi lên giường đi ngủ. Sự tàn phế khiến tôi phải hành động chậm chạp,
vì vậy tôi có nhiều thì giờ để suy nghĩ. Lúc bấy giờ không có một định nghĩa
chính xác nào về những điểm trong không-thời gian nằm bên trong một hố đen và
những điểm nào nằm bên ngoài nó. Tôi đã thảo luận với Roger Penrose về ý kiến định
nghĩa một hố đen như là một tập hợp những biến cố mà từ đó không vật gì có thể
thoát ra tới một khoảng cách xa – định nghĩa này ngày nay đã được chấp nhận một
cách rộng rãi. Điều đó có nghĩa rằng ranh giới của hố đen, tức chân trời biến cố,
được hình thành bởi những đường đi trong không-thời gian của các tia sáng không
thể thoát ra khỏi hố đen, vĩnh viễn lảng vảng trên mép bờ (H. 7.1). Điều này gần
giống như một người chạy trốn cảnh sát rượt đuổi và chỉ có thể chạy trước một
bước chứ không thể chạy cách xa hơn!
Bỗng nhiên tôi ý thức rằng
đường đi của những tia sáng này có thể không bao giờ tiến về phía nhau. Nếu
chúng tiến về phía nhau thì cuối cùng chúng phải gặp nhau. Điều đó cũng giống
như bạn đụng vào một người nào khác đang chạy trốn cảnh sát ngược chiều với bạn
– rốt cuộc cả hai đều bị bắt! (Hoặc trong trường hợp này là cả hai đều rơi vào
hố đen.) Nhưng nếu những tia sáng này bị hố đen nuốt chửng thì chúng không thể
nằm trên ranh giới của hố đen. Vì vậy đường đi của tia sáng trong chân trời biến
cố phải luôn luôn di chuyển song song với nhau, hoặc rời xa nhau. Một cách khác
để thấy điều này là chân trời biến cố, ranh giới của hố đen, giống như mép bờ của
một bóng đen – bóng đen sự tận số gần kề. Nếu nhìn vào bóng đen tạo nên bởi một
nguồn từ rất xa, chẳng hạn như mặt trời, bạn sẽ thấy rằng những tia sáng trong
mép bờ không tiến về phía nhau.
Nếu những tia sáng tạo thành
chân trời biến cố – ranh giới của hố đen – không bao giờ có thể tiến về phía
nhau thì diện tích của chân trời biến cố luôn luôn giữ nguyên hoặc gia tăng với
thời gian chứ không bao giờ có thể giảm bớt – vì nếu giảm bớt thì có nghĩa rằng
ít ra một số tia sáng trong ranh giới phải tiến về phía nhau. Thật ra, diện
tích đó sẽ gia tăng mỗi khi vật chất hoặc phóng xạ rơi vào hố đen (H. 7.2). Hoặc
khi nào hai hố đen đụng vào nhau và hòa nhập thành một hố đen đơn độc, diện
tích chân trời biến cố của hố đen tận cùng đó sẽ lớn hơn hoặc bằng tổng số của
những diện tích chân trời biến cố của hai hố đen nguyên thủy (H. 7.3). Đặc tánh
bất giảm này của diện tích chân trời biến cố đặt ra một sự hạn chế quan trọng đối
với hành vi của hố đen có thể xẩy ra. Khám phá này khiến tôi bị kích động đến nỗi
đêm hôm đó tôi chẳng ngủ được nhiều. Hôm sau tôi gọi điện thoại cho Roger
Penrose. Anh ấy đồng ý với tôi. Tôi nghĩ rằng thật ra anh ấy đã biết về đặc
tánh này của diện tích chân trời biến cố. Tuy nhiên, anh ấy đã dùng một định
nghĩa hơi khác về hố đen. Anh ấy không nhận ra rằng những ranh giới của hố đen
theo hai định nghĩa đều giống nhau, do đó những diện tích của chúng cũng giống
nhau, miễn rằng hố đen đã ổn định ở trạng thái mà nó không còn thay đổi với thời
gian.
Hành vi bất giảm của diện
tích hố đen khiến người ta dễ liên tưởng tới hành vi của lượng vật lý gọi là
"entropy" dùng để đo lường mức độ vô trật tự của một hệ thống. Kinh
nghiệm thông thường cho chúng ta thấy rằng sự vô trật tự có khuynh hướng gia
tăng nếu không có sự can thiệp nào từ bên ngoài. (Hãy đình chỉ những việc tu bổ
nhà cửa thì bạn sẽ thấy ngay điều này!) Người ta có thể tạo trật tự từ vô trật
tự (thí dụ bạn có thể sơn nhà), nhưng điều này đòi hỏi tới sự tiêu hao sinh lực
hoặc năng lượng, và do đó làm giảm số năng lượng trật tự có sẵn.
Quan niệm này được mô tả
chính xác qua định luật thứ nhì của môn nhiệt động học (thermodynamics). Định
luật này nói rằng entropy của một hệ thống biệt lập luôn luôn gia tăng, và rằng
khi hai hệ thống liên kết với nhau, entropy của hệ thống phối hợp này sẽ lớn
hơn tổng số của những entropies của các hệ thống đơn độc. Thí dụ, hãy xét một hệ
thống gồm những phân tử khí trong một cái hộp. Các phân tử có thể được coi như
những viên bi-a không ngừng đụng vào nhau và nẩy ra khỏi các vách của cái hộp.
Nhiệt độ của khí càng cao thì các phân tử di chuyển càng nhanh hơn, và do đó
chúng càng đụng vào vách hộp thường xuyên hơn và mạnh hơn, vì vậy chúng tạo áp
lực hướng ngoại mạnh hơn lên vách hộp. Giả thử rằng lúc đầu tất các phân tử bị
nhốt ở phía bên trái của hộp bởi một bức vách ngăn cách. Nếu sau đó người ta
tháo gỡ bức vách ngăn cách, các phân tử sẽ có khuynh hướng lan tràn khắp nơi và
chiếm cứ cả hai bên hộp. Vào lúc nào đó sau này, do tình cờ, tất cả các phân tử
đều nằm ở bên phải hoặc trở về bên trái, nhưng khả thể lớn lao hơn phải xẩy ra
là con số các phân tử sẽ hầu như đồng đều trong cả hai bên hộp. Một trạng thái
như vậy thì kém trật tự hơn – hoặc vô trật tự hơn – trạng thái nguyên thủy
trong đó tất cả các phân tử đều nằm ở bên trái. Vì vậy người ta nói rằng
entropy của khí trong hộp đã gia tăng. Tương tự như vậy, giả thử người ta bắt đầu
với hai cái hộp, một cái đựng các phân tử dưỡng khí và cái kia đựng các phân tử
khí nitơ. Nếu người ta nối liền hai cái hộp với nhau và tháo gỡ vách ngăn cách,
các phân tử dưỡng khí và các phân tử nitơ sẽ bắt hòa trộn lẫn nhau. Một lúc
sau, trạng thái có nhiều khả năng xẩy ra nhất là sự hòa trộn khá đồng đều của
các phân tử dưỡng khí và nitơ trong khắp hai hộp. Trạng thái này ít trật tự
hơn, do đó có nhiều entropy hơn, trạng thái ban đầu của hai cái hộp riêng rẽ.
Định luật thứ nhì của nhiệt
động học có một địa vị khác với địa vị của những định luật khoa học khác, chẳng
hạn như định luật về hấp lực của Newton, vì nó không luôn luôn đứng vững mà chỉ
đúng trong đại đa số trường hợp. Khả năng của tất cả phân tử khí trong cái hộp
đầu tiên của chúng ta đều nằm trong nửa hộp, ở một lúc nào đó về sau này, có tỉ
lệ là một trên hàng triệu triệu (1/triệu triệu) nhưng có thể xẩy ra. Tuy nhiên,
nếu người ta có một hố đen, dường như có một cách vi phạm định luật thứ nhì dễ
dàng hơn: chỉ cần liệng một số vật chất có nhiều entropy, chẳng hạn như một hộp
khí, xuống hố đen. Tổng số entropy của vật chất bên ngoài hố đen sẽ giảm thiểu.
Đương nhiên người ta vẫn có thể nói rằng tổng số entropy, kể cả entropy bên
trong hố đen, không giảm bớt – nhưng vì không có cách nào để nhìn vào bên trong
hố đen, chúng ta không thể thấy vật chất trong đó có bao nhiêu entropy. Nếu hố
đen có đặc tính nào đó để người quan sát bên ngoài có thể biết được entropy của
nó, và entropy này sẽ gia tăng mỗi khi vật chất mang entropy rơi xuống hố đen,
thì thật là tốt. Theo sau khám phá, được mô tả trên đây, rằng diện tích của
chân trời biến cố gia tăng mỗi khi vật chất rơi vào một hố đen, một sinh viên
nghiên cứu tại Đại Học Princeton tên là Jacob Bekenstein đã đưa ra ý kiến rằng
diện tích của chân trời biến cố là sự đo lường entropy của hố đen. Khi vật chất
mang entropy rơi vào một hố đen, diện tích của chân trời biến cố sẽ gia tăng,
do đó tổng số entropy của vật chất bên ngoài hố đen và diện tích của các chân
trời sẽ không bao giờ giảm thiểu.
Ý kiến này có vẻ ngăn cản sự
vi phạm định luật thứ nhì của nhiệt động học trong đa số tình huống. Tuy nhiên,
nó có một khuyết điểm không thể chấp nhận. Nếu một hố đen có entropy thì nó
cũng phải có một nhiệt độ. Nhưng một vật thể với một nhiệt độ nào đó phải phát
ra bức xạ ở một tốc độ nào đó. Qua kinh nghiệm thông thường chúng ta thấy rằng
nếu đốt nóng một cây sắt gắp than trong lò sưởi thì nó sẽ nóng đỏ lên và phát
ra bức xạ; tuy nhiên, những vật thể ở nhiệt độ thấp hơn cũng phát ra bức xạ;
chúng ta thường không nhận ra điều này là vì số lượng bức xạ của chúng tương đối
nhỏ. Bức xạ này cần phải có để khỏi vi phạm định luật thứ nhì của nhiệt động học.
Cho nên các hố đen phải phát ra bức xạ. Nhưng theo như chính định nghĩa của
chúng thì hố đen được coi là những vật thể không phát ra bất cứ thứ gì. Vì vậy
có vẻ như điện tích của chân trời biến cố của một hố đen không thể được coi là
entropy của nó. Năm 1972 tôi viết một luận văn cùng với Brandon Carter và một đồng
sự người Mỹ, Jim Bardeen, trong đó chúng tôi vạch ra rằng tuy có nhiều điểm
tương đồng giữa entropy và diện tích của chân trời biến cố, nhưng vẫn có điều
nan giải triệt tiêu này. Tôi phải nhìn nhận rằng khi viết luận văn này tôi đã bị
thúc đẩy một phần bởi sự bực bội đối với Bekenstein, người mà tôi cảm thấy đã sử
dụng sai phám phá của tôi về sự gia tăng diện tích của chân trời biến cố. Tuy
nhiên, sau cùng thì hóa ra anh ấy nói đúng trên căn bản, dù rằng trên một
phương diện mà anh ấy đã không dự liệu.
Vào tháng 9 năm 1973, khi
tôi đang thăm viếng Mạc Tư Khoa, tôi thảo luận về hố đen với hai chuyên gia
hàng đầu của Liên Xô, Yakov Zeldovich và Alexander Starobinsky. Họ thuyết phục
tôi rằng, theo nguyên lý bất định trong cơ học lượng tử, các hố đen quay tròn
phải sanh ra và phát ra những hạt. Tôi tin những lý luận của họ trên những cơ sở
vật lý, nhưng tôi không thích đường lối toán học mà họ dùng để tính toán bức xạ.
Cho nên tôi bắt tay vào việc hoạch định một phương pháp xử lý toán học tốt hơn,
mà tôi đã mô tả tại một cuộc hội thảo không chính thức ở Đại Học Oxford vào cuối
tháng 11 năm 1973. Lúc bấy giờ tôi chưa thi hành những tính toán để tìm ra mức
độ bức xạ là bao nhiêu. Tôi trông mong tìm thấy bức xạ mà Zeldovich và
Starobinsky đã tiên đoán từ những hố đen. Tuy nhiên, khi thi hành việc tính
toán, tôi vừa ngạc nhiên vừa bực bội khi tìm ra rằng ngay cả những hố đen không
quay tròn hiển nhiên cũng phải sanh ra và phát ra những hạt ở một tốc độ bất biến.
Ban đầu tôi nghĩ rằng sự bức
xạ này cho thấy một trong những xấp xỉ gần đúng (approximations) mà tôi đã sử dụng
là vô hiệu. Tôi e ngại rằng nếu Bekenstein phát hiện điều này thì anh ấy sẽ
dùng nó như là một biện luận bổ túc để hỗ trợ những ý kiến của mình về entropy
của hố đen – mà tôi vẫn thấy không ưa. Tuy nhiên, khi tôi càng nghĩ về nó thì
những xấp xỉ gần đúng càng có vẻ xác thực. Nhưng sau cùng tôi tin rằng sự bức xạ
có thật là bởi vì cái phổ của mhững hạt bị bức xạ giống hệt như cái phổ bức xạ
của một vật thể nóng, và rằng hố đen phát ra những hạt ở tốc độ chính xác để khỏi
vi phạm định luật thứ nhì của nhiệt động học. Kể từ đó những tính toán đã được
những người khác lập lại bằng một số những hình thức khác nhau. Tất cả đều xác
xác nhận rằng một hố đen phải phát ra những hạt và bức xạ, giống như nó là một
vật thể nóng với một nhiệt độ chỉ tùy thuộc vào khối lượng của hố đen: khối lượng
càng cao thì nhiệt độ càng thấp.
Làm sao một hố đen lại có vẻ
như phát ra những hạt khi chúng ta biết rằng không có thứ gì có thể vượt thoát
ra từ bên trong chân trời biến cố? Câu trả lời, theo thuyết lượng tử cho chúng
ta biết, là các hạt không phát ra từ bên trong hố đen mà từ khoảng không gian
"trống rỗng" ngay bên ngoài chân trời biến cố của hố đen! Chúng ta có
thể hiểu điều này theo cách sau đây: Cái mà chúng ta nghĩ tới như là không gian
"trống rỗng" không thể hoàn toàn trống rỗng, vì điều đó sẽ có nghĩa rằng
tất cả các trường – như trường hấp lực và trường điện từ – phải đúng là số 0.
Tuy nhiên, trị số của một trường và tốc độ biến đổi của nó với thời gian giống
như vị trí và vận tốc của một hạt: nguyên lý bất định hàm ý rằng khi người ta
biết càng chính xác hơn về những lượng này thì người ta lại biết càng thiếu
chính xác hơn về lượng khác. Vì vậy trong không gian trống rỗng trường không thể
được ấn định ở đúng số 0, vì khi đó nó sẽ có cả một trị số chính xác (số 0) và
một tốc độ biến đổi chính xác (cũng là số 0). Phải có một số lượng bất định tối
thiểu nào đó, hoặc những thăng giáng lượng tử, trong trị số của trường. Người
ta có thể coi những thăng giáng này như là những đôi hạt của ánh sáng hoặc hấp
lực cùng xuất hiện ở thời khắc nào đó, rồi lìa khỏi nhau, và rồi lại tái hợp và
tiêu diệt lẫn nhau. Những hạt này là những hạt ảo giống như những hạt mang hấp
lực của mặt trời: không giống như những hạt thật, người ta không thể trực tiếp
quan sát chúng bằng một máy dò hạt. Tuy nhiên, những hiệu ứng gián tiếp của
chúng, chẳng hạn như những biến đổi nhỏ trong năng lượng của những quỹ đạo điện
tử trong các nguyên tử, có thể đo lường được và phù hợp với những tiên đoán lý
thuyết tới độ chính xác đáng kể. Nguyên lý bất định cũng tiên đoán rằng sẽ có
những đôi hạt vật chất ảo tương tự, như những điện tử hoặc những quark. Tuy
nhiên, trong trường hợp này một thành viên của đôi sẽ là một hạt và thành viên
kia là một phản hạt (những phản hạt của ánh sáng và hấp lực đều giống như những
hạt).
Vì năng lượng không thể sanh
ra từ hư không, cho nên một trong hai thành viên của một đôi hạt/phản hạt sẽ có
năng lượng dương, và thành viên kia có năng lượng âm. Cái có năng lượng âm phải
chịu số phận là hạt ảo có đời sống ngăn ngủi, vì hạt thực luôn luôn có năng lượng
dương trong những tình huống bình thường. Cho nên nó đi tìm bạn của nó và tiêu
diệt nhau. Tuy nhiên, một hạt thực ở gần một vật thể có khối lượng lớn sẽ có ít
năng lượng hơn là nếu nó ở xa, vì nó phải tốn năng lượng để đối kháng với hấp lực
của vật thể. Bình thường, năng lượng của hạt vẫn còn là dương, nhưng trường hấp
lực bên trong một hố đen mạnh đến nỗi ngay cả một hạt thực cũng có thể có năng
lượng âm. Vì vậy, nếu một hố đen hiện diện, hạt ảo mang năng lượng âm có thể
rơi vào hố đen và trở thành một hạt thực hoặc phản hạt. Trong trường hợp này nó
không cần phải cùng hủy diệt với bạn của nó. Người bạn bị bỏ rơi của nó cũng có
thể rơi vào hố đen. Hoặc, vì có năng lượng dương, người bạn này cũng có thể vượt
thoát khỏi vùng lân cận của hố đen như là một hạt thực hoặc phản hạt (H. 7.4).
Đối với một người quan sát từ xa, nó có vẻ như được phát ra từ hố đen. Hố đen
càng nhỏ thì hạt có năng lượng âm sẽ phải đi khoảng cách càng ngắn, trước khi
nó trở thành một hạt thực, và do đó tốc độ bức xạ và nhiệt độ biểu kiến của hố
đen càng lớn.
Năng lượng dương của bức xạ
phát ra sẽ được quân bình bởi những hạt mang năng lượng âm rơi vào hố đen. Theo
phương trình E = mc2 (với E là năng lượng, m là khối lượng, và c là tốc độ ánh
sáng), năng lượng tỉ lệ thuận với khối lượng. Cho nên khi năng lượng âm chảy
vào hố đen nó làm giảm khối lượng của hố đen. Khi hố đen bị mất khối lượng, diện
tích chân trời biến cố của nó trở thành nhỏ hơn, nhưng sự sút giảm trong
entropy của hố đen được bù đắp nhiều hơn bởi entropy của bức xạ phát ra, cho
nên định luật thứ nhì không bị vi phạm.
Vả lại, khối lượng của hố
đen càng nhỏ thì nhiệt độ của nó càng cao. Vì vậy khi hố đen tổn thất khối lượng,
nhiệt độ và tốc độ bức xạ của nó gia tăng, do đó nó tổn thất khối lượng càng
nhanh hơn. Người ta không rõ điều gì xẩy ra khi khối lượng của hố đen trở thành
cực kỳ nhỏ, nhưng điều hợp lý nhất để phỏng đoán là nó sẽ hoàn toàn biến mất
trong một bùng nổ bức xạ cuối cùng thật là khủng khiếp, tương đương với sự phát
nổ của hàng triệu trái bom kinh khí.
Một hố đen với khối lượng
vài lần lớn hơn khối lượng mặt trời sẽ có một nhiệt độ chỉ là một phần mười triệu
độ trên số không tuyệt đối. Nhiệt độ này thấp hơn rất nhiều so với nhiệt độ của
bức xạ vi ba tràn ngập trong vũ trụ (khoảng 2.70 trên số không tuyệt đối), vì vậy
các hố đen loại này phát ra bức xạ ít hơn bức xạ mà chúng thu hút. Nếu vũ trụ sẽ
mãi mãi tiếp tục bành trướng, nhiệt độ của bức xạ vi ba sẽ tới lúc giảm xuống mức
thấp hơn nhiệt độ của một hố đen loại này, lúc đó nó sẽ bắt đầu tổn thất khối
lượng. Nhưng ngay cả lúc đó nhiệt độ của nó sẽ thấp đến nỗi phải cần một thời
gian khoảng một triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu
năm (số 1 với 66 số không theo sau) để hoàn toàn ba hơi tan biến. Thời gian này
dài hơn tuổi của vũ trụ rất nhiều – tuổi của vũ trụ chỉ vào khoảng từ mười tới
hai mươi ngàn triệu năm (số 1 hoặc số 2 với 10 số không theo sau).
Mặt khác, như đã đề cập
trong Chương 6, có thể có những hố đen nguyên thủy, với khối lượng nhỏ hơn nhiều,
được tạo bởi sự co sụp của những nơi bất thường trong những giai đoạn rất sớm của
vũ trụ. Những hố đen như vậy có nhiệt độ cao hơn nhiều và phát ra bức xạ ở tốc
độ nhanh hơn nhiều. Một hố đen nguyên thủy với khối lượng ban đầu vào khoảng một
ngàn triệu tấn có sanh mệnh hầu như bằng tuổi của vũ trụ. Những hố đen nguyên
thủy với khối lượng ban đầu nhỏ hơn con số này thì đã hoàn toàn bay hơi hết rồi,
nhưng những hố đen nào có khối lượng lớn hơn một chút thì vẫn còn đang phát ra
bức xạ gồm những tia X và tia gamma. Những tia X và tia gamma này giống như những
sóng ánh sáng, nhưng với độ dài sóng ngắn hơn nhiều. Những hố loại này hầu như
không xứng đáng với tính từ "đen": thật ra chúng là những thiên thể
nóng trắng và phát ra năng lượng ở tốc độ khoảng mười ngàn megawatt.
Một hố đen loại này có thể
điều động được mười nhà máy sản xuất điện cỡ lớn, nếu chúng ta có thể khai thác
được năng lực của nó. Tuy nhiên, điều này rất khó: hố đen có khối lượng của một
hòn núi bị nén chặt thành nhỏ hơn một phần triệu triệu của một inch, bằng cỡ hạt
nhân của một nguyên tử! Nếu bạn có một hố đen như vậy trên mặt địa cầu, sẽ
không có cách nào để cản nó khỏi xuyên qua vỏ trái đất và rơi vào trung tâm
trái đất. Nó sẽ chạy lên chạy xuống qua vỏ trái đất nhiều lần rồi cuối cùng nằm
yên tại trung tâm. Vì vậy nơi duy nhất để đặt một hố đen như vậy, để có thể sử
dụng năng lượng mà nó phát ra, phải là trên quỹ đạo vòng quanh trái đất – và biện
pháp duy nhất để có thể đưa nó lên quỹ đạo phải là hấp dẫn nó lên đó bằng cách
kéo một khối lượng lớn chạy phiá trước nó, giống như một củ cà-rốt phía trước một
con lừa. Đề nghị này có vẻ không thực tiễn, ít ra là trong tương lai gần.
Nhưng, dù chúng ta không thể
khai thác năng lực phát ra từ những hố đen nguyên thủy này, chúng ta có những
cơ hội để quan sát chúng hay không? Chúng ta có thể tìm kiếm những tia gamma mà
những hố đen nguyên thủy phát ra trong phần lớn thời gian mà chúng tồn tại. Tuy
bức xạ từ đa số những hố đen này rất yếu, vì chúng ở rất xa, nhưng tổng số bức
xạ từ toàn thể của chúng có thể dò tìm được. Chúng ta quan sát được một bối cảnh
gồm các tia gamma: Hình 7.5 cho thấy cường độ quan sát khác biệt ở những tần số
khác nhau (số sóng mỗi giây). Tuy nhiên, bối cảnh này rất có thể phát xuất từ
những quá trình nào đó không phải là những hố đen nguyên thủy. Đường cong vẽ bằng
chấm trong hình 7.5 cho thấy cường độ thay đổi tùy theo tần số của tia gamma
phát ra bởi những hố đen nguyên thủy, nếu có trung bình 300 hố đen trong một
vùng không gian của một khối lập phương rộng một năm ánh sáng. Vì vậy, có thể
nói rằng những quan sát bối cảnh tia gamma không cung cấp cho chúng ta chứng cớ
xác thực nào về sự hiện hữu của những hố đen nguyên thủy, nhưng chúng cho chúng
biết rằng số hố đen nguyên thủy trung bình không thể nhiều hơn 300 trong mỗi
vùng không gian hình lập phương rộng một năm ánh sáng trong vũ trụ. Giới hạn
này có nghĩa rằng những hố đen nguyên thủy chỉ chiếm một phần triệu của toàn thể
vật chất trong vũ trụ là nhiều nhất.
Vì những hố đen nguyên thủy
hiếm như vậy, cho nên khó có thể có một hố đen ở đủ gần trái đất để chúng ta
quan sát được nó như là một nguồn tia gamma riêng biệt. Nhưng vì hấp lực thu
hút các hố đen nguyên thủy về phía bất cứ vật chất nào, cho nên chúng thường hiện
hữu nhiều hơn ở trong và xung quanh các thiên hà. Vì vậy, dù bối cảnh tia gamma
cho chúng ta biết rằng không thể có nhiều hơn 300 hố đen nguyên thủy trong mỗi
khối lập phương không gian rộng trung bình một năm ánh sáng, nó không cho chúng
ta biết gì về mật độ của những hố đen nguyên thủy có thể hiện hữu trong thiên
hà của chúng ta. Giả thử những hố đen nguyên thủy trong thiên hà của chúng ta
cao gấp một triệu lần con số đó thì hố đen gần chúng ta nhất chỉ cách trái đất
khoảng một ngàn triệu kilômét, tức là có khoảng cách tương đương với khoảng
cách từ trái đất tới Diêm Vương Tinh (Pluto), hành tinh xa nhất mà chúng ta biết.
Ở khoảng cách này nó vẫn còn khó tìm ra bức xạ đều đặn của một hố đen, dù nếu
năng lực của nó là mười ngàn megawatt. Để quan sát một hố đen nguyên thủy người
ta phải dò tìm vài lượng tử tia gamma đến từ cùng một hướng trong vòng một thời
gian hợp lý, chẳng hạn một tuần lễ. Nếu không, chúng có thể chỉ là thành phần của
bối cảnh. Nhưng nguyên lý lượng tử của Planck cho chúng ta biết rằng mỗi lượng
tử tia gamma có một năng lượng rất cao, vì các tia gamma có một tần số rất cao,
vì vậy không cần tới nhiều lượng tử để phóng ra cả mười ngàn megawatt. Và để
quan sát những lượng tử ít ỏi này từ khoảng cách của Diêm Vương Tinh người ta cần
phải có một máy dò tia gamma lớn hơn bất cứ máy nào đã được thiết lập cho tới
nay. Hơn nữa, máy dò sẽ phải đặt trên ngoại tầng không gian, vì tia gamma không
thể xuyên qua bầu khí quyển.
Đương nhiên, nếu một hố đen ở
gần trái đất như Diêm Vương Tinh đến lúc tận số và bùng nổ thì có thể dễ dàng
dò tìm được bức xạ cuối cùng phát ra khi nổ. Nhưng nếu hố đen đã phát ra bức xạ
trong thời gian mười hoặc hai mươi năm qua, rất khó có thể xẩy ra chuyện nó sẽ
kết liễu cuộc đời trong vòng ít năm sắp tới, thay vì đã bùng nổ vài triệu năm
trong quá khứ hoặc sẽ bùng nổ vài triệu năm trong tương lai! Vì vậy, để có một
cơ hội hợp lý được dịp trông thấy một vụ bùng nổ như vậy trước khi ngân quỹ tài
trợ cho cuộc nghiên cứu của bạn hết thời hạn, bạn cần phải tìm cách nào để phát
hiện bất cứ những vụ nổ nào có khoảng cách trong vòng khoảng một năm ánh sáng.
Bạn vẫn cần phải có một máy dò tìm tia gamma thật lớn để quan sát vài lượng tử
tia gamma từ vụ nổ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, không cần thiết phải xác định
rằng tất cả các lượng tử tìm thấy đều đến từ cùng một phương hướng: chúng ta chỉ
cần nhận thấy chúng đều đến cách nhau một khoảng thời gian ngắn là đủ để tin tưởng
một cách hợp lý rằng chúng đến từ cùng một vụ bùng nổ.
Một cái máy dò tìm tia gamma
có khả năng tìm thấy những hố đen nguyên thủy là trọn bầu khí quyển của trái đất.
(Dù sao chăng nữa, chúng ta không thể nào chế tạo được một cái máy dò lớn hơn
thế!) Khi một lượng tử tia gamma có năng lượng cao đụng vào các nguyên tử trong
bầu khí quyển của chúng ta, nó tạo ra những cặp điện tử và dương điện tử
(positron, cũng gọi là antielectron – phản điện tử). Khi những cặp hạt tử này đụng
vào các nguyên tử khác chúng lại tạo thêm những cặp điện tử và dương điện tử
khác, điều này tạo thành một trận mưa điện tử. Kết quả sanh ra một hình thức
ánh sáng gọi là bức xạ Cerenkov (Cerenkov radiation). Vì thế người ta có thể dò
tìm những phóng xạ tia gamma bằng cách tìm những lằn chớp ánh sáng trong bầu trời
ban đêm. Đương nhiên có một số những hiện tượng khác, chẳng hạn như những lằn
chớp do các luồng điện gây ra và những phản chiếu của ánh sáng mặt trời dội xuống
từ những vệ tinh đang quay tròn và những mảnh vụn trên quỹ đạo, đều có thể phát
ra những tia chớp trong bầu trời. Người ta có thể phân biệt những lằn chớp do
tia gamma gây ra với những hiện tượng kể trên bằng cách quan sát các lằn chớp
cùng một lúc tại hai hoặc vài địa điểm cách xa nhau. Một cuộc tìm kiếm như vậy
đã được thi hành bởi hai khoa học gia Ái Nhĩ Lan, Neil Porter và Trevor Weekes,
sử dụng những viễn vọng kính trong tiểu bang Arizona. Họ đã tìm thấy một số lằn
chớp nhưng không có cái nào có thể xác nhận là những bức xạ tia gamma đến từ
các hố đen nguyên thủy.
Dù nếu việc tìm kiếm những hố
đen nguyên thủy không có kết quả gì, có vẻ là như vậy, nó sẽ vẫn còn cho chúng
ta tin tức quan trọng về những thời kỳ rất sớm của vũ trụ. Nếu vũ trụ ở thời kỳ
sớm từng là hỗn loạn hoặc vô quy tắc, hoặc nếu áp lực của vật chất rất thấp,
thì người ta trông mong nó sản xuất nhiều hố đen nguyên thủy hơn giới hạn đặt
ra bởi những quan sát của chúng ta về bối cảnh tia gamma. Chỉ trong trường hợp
vũ trụ thời ban sơ đã rất trơn tru và đồng nhất, với áp lực cao, thì người ta mới
có thể giải thích sự vắng mặt của những con số hố đen nguyên thủy có thể quan
sát được.
Ý tưởng về bức xạ từ những hố
đen là thí dụ đầu tiên về một dự kiến tùy thuộc vào một phương thức thiết yếu về
cả những lý thuyết vĩ đại của thế kỷ 20: thuyết tương đối tổng quát và cơ học
lượng tử. Nó đã gây ra nhiều chống đối lúc đầu vì nó làm xáo trộn quan điểm
đương thời: "Làm sao một hố đen lại có thể phát ra bất cứ cái gì?" Lần
đầu khi tôi tuyên bố kết quả từ những tính toán của tôi tại một hội nghị ở
Phòng Thí Nghiệm Rutherford-Appleton gần Oxford, mọi người đều hoài nghi. Vào
lúc kết thúc bài diễn thuyết của tôi, vị chủ tịch của buổi hội thảo, John G.
Taylor của truờng Kings College, Luân Đôn, bảo rằng tất cả những điều tôi nói
đều vô nghĩa. Thậm chí ông viết một bài luận văn để nói như vậy. Tuy nhiên, cuối
cùng đa số những người đó, kể cả John Taylor, đã đi tới kết luận rằng các hố
đen phải bức xạ như những vật thể nóng nếu những ý tưởng khác của chúng ta về
thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử là đúng. Vì thế, tuy rằng chúng
ta chưa tìm được một hố đen nguyên thủy, nhiều người đồng ý rằng nếu chúng ta
tìm thấy thì nó phải phát ra nhiều tia gamma và tia X.
Sự hiện hữu của bức xạ từ những
hố đen có vẻ ngụ ý rằng sự co sụp do hấp lực chưa phải là tình trạng chung cuộc
và bất khả đảo ngược như trước đây chúng ta đã nghĩ. Nếu một phi hành gia rơi
vào một hố đen, khối lượng của nó sẽ gia tăng, nhưng cuối cùng năng lượng tương
đương với khối lượng gia tăng đó sẽ quay trở về vũ trụ trong hình thức của bức
xạ. Như vậy, có thể nói rằng nhà phi hành sẽ được "tái biến chế." Tuy
nhiên, đây là một loại bất tử ngắn ngủi đáng thương, vì bất cứ quan niệm cá
nhân nào về thời gian đối với nhà phi hành hầu như chắc chắn sẽ chấm dứt khi họ
bị xé vụn bên trong hố đen! Ngay cả những loại hạt mà cuối cùng hố đen phát ra
cũng sẽ khác với những hạt trong nguyên từ cấu tạo thành nhà phi hành: đặc
trưng duy nhất của nhà phi hành còn sót lại là khối lượng hoặc năng lượng của họ.
Những xấp xỉ mà tôi dùng để
tính sự xạ từ những hố đen sẽ rất thích hợp khi hố đen có một khối lượng lớn
hơn một phần nhỏ của một gram. Tuy nhiên, chúng sẽ tan rã vào lúc kết thúc cuộc
đời của hố đen khi khối lượng của nó trở thành rất nhỏ. Kết quả hợp lý nhất có
vẻ là hố đen sẽ biến mất, ít ra là từ vùng của chúng ta trong vũ trụ, đem theo
với nó nhà phi hành và bất cứ điểm kỳ dị nào có thể hiện hữu bên trong nó, nếu
một điểm kỳ dị thực sự hiện hữu. Đây là dấu hiệu đầu tiên bảo rằng cơ học lượng
tử có thể trừ khử những điểm kỳ dị mà thuyết tương đối tổng quát đã tiên đoán.
Tuy nhiên, những phương pháp mà tôi và những người khác đã sử dụng trong năm
1974 không thể trả lời những câu hỏi như: liệu các điểm kỳ dị có xuất hiện
trong hấp lực lượng tử hay không. Vì vậy, từ năm 1975 trở đi tôi bắt đầu khai
triển một đường lối mạnh hơn để xét tới hấp lục lượng tử căn cứ vào ý kiến của
Richard Feynman về một tổng thể của lịch sử. Những câu trả lời mà đường lối này
đề xướng đối với nguồn gốc và chung cuộc của vũ trụ và những gì chứa trong đó,
như các phi hành gia, sẽ được mô tả trong hai chương sau đây. Chúng ta sẽ thấy
rằng tuy nguyên tắc bất định đặt những giới hạn đối với sự chính xác của tất cả
những tiên đoán của chúng ta, nhưng đồng thời nó có thể trừ khử sự bất khả tiên
đoán cơ bản xảy ra tại một điểm kỳ dị không-thời gian.
Thuyết tương đối tổng quát của
Einstein, riêng nó, tiên đoán rằng không-thời gian đã khởi đầu ở điểm kỳ dị nổ
lớn (big bang singularity) và sẽ đi tới một chung cuộc hoặc ở điểm kỳ dị sụp đổ
lớn (nếu toàn thể vũ trụ lại sụp đổ), hoặc ở một điểm kỳ dị bên trong một hố
đen (nếu riêng một khu vực nào đó, như một ngôi sao, sụp đổ). Bất cứ vật chất
nào rơi vào hố cũng sẽ bị hủy diệt ở điểm kỳ dị, và chỉ còn hiệu ứng hấp lực của
khối lượng của nó là tiếp tục được cảm nhận từ bên ngoài. Mặt khác, khi xét tới
cả các hiệu ứng lượng tử, có vẻ như khối lượng hoặc năng lượng của vật chất cuối
cùng sẽ được trả lại cho phần còn lại của vũ trụ, và rằng cái hố đen, cùng với
bất cứ điểm kỳ dị nào bên trong nó, sẽ bốc hơi và cuối cùng biến mất. Có thể cơ
học lượng tử có một hậu quả giống nhau về những điểm kỳ dị nổ lớn và điểm kỳ dị
sụp đổ lớn hay không? Điều gì thực sự xảy ra ngay ở những giai đoạn đầu hoặc cuối
của vũ trụ, khi các trường hấp lực mạnh đến độ các hậu quả lượng tử không thể bị
bỏ qua? Vũ trụ quả thực có một khởi thủy hoặc một chung cuộc hay không? Và nếu
có, chúng giống như cái gì?
Trong suốt thập niên 1970,
tôi chủ yếu nghiên cứu các hố đen, nhưng vào năm 1981 sự lưu tâm của tôi vào những
vấn đề nguồn gốc và số phận của vũ trụ lại thức dậy khi tôi tham dự một hội nghị
về vũ trụ học được tổ chức bởi các tu sĩ Dòng Jesuit ở Vatican. Giáo Hội Thiên
Chúa đã phạm một sai lầm lớn đối với Galileo khi họ cố áp đặt luật lệ lên một vấn
đề khoa học, khi tuyên bố rằng mặt trời xoay quanh trái đất. Ngày nay, hàng thế
kỷ sau, họ đã quyết định mời một số các chuyên viên tới để cố vấn về vũ trụ học.
Vào cuối cuộc hội nghị, những người tham dự đã được diện kiến với giáo hoàng.
Ngài nói với chúng tôi rằng không có gì trở ngại khi nghiên cứu sự tiến hóa của
vũ trụ sau vụ nổ lớn, nhưng chúng tôi không nên tìm hiểu chính vụ nổ lớn bởi vì
đó là lúc Sáng Thế và vì vậy đó là công việc của Thượng Đế. Tới lúc đó tôi lấy
làm mừng vì ngài đã không biết cái đề tài nói chuyện mà tôi mới đưa ra tại cuộc
hội nghị -- có thể rằng không-thời gian hữu hạn nhưng không có biên giới, có
nghĩa rằng nó không có khởi đầu, không có lúc Sáng Thế. Tôi không muốn cùng
chung số phận với Galileo, người mà tôi cảm thấy rất gần gũi, một phần vì sự
trùng hợp là tôi đã sinh ra đúng 300 năm sau cái chết của ông.
Để giải thích những ý tưởng
mà tôi và những người khác đã nghĩ về chuyện cơ học lượng tử có thể ảnh hưởng tới
nguồn gốc và vận mệnh của vũ trụ như thế nào, trước hết cần phải hiểu lịch sử của
vũ trụ theo như nhiều người đã chấp nhận, theo những gì được biết như là
"mô hình nổ lớn nóng." Mô hình này cho rằng vũ trụ được mô tả bởi một
mô hình Friedmann, ngược trở lại vụ nổ lớn. Trong những mô hình như vậy, người
ta thấy rằng khi vũ trụ bành trướng, bất cứ vật chất hay sự bức xạ nào trong đó
sẽ nguội đi. (Khi vũ trụ lớn gấp đôi, nhiệt độ của nó giảm đi một nửa.) Bởi vì
nhiệt độ chỉ là một số đo của năng lượng trung bình -- hay tốc độ -- của các hạt,
sự kiện vũ trụ nguội đi này sẽ có một ảnh hưởng lớn lao đối với vật chất trong
đó. Ở các nhiệt độ thật cao, các hạt sẽ quay tròn nhanh đến độ chúng có thể
thoát được bất cứ sự thu hút nào về phía nhau bởi các lực hạt nhân hoặc điện từ,
nhưng khi chúng nguội lại người ta sẽ nghĩ rằng những hạt thu hút lẫn nhau bắt
đầu tụ lại với nhau. Hơn nữa, ngay cả những loại hạt hiện hữu trong vũ trụ cũng
phụ thuộc vào nhiệt độ. Ở những nhiệt độ đủ cao, những hạt mang nhiều năng lượng
đến độ mỗi khi chúng va chạm, nhiều cặp hạt/phản hạt khác nhau sẽ được tạo ra
-- và mặc dù một vài trong số những hạt này sẽ biến đi khi đụng vào các phản hạt,
chúng sẽ được tạo ra nhanh hơn là chúng có thể biến mất. Tuy nhiên, ở những nhiệt
độ thấp hơn, khi các hạt va chạm có ít năng lượng hơn, những cặp hạt/phản hạt sẽ
được tạo ra chậm hơn -- và sự biến đi sẽ trở thành nhanh hơn sự sản xuất.
Tại chính vụ nổ lớn, người
ta nghĩ vũ trụ phải có cỡ số không, và do đó phải nóng vô hạn. Nhưng khi vũ trụ
bành trướng, nhiệt độ của sự phát xạ giảm đi. Một giây sau vụ nổ lớn, nó sẽ giảm
còn khoảng mười ngàn triệu độ. Nhiệt độ này vào khoảng một ngàn lần nhiệt độ tại
trung tâm của mặt trời, nhưng các nhiệt độ cao như vậy đạt được trong những vụ
nổ bom khinh khí. Vào lúc này vũ trụ sẽ phải chứa phần lớn là các quang tử, điện
tử, và neutrino (những hạt cực kỳ nhẹ chỉ chịu ảnh hưởng bởi lực yếu và hấp lực)
và các phản hạt của chúng, cùng với một số proton (chất tử) và trung hòa tử.
Khi vũ trụ tiếp tục bành trướng và nhiệt độ tiếp tục hạ, nhịp độ mà các cặp điện
tử/phản điện tử được tạo ra trong những vụ va chạm sẽ hạ xuống dưới nhịp độ mà
chúng bị hủy diệt do triệt tiêu lẫn nhau. Do đó hầu hết các điện tử và phản điện
tử sẽ tiêu diệt lẫn nhau để sản xuất ra các quang tử, chỉ để lại một ít điện tử.
Tuy nhiên các neutrino (trung vi tử) và phản neutrino sẽ không triệt tiêu nhau,
bởi vì những hạt này chỉ tương tác với nhau và với những hạt khác một cách rất
yếu. Do đó chúng vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Nếu chúng ta có thể quan sát
chúng, đây sẽ là một kiểm nghiệm tốt cho hình ảnh của vũ trụ ở giai đoạn đầu
nóng đỏ này. Đáng tiếc là năng lượng của chúng ngày nay quá yếu để chúng ta có
thể quan sát chúng một cách trực tiếp. Tuy nhiên, nếu các neutrino không phải
là không có khối lượng, mà có một khối lượng nhỏ, như được đề xướng bởi một thí
nghiệm không được xác nhận của người Nga thực hiện vào năm 1981, chúng ta có thể
phát hiện chúng một cách gián tiếp: chúng có thể là một hình thức "chất tối,"
như đã được đề cập trước đây, với hấp lực đủ để làm ngưng sự bành trướng của vũ
trụ và khiến vũ trụ lại sụp đổ.
Khoảng một trăm giây sau vụ
nổ lớn, nhiệt độ sẽ hạ còn một ngàn triệu độ, bằng nhiệt độ bên trong những
ngôi sao nóng nhất. Ở nhiệt độ này các quang tử và trung hòa tử sẽ không còn đủ
năng lượng để thoát sự hấp dẫn của những lực hạt nhân mạnh, và sẽ bắt đầu kết hợp
với nhau để sinh ra các nhân của các nguyên tử deuterium (khinh khí nặng), chứa
một proton và một trung hòa tử. Nhân deuterium sau đó sẽ kết hợp thêm các
proton và trung hòa tử để làm thành nhân helium, chứa hai proton và hai trung
hòa tử, và còn thêm một lượng nhỏ các cặp nguyên tố nặng hơn, là lithium và
berryllium. Người ta có thể tính toán rằng trong mô hình nổ lớn nóng, khoảng một
phần tư các proton và trung hòa tử sẽ phải chuyển thành các nhân helium, cùng với
một lượng nhỏ khinh khí nặng và các nguyên tố khác. Các trung hòa tử còn lại sẽ
phân rã thành các proton, là nhân của các nguyên tử khinh khí bình thường.
Hình ảnh một giai đoạn đầu
nóng của vũ trụ được đề xướng lần đầu bởi khoa học gia George Gamow trong một
tài liệu nổi tiếng được viết năm 1948 với một học trò của ông, Ralph Alpher.
Gamow quả đã có óc khôi hài -- ông đã thuyết phục khoa học gia hạt nhân Hans
Bethe để thêm tên ông ta vào tài liệu để tên các tác giả trở thành
"Alpher, Bethe, Gamow," giống như ba mẫu tự đầu tiên của bảng mẫu tự
Hy Lạp, alpha, beta, gamma: đặc biệt thích hợp cho một tài liệu nói về sự khởi
đầu của vũ trụ! Trong tài liệu này họ đã đưa ra sự tiên đoán quan trọng là sự bức
xạ (dưới hình thức các quang tử) ngay từ những giai đoạn rất nóng lúc đầu của
vũ trụ phải vẫn còn phải tồn tại đâu đây ngày nay, nhưng với nhiệt độ của nó giảm
chỉ còn vài độ trên không độ tuyệt đối (-273? C). Đây chính là sự bức xạ mà
Penzias và Wilson đã tìm ra năm 1965. Vào lúc mà Alpher, Bethe và Gamow viết
tài liệu của họ, người ta không biết nhiều về những phản ứng hạt nhân của các
proton và trung hòa tử. Những tiên đoán về tỉ lệ các nguyên tố khác nhau trong
vũ trụ sơ khai do đó không chính xác mấy, nhưng những tính toán này đã được lập
lại theo sự hiểu biết tốt hơn và hiện giờ rất phù hợp với những gì mà chúng ta
quan sát. Hơn nữa, rất khó giải thích bằng bất cứ đường lối nào khác tại sao phải
có nhiều helium như vậy trong vũ trụ. Do đó chúng ta khá tự tin rằng chúng ta
đang có hình ảnh đúng, ít nhất ngược lại khoảng 1 giây đồng hồ sau vụ nổ lớn.
Chỉ trong vòng vài giờ sau vụ
nổ lớn, việc sản xuất ra helium và những nguyên tố khác sẽ ngưng lại. Và sau
đó, trong khoảng một triệu năm kế tiếp, vũ trụ vẫn tiếp tục bành trướng, không
có gì nhiều xảy ra. Cuối cùng, một khi nhiệt độ đã giảm còn vài ngàn độ, và các
điện tử và nhân không còn đủ năng lượng để thắng thế sự thu hút điện từ giữa
chúng với nhau, chúng khởi sự kết hợp lại để làm thành các nguyên tử. Tổng thể
vũ trụ tiếp tục bành trướng và nguội lại, nhưng ở những khu vực hơi đậm đặc hơn
mức trung bình, sự bành trướng sẽ phải chậm lại bởi sự hấp dẫn của trọng lực mạnh
hơn nơi khác. Điều này cuối cùng sẽ làm ngưng sự bành trướng tại vài khu vực và
khiến chúng khởi sự suy sụp trở lại. Khi chúng suy sụp, sức kéo trọng lực của vật
chất bên ngoài những khu vực này có thể khiến chúng khởi sự quay nhẹ. Khi khu vực
sụp đổ trở thành nhỏ hơn, nó sẽ quay nhanh hơn -- giống như những người trượt
băng quay tròn trên băng nhanh hơn khi họ thu hai cánh tay lại. Cuối cùng, khi
khu vực trở thành đủ nhỏ, nó sẽ quay đủ nhanh để cân bằng sức thu hút của trọng
lực, và bằng cách này những thiên hà quay hình đĩa đã được sinh ra. Những khu vực
khác, không khởi sự quay, sẽ trở thành những vật thể hình bầu dục gọi là những
thiên hà hình e-líp. Trong những thiên hà này, khu vực sẽ ngưng suy sụp bởi vì
những phần riêng rẽ của thiên hà sẽ quay tròn một cách ổn định chung quanh
trung tâm của nó, nhưng thiên hà sẽ không quay toàn thể.
Khi thời gian trôi qua,
khinh khí và khí helium trong thiên hà tách ra thành những đám mây nhỏ hơn và
co sụp dưới trọng lực của chúng. Khi những đám mây này co rút lại, và những
nguyên tử bên trong chúng va chạm với nhau, nhiệt độ của chất khí sẽ tăng lên,
cho tới khi cuối cùng nó trở thành đủ nóng để khởi sự các phản ứng tổng hợp hạt
nhân. Những phản ứng này sẽ biến đổi khinh khí thành nhiều helium hơn, và sức
nóng phát ra sẽ làm tăng áp suất, và do đó làm các đám mây ngưng co rút thêm nữa.
Chúng vẫn ổn định trong trạng thái này trong một thời gian dài như những ngôi
sao giống mặt trời của chúng ta, khi đốt khinh khí thành helium và phát ra năng
lượng dưới hình thức nhiệt và ánh sáng. Những ngôi sao khối lượng lớn hơn sẽ cần
phải nóng nhiều hơn để cân bằng hấp lực mạnh hơn của chúng, khiến các phản ứng
tổng hợp hạt nhân diễn ra nhanh hơn đến độ chúng sẽ sử dụng hết số khinh khí của
chúng chỉ trong vòng một trăm triệu năm. Khi đó chúng co rút lại một chút, và
khi chúng nóng thêm, sẽ khởi sự chuyển đổi helium thành những nguyên tố nặng
hơn như carbon và dưỡng khí (oxygen). Tuy nhiên, việc này sẽ không thải ra nhiều
năng lượng, do đó một cuộc khủng hoảng sẽ xảy ra, như đã được mô tả trong
chương nói về các hố đen. Những gì xảy ra tiếp theo thì không hoàn toàn minh bạch,
nhưng có thể là những khu vực trung tâm của ngôi sao sẽ sụp đổ tới một trạng thái
thật đậm đặc, như một ngôi sao trung hòa tử hoặc hố đen. Những khu vực bên
ngoài của ngôi sao đôi khi có thể bị nổ tung trong một vụ nổ mạnh gọi là một vụ
nổ siêu tân tinh (supernova), sẽ sáng hơn mọi ngôi sao khác trong thiên hà của
nó. Một vài trong số những nguyên tố nặng hơn được sinh ra vào lúc gần cuối cuộc
đời của một ngôi sao sẽ bị biến trở lại thành khí trong thiên hà, và sẽ cung cấp
một vài trong số nguyên liệu để làm thành thế hệ các ngôi sao mới. Mặt trời của
chúng ta chứa vào khoảng 2 phần trăm những nguyên tố nặng hơn này bởi vì nó là
một ngôi sao ở thế hệ thứ hai hoặc thứ ba, được hình thành khoảng năm ngàn triệu
năm về trước từ một đám mây gồm chất khí quay tròn chứa vật chất vương vãi của
những vụ nổ siêu tân tinh trước đó. Hầu hết chất khí trong đám tinh vân đó đã
làm thành mặt trời hoăïc bị thổi bay đi, nhưng một lượng nhỏ các nguyên tố nặng
hơn đã tập hợp lại với nhau để làm thành các vật thể hiện giờ quay chung quanh
mặt trời với tính cách các hành tinh như trái đất.
Trái đất lúc đầu rất nóng và
không có bầu khí quyển. Theo thời gian nó nguội đi và có một bầu khí quyển phát
sinh từ sự thoát các chất hơi từ đá. Bầu khí quyển ban đầu này không phải là bầu
khí quyển mà chúng ta có thể sống trong đó. Nó không chứa dưỡng khí, mà chứa
nhiều các chất khí khác độc hại đối với chúng ta, như chất hydrogen sulfide (chất
khí phát ra mùi trứng thối). Tuy nhiên, có những hình thức sơ khai khác của đời
sống có thể phát triển dưới những điều kiện này. Người ta cho rằng chúng đã
phát triển ở các đại dương, có thể như là kết quả của những sự phối hợp tình cờ
các nguyên tử thành những cơ cấu lớn hơn, gọi là các đại phân tử
(macromolecule), có khả năng kết hợp các nguyên tử khác trong đại dương thành
những cơ cấu tương tự. Chúng tự sinh sôi nảy nở. Trong vài trường hợp sẽ có những
lầm lẫn trong sự sinh sản. Hầu hết những lầm lẫn này trầm trọng đến nỗi phân tử
mới không thể tự sinh sản và cuối cùng bị hủy diệt. Tuy nhiên, một ít những lầm
lẫn này đã sinh ra những đại phân tử mới tốt hơn trong việc tự sinh sản. Do đó
chúng đãõ có một lợi thế và đãõ có khuynh hướng thay thế các đại phân tử nguyên
thủy. Theo đường lối này một tiến trình tiến hóa đã khởi sự, đưa tới sự phát
triển các sinh vật tự sinh sản ngày càng phức tạp hơn. Những hình thức sơ khai
của đời sống đã tiêu thụ những vật liệu khác nhau, kể cả chất hydrogen sulfide,
và thải ra dưỡng khí. Điều này dần dần đã thay đổi bầu khí quyển thành một tổng
hợp mà nó có ngày nay và cho phép phát triển những hình thức đời sống cao hơn
như cá, loài bò sát, loài có vú, và cuối cùng là loài người.
Hình ảnh này của một vũ trụ
khởi đầu thật nóng và nguội dần khi bành trướng phù hợp với mọi bằng chứng quan
sát mà chúng ta có ngày nay. Tuy nhiên, còn một số câu hỏi quan trọng chưa được
giải đáp:
(1) Tại sao vũ trụ ban đầu lại
nóng như thế?
(2) Tại sao vũ trụ lại đồng
nhất như vậy, khi xét trên đại quy mô? Tại sao nó trông như nhau tại mọi điểm của
không gian và theo mọi hướng? Đặc biệt, tại sao nhiệt độ của bối cảnh bức xạ vi
ba lại gần giống nhau như vậy khi chúng ta nhìn về những hướng khác nhau? Đyếu
này hơi giống như hỏi một số các học sinh một câu hỏi khảo thí. Nếu tất cả họ đều
cho một câu trả lời đúng như nhau, bạn có thể khá chắc chắn họ thông tin cho
nhau. Tuy nhiên, trong mô hình được mô tả ở trên, đã không có thời gian kể từ vụ
nổ lớn để ánh sáng từ một khu vực xa tới một khu vực khác, mặc dù các khu vực nằm
gần nhau ở vũ trụ sơ khai. Theo thuyết tương đối, nếu ánh sáng không thể đi từ
một khu vực này tới một khu vực khác, các thông tin khác cũng không thể truyền đi
được. Do đó không có cách nào để các khu vực khác nhau ở vũ trụ sơ khai có thể
đạt tới cùng nhiệt độ như nhau, trừ phi vì một lý do nào đó không được giải
thích chúng tình cờ khởi đầu với cùng nhiệt độ.
(3) Tại sao vũ trụ khởi đầu
với nhịp độ bành trướng gần mức tới hạn như thế, khiến có những mô hình sẽ suy
sụp và có những mô hình tiếp tục bành trướng mãi mãi, để ngay cả bây giờ, mười
ngàn triệu năm sau, nó vẫn đang bành trướng với mức độ gần như tới hạn? Nếu nhịp
độ bành trướng một giây sau vụ nổ lớn nhỏ hơn dù một phần của một trăm ngàn triệu
triệu, vũ trụ đãõ sụp đổ trở lại trước khi nó đạt tới cỡ hiện nay.
(4) Mặc dù vũ trụ đồng nhất
và giống nhau như vậy trên một tầm mức quy mô, nó chứa những bất thường có tính
cách khu vực, như các ngôi sao và các thiên hà. Người ta cho rằng những vật thể
này đã phát triển từ những khác biệt nhỏ về mật độ của vũ trụ sơ khai ở khu vực
này so với khu vực kia. Nguồn gốc của những biến động về mật độ này là gì?
Thuyết tương đối tổng quát,
một mình nóù, không thể giải thích những đặc điểm này hoặc trả lời những câu hỏi
này bởi vì nó tiên đoán rằng vũ trụ đã khởi đầu với mật độ vô hạn ở điểm kỳ dị
nổ lớn. Ở tình trạng điểm kỳ dị, thuyết tương đối tổng quát và mọi định luật vật
lý khác sẽ sụp đổ: người ta không thể tiên đoán điều gì sẽ phát sinh từ điểm kỳ
dị. Như đã được giải thích trước đây, điều này có nghĩa là người ta cũng có thể
loại bỏ vụ nổ lớn, và bất cứ biến cố nào trước nó, ra khỏi lý thuyết, bởi vì
chúng có thể không có hậu quả nào đối với những gì mà chúng ta quan sát.
Không-thời gian có một biên giới -- một sự khởi đầu vào lúc xẩy ra vụ nổ lớn.
Khoa học có vẻ đã khám phá một
bộ các định luật mà, trong những giới hạn được ấn định bởi nguyên tắc bất định,
cho chúng ta biết vũ trụ sẽ phát triển như thế nào theo thời gian, nếu chúng ta
biết tình trạng của nó ở bất cứ thời điểm nào. Những định luật này có thể lúc đầu
đã được đặt ra bởi Thượng Đế, nhưng hình như từ đó ngài đã để mặc cho vũ trụ tiến
hóa theo các định luật và hiện giờ không can thiệp vào. Nhưng ngài đã lựa chọn
tình trạng hay hình dạng sơ khai của vũ trụ như thế nào? Những "điều kiện
biên giới" vào lúc khởi đầu thời gian là gì?
Có thể trả lời rằng Thượng Đế
đã chọn hình dung sơ khởi của vũ trụ vì những lý do mà chúng ta không thể hy vọng
hiểu được. Điều này chắc chắn đã nằm trong khả năng của một đấng toàn năng,
nhưng nếu ngài đã khởi đầu nó theo một cách không thể hiểu nổi như vậy, tại sao
còn để nó tiến hóa theo các định luật mà chúng ta hiểu được? Toàn thể lịch sử của
khoa học đã là sự nhận thức dần dần rằng các biến cố không xảy ra một cách tùy
tiện, nhưng rằng chúng phản ảnh một số trật tự rõ rệt nào đó, có thể hay không
thể gây ra bởi thần thánh. Sẽ chỉ là một điều tự nhiên khi giả định rằng trật tự
này phải áp dụng không những cho các định luật, mà còn cho những điều kiện tại
biên giới của không-thời gian mà tình trạng sơ khai của vũ trụ được ấn định. Có
thể có một số lớn các mô hình vũ trụ với những điều kiện sơ khai khác nhau mà tất
cả đều tuân theo các định luật. Phải có nguyên tắc nào đó đã lựa chọn một tình
trạng sơ khai, và từ đó một mô hình, để mô tả vũ trụ của chúng ta.
Một sự khả dĩ như vậy là những
gì được gọi là các điều kiện biên giới hỗn loạn. Những điều kiện này giản dị
cho rằng hoặc vũ trụ vô tận về không gian hoặc có vô số vũ trụ trụ tới mức vô tận.Theo
các điều kiện biên giới hỗn loạn, xác suất tìm được bất cứ khu vực không gian đặc
biệt nào trong bất cứ hình thể nào ngay sau vụ nổ lớn cũng giống như, theo một
nghĩa nào đó, xác suất tìm ra nó trong bất cứ hình thể nào khác: tình trạng sơ
khai của vũ trụ được lựa chọn thuần túy một cách tình cờ. Điều này sẽ có nghĩa
rằng vũ trụ ban đầu có thể đã rất hỗn loạn và bất thường bởi vì có nhiều hình dạng
của vũ trụ hỗn loạn hơn và mất trật tự hơn so với những hình dạng trơn tru và
trật tự. (Nếu mỗi hình dạng đều có xác suất bằng nhau, có lẽ vũ trụ đã khởi đầu
ở một tình trạng hỗn loạn và mất trật tự, giản dị bởi vì có quá nhiều hình dạng
như vậy.) Thật khó chấp nhận làm thế nào những điều kiện sơ khởi hỗn loạn như vậy
có thể đưa tới một vũ trụ trơn tru và bình thường trên một tầm cỡ quy mô như vũ
trụ của chúng ta ngày nay. Người ta cũng sẽ trông đợi những biến động về mật độ
trong một mô hình như vậy phải đưa tới việc hình thành những hố đen nguyên thủy
nhiều hơn nhiều so với mức tối đa đã được đặt ra bởi những quan sát bối cảnh
tia gamma.
Nếu vũ trụ quả thật vô hạn về
không gian, hoặc nếu vũ trụ nhiều vô số, có thể sẽ có vài khu vực rộng lớn ở
đâu đó đã khởi đầu trong một trạng thái trơn tru và đồng nhất. Nó cũng hơi giống
như bầy khỉ gõ hoài trên các máy đánh chữ -- hầu hết những gì chúng viết ra sẽ
đều là rác rưởi, nhưng hi hữu thuần túy do tình cờ chúng đánh ra một trong những
bài thơ ngắn của Shakespeare. Tương tự như vậy, trong trường hợp vũ trụ, liệu
có thể rằng chúng ta đang sống trong một khu vực chỉ vì tình cờ mà trơn tru và
đồng nhất hay không? Mới nhìn qua điều này có vẻ rất khó xảy ra, bởi vì những
khu vực trơn tru như vậy sẽ bị tràn ngập bởi những khu vực hỗn loạn và không đều.
Tuy nhiên, giả sử rằng chỉ ở những khu vực trơn tru các thiên hà và các ngôi
sao mới được hình thành và các điều kiện trở nên thích hợp cho sự phát triển
các sinh vật phức tạp tự sinh sản như chúng ta, những sinh vật có khả năng đặt
ra câu hỏi: Tại sao vũ trụ lại trơn tru như vậy? Đây là một thí dụ của sự áp dụng
điều được gọi là nguyên tắc vị nhân chủng, có thể được diễn tả bằng câu
"Chúng ta thấy vũ trụ như ngày nay bởi vì chúng ta hiện hữu."
Có hai phiên bản của nguyên
tắc vị nhân chủng, nguyên tắc yếu và nguyên tắc mạnh. Nguyên tắc vị nhân chủng
yếu nói rằng trong một vũ trụ lớn hoặc vô hạn về không gian và thời gian, các
điều kiện cần thiết cho sự phát triển đời sống thông minh sẽ chỉ đạt được trong
một số khu vực giới hạn về không gian và thời gian. Các sinh vật thông minh
trong những khu vực này do đó sẽ không bị ngạc nhiên nếu họ quan sát thấy rằng
nơi chốn của họ trong vũ trụ thỏa mãn những điều kiện cần thiết cho sự hiện hữu
của họ. Nó hơi giống như một người giầu sinh sống trong một khu nhà giầu không
nhìn thấy sự nghèo khó nào cả.
Một thí dụ của việc sử dụng
nguyên tắc vị nhân chủng yếu là để "giải thích" tại sao vụ nổ lớn đã
xảy ra mười ngàn triệu năm về trước -- nó cần thời gian dài như thế để các sinh
vật thông minh tiến hóa. Như đã được giải thích ở trên, một thế hệ ban đầu các
ngôi sao trước hết phải hình thành. Những ngôi sao này đã biến đổi một số khinh
khí và helium nguyên thủy thành các nguyên tố như carbon và dưỡng khí, từ đó
chúng ta được cấu tạo. Các ngôi sao sau đó nổ như những vụ nổ siêu tân tinh, và
những mảnh vụn của chúng làm thành những ngôi sao khác và các hành tinh, trong
số đó có các ngôi sao và hành tinh của Thái Dương Hệ chúng ta, khoảng năm ngàn
triệu năm tuổi. Một hoặc hai ngàn triệu năm đầu của sự hiện hữu của trái đất đã
quá nóng cho sự phát triển bất cứ cái gì phức tạp. Khoảng ba ngàn triệu năm còn
lại đã âm ỉ tiến trình tiến hóa sinh học, đã từ những sinh vật đơn giản nhất
đưa tới những sinh vật có khả năng đo lường thời gian ngược trở lại vụ nổ lớn.
Ít ai tranh cãi về sự hợp lý
hoặc ích lợi của nguyên tắc vị nhân chủng yếu. Tuy nhiên, vài người còn đi xa
hơn nhiều và đề xuất một loại nguyên tắc vị nhân chủng mạnh. Theo thuyết này,
hoặc có nhiều vũ trụ khác nhau hoặc nhiều khu vực khác nhau trong một vũ trụ
duy nhất, mỗi khu vực có hình dạng sơ khởi riêng và, có thể, có những bộ định
luật khoa học riêng. Trong hầu hết các vũ trụ này những điều kiện sẽ không
thích hợp cho sự phát triển các sinh vật phức tạp; chỉ trong một số ít các vũ
trụ giống như vũ trụ của chúng ta các sinh vật thông minh mới phát triển và đặt
ra câu hỏi: "Tại sao vũ trụ lại như chúng ta nhìn thấy?" Câu trả lời
khi đó sẽ đơn giản: Nếu nó khác, chúng ta sẽ không ở đây!
Các định luật khoa học, như
chúng ta biết hiện nay, chứa nhiều con số căn bản, như cỡ các điện tích của điện
tử và tỉ số các khối lượng của proton và điện tử. Chúng ta không thể, ít ra là
vào lúc này, từ lý thuyết tiên đoán được các trị số của những con số này --
chúng ta phải tìm ra chúng bằng sự quan sát. Có thể rằng một ngày nào đó chúng
ta sẽ khám phá ra một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh tiên đoán được tất cả những
trị số đó, nhưng cũng có thể rằng một vài hoặc tất cả những trị số đó thay đổi
từ vũ trụ này với vũ trụ khác hoặc bên trong một vũ trụ duy nhất. Sự kiện đáng
chú ý là các trị số của những con số này có vẻ đã được điều chỉnh rất tỉ mỉ để
làm cho sự phát triển đời sống có thể xảy ra. Chẳng hạn nếu điện tích của điện
tử chỉ khác đi chút ít, các ngôi sao hoặc đã không thể đốt khinh khí và helium,
hoặc nếu không chúng đã không nổ. Dĩ nhiên, có thể có những hình thức đời sống
thông minh khác, ngay cả các nhà văn viết truyện khoa học giả tưởng cũng không
tưởng tượng nổi, không đòi hỏi ánh sáng của một ngôi sao như mặt trời hoặc những
nguyên tố hóa học nặng hơn được cấu tạo ở các ngôi sao và bị bắn trở lại vào
không gian khi các ngôi sao nổ. Tuy nhiên, có vẻ rõ ràng là có một số tương đối
ít các trị số cho các con số cho phép sự phát triển của bất cứ hình thức đời sống
thông minh nào. Hầu hết các bộ trị số sẽ đưa tới những vũ trụ mà trong đó, mặc
dù chúng có thể rất đẹp, sẽ không chứa sinh vật để chiêm ngưỡng cái đẹp đó. Người
ta có thể coi đây như là bằng chứng của một mục tiêu thần thánh trong sự Sáng
Thế và sự lựa chọn những định luật khoa học hoặc như sự hỗ trợ cho nguyên tắc vị
nhân chủng mạnh.
Có một số những phản đối mà
người ta có thể nêu lên đối với nguyên tắc vị nhân chủng mạnh như một sự giải
thích trạng thái của vũ trụ đã được quan sát. Trước hết, theo ý nghĩa nào mà tất
cả những vũ trụ khác nhau này có thể được nói là hiện hữu? Nếu chúng thực sự
tách biệt với nhau, những gì xảy ra trong một vũ trụ khác có thể không có những
hậu quả khả dĩ quan sát được trong vũ trụ của chúng ta. Do đó chúng ta phải sử
dụng nguyên tắc tiết kiệm và loại chúng khỏi lý thuyết. Nếu, mặt khác, chúng chỉ
là những khu vực khác nhau của một vũ trụ duy nhất, các định luật khoa học sẽ
như nhau trong mỗi khu vực, bởi vì nếu không người ta không thể di chuyển liên
tục từ một khu vực này sang một khu vực khác. Trong trường hợp này, sự khác biệt
duy nhất giữa các khu vực sẽ là hình dạng sơ khởi của chúng và do đó nguyên tắc
vị nhân chủng mạnh sẽ giảm xuống thành nguyên tắc yếu.
Một sự phản đối thứ nhì đối
với nguyên tắc vị nhân chủng mạnh là nó chống lại ngọn triều của toàn thể lịch
sử khoa học. Chúng ta đã tiến triển từ các môn vũ trụ học của Ptolemy và những
người đi trước ông, coi trái đất là trung tâm, qua vũ trụ học của Copernicus và
Galileo, coi mặt trời là trung tâm, tới hình ảnh thời nay trong đó trái đất là
một hành tinh cỡ trung bình quay chung quanh một ngôi sao cỡ trung bình ở ngoài
ven của một thiên hà xoắn ốc bình thường, chính thiên hà này cũng chỉ là một
trong khoảng một triệu triệu thiên hà trong vũ trụ có thể quan sát được. Vậy mà
nguyên tắc vị nhân chủng mạnh nói rằng toàn thể kiến trúc rộng lớn này hiện hữu
giản dị để phục vụ chúng ta. Điều này thật khó mà tin được. Thái Dương Hệ này
chắc chắn là một tiền đề cho sự hiện hữu của chúng ta, và người ta có thể nới rộng
điều này cho toàn thể thiên hà của chúng ta để cho phép một thế hệ các ngôi sao
trước đây tạo ra những nguyên tố nặng hơn. Nhưng có vẻ không có nhu cầu nào cho
tất cả những thiên hà khác, cũng như để cho vũ trụ đồng nhất và tương tự ở mọi
hướng trên một tầm mức lớn.
Người ta sẽ cảm thấy hài
lòng hơn về nguyên tắc vị nhân chủng, ít ra là ở thể yếu, nếu người ta có thể
chứng tỏ rằng một số các hình dạng sơ khởi khác nhau gán cho vũ trụ sẽ phải tiến
hóa để sản xuất một vũ trụ như cái vũ trụ mà chúng ta quan sát. Nếu trường hợp
này đúng, một vũ trụ phát triển từ một loại những điều kiện sơ khởi tình cờ nào
đó sẽ phải chứa đựng một số khu vực trơn tru và đồng đều và thích hợp cho sự tiến
hóa của đời sống thông minh. Mặt khác, nếu tình trạng sơ khởi của vũ trụ phải
được lựa chọn một cách hết sức thận trọng để đưa tới cái giống như những gì
chúng ta nhìn thấy chung quanh chúng ta, vũ trụ sẽ khó chứa đựng bất cứ khu vực
nào trong đó đời sống sẽ xuất hiện. Trong mô hình nổ lớn nóng được mô tả ở
trên, không có đủ thời gian ở vũ trụ ban đầu để nhiệt truyền từ khu vực này
sang khu vực khác. Điều này có nghĩa trạng thái ban đầu của vũ trụ sẽ phải có
nhiệt độ đúng y như nhau ở mọi nơi để giải thích sự kiện rằng nền sóng ngắn có
cùng nhiệt độ ở mọi hướng mà chúng ta nhìn. Nhịp độ bành trướng ban đầu cũng sẽ
phải được lựa chọn thật chính xác để nhịp độ bành trướng sẽ gần sát với nhịp độ
tới hạn cần thiết để tránh suy sụp trở lại. Điều này có nghĩa là trạng thái sơ
khởi của vũ trụ quả thật đã phải được lựa chọn thật cẩn thận nếu mô hình nổ lớn
nóng là đúng từ lúc khởi thủy của thời gian. Sẽ rất khó giải thích tại sao vũ
trụ đã phải bắt đầu đúng như vậy, trừ phi đó là hành động của một Thượng Đế muốn
tạo ra những sinh vật như chúng ta.
Trong một cố gắng để tìm ra
một mô hình vũ trụ trong đó nhiều hình dạng sơ khởi khác nhau có thể đã tiến
hóa tới tình trạng như vũ trụ hiện nay, một khoa học gia tại Viện Kỹ Thuật Học
Massachusetts (MIT), Alan Guth, đã cho rằng vũ trụ ban đầu có thể đã trải qua một
thời kỳ bành trướng rất nhanh. Sự bành trướng này được gọi là "lạm
phát," nghĩa là có một lúc vũ trụ đã bành trướng theo một nhịp độ ngày
càng tăng thay vì nhịp độ giảm dần như ngày nay. Theo Guth, bán kính của vũ trụ
đã gia tăng gấp một triệu triệu triệu triệu triệu (số 1 với ba mươi số không
theo sau) lần chỉ trong vòng một phần nhỏ của một giây.
Guth cho rằng vũ trụ đã khởi
đầu từ vụ nổ lớn trong một tình trạng rất nóng, nhưng hơi hỗn loạn. Những nhiệt
độ cao này có nghĩa rằng các hạt trong vũ trụ đã di chuyển rất nhanh và đãõ có
các năng lượng cao. Như chúng ta đã thảo luận trước đây, người ta sẽ trông đợi
rằng ở những nhiệt độ cao như vậy các lực hạt nhân mạnh và yếu và lực điện từ sẽ
thống nhất tất cả với nhau thành một lực duy nhất. Khi vũ trụ bành trướng, nó sẽ
nguội lại, và các năng lượng hạt sẽ giảm đi. Cuối cùng sẽ có điều được gọi là một
sự chuyển tiếp pha (phase transition) và sự đối xứng giữa các lực sẽ bị phá vỡ:
lực mạnh sẽ trở nên khác với các lực yếu và điện từ. Một thí dụ thông thường của
một sự chuyển tiếp pha là sự đông đá của nước khi bạn làm nguội nó đi. Nước lỏng
có tính cách đối xứng, giống nhau ở mọi điểm và mọi hướng. Tuy nhiên, khi các
tinh thể nước đá hình thành, chúng sẽ có những vị trí xác định và sẽ được sắp xếp
theo một hướng nào đó. Điều này phá vỡ sự đối xứng của nước.
Trong trường hợp nước, nếu
người ta cẩn thận, người ta có thể làm "siêu lạnh" nó, nghĩa là, người
ta có thể giảm nhiệt độ xuống dưới điểm đông đá (0o C) mà không làm đông đá.
Guth cho rằng vũ trụ có thể đã cư xử theo một đường lối tương tự: nhiệt độ có
thể hạ xuống dưới trị số tới hạn mà sự đối xứng giữa các lực không bị phá vỡ. Nếu
điều này xảy ra, vũ trụ sẽ ở trong một trạng thái không bền, với nhiều năng lượng
hơn là nếu sự đối xứng đã bị phá vỡ. Năng lượng phụ trội đặc biệt này có thể được
chứng tỏ là có một hậu quả phản trọng lực: nó sẽ phản ứng giống như hằng số vũ
trụ mà Einstein đã đưa vào thuyết tương đối tổng quát khi ông cố xây dựng một
mô hình tĩnh cho vũ trụ. Bởi vì vũ trụ đang bành trướng giống như trong một mô
hình nổ lớn nóng, tác dụng đẩy của hằng số vũ trụ này do đó đã làm cho vũ trụ
bành trướng với một nhịp độ ngày càng tăng. Ngay cả trong những khu vực có nhiều
hạt vật chất hơn mức trung bình, sức hấp dẫn trọng lực của vật chất sẽ bị đè bẹp
bởi sức đẩy của tác dụng hằng số vũ trụ. Do đó những khu vực này cũng sẽ bành
trướng một cách quá lạm phát. Khi chúng bành trướng và các hạt vật chất trở nên
càng xa nhau, sẽ còn một vũ trụ bành trướng khó còn chứa đựng hạt nào mà vẫn
còn ở trong tình trạng siêu lạnh. Bất cứ sự bất thường nào trong vũ trụ sẽ giản
dị trở nên trơn tru do sự bành trướng, giống như những vết nhăn trên một quả
bóng trở nên nhẵn nhụi khi người ta thổi phồng nó lên. Do đó tình trạng trơn
tru và đồng đều của vũ trụ có thể đã tiến hóa từ nhiều tình trạng sơ khởi không
đồng đều khác nhau.
Trong một vũ trụ như vậy,
trong đó sự bành trướng được gia tốc bởi hằng số vũ trụ thay vì chậm lại bởi hấp
dẫn trọng lực của vật chất, sẽ có đủ thời gian để ánh sáng di chuyển từ một khu
vực này sang một khu vực khác trong vũ trụ sơ khai. Điều này có thể cung cấp một
giải đáp cho vấn đề, được nêu lên trước đây, là tại sao những khu vực khác nhau
trong vũ trụ ban đầu đã có cùng các tính chất. Hơn nữa, nhịp độ bành trướng của
vũ trụ sẽ tự động trở thành rất gần với nhịp độ tới hạn định đoạt bởi mật độ năng
lượng của vũ trụ. Điều này do đó có thể giải thích tại sao nhịp độ bành trướng
vẫn còn gần với nhịp độ tới hạn, mà không phải giả định rằng nhịp bành trướng
ban đầu của vũ trụ đã được lựa chọn thật cẩn thận.
Ý niệm lạm phát có thể cũng
giải thích được tại sao có nhiều vật chất trong vũ trụ như vậy. Có vào khoảng
mười triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu triệu
triệu triệu (số 1 với 80 số không theo sau) hạt ở trong khu vực vũ trụ mà chúng
ta có thể quan sát. Chúng tất cả đã từ đâu đến? Câu trả lời là, trong thuyết lượng
tử, các hạt có thể được tạo ra từ năng lượng dưới hình thức những cặp hạt/phản
hạt. Nhưng điều đó lại đặt ra vấn đề năng lượng từ đâu mà ra. Câu trả lời là
năng lượng tổng cộng của vũ trụ vừa đúng bằng số không. Vật chất trong vũ trụ
được cấu tạo bởi năng lượng dương. Tuy nhiên, vật chất tất cả đều tự hấp dẫn bởi
trọng lực. Hai mẩu vật chất nằm gần nhau có ít năng lượng hơn là cũng hai mẩu
đó nằm cách xa nhau, bởi vì người ta phải tốn năng lượng để tách rời chúng chống
lại hấp lực kéo chúng lại gần nhau. Như vậy, theo một nghĩa nào đó, trọng trường
có năng lượng âm. Trong trường hợp một vũ trụ gần như đồng đều trong không
gian, người ta có thể chứng tỏ rằng năng lượng hấp dẫn âm này vừa đúng triệt
tiêu năng lượng dương biểu hiện bởi vật chất. Do đó năng lượng tổng cộng của vũ
trụ là số không.
Mà hai lần số không cũng là
số không. Như vậy vũ trụ có thể tăng gấp đôi số năng lượng vật chất dương và
cũng tăng gấp đôi năng lượng hấp dẫn âm mà không vi phạm sự bảo tồn năng lượng.
Điều này không xảy ra trong sự bành trướng bình thường của vũ trụ trong đó mật
độ năng lượng của vật chất giảm đi khi vũ trụ trở nên lớn hơn. Tuy nhiên, nó xảy
ra trong sự bành trướng quá lạm phát bởi vì mật độ năng lượng của tình trạng
siêu lạnh vẫn không đổi trong khi vũ trụ bành trướng: khi vũ trụ lớn gấp đôi,
năng lượng vật chất dương và năng lượng hấp dẫn âm cả hai đều tăng gấp đôi, do
đó năng lượng tổng cộng vẫn bằng 0. Trong giai đoạn quá lạm phát, vũ trụ gia
tăng độ lớn bởi một lượng rất lớn. Do đó số năng lượng tổng cộng để làm ra các
hạt trở nên rất lớn.
Vũ trụ ngày nay không bành
trướng theo kiểu quá lạm. Như vậy phải có một cơ chế nào đó đã loại trừ hằng số
vũ trụ rất lớn và do đó thay đổi nhịp độ bành trướng từ nhanh dần thành chậm dần
bởi hấp lực, như chúng ta có ngày nay. Trong sự bành trướng quá lạm phát người
ta có thể trông đợi rằng cuối cùng sự đối xứng giữa các lực sẽ bị phá vỡ, giống
như nước siêu lạnh cuối cùng luôn luôn đông lại. Năng lượng phụ trội của tình
trạng đối xứng không bị phá vỡ khi đó sẽ được giải phóng và sẽ làm nóng trở lại
vũ trụ tới một nhiệt độ chỉ dưới nhiệt độ tới hạn cho sự đối xứng giữa các lực.
Vũ trụ khi đó sẽ tiếp tục bành trướng và nguội lại giống như mô hình nổ lớn
nóng, nhưng bây giờ sẽ có một sự giải thích tại sao vũ trụ lại bành trướng ở
đúng nhịp độ tới hạn và tại sao các khu vực khác nhau lại có cùng nhiệt độ.
Trong đề xuất sơ khởi của
Guth sự chuyển tiếp pha được coi như xảy ra bất ngờ, hơi giống như sự xuất hiện
của các tinh thể nước đá trong nước thật lạnh. Ông đã cho rằng các "bong
bóng" của giai đoạn mới của sự đối xứng bị phá vỡ đã hình thành trong giai
đoạn trước, giống như những bong bóng hơi nước bị bao quanh bởi nước sôi. Những
bong bóng được cho là sẽ bành trướng và kết hợp với nhau cho tới khi toàn thể
vũ trụ ở trong giai đoạn mới. Điều trục trặc là, như tôi và vài người khác đã vạch
ra, vũ trụ đã bành trướng nhanh đến độ dù cho các bong bóng lớn lên với tốc độ
ánh sáng, chúng sẽ di chuyển rời xa nhau và do đó không thể kết hợp được. Vũ trụ
sẽ ở trong một tình trạng không đồng đều, với vài khu vực vẫn còn có sự đối xứng
giữa những lực khác nhau. Một mô hình vũ trụ như vậy sẽ không phù hợp với những
gì mà chúng ta thấy.
Vào tháng Mười năm 1981, tôi
đã đi Moscow để tham dự một hội nghị về hấp lực lượng tử, Sau hội nghị tôi đã tổ
chức một cuộc hội thảo về mô hình lạm phát và những vấn nạn của nó tại Viện
Thiên Văn Sternberg. Trước đó, tôi đã nhờ người khác đọc giùm những bài viết của
tôi, bởi vì hầu hết mọi người không hiểu được giọng nói của tôi. Nhưng đã không
có thì giờ để sửa soạn cuộc hội thảo này, do đó tôi đã tự đọc, với một trong số
những sinh viên tốt nghiệp của tôi nhắc lại lời tôi nói. Cách đó rất tốt, và đã
giúp tôi tiếp xúc được nhiều hơn với thính giả của tôi. Trong đám thính giả có
một người Nga trẻ tuổi, Andrei Linde, thuộc Viện Lebedev ở Moscow. Ông nói sự
khó khăn về chuyện các bong bóng không thể kết hợp với nhau có thể tránh được nếu
các bong bóng lớn đến độ khu vực vũ trụ của chúng ta tất cả đều được chứa đựng
bên trong một bong bóng duy nhất. Để điều này xảy ra, sự thay đổi từ tình trạngï
đối xứng tới tình trạngï đối xứng bị phá vỡ phải đã diễn ra rất chậm chạp bên
trong bong bóng, nhưng điều này hầu như có thể xảy ra theo các lý thuyết thống
nhất lớn. Ý kiến của Linde về một sự phá vỡ chậm sự đối xứng tỏ ra rất tốt,
nhưng sau đó tôi nhận thấy rằng những bong bóng của ông ta sẽ phải lớn hơn cỡ của
vũ trụ lúc đó! Tôi đã chứng tỏ rằng đúng ra sự đối xứng sẽ sụp đổ tại mọi nơi
cùng một lúc, thay vì chỉ bên trong các bong bóng. Điều này sẽ đưa tới một vũ
trụ đồng nhất, như chúng ta quan sát. Tôi đã rất hứng khởi bởi ý tưởng này và
đã thảo luận nó với một trong những sinh viên của tôi, Ian Moss. Tuy nhiên, với
tư cách một người bạn của Linde, tôi đã hơi bối rối, khi sau đó tôi nhận được một
luận văn của ông, do một đặc san khoa học gửi tới, và hỏi liệu có thích hợp để
đăng hay không. Tôi đã trả lời rằng có khuyết điểm này về chuyện các bong bóng
lớn hơn vũ trụ, nhưng ý niệm căn bản về một phá vỡ chậm của sự đối xứng là điều
rất tốt. Tôi đã khuyến cáo là cứ đăng nguyên văn tài liệu bởi vì Linde sẽ cần
vài tháng để sửa lại, vì bất cứ cái gì ông gửi cho Tây phương cũng phải qua cơ
quan kiểm duyệt của Xô Viết, vốn không chuyên môn lắm và cũng không nhanh nhẹn
đối với các tài liệu khoa học. Thay vào đó, tôi đã viết một tài liệu ngắn cùng
với Ian Moss cũng trong đặc san này trong đó chúng tôi đã vạch ra vấn nạn này về
bong bóng và cho thấy nó có thể được giải quyết như thế nào.
Một ngày sau khi từ Moscow
trở về, tôi khởi hành đi Philadelphia, nơi tôi sẽ nhận một huy chương do Viện
Franklin trao tặng. Cô thư ký của tôi, Judy Fella, đã dùng sự khả ái để thuyết
phục hãng hàng không British Airways cho nàng và tôi hai chỗ ngồi miễn phí trên
một chuyến máy bay Concord như là một hành động quảng cáo. Tuy nhiên, trên đường
tới phi trường tôi bị một trận mưa lớn gây chậm trễ và đã bị lỡ chuyến bay. Dù
sao, cuối cùng tôi cũng đã tới được Philadelphia để nhận huy chương. Rồi tôi được
yêu cầu tổ chức một buổi hội thảo về vũ trụ lạm phát tại trường Đại Học Drexel ở
Philadelphia. Tôi đã nói về những vấn nạn của vũ trụ lạm phát, giống như đã nói
ở Moscow.
Một ý tưởng rất giống với ý
tưởng của Linde đã được đưa ra một cách độc lập một vài tháng sau bởi Paul
Steinhardt và Andreas Albrecht thuộc trường đại học Pennsylvania. Họ hiện giờ
được coi như cùng với Linde có công nghĩ ra cái được gọi là "mô hình lạm
phát mới," căn cứ vào ý tưởng về một phá vỡ chậm của sự đối xứng. (Mô hình
lạm phát cũ là đề xuất nguyên thủy của Guth về sự phá vỡ đối xứng nhanh với sự
hình thành các bong bóng.)
Mô hình lạm phát mới là một
cố gắng tốt để giải thích tại sao vũ trụ lại như ngày nay. Tuy nhiên, tôi và
vài người khác đã chứng tỏ rằng, ít nhất trong hình thức nguyên thủy, nó đã
tiên đoán những biến đổi lớn lao hơn nhiều về nhiệt độ của bối cảnh bức xạ vi
ba so với kết quả được quan sát. Công trình sau này cũng đã đặt ra sự ngờ vực về
chuyện liệu có thể có một chuyển tiếp pha ở chính vũ trụ ban đầu hay không.
Theo quan điểm cá nhân của tôi, mô hình lạm phát mới hiện giờ là một lý thuyết
khoa học đã chết, mặc dù nhiều người có vẻ như đã không nghe nói về cái chết của
nó và vẫn còn đang viết tài liệu như thể nó sống được. Một mô hình tốt hơn, được
gọi là mô hình lạm phát hỗn loạn, đã được đưa ra bởi Linde năm 1983. Trong mô
hình này không có chuyển tiếp pha hoặc siêu lạnh. Thay vào đó, có một trường số
quay 0, mà, bởi vì những biến đổi lượng tử, sẽ có những trị sốù lớn ở vài khu vực
của vũ trụ ban đầu. Năng lượng của trường ở những khu vực đó sẽ phản ứng như một
hằng số vũ trụ. Nó sẽ có một hiệu ứng hấp lực đẩy, và do đó làm cho những khu vực
đó bành trướng theo lối lạm phát. Khi chúng bành trướng, năng lượng của trường
bên trong chúng sẽ từ từ giảm bớt cho tới khi sự bành trướng lạm phát thay đổi
sang một sự bành trướng như trong mô hình nổ lớn nóng. Một trong số những khu vực
này sẽ trở thành những gì mà hiện nay chúng ta thấy với tính cách vũ trụ có thể
quan sát được. Mô hình này có tất cả những ưu điểm của những mô hình lạm phát
trước đây, nhưng nó không tùy thuộc vào một chuyển tiếp pha khó tin, và hơn nữa
nó có thể cho một tầm cỡ vừa phải cho những biến đổi về nhiệt độ của bối cảnh bức
xạ vi ba vốn phù hợp với sự quan sát.
Công trình về các mô hình lạm
phát đã chứng tỏ rằng tình trạng hiện giờ của vũ trụ có thể đã nổi lên từ một con
số khá lớn các hình dạng sơ khởi khác nhau. Điều này rất quan trọng, bởi vì nó
chứng tỏ rằng tình trạng ban đầu của phần vũ trụ mà chúng ta đang sống đã không
được lựa chọn với sự thận trọng lớn lao. Do đó chúng ta có thể, nếu chúng ta muốn,
sử dụng nguyên tắc vị nhân chủng yếu để giải thích tại sao vũ trụ trông giống
như hiện nay. Tuy nhiên, nó không thể là trường hợp cho rằng mọi hình dạng ban
đầu sẽ đưa tới một vũ trụ giống như vũ trụ chúng ta quan sát. Người ta có thể
chứng tỏ điều này bằng cách xem xét một tình trạng rất khác đối với vũ trụ hiện
thời, thí dụ, một tình trạng rất xô bồ và bất thường. Người ta có thể sử dụng
những định luật khoa học để quay vũ trụ ngược thời gian để xác định hình dạng của
nó vào những lúc đầu. Theo những định lý về điểm kỳ dị của thuyết tương đối tổng
quát cổ điển, cũng vẫn có một điểm kỳ dị nổ lớn. Nếu bạn khiến cho một vũ trụ
như vậy tiến hóa theo thời gian, theo các định luật khoa học, cuối cùng bạn sẽ
có một tình trạng xô bồ và bất thường mà bạn đã khởi đầu. Như vậy đã phải có những
hình dạng ban đầu không đưa tới một vũ trụ như chúng ta thấy ngày nay. Do đó
ngay cả mô hình lạm phát cũng không cho chúng ta biết tại sao hình dạng sơ khởi
đã không phát sinh ra cái khác biệt nhiều với những gì chúng ta quan sát. Chúng
ta có phải quay trở lại nguyên tác vị nhân chủng để tìm một sự giải thích hay
không? Phải chăng tất cả chỉ là một tình cờ may mắn? Điều đó sẽ có vẻ là một ý
kiến đáng thất vọng, một sự phủ định mọi hy vọng của chúng ta để hiểu biết về
trật tự tiềm ẩn của vũ trụ.
Để tiên đoán việc vũ trụ đã
phải khởi đầu như thế nào, người ta cần những định luật có giá trị ở lúc khởi đầu
thời gian. Nếu thuyết tương đối tổng quát cổ điển là đúng, những định lý điểm kỳ
dị mà Roger Penrose và tôi đã chứng minh cho thấy rằng sự khởi đầu của thời
gian sẽ phải ở một điểm mật độ vô hạn và độ cong không-thời gian vô hạn. Mọi định
luật khoa học đã biết sẽ sụp đổ ở một điểm như vậy. Người ta có thể giả thử rằng
có những định luật mới có giá trị ở những điểm kỳ dị, nhưng sẽ rất khó khăn để
hình thành những định luật như vậy tại những điểm bất bình thường như vậy, và
chúng ta sẽ không có sự hướng dẫn từ những quan sát để xem những định luật đó
có thể như thế nào. Tuy nhiên, những gì các định lý điểm kỳ dị thực sự cho thấy
là trường hấp lực trở thành mạnh đến độ các hiệu quả hấp lực lượng tử trở thành
quan trọng: lý thuyết cổ điển không còn là một mô tả tốt về vũ trụ. Do đó người
ta phải sử dụng một thuyết trọng lực lượng tử để thảo luận chính những giai đoạn
đầu của vũ trụ. Như chúng ta sẽ thấy, những định luật khoa học thông thường có
thể có giá trị ở mọi nơi trong thuyết lượng tử, kể cả lúc khởi đầu thời gian:
không cần phải đề xuất những định luật mới cho các điểm kỳ dị, bởi vì không cần
có bất cứ điểm kỳ dị nào trong thuyết lượng tử.
Chúng ta chưa có một lý thuyết
trọn vẹn và phù hợp để tổng hợp cơ học lượng tử và hấp lực. Tuy nhiên, chúng ta
khá chắc chắn về vài đặc tính mà một thuyết thống nhất như vậy phải có. Một đặc
điểm là nó phải hội nhập ý kiến của Feynman để hình thành thuyết lượng tử liên
quan đến suốt lịch sử vũ trụ. Theo phương pháp này, một hạt không phải chỉ có một
lịch sử duy nhất, như trong một lý thuyết cổ điển. Thay vào đó, nó được coi như
đi theo mọi con đường có thể có trong không-thời gian, và với mỗi lịch sử trong
số các lịch sử này, có liên kết một cặp số, một số chỉ cỡ của một sóng và số
kia chỉ vị trí của nó trong chu kỳ (pha) của nó. Xác suất để hạt đó đi qua một
điểm đặc biệt nào đó được tìm thấy bằng cách cộng các sóng kết hợp với mọi lịch
sử có thể đi qua điểm đó. Tuy nhiên, khi người ta thực sự cố thực hiện những tổng
số này, người ta gặp phải những khó khăn kỹ thuật trầm trọng. Cách duy nhất để
tránh những khó khăn này là đi theo sự chỉ dẫn đặc biệt: Người ta phải cộng tất
cả những sóng cho các lịch sử hạt không nằm trong thời gian "thực" mà
bạn và tôi trải qua nhưng xảy ra trong cái được gọi là thời gian tưởng tượng.
Thời gian tưởng tượng có thể nghe như khoa học giả tưởng nhưng thực ra nó là một
ý niệm toán học được định nghĩa rõ ràng.
Nếu chúng ta lấy bất cứ con số bình thường nào (hay số "thực") và nhân với chính nó, kết quả là một số dương. (Thí dụ, 2 nhân với 2 là 4, nhưng -2 nhân với -2 cũng là 4). Tuy nhiên, có những con số đặc biệt (gọi là ảo) cho những số âm khi được nhân bởi chính nó. (Số được gọi là i, khi nhân với chính nó, cho ta -1, 2i nhân với chính nó cho ta -4, và cứ thế.) Để tránh những khó khăn kỹ thuật với tổng số lịch sử của Feynman, người ta phải dùng thời gian tưởng tượng. Nghĩa là, vì các mục đích tính toán người ta phải dùng các số ảo để đo thời gian, thay vì các số thật. Điều này có một hậu quả đáng chú ý về không-thời gian: sự phân biệt giữa thời gian và không gian biến mất hoàn toàn. Một không-thời gian trong đó những biến cố có những trị giá ảo về tọa độ thời gian được gọi là thuộc hình học Euclide, gọi theo tên của nhà toán học Hy Lạp Euclide, người đã lập ra sự nghiên cứu hình học của các bề mặt hai chiều. Những gì mà hiện giờ chúng ta gọi là không thời gian theo hình học Euclide rất tương tự ngoại trừ nó có bốn chiều thay vì hai chiều. Trong không-thời gian Euclide không có sự khác biệt giữa chiều thời gian và các chiều không gian. Mặt khác, trong không-thời gian thực, trong đó các biến cố được gán cho những trị số thực, bình thường về tọa độ thời gian, rất dễ nhìn ra sự khác biệt -- hướng thời gian ở mọi điểm nằm bên trong hình nón ánh sáng, và các chiều không gian nằm bên ngoài. Trong bất cứ trường hợp nào, nói về cơ học lượng tử thường ngày, chúng ta có thể coi việc chúng ta sử dụng thời gian tưởng tượng và không-thời gian Euclide như chỉ là một công cụ toán học (hay mánh lới) để tính toán những giải đáp về không-thời gian thực.
Nếu chúng ta lấy bất cứ con số bình thường nào (hay số "thực") và nhân với chính nó, kết quả là một số dương. (Thí dụ, 2 nhân với 2 là 4, nhưng -2 nhân với -2 cũng là 4). Tuy nhiên, có những con số đặc biệt (gọi là ảo) cho những số âm khi được nhân bởi chính nó. (Số được gọi là i, khi nhân với chính nó, cho ta -1, 2i nhân với chính nó cho ta -4, và cứ thế.) Để tránh những khó khăn kỹ thuật với tổng số lịch sử của Feynman, người ta phải dùng thời gian tưởng tượng. Nghĩa là, vì các mục đích tính toán người ta phải dùng các số ảo để đo thời gian, thay vì các số thật. Điều này có một hậu quả đáng chú ý về không-thời gian: sự phân biệt giữa thời gian và không gian biến mất hoàn toàn. Một không-thời gian trong đó những biến cố có những trị giá ảo về tọa độ thời gian được gọi là thuộc hình học Euclide, gọi theo tên của nhà toán học Hy Lạp Euclide, người đã lập ra sự nghiên cứu hình học của các bề mặt hai chiều. Những gì mà hiện giờ chúng ta gọi là không thời gian theo hình học Euclide rất tương tự ngoại trừ nó có bốn chiều thay vì hai chiều. Trong không-thời gian Euclide không có sự khác biệt giữa chiều thời gian và các chiều không gian. Mặt khác, trong không-thời gian thực, trong đó các biến cố được gán cho những trị số thực, bình thường về tọa độ thời gian, rất dễ nhìn ra sự khác biệt -- hướng thời gian ở mọi điểm nằm bên trong hình nón ánh sáng, và các chiều không gian nằm bên ngoài. Trong bất cứ trường hợp nào, nói về cơ học lượng tử thường ngày, chúng ta có thể coi việc chúng ta sử dụng thời gian tưởng tượng và không-thời gian Euclide như chỉ là một công cụ toán học (hay mánh lới) để tính toán những giải đáp về không-thời gian thực.
Một đặc điểm thứ nhì mà
chúng ta nghĩ phải nằm trong bất cứ lịch sử tối hậu nào là ý tưởng của Einstein
cho rằng trường hấp lực được biểu diễn bởi không-thời gian cong: những hạt cố
đi theo cái gần gũi nhất với một con đường thẳng trong một không gian cong,
nhưng bởi vì không-thời gian không phẳng, những đường đi của chúng có vẻ bị
cong, như thể bị uốn cong bởi một trường hấp lực. Khi chúng ta áp dụng tổng số lịch
sử của Feynman cho quan điểm của Einstein về hấp lực, sự tương tự về lịch sử của
một hạt hiện giờ là một không-thời gian cong hoàn toàn biểu hiện lịch sử của
toàn thể vũ trụ. Để tránh những khó khăn kỹ thuật trong việc tính toán thực sự
tổng số lịch sử, những không-thời gian cong này phải được coi như thuộc hình học
Euclide. Nghĩa là, thời gian là ảo và không thể phân biệt được với những chiều
trong không gian. Để tính toán xác suất tìm ra một không-thời gian thực với một
đặc tính chắc chắn nào đó, như nhìn giống nhau tại mọi điểm và theo mọi hướng,
người ta cộng tất cả những sóng kết hợp với mọi lịch sử có đặc điểm đó.
Trong thuyết tương đối tổng
quát cổ điển, có nhiều không-thời gian cong khác nhau, mỗi cái tương ứng với một
tình trạng sơ khởi khác nhau của vũ trụ. Nếu chúng ta biết tình trạng sơ khởi của
vũ trụ, chúng ta sẽ biết trọn lịch sử của nó. Tương tự, trong thuyết hấp lực lượng
tử, có nhiều tình trạng lượng tử có thể có cho vũ trụ. Một lần nữa, nếu chúng
ta biết các không-thời gian cong theo hình học Euclide trong tổng số lịch sử phản
ứng ở những thời gian ban đầu, chúng ta sẽ biết tình trạng lượng tử của vũ trụ.
Trong thuyết hấp lực cổ điển,
căn cứ vào không-thời gian thực, chỉ có hai cách mà vũ trụ có thể phản ứng: hoặc
nó đã tồn tại trong một thời gian vô tận, hoặc nếu không thì nó đã có một khởi
đầu tại một điểm kỳ dị ở một thời điểm nhất định nào đó trong quá khứ. Trong
thuyết hấp lực lượng tử, mặt khác, một khả dĩ thứ ba nổi lên. Bởi vì người ta sử
dụng không-thời gian Euclide, trong đó chiều thời gian có cùng căn bản như các
chiều trong không gian, không-thời gian có thể hữu hạn mà vẫn không có những điểm
kỳ dị để hình thành một biên giới hoặc bờ. Không-thời gian sẽ giống như bề mặt
của trái đất, chỉ khác là có thêm hai chiều nữa. Bề mặt của trái đất là hữu hạn
nhưng nó không có một biên giới hoặc bờ: nếu bạn khởi đi về hướng mặt trời lặn,
bạn không rơi ra ngoài bờ hoặc gặp một điểm kỳ dị. (Tôi biết, bởi vì tôi đã đi
vòng quanh thế giới!)
Nếu không-thời gian Euclide
rút ngắn lại tới thời gian tưởng tượng vô hạn, hoặc khởi đầu tại một điểm kỳ dị
trong thời gian tưởng tượng, chúng ta cũng có cùng vấn nạn như trong lý thuyết
cổ điển khi muốn định rõ tình trạng sơ khởi của vũ trụ: chỉ có Trời mới biết vũ
trụ đã bắt đầu như thế nào, nhưng chúng ta không thể đưa ra bất cứ lý do nào để
cho rằng nó đã khởi sự bằng cách này thay vì bằng cách kia. Mặt khác, thuyết hấp
lực lượng tử đã mở ra một sự khả dĩ mới, trong đó sẽ không có biên giới cho
không-thời gian và do đó sẽ không cần định rõ phản ứng tại biên giới. Sẽ không
có các điểm kỳ dị tại đó các định luật khoa học sụp đổ và không có bờ không-thời
gian tại đó người ta sẽ phải kêu gọi Thượng Đế hoặc một định luật mới nào đó để
đặt ra những điều kiện biên giới cho không-thời gian. Người ta có thể nói:
"Điều kiện biên giới của vũ trụ là nó không có biên giới nào cả." Vũ
trụ sẽ hoàn toàn tự chứa đựng và không bị ảnh hưởng bởi bất cứ cái gì bên ngoài
nó. Nó không được tạo ra cũng không bị hủy diệt. Nó chỉ HIỆN HỮU.
Chính tại cuộc hội thảo ở
Vatican như đã được đề cập ở trên, tôi đã đưa ra đầu tiên ý kiến rằng có thể thời
gian và không gian cùng nhau làm thành một bề mặt hữu hạn về tầm cỡ nhưng đã
không có biên giới hoặc bờ bến nào. Tuy nhiên, tài liệu của tôi hơi thiên về
toán học, do đó những hàm ý của nó về vai trò của Thượng Đế trong sự sáng tạo
ra vũ trụ lúc đó đã không được thừa nhận rộng rãi. Vào thời gian cuộc hội thảo
Vatican, tôi đã không biết làm thế nào để đưa ý niệm "không biên giới"
vào việc thực hiện những tiên đoán về vũ trụ. Tuy nhiên, tôi đã trải qua mùa hè
sau đó tại trường đại học Santa Barbara của California. Tại đó, một người bạn
và cũng là đồng nghiệp của tôi, Jim Hartle, đã nghiên cứu cùng với tôi những điều
kiện mà vũ trụ phải thỏa mãn nếu không-thời gian không có giới hạn. Khi tôi trở
về Cambridge, tôi đã tiếp tục công việc này với hai trong số những nghiên cứu
sinh của tôi, Julian Luttrel và Jonathan Halliwell.
Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng
ý tưởng thời gian và không gian phải hữu hạn mà không có biên giới chỉ là một đề
nghị: nó không thể được suy ra từ một nguyên tắc nào khác. Giống như bất cứ lý
thuyết khoa học nào khác, nó có thể lúc đầu được đưa ra vì những lý do thẩm mỹ
hoặc siêu hình, nhưng sự thử thách thực sự là liệu nó có khiến những tiên đoán
phù hợp với sự quan sát hay không. Tuy nhiên, điều này rất khó xác định trong
trường hợp hấp lực lượng tử, vì hai lý do. Trước hết, như sẽ được giải thích
trong chương kế tiếp, chúng ta chưa biết chắc chắn đúng ra lý thuyết nào phối hợp
một cách thành công thuyết tương đối tổng quát và cơ học lượng tử, mặc dù chúng
ta biết hầu như rất nhiều về hình thức mà một lý thuyết như vậy phải có. Thứ
nhì, bất cứ mô hình nào mô tả chi tiết toàn thể vũ trụ cũng sẽ quá phức tạp về
phương diện toán học để chúng ta có thể tính toán đúng những tiên đoán. Do đó
người ta phải thực hiện những giả thiết và ước lượng được đơn giản hóa -- và
ngay cả khi đó, vấn đề rút ra những tiên đoán vẫn còn là một vấn đề khó khăn.
Mỗi lịch sử trong tổng cộng
lịch sử sẽ mô tả không phải chỉ không-thời gian mà cả mọi thứ trong đó, kể cả bất
cứ sinh vật phức tạp nào như con người, là sinh vật có thể quan sát lịch sử của
vũ trụ. Điều này có thể cung cấp một sự biện minh khác cho nguyên tắc vị nhân
chủng, bởi vì nếu mọi lịch sử đều có thể xảy ra, thì chừng nào chúng ta hiện hữu
trong một trong số những lịch sử đó, chúng ta có thể sử dụng nguyên tắc vị nhân
chủng để giải thích tại sao vũ trụ lại được thấy như tình trạng của nó hiện
nay. Ý nghĩa nào là đúng để có thể được gán cho những lịch sử khác, trong đó
chúng ta không hiện hữu, là điều không rõ ràng. Tuy nhiên, quan điểm này về
thuyết hấp lực lượng tử sẽ hài lòng hơn nhiều, nếu người ta có thể chứng tỏ rằng,
dùng tổng số lịch sử, vũ trụ của chúng ta không phải chỉ là một trong những lịch
sử có thể xảy ra nhưng là một trong những lịch sử có thể xảy ra nhất. Để làm điều
này, chúng ta phải thực hiện việc cộng các lịch sử có thể xảy ra cho mọi
không-thời gian Euclide không có biên giới.
Theo đề xuất không biên giới,
người ta biết rằng cơ hội để vũ trụ được coi như đi theo hầu hết các lịch sử có
thể xảy ra không đáng kể, nhưng có một nhóm đặc biệt các lịch sử có cơ hội xảy
ra nhiều hơn các nhóm khác. Những lịch sử này có thể được hình dung như giống bề
mặt của trái đất, với khoảng cách từ Bắc Cực đại diện thời gian tưởng tượng và
cỡ của một vòng tròn cách một khoảng cố định từ Bắc Cực đại diện cỡ không gian
của vũ trụ. Vũ trụ khởi đầu tại Bắc Cực như một điểm duy nhất. Khi người ta di
chuyển về phía nam, các vòng tròn vĩ tuyến ở khoảng cách cố định từ Bắc Cực trở
nên lớn hơn, tương ứng với vũ trụ bành trướng với thời gian tưởng tượng (Hình
8.1). Vũ trụ sẽ đạt tới một cỡ tối đa ở đường xích đạo và sẽ thu rút lại với thời
gian tưởng tượng tăng lên tới một điểm duy nhất ở Nam Cực. Mặc dù vũ trụ sẽ có
cỡ bằng 0 tại các cực Bắc và Nam, những điểm này sẽ không phải là các điểm kỳ dị.
Các định luật khoa học sẽ có giá trị tại những điểm đó, cũng như chúng có giá
trị tại Bắc và Nam Cực trên trái đất.
Tuy nhiên, lịch sử của vũ trụ
ở thời gian thực, trông sẽ rất khác. Ở vào khoảng mười hoặc hai mươi ngàn triệu
năm về trước, nó sẽ có một cỡ tối thiểu, bằng với bán kính tối đa của lịch sử
trong thời gian tưởng tượng. Ở những thời gian thực sau này, vũ trụ sẽ bành trướng
như mô hình lạm phát hỗn loạn đề xuất bởi Linde (nhưng bây giờ người ta sẽ
không phải giả sử rằng vũ trụ đã được tạo ra bằng cách nào đó trong tình trạng
thích hợp). Vũ trụ sẽ bành trướng tới một cỡ rất lớn và cuối cùng nó sẽ suy sụp
trở lại thành cái giống như một điểm kỳ dị trong thời gian thực. Như vậy, theo
một ý nghĩa nào đó, tất cả chúng ta vẫn đi tới tận thế, dù cho chúng ta tránh
xa các hố đen. Chỉ trong trường hợp chúng ta có thể hình dung vũ trụ theo thời
gian tưởng tượng thì mới không có những điểm kỳ dị.
Nếu vũ trụ thực sự ở trong một
tình trạng lượng tử như vậy, sẽ không có các điểm kỳ dị trong lịch sử của vũ trụ
trong thời gian tưởng tượng. Do đó có vẻ rằng công trình mới đây hơn của tôi đã
hoàn toàn phủ nhận các kết quả của công trình trước đây của tôi về các điểm kỳ
dị. Nhưng, như nói ở trên, tầm quan trọng thực sự của các định lý điểm kỳ dị là
chúng đã chứng tỏ rằng trường hấp lực phải trở nên mạnh đến độ các hậu quả hấp
lực lượng tử không thể bị bỏ qua. Điều này do đó lại đưa tới ý niệm rằng vũ trụ
có thể hữu hạn trong thời gian tưởng tượng nhưng không có các biên giới hoặc
các điểm kỳ dị. Tuy nhiên, khi người ta quay trở lại thời gian thực trong đó
chúng ta sinh sống, có vẻ vẫn sẽ có những điểm kỳ dị. Nhà du hành vũ trụ bất hạnh
nào rơi vào một hố đen vẫn sẽ đi tới một kết cuộc khó chịu, chỉ khi nào ông ta
sống trong thời gian tưởng tượng mới không gặp các điểm kỳ dị.
Điều này có thể gợi ý rằng
cái được gọi là thời gian tưởng tượng thực ra là thời gian thực, và rằng điều
mà chúng ta gọi là thời gian thực chỉ là một ảo ảnh của những tưởng tượng của
chúng ta. Trong thời gian thực, vũ trụ có một khởi đầu và một kết cuộc ở các điểm
kỳ dị để hình thành một biên giới cho không-thời gian và tại đó các định luật
khoa học sụp đổ. Nhưng trong thời gian tưởng tượng, không có những điểm kỳ dị
hoặc biên giới. Như vậy có thể những gì chúng ta gọi là thời gian tưởng tượng
thực ra có căn bản hơn, và cái mà chúng ta gọi là thực chỉ là một ý niệm mà
chúng ta tạo ra để giúp chúng ta mô tả những gì mà chúng ta nghĩ giống vũ trụ.
Nhưng theo phương pháp mà tôi đã mô tả trong chương 1, một lý thuyết khoa học
chỉ là một mô hình toán học mà chúng ta tạo ra để mô tả những quan sát của
chúng ta: nó chỉ hiện hữu trong trí của chúng ta. Do đó thật là vô nghĩa khi hỏi:
Cái nào là thật, thời gian "thật" hay thời gian "ảo"? Điều
đóù giản dị chỉ là một vấn đề cái nào mô tả có ích hơn.
Người ta cũng có thể sử dụng
tổng số các lịch sử, cùng với đề xuất không biên giới, để tìm ra những tính chất
nào của vũ trụ có thể cùng xảy ra. Thí dụ, người ta có thể tính toán xác suất
mà vũ trụ bành trướng gần như cùng nhịp độ ở mọi hướng khác nhau tại một thời
điểm mà mật độ của vũ trụ có trị số hiện nay. Trong những mô hình được đơn giản
hóa từng được quan sát cho tới nay, xác suất này hóa ra rất cao; nghĩa là, điều
kiện không biên giới như đã được đề xuất đưa tới sự tiên đoán rằng rất có thể
nhịp độ bành trướng hiện nay của vũ trụ hầu như giống nhau ở mọi hướng. Điều
này phù hợp với những quan sát bức xạ nền sóng ngắn, chứng tỏ rằng nó có cường
độ hầu như giống hệt nhau ở mọi hướng. Nếu vũ trụ đã bành trướng nhanh hơn ở
vài hướng so với những hướng khác, cường độ của bức xạ ở những hướng đó sẽ bị
giảm đi bởi một chuyển dịch thêm về phía đỏ.
Những tiên toán thêm về điều
kiện không biên giới hiện đang được nghiên cứu. Một vấn đề đặc biệt đáng chú ý
là tầm cỡ của những phần tử rời bỏ mật độ đồng đều trong vũ trụ ban đầu đã đưa
đến sự hình thành những thiên hà đầu tiên, rồi những ngôi sao, và cuối cùng là
con người chúng ta. Nguyên tắc bất định ngụ ý rằng vũ trụ ban đầu không thể đã
hoàn toàn đồng đều bởi vì phải có vài sự bất trắc hoặc biến động về các vị trí
và tốc độ của các hạt. Sử dụng điều kiện không biên giới, chúng ta thấy rằng vũ
trụ thực ra đã khởi đầu với sự không đồng đều tối thiểu có thể được cho phép bởi
nguyên tắc bất định. Vũ trụ khi đó sẽ trải qua một thời kỳ bành trướng nhanh,
như trong các mô hình lạm phát. Trong thời kỳ này, những sự không đồng đều ban
đầu sẽ được củng cố cho tới khi chúng đủ lớn để giải thích nguồn gốc của những
cơ cấu mà chúng ta quan sát chung quanh chúng ta. Trong một vũ trụ bành trướng
trong đó mật độ của vật chất thay đổi đôi chút ở nơi này so với nơi khác, hấp lực
đã khiến những khu vực đậm đặc hơn bành trướng chậm lại và khởi sự co rút. Điều
này sẽ đưa tới sự hình thành các thiên hà, các ngôi sao, và cuối cùng ngay cả
những sinh vật nhỏ nhoi như chúng ta. Do đó mọi cơ cấu phức tạp mà chúng ta thấy
trong vũ trụ có thể được giải thích bởi điều kiện không biên giới cho vũ trụ
cùng với nguyên tắc bất trắc của cơ học lượng tử.
Ý tưởng rằng không gian và
thời gian có thể hình thành một bề mặt kín mà không có biên giới cũng có những
hàm ý sâu xa cho vai trò của Thượng Đế trong công việc của vũ trụ. Với sự thành
công của những lý thuyết khoa học trong việc mô tả các biến cố, hầu hết mọi người
đã đi tới tin tưởng rằng Thượng Đế cho phép vũ trụ tiến hóa theo một bộ các định
luật và không can thiệp vào vũ trụ để phá vỡ những định luật này. Tuy nhiên,
các định luật không cho chúng ta biết vũ trụ phải giống như cái gì khi nó bắt đầu
-- nó vẫn còn tùy thuộc vào Thượng Đế để lên dây thiều và lựa chọn cách khởi đầu.
Chừng nào mà vũ trụ còn có một khởi đầu, chúng ta còn có thể giả định nó có một
đấng sáng tạo. Nhưng nếu vũ trụ thực sự tự chứa, không có biên giới hoặc bờ bến,
nó sẽ không có khởi đầu cũng như không có kết cuộc: nó giản dị hiện hữu. Như vậy
thì đâu có nơi nào dành cho một đấng sáng thế?
Như chúng ta đã thấy ở những
chương trước, quan điểm của chúng ta về bản chất thời gian từ trước tới nay đã
biến hóa ra sao. Mãi cho đến đầu thế kỷ này, người ta vẫn còn tin vào một thời
gian tuyệt đối. Nghĩa là, mỗi biến cố có thể được gán cho một con số gọi là
"thời gian" và mọi đồng hồ tốt đều đồng ý về khoảng thời gian giữa
hai biến cố. Tuy nhiên, sự khám phá ra rằng tốc độ của ánh sáng có vẻ như nhau
đối với mọi quan sát viên, bất kể người đó di chuyển ra sao, đã đưa tới thuyết
tương đối -- và trong thuyết đó người ta đã phải từ bỏ ý niệm rằng có một thời
gian tuyệt đối duy nhất. Thay vào đó, mỗi quan sát viên sẽ có số đo riêng về thời
gian như được ghi nhận bởi một chiếc đồng hồ mà người đó mang theo: những đồng
hồ mang bởi những quan sát viên khác nhau sẽ không nhất thiết đồng ý với nhau.
Do đó thời gian đã trở thành một ý niệm có tính cách cá nhân hơn, tương đối với
quan sát viên đo đạc nó.
Khi cố gắng thống nhất hấp lục
với cơ học lượng tử, người ta đã phải đưa vào ý niệm thời gian "tưởng tượng."
Thời gian tưởng tượng không thể phân biệt được từ những hướng trong không gian.
Nếu người ta có thể đi về hướng bắc, người ta có thể quay trở lại và hướng về
phía nam; cũng vậy, nếu người ta có thể đi tới trong thời gian tưởng tượng, người
ta phải có thể quay lại và đi ngược trở lại. Điều này có nghĩa có thể không có
sự khác biệt quan trọng nào giữa những chiều đi tới và đi lui của thời gian tưởng
tượng. Mặt khác, khi người ta nhìn vào thời gian "thật," có một sự
khác biệt rất lớn giữa các chiều đi tới và đi lui, như chúng ta đều biết. Sự
khác biệt này giữa quá khứ và tương lai từ đâu mà ra? Tại sao chúng ta nhớ quá
khứ mà không nhớ tương lai?
Các định luật khoa học không
phân biệt giữa quá khứ và tương lai. Nói rõ hơn, như đã được giải thích trước
đây, các định luật khoa học không thay đổi theo sự phối hợp các hoạt động (hay
đối xứng) được biết như là C, P, và T. (C có nghĩa là đổi hạt thành phản hạt, P
có nghĩa lấy hình phản chiếu, để trái và phải đổi cho nhau. Và T có nghĩa đảo
ngược chiều chuyển động của mọi hạt: hậu quả, cho chuyển động chạy ngược trở lại.)
Những định luật khoa học chi phối phản ứng của vật chất dưới mọi tình huống
bình thường sẽ không thay đổi dưới sự phối hợp của hai tác dụng C và P. Nói
khác đi, đời sống sẽ vẫn như vậy đối với các cư dân của một hành tinh khác, những
người vừa là những hình ảnh phản chiếu của chúng ta vừa được cấu tạo bởi phản vật
chất, thay vì vật chất.
Nếu các định luật khoa học
không thay đổi bởi sự phối hợp của các tác dụng C và P, và cũng bởi sự phối hợp
C, P, và T, chúng cũng phải không thay đổi dưới một mình tác dụng T. Tuy nhiên
có một khác biệt lớn giữa những chiều đi tới và chiều đi lui của thời gian thực
trong đời sống bình thường. Hãy tưởng tượng một ly nước rơi từ trên bàn xuống
và vỡ thành những mảnh vụn trên sàn nhà. Nếu bạn quay phim sự kiện này, bạn có
thể dễ dàng nói nó đang đi tới hay đi lui. Nếu bạn cho quay ngược lại bạn sẽ thấy
các mảnh vụn bỗng nhiên gom trở lại từ sàn nhà và nhảy trở lại để thành một ly
đầy trên bàn. Bạn có thể nói rằng đoạn phim chạy ngược lại bởi vì chuyện này
không bao giờ thấy trong đời sống bình thường. Nếu không, những nhà chế tạo đồ
gốm sẽ phải dẹp tiệm.
Sự giải thích thường được
đưa ra về chuyện tại sao chúng ta không thấy những chiếc ly vỡ tự gom lại từ
sàn nhà và nhảy trở lên bàn là nó bị ngăn cản bởi định luật thứ nhì về nhiệt động
học. Định luật này nói rằng trong mọi hệ thống khép kín, sự mất trật tự luôn
luôn gia tăng theo thời gian. Nói khác đi, đó là một hình thức của định luật
Murphy: Mọi chuyện luôn luôn có khuynh hướng xấu đi! Một chiếc ly nguyên vẹn
trên bàn là một tình trạng trật tự cao, nhưng một chiếc ly vỡ trên sàn nhà là một
tình trạng mất trật tự. Người ta có thể sẵn sàng đi từ chiếc ly trên bàn trong
quá khứ tới chiếc ly vỡ trên sàn nhà trong tương lai, nhưng không thể đi ngược
lại.
Sự gia tăng tính vô trật tự
theo thời gian là một thí dụ của điều được gọi là một mũi tên thời gian, một điều
giúp phân biệt quá khứ với tương lai, khiến cho thời gian có một chiều hướng.
Có ít nhất ba mũi tên thời gian khác nhau. Trước hết, có một mũi tên thời gian
về nhiệt động học, là hướng thời gian trong đó sự mất trật tự gia tăng. Rồi, có
một mũi tên thời gian về tâm lý học. Đây là chiều trong đó chúng ta cảm thấy thời
gian trôi qua, chiều trong đó chúng ta nhớ quá khứ chứ không phải tương lai. Cuối
cùng, có mũi tên thời gian về vũ trụ học. Đây là chiều thời gian trong đó vũ trụ
đang bành trướng thay vì co rút.
Trong chương này, chúng ta sẽ
lý luận rằng điều kiện không biên giới cho vũ trụ, cùng với nguyên tắc vị nhân
chủng yếu, có thể giải thích tại sao tất cả ba mũi tên đều chỉ về một hướng --
và hơn nữa, tại sao một mũi tên thời gian được xác định rõ phải hiện hữu. Tôi sẽ
lý luận rằng mũi tên tâm lý được xác định bởi mũi tên nhiệt động học, và rằng
hai mũi tên này cần phải luôn luôn chỉ về một hướng. Nếu người ta chấp nhận điều
kiện không biên giới cho vũ trụ, chúng ta sẽ thấy rằng phải có những mũi tên thời
gian về nhiệt động học và vũ trụ học được xác định rõ, nhưng chúng sẽ không hướng
về cùng một hướng đối với toàn thể lịch sử của vũ trụ. Tuy nhiên, tôi sẽ lý luận
rằng đó chỉ khi nào chúng cùng hướng về một chiều thì các điều kiện mới thích hợp
cho sự phát triển của các sinh vật thông minh, những kẻ có thể đặt ra câu hỏi:
Tại sao sự mất trật tự gia tăng theo cùng hướng thời gian mà trong đó vũ trụ
bành trướng?
Tôi sẽ thảo luận trước hết về
mũi tên thời gian nhiệt động học. Định luật thứ nhì về nhiệt động học phát sinh
từ sự kiện rằng luôn luôn có nhiều tình trạng mất trật tự so với các tình trạng
trật tự. Thí dụ, hãy xét các mảnh của một bộ ráp hình trong một chiếc hộp. Có một,
và chỉ một, cách sắp xếp trong đó các mảnh làm thành một bức hình hoàn toàn. Mặt
khác, có một con số rất lớn cách xếp trong đó những mảnh bị mất trật tự và
không làm thành một bức hình.
Giả thử một hệ thống khởi sự
trong một tình trạng nào đó của một số nhỏ những tình trạng trật tự. Khi thời
gian trôi qua, hệ thống sẽ tiến hóa theo các định luật khoa học và các tình trạng
của nó sẽ thay đổi. Ở một thời gian về sau, hệ thống sẽ nhiều khả năng ở trong
một tình trạng mất trật tự hơn là trong một tình trạng trật tự bởi vì có nhiều
tình trạng mất trật tự hơn. Như vậy sự mất trật tự sẽ có khuynh hướng gia tăng
theo thời gian nếu hệ thống tuân theo một điều kiện trật tự cao lúc đầu.
Giả sử các mảnh của bộ ráp
hình khởi sự trong một chiếc hộp theo sự sắp xếp trật tự trong đó chúng làm
thành một bức hình. Nếu bạn lắc chiếc hộp, các mảnh sẽ làm thành một sự xếp đặt
khác. Sự sắp xếp này sẽ có thể là một sự sắp xếp mất trật tự trong đó các mảnh
không làm thành một bức hình đúng, giản dị chỉ vì có quá nhiều những sự sắp xếp
mất trật tự khác. Vài nhóm mảnh vẫn có thể làm thành những phần của bức hình,
nhưng bạn càng lắc chiếc hộp, những nhóm này càng có thể sẽ vỡ ra và những mảnh
sẽ ở trong một tình trạng hoàn toàn lộn xộn trong đó chúng không làm thành hình
thù nào cả. Do đó sự mất trật tự của những mảnh có thể sẽ gia tăng theo thời
gian nếu các mảnh tuân theo điều kiện ban đầu mà chúng khởi sự trong một điều
kiện trật tự cao.
Tuy nhiên, giả thử Thượng Đế
đã quyết định rằng vũ trụ phải kết thúc trong một tình trạng trật tự cao nhưng
nó đã khởi đầu ở trong tình trạng nào là điều không quan trọng. Ở những thời
gian ban đầu vũ trụ có thể ở trong một tình trạng mất trật tự. Điều này có
nghĩa sự mất trật tự sẽ giảm đi theo thời gian. Bạn sẽ thấy những mảnh ly tự
gom lại và nhảy lên bàn. Tuy nhiên, bất cứ những kẻ người trần mắt thịt nào đã
quan sát những chiếc ly phải sống trong một vũ trụ trong đó sự mất trật tự giảm
đi theo thời gian. Tôi sẽ lý luận rằng những con người như vậy sẽ có một mũi
tên thời gian về tâm lý đi theo chiều ngược. Nghĩa là, họ sẽ nhớ các biến cố ở
tương lai, và không nhớ những biến cố trong quá khứ của họ. Khi chiếc ly bị vỡ,
họ sẽ nhớ lúc nó đang ở trên bàn, nhưng khi nó ở trên bàn, họ sẽ không nhớ lúc
nó đang ở trên sàn nhà.
Hơi khó nói chuyện về ký ức
của con người bởi vì chúng ta không biết chi tiết bộ óc hoạt động như thế nào.
Tuy nhiên, chúng ta quả có biết mọi chuyện về những ký ức máy điện toán hoạt động
ra sao. Do đó tôi sẽ thảo luận mũi tên thời gian tâm lý đối với máy điện toán.
Tôi nghĩ cũng hợp lý khi giả thử rằng mũi tên đối với các máy điện toán cũng giống
mũi tên đối với con người. Nếu không giống, người ta có thể ăn đứt trên thị chứng
khoán bằng cách có một máy điện toán có thể nhớ giá cả của ngày mai!
Một ký ức điện toán trên căn
bản là một dụng cụ chứa các phần tử có thể hiện hữu ở một trong hai tình trạng.
Một thí dụ giản dị là một bàn tính của người Trung Hoa. Trong hình thức giản dị
nhất của nó, bàn tính này bao gồm một số những sợi dây kẽm, trên mỗi sợi dây là
một hạt có thể được đặt ở một trong hai vị trí. Trước khi một khoản được ghi nhận
trong ký ức của một máy điện toán, bộ nhớ ở trong một tình trạng mất trật tự, với
những xác suất bằng nhau đối với hai tình trạng có thể xảy ra. (Các hạt của bàn
tính nằm rải rác bất kỳ trên những sợi dây kẽm của bàn tính.) Sau khi ký ức
tương tác với hệ thống để được nhớ, nó sẽ nhất định phải ở trong một tình trạng
này hay tình trạng kia, tùy theo tình trạng của hệ thống. (Mỗi hạt bàn tính sẽ
hoặc nằm ở bên trái hoặc nằm ở bên phải của sợi dây bàn tính.) Do đó ký ức đã
chuyển từ một tình trạng mất trật tự sang một tình trạng trật tự. Tuy nhiên, để
bảo đảm rằng ký ức ở trong tình trạng đúng, cần phải sử dụng một số năng lượng
nào đó (để di chuyển hạt hoặc để cung cấp điện cho máy điện toán, thí dụ vậy).
Năng lượng này được phân tán như nhiệt, và gia tăng lượng mất trật tự trong vũ
trụ. Người ta có thể chứng tỏ rằng sự gia tăng mất trật tự này luôn luôn lớn
hơn sự gia tăng về trật tự của chính ký ức. Do đó nhiệt bị thổi đi bởi chiếc quạt
mát của máy điện toán có nghĩa rằng khi một máy điện toán ghi nhận một điều
trong ký ức, lượng mất trật tự tổng cộng trong vũ trụ sẽ tăng lên. Chiều thời
gian trong đó một máy điện toán nhớ quá khứ cũng giống như chiều trong đó sự mất
trật tự gia tăng.
Ý thức chủ quan của chúng ta
về chiều thời gian, tức chiều thời gian về tâm lý, do đó được xác định bên
trong bộ óc của chúng ta bởi mũi tên thời gian nhiệt động học. Cũng như một máy
điện toán, chúng ta phải nhớ mọi chuyện theo trật tự trong đó sự mất trật tự
gia tăng. Điều này làm cho định luật thứ nhì của nhiệt động học hầu như ít quan
trọng. Sự mất trật tự gia tăng theo thời gian bởi vì chúng ta đo thời gian theo
chiều trong đó sự mất trật tự gia tăng. Bạn không thể đoán cách nào tốt hơn!
Nhưng tại sao mũi tên thời
gian nhiệt động học lại hiện hữu? Hoặc, nói cách khác, tại sao vũ trụ phải ở
trong một tình trạng trật tự cao ở một đầu của thời gian, đầu mà chúng ta gọi
là quá khứ? Tại sao nó không ở trong một tình trạng lúc nào cũng hoàn toàn mất
trật tự? Vả chăng, điều này có vẻ như dễ xảy ra hơn. Và tại sao mũi tên thời
gian trong đó sự mất trật tự gia tăng giống như chiều trong đó vũ trụ bành trướng?
Trong thuyết tương đối tổng
quát cổ điển người ta có thể tiên đoán vũ trụ đã khởi đầu như thế nào bởi vì mọi
định luật khoa học đã biết sẽ sụp đổ ở nhất thể nổ lớn. Vũ trụ có thể đã khởi đầu
trong một tình trạng rất trơn tru và trật tự. Điều này sẽ đưa tới những mũi tên
thời gian nhiệt động học và vũ trụ học được xác định rõ, như chúng ta quan sát.
Nhưng nó cũng có thể đã khởi đầu trong một tình trạng hỗn độn và mất trật tự.
Trong trường hợp đó, vũ trụ đã ở trong một tình trạng hoàn toàn mất trật tự, do
đó sự mất trật tự không thể gia tăng theo thời gian. Nó hoặc sẽ giữ nguyên
không đổi, trong trường hợp này sẽ không có mũi tên thời gian nhiệt động học được
xác định rõ, hoặc nó sẽ giảm đi, trong trường hợp này mũi tên thời gian nhiệt động
học sẽ hướng theo chiều ngược lại với mũi tên vũ trụ học. Không có trường hợp
nào trong những sự khả dĩ này phù hợp với những gì chúng ta quan sát. Tuy
nhiên, như chúng ta đã thấy, thuyết tương đối tổng quát cổ điển tiên đoán sự xuống
dốc của chính nó. Khi độ cong không-thời gian trở thành lớn, các hậu quả hấp lực
lượng tử sẽ trở nên quan trọng và lý thuyết cổ điển sẽ không còn là một sự mô tả
tốt về vũ trụ. Người ta phải sử dụng thuyết hấp lực lượng tử để hiểu vũ trụ đã
bắt đầu như thế nào.
Trong thuyết hấp lực lượng tử,
như chúng ta đã thấy trong chương vừa rồi, để định rõ tình trạng của vũ trụ người
ta vẫn phải nói những lịch sử có thể của vũ trụ sẽ phản ứng ra sao tại biên giới
của không-thời gian trong quá khứ. Người ta chỉ có thể tránh sự khó khăn phải
mô tả những gì chúng ta không biết và không thể biết nếu những lịch sử thỏa mãn
điều kiện không biên giới: chúng hữu hạn về độ lớn nhưng không có biên giới, bờ,
hoặc các nhất thể. Trong trường hợp đó, sự khởi đầu của thời gian sẽ là một thời
điểm không-thời gian bình thường và vũ trụ đã phải bắt đầu sự bành trướng của
nó trong một tình trạng rất trơn tru và trật tự. Nó đã không thể hoàn toàn đồng
đều, bởi vì điều đó sẽ vi phạm nguyên tắc bất định của thuyết lượng tử. Phải có
những biến động nhỏ về mật độ và tốc độ của các hạt. Tuy nhiên, điều kiện không
biên giới ngụ ý tằng những biến động này đã nhỏ hết cỡ có thể được, phù hợp với
nguyên tắc bất định.
Vũ trụ đã phải khởi đầu với
một thời kỳ bành trướng gấp bội hay "lạm phát" trong đó nó đã gia
tăng về cỡ bởi một bội số nhân rất lớn. Trong sự bành trướng này, những biến động
về mật độ lúc đầu đã duy trì ở mức nhỏ, nhưng về sau đã bắt đầu phát triển. Những
vùng trong đó mật độ hơi cao hơn mức trung bình thì sự bành trướng bị giảm tốc
độ bởi sự thu hút trọng lực của khối lượng phụ trội. Cuối cùng, những vùng như
vậy sẽ ngưng bành trướng và co sụp để hình thành những thiên hà, các ngôi sao,
và những sinh vật như chúng ta. Vũ trụ đã khởi sự trong một tình trạng trơn tru
và trật tự, và sẽ trở thành hỗn độn và mất trật tự theo thời gian. Điều này giải
thích sự hiện hữu của mũi tên thời gian nhiệt động học.
Nhưng những gì sẽ xảy ra nếu
và khi vũ trụ ngưng bành trướng và khởi sự co rút? Liệu mũi tên nhiệt động học
có đổi chiều và sự mất trật tự bắt đầu giảm theo thời gian hay không? Điều này
sẽ đưa tới mọi loại khả dĩ giống như khoa học giả tưởng đối với những người sống
sót từ giai đoạn bành trướng sang giai đoạn co rút. Liệu họ có nhìn thấy những
chiếc ly vỡ tự gom lại từ sàn nhà và nhảy trở lên bàn hay không? Liệu họ có thể
nhớ giá cả của ngày mai và làm giàu trên thị trường chứng khoán hay không? Có vẻ
như nặng đầu óc học giả khi lo lắng về những gì sẽ xảy ra khi vũ trụ co sụp trở
lại, trong khi nó sẽ không bắt đầu co rút trong ít nhất mười ngàn triệu năm nữa.
Nhưng có một phương cách nhanh chóng hơn để tìm ra những gì sẽ xảy ra: nhảy vào
một hố đen. Sự sụp đổ của một ngôi sao để làm thành một hố đen hơi giống những
giai đoạn cuối của sự co sụp của toàn thể vũ trụ. Do đó nếu sự mất trật tự phải
giảm đi trong giai đoạn co rút của vũ trụ, người ta có thể cũng trông đợi nó sẽ
giảm đi bên trong một hố đen. Do đó có lẽ một nhà du hành vũ trụ rơi vào một hố
đen sẽ có thể làm ra tiền tại bàn đánh bạc ru-lét bằng cách nhớ nơi trái banh
đã đi trước khi đặt tiền. (Tuy nhiên, điều bất hạnh là ông ta sẽ không có thì
giờ chơi trước khi biến thành mì sợi. Ông ta cũng không thể cho chúng ta biết về
sự đảo ngược mũi tên nhiệt động học, hoặc ngay cả việc gửi tiền thắng vào ngân
hàng, bởi vì ông ta sẽ bị mắc kẹt phía sau chân trời biến cố của cái hố đen.)
Lúc đầu, tôi đã tin rằng sự
mất trật tự sẽ giảm đi khi vũ trụ co sụp trở lại. Lý do là tôi đã nghĩ rằng vũ
trụ phải trở lại một tình trạng êm ả và trật tự khi nó trở nên nhỏ lại lần nữa.
Điều này có nghĩa giai đoạn co rút sẽ giống như sự đảo ngược thời gian của giai
đoạn bành trướng. Những người ở trong giai đoạn co rút sẽ sống cuộc đời của họ
ngược chiều: họ sẽ chết trước khi họ sinh ra và trở nên trẻ hơn khi vũ trụ co
rút.
Ý tưởng này có vẻ hấp dẫn bởi
vì nó sẽ có nghĩa một sự đối xứng đẹp đẽ giữa các giai đoạn bành trướng và co
rút. Tuy nhiên, người ta không thể chấp nhận riêng ý tưởng này, độc lập với những
ý tưởng khác về vũ trụ. Vấn đề là: Nó có bao hàm bởi điều kiện không biên giới
hay không, hay nó có mâu thuẫn với điều kiện đó hay không? Như tôi đã nói, lúc
đầu tôi đã nghĩ rằng điều kiện không biên giới quả thật ngụ ý rằng sự mất trật
tự sẽ giảm đi trong giai đoạn co rút. Tôi đã bị đưa đến sai lầm một phần bởi sự
so sánh với bề mặt trái đất. Nếu người ta coi sự khởi đầu của vũ trụ tương ứng
với Bắc Cực, khi đó kết cuộc của vũ trụ phải tương tự với sự khởi đầu, giống
như Nam Cực tương tự như Bắc Cực. Tuy nhiên, Bắc Cực và Nam Cực tương ứng với sự
khởi đầu và kết cuộc trong thời gian tưởng tượng . Sự khởi đầu và kết cuộc
trong thời gian thực có thể rất khác nhau. Tôi cũng đã bị lầm lẫn bởi công việc
mà tôi đã làm trên một mô hình vũ trụ giản dị trong đó giai đoạn co sụp trông
giống như sự đảo ngược thời gian của giai đoạn bành trướng. Tuy nhiên, một đồng
nghiệp của tôi, Don Page, ở trường đại học Pennsylvania, đã vạch ra rằng điều
kiện không biên giới đã không đòi hỏi giai đoạn co rút nhất thiết phải là sự đảo
ngược thời gian của giai đoạn bành trướng. Hơn nữa, một trong những sinh viên của
tôi, Raymond Laflamme, đã thấy rằng trong một mô hình hơi phức tạp hơn, sự co sụp
của vũ trụ rất khác sự bành trướng. Tôi nhận ra rằng mình đã phạm một sai lầm:
điều kiện không biên giới ngụ ý rằng sự mất trật tự thật ra tiếp tục gia tăng
trong giai đoạn co rút. Các mũi tên thời gian nhiệt động và tâm lý sẽ không đảo
ngược khi vũ trụ bắt đầu co rút trở lại hoặc bên trong các hố đen.
Bạn sẽ làm gì khi bạn thấy bạn
đã phạm một sai lầm như thế? Một số người không đời nào công nhận rằng họ sai
và tiếp tục tìm kiếm những lý luận mới, và thường không ăn khớp với nhau để
bênh vực trường hợp của họ -- như Eddington đã làm khi chống đối lý thuyết hố
đen. Những người khác thì bảo rằng họ không hề ủng hộ quan điểm sai hoặc, nếu họ
đã ủng hộ, đó chỉ là để chứng tỏ nó không phù hợp. Đối với tôi có vẻ như tốt
hơn và đỡ hiểu lầm hơn nếu người ta công nhận bằng tài liệu in rằng họ đã lầm.
Một thí dụ tốt của chuyện này là Einstein, người đã gọi hằng số vũ trụ mà ông
đã đưa ra khi ông cố tạo một mô hình tĩnh của vũ trụ, là sai lầm lớn nhất trong
đời ông.
Để trở lại mũi tên thời
gian, vẫn còn câu hỏi: Tại sao chúng ta quan sát thấy rằng những mũi tên nhiệt
động và vũ trụ cùng chỉ về cùng một hướng? Hoặc nói một cách khác, tại sao sự mất
trật tự gia tăng cùng một hướng thời gian như hướng trong đó vũ trụ bành trướng?
Nếu người ta tin rằng vũ trụ sẽ bành trướng và rồi co rút trở lại, như đề xuất
không biên giói có vẻ bao hàm, điều này trở thành một câu hỏi tại sao chúng ta
phải ở trong giai đoạn bành trướng thay vì giai đoạn co rút.
Người ta có thể trả lời câu
hỏi này trên căn bản nguyên tắc vị nhân chủng yếu. Các điều kiện trong giai đoạn
co rút sẽ không thích hợp cho sự hiện hữu của các sinh vật thông minh, những kẻ
có thể đặt ra câu hỏi. Tại sao sự mất trật tự gia tăng cùng chiều thời gian như
chiều trong đó vũ trụ bành trướng? Sự lạm phát trong những giai đoạn đầu của vũ
trụ, như đề xuất không biên giới tiên đoán, có nghĩa rằng vũ trụ phải đang bành
trướng ở nhịp độ sát với nhịp độ tới hạn, vừa đủ để tránh sự co sụp trở lại, và
do đó sẽ không co sụp trở lại trong một thời gian rất dài. Tới lúc đó mọi ngôi
sao đã cháy rụi và các proton và trung hòa tử của chúng có thể đã thoái hóa
thành những hạt nhẹ hơn và bức xạ. Vũ trụ sẽ ở trong một tình trạng hầu như
hoàn toàn mất trật tự. Sẽ không có mũi tên thời gian nhiệt động mạnh. Sự mất trật
tự không thể gia tăng nhiều bởi vì vũ trụ đã ở trong một tình trạng hoàn toàn mất
trật tự rồi. Tuy nhiên, một mũi tên nhiệt động mạnh cần thiết để đời sống thông
minh hoạt động. Để sống còn, nhân loại phải tiêu thụ thực phẩm, là một hình thức
năng lượng trật tự, và biến đổi nó thành nhiệt, là một hình thức năng lượng mất
trật tự. Như vậy đời sống thông minh không thể tồn tại trong giai đoạn vũ trụ
co rút. Đây là sự giải thích tại sao chúng ta quan sát thấy rằng những mũi tên
thời gian nhiệt động và vũ trụ chỉ về cùng một hướng. Không phải sự bành trướng
của vũ trụ làm cho sự mất trật tự gia tăng. Đúng ra là điều kiện không biên giới
khiến sự mất trật tự gia tăng và các điều kiện trở thành thích hợp cho đời sống
thông minh chỉ ở trong giai đoạn bành trướng.
Để tổng kết, các định luật
khoa học không phân biệt giữa những chiều đi tới và đi lui của thời gian. Tuy
nhiên, có ít nhất ba mũi tên thời gian quả thật phân biệt quá khứ với tương
lai. Đó là mũi tên nhiệt động, chiều thời gian trong đó sự mất trật tự gia
tăng; mũi tên tâm lý, chiều thời gian trong đó chúng ta nhớ quá khứ chứ không
phải tương lai; và mũi tên vũ trụ, chiều thời gian trong đó vũ trụ bành trướng
thay vì co rút. Tôi đã chứng tỏ rằng mũi tên tâm lý chính yếu cũng giống như
mũi tên nhiệt động, do đó cả hai luôn luôn chỉ về cùng một hướng. Đề xuất không
biên giới cho vũ trụ tiên đoán sự hiện hữu của một mũi tên thời gian nhiệt động
được xác định rõ bởi vì vũ trụ phải khởi đầu trong một tình trạng trơn tru và
trật tự. Và lý do mà chúng ta quan sát thấy mũi tên nhiệt động này phù hợp với
mũi tên vũ trụ là các sinh vật thông minh chỉ có thể hiện hữu trong giai đoạn
bành trướng. Giai đoạn co rút sẽ không thích hợp bởi vì nó không có mũi tên thời
gian nhiệt động mạnh.
Sự tiến bộ của nhân loại
trong việc hiểu biết vũ trụ đã xác lập một góc trật tự nhỏ trong một vũ trụ
ngày càng mất trật tự. Nếu bạn nhớ mọi chữ trong quyển sách này, ký ức của bạn
sẽ ghi nhận khoảng hai triệu mẩu thông tin: trật tự trong bộ óc của bạn sẽ gia
tăng khoảng hai triệu đơn vị. Tuy nhiên, trong khi bạn đọc cuốn sách này, bạn sẽ
chuyển đổi ít nhất một ngàn calories về năng lượng trật tự, dưới hình thức thực
phẩm, thành năng lượng mất trật tự, dưới hình thức nhiệt mà bạn mất đi vào
không khí chung quanh bạn bởi sự truyền nhiệt và mồ hôi. Điều này sẽ gia tăng sự
mất trật tự của vũ trụ vào khoảng hai mươi triệu triệu triệu triệu đơn vị --
hay khoảng mười triệu triệu triệu lần sự gia tăng về trật tự trong bộ não của bạn
-- và đó là nói nếu bạn nhớ mọi điều trong quyển sách này. Trong chương sau tôi
sẽ cố gắng gia tăng trật tự trong khu vực của chúng ta xa thêm một chút bằng
cách giải thích làm thế nào người ta đang cố kết hợp những lý thuyết từng phần
mà tôi đã mô tả để hình thành một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh để bao gồm mọi
thứ trong vũ trụ.
CHƯƠNG 10
THỐNG NHẤT VẬT LÝ HỌC
Như đã được giải thích trong
chương đầu tiên, rất khó xây dựng một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh cho mọi
thứ trong vũ trụ. Cho nên thay vào đó chúng ta đã tiến dần bằng cách tìm những
lý thuyết từng phần mô tả một dãy những biến cố có giới hạn và bằng cách bỏ qua
những hậu quả khác hoặc ước lượng chúng bằng một số những con số. (Môn hóa học
chẳng hạn, cho phép chúng ta tính toán sự tương tác của các nguyên tử, mà không
biết cấu trúc bên trong hạt nhân của một nguyên tử.) Tuy nhiên, cuối cùng, người
ta sẽ hy vọng tìm ra một lý thuyết thống nhất, phù hợp và hoàn chỉnh sẽ bao gồm
tất cả những lý thuyết từng phần này như những sự ước lượng, và không cần phải
được điều chỉnh cho phù hợp với các dữ kiện bằng cách chọn các trị số của một số
các con số bắt buộc trong lý thuyết. Cuộc tìm kiếm một lý thuyết như vậy được
biết như là "sự thống nhất của vật lý học." Einstein đã bỏ ra phần lớn
những năm cuối đời của ông để tìm kiếm một lý thuyết thống nhất mà không thành
công, nhưng thời gian lúc đó chưa chín mùi: đã có những lý thuyết từng phần cho
các hấp lực và lực điện từ, nhưng rất ít điều được biết về các lực hạt nhân.
Hơn nữa, Einstein đã không chịu tin vào thực tế của cơ học lượng tử, bất kể vai
trò quan trọng mà ông đã đóng góp trong việc phát triển của môn này. Tuy nhiên,
có vẻ như nguyên tắc bất định là một đặc tính căn bản của vũ trụ mà chúng ta sống
bên trong. Một lý thuyết thống nhất thành công do đó nhất thiết phải hội nhập
nguyên tắc này.
Như tôi sẽ mô tả, viễn ảnh
tìm ra một lý thuyết như vậy hiện có vẻ tốt đẹp hơn nhiều bởi vì ngày nay chúng
ta hiểu biết nhiều hơn về vũ trụ. Nhưng chúng ta phải đề phòng sự tự tin quá lố
-- chúng ta đã có những tin tưởng sai lầm trước kia rồi! Vào đầu thế kỷ này, chẳng
hạn, người ta đã nghĩ rằng mọi chuyện có thể được giải thích theo các đặc tính
của vật chất liên tục, như sự đàn hồi và sự dẫn nhiệt. Sự khám phá ra cấu trúc
nguyên tử và nguyên tắc bất định đã đưa tới một sự kết thúc dứt khoát cho điều
đó. Rồi một lần nữa, trong năm 1928, nhà vật lý đã chiếm giải Nobel là Max Born
đã nói với một nhóm các khách viếng thăm trường đại học Gottingen, "Vật
lý học, như chúng ta biết, sẽ kết thúc trong vòng sáu tháng." Sự tự tin của
ông đã được căn cứ vào sự khám phá mới bởi Dirac về phương trình chi phối điện
tử. Người ta đã nghĩ rằng một phương trình tương tự sẽ chi phối proton, là loại
hạt duy nhất khác được biết lúc đó, và điều đó sẽ là kết cuộc của vật lý lý
thuyết. Tuy nhiên, sự khám phá ra trung hòa tử và các lực hạt nhân cũng đã đánh
gục điều đó. Tuy nói vậy, tôi vẫn tin rằng có những lý do để lạc quan một cách
thận trọng rằng chúng ta hiện có thể gần đến đoạn cuối của cuộc tìm kiếm những
định luật tối hậu của vũ trụ.
Trong những chương trước tôi
đã mô tả thuyết tương đối tổng quát, lý thuyết từng phần về hấp lực, và những
lý thuyết từng phần chi phối các lực yếu, lực mạnh và lực điện từ. Ba loại lực
này có thể được kết hợp vào điều được gọi là những lý thuyết thống nhất lớn,
hay GUT (Grand Unified Theories). Những lý thuyết này không hoàn hảo cho lắm bởi
vì chúng không bao gồm hấp lực và bởi vì chúng chứa một số những số lượng, như
các khối lượng tương đối của những hạt khác nhau, không thể tiên đoán được từ
lý thuyết nhưng phải được lựa chọn để thích hợp với những quan sát. Khó khăn
chính trong việc tìm ra một lý thuyết thống nhất hấp lực với các lực khác nằm ở
chỗ thuyết tương đối tổng quát là một lý thuyết "cổ điển," nghĩa là,
nó không hội nhập nguyên tắc bất định của cơ học lượng tử. Mặt khác, các lý
thuyết từng phần khác trên căn bản phụ thuộc vào cơ học lượng tử. Do đó, một bước
đầu cần thiết là phải kết hợp thuyết tương đối tổng quát với nguyên tắc bất định.
Như chúng ta đã thấy, điều này có thể sinh ra vài hậu quả đáng kể, như các hố
đen không phải đen, và vũ trụ không có điểm kỳ dị nào cả, mà hoàn toàn tự chứa
và không có biên giới. Rắc rối là, như đã được giải thích trong chương 7,
nguyên tắc bất định có nghĩa rằng ngay cả không gian "trống rỗng"
cũng chứa đầy những cặp hạt và phản hạt ảo. Những cặp này sẽ có một số năng lượng
nhất định và, do đó, theo phương trình nổi tiếng của Einstein E = mc2, chúng sẽ
có một số khối lượng nhất định. Hấp lực của chúng như vậy sẽ uốn cong vũ trụ
thành cỡ nhỏ vô hạn.
Hơi tương tự, những vô hạn
có vẻ vô lý xảy ra trong những lý thuyết từng phần khác, nhưng trong tất cả những
trường hợp này những vô hạn có thể bị triệt tiêu bởi một tiến trình gọi là tái
bình thường hóa. Điều này liên quan đến việc triệt tiêu những vô hạn bằng cách
đưa vào những vô hạn khác. Mặc dù kỹ thuật này hơi mơ hồ về toán học, nó hình
như có hiệu quả trong thực tế, và đã được sử dụng với những lý thuyết này để thực
hiện những tiên đoán phù hợp với những quan sát với một mức độ chính xác phi
thường.Tuy nhiên, sự tái bình thường hóa quả thật có một nhược điểm nghiêm trọng
từ quan điểm cố tìm kiếm một lý thuyết hoàn toàn, bởi vì nó có nghĩa những trị
số thực của các khối lượng và sức mạnh của các lực không thể được tiên đoán từ
lý thuyết, mà phải được lựa chọn để thích hợp với những quan sát.
Trong khi cố gắng hội nhập
nguyên tắc bất định vào thuyết tương đối tổng quát, người ta chỉ có hai số lượng
có thể được điều chỉnh: sức mạnh của trọng lực và trị số của hằng số vũ trụ.
Nhưng sự điều chỉnh những số lượng này không đủ để loại trừ mọi vô hạn. Do đó
người ta có một lý thuyết có vẻ tiên đoán rằng một vài số lượng, như độ cong của
không-thời gian, thực ra là vô hạn, tuy những vô hạn này có thể được quan sát
và đo đạc để hoàn toàn hữu hạn! Khó khăn trong việc kết hợp thuyết tương đối tổng
quát với nguyên tắc bất định đã có lúc bị nghi ngờ, nhưng cuối cùng đã được xác
nhận bằng những tính toán chi tiết vào năm 1972. Bốn năm sau, một giải pháp có
thể, được gọi là "siêu hấp lực," đã được đề nghị. Ý tưởng là kết hợp
hạt có số quay 2 gọi là các hạt hấp lực (graviton), mang hấp lực, với vài hạt mới
khác có số quay 3/2, 1, 1/2, và 0. Trong một ý nghĩa, tất cả những hạt này khi
đó có thể được coi như những khía cạnh khác nhau của cùng "siêu hạt,"
do đó thống nhất các hạt vật chất với số quay 1/2 và 3/2 với những hạt mang lực
có số quay 0, 1, và 2. Những cặp hạt/phản hạt ảo có số quay 1/2 và 3/2 sẽ có
năng lượng âm, và do đó sẽ có khuynh hướng triệt tiêu năng lượng dương của các
cặp hạt ảo có số quay 2, 1, và 0. Điều này sẽ khiến những vô hạn triệt tiêu,
nhưng người ta nghi rằng vài vô hạn có thể còn tồn tại. Tuy nhiên, những tính
toán cần thiết để biết liệu có bất cứ vô hạn nào còn lại mà không bị triệt tiêu
hay không đã mất thì giờ và khó khăn đến nỗi không ai sẵn sàng thực hiện. Ngay
cả với một máy điện toán, người ta ước tính sẽ cần ít nhất 4 năm, và nhiều rủi
ro là người ta sẽ phạm ít nhất một sai lầm, có thể nhiều hơn. Do đó người ta sẽ
chỉ biết câu trả lời đúng hay không nếu có người khác lập lại sự tính toán và
nhận được cùng câu trả lời, và điều đó hình như rất khó xảy ra!
Bất kể những khó khăn này,
và sự kiện rằng các hạt trong các lý thuyết siêu hấp lực đã không có vẻ phù hợp
với những hạt đã quan sát được, hầu hết các khoa học gia tin rằng siêu hấp lực
có thể là câu trả lời đúng cho vấn đề thống nhất vật lý học. Có vẻ đó là phương
cách tốt nhất để thống nhất hấp lực với các lực khác. Tuy nhiên, trong năm 1984
có một thay đổi quan điểm đáng kể thiên về cái được gọi là những lý thuyết dây.
Trong những lý thuyết này các vật thể căn bản không phải là các hạt, chiếm một
điểm duy nhất trong không gian, mà là những cái có một chiều dài mà không có
chiều khác, giống như một mẩu dây mỏng vô hạn. Những sợi dây này có thể có hai
đầu (được gọi là dây mở) hoặc chúng có thể nối với nhau thành những vòng kín
(dây kín) (Hình 10.1 và 10.2). Một hạt chiếm một điểm trong không gian tại mỗi
điểm thời gian. Do đó lịch sử của nó có thể được biểu diễn bởi một đường trong
không-thời gian ("đường thế giới'). Một dây, mặt khác, chiếm một đường
trong không gian tại mỗi thời điểm.
Do đó lịch sử của nó trong không-thời gian là một bề mặt hai chiều gọi là phiến thế giới. (Bất cứ điểm nào trên một phiến thế giới như vậy cũng có thể được mô tả bằng hai con số, một số chỉ thời gian và số kia chỉ vị trí của điểm trên sợi dây). Phiến thế giới của một sợi dây mở là một dải; các bờ của nó tượng trưng những con đường qua không-thời gian của những đầu của sợi dây (Hình 10.1). Phiến thế giới của một sợi dây đóng là một ống hình trụ (Hình 10.2); một đường cắt qua ống là một vòng tròn, tượng trưng vị trí của sợi dây tại một thời điểm đặc biệt.
Do đó lịch sử của nó trong không-thời gian là một bề mặt hai chiều gọi là phiến thế giới. (Bất cứ điểm nào trên một phiến thế giới như vậy cũng có thể được mô tả bằng hai con số, một số chỉ thời gian và số kia chỉ vị trí của điểm trên sợi dây). Phiến thế giới của một sợi dây mở là một dải; các bờ của nó tượng trưng những con đường qua không-thời gian của những đầu của sợi dây (Hình 10.1). Phiến thế giới của một sợi dây đóng là một ống hình trụ (Hình 10.2); một đường cắt qua ống là một vòng tròn, tượng trưng vị trí của sợi dây tại một thời điểm đặc biệt.
Hai mẩu dây có thể nối với
nhau để làm thành một sợi dây duy nhất; trong trường hợp những sợi dây mở chúng
giản dị nối tại các đầu dây (Hình 10.3), trong khi trong trường hợp các dây kín
nó giống hai ống quần (Hình 10.4). Tương tự, một mẩu dây duy nhất có thể chia
thành hai sợi. Trong các lý thuyết dây, những gì trước kia được nghĩ như các hạt
bây giờ được hình dung như các sóng di chuyển dọc sợi dây, giống như sóng trên
một sợi dây diều đang rung. Sự phát ra hoặc hấp thụ của một hạt bởi một hạt
khác tương ứng với sự phân chia hoặc nối với nhau của các sợi dây. Thí dụ, hấp
lực của mặt trời tác động lên trái đất được hình dung trong các lý thuyết hạt
như gây ra bởi sự phát ra một hạt graviton bởi một hạt ở mặt trời và sự hấp thụ
của nó bởi một hạt ở trái đất (Hình 10.5). Trong lý thuyết dây, tiến trình này
tương ứng với một ống hình chữ H (Hình 10.6). (Lý thuyết dây hơi giống công việc
đặt ống nước, theo một cách nhìn). Hai bên chiều thẳng đứng của chữ H tương ứng
với những hạt ở mặt trời và trái đất và ống nối nằm ngang tương ứng với hạt graviton
di chuyển giữa chúng.
Lý thuyết dây có một lịch sử
kỳ lạ. Nó đầu tiên được nghĩ ra vào cuối thập niên 1960 trong một cố gắng để
tìm ra một lý thuyết để mô tả lực mạnh. Ý kiến là các hạt như proton và trung
hòa tử có thể được coi như những sóng trên một sợi dây. Các lực mạnh giữa những
hạt sẽ tương ứng với những mẩu dây đi giữa những khúc dây khác, như trong một
màng nhện. Để lý thuyết này cho trị số đã quan sát được của lực mạnh giữa những
hạt, các dây phải giống như những vòng dây thun với một sức kéo khoảng 10 tấn.
Trong năm 1974 Joel Scherk ở Paris và John Schwarz thuộc Viện Kỹ Thuật
California đã xuất bản một tài liệu trong đó họ chứng minh rằng lý thuyết dây
có thể mô tả hấp lực, nhưng chỉ trong trường hợp sức căng trong sợi dây mạnh
hơn rất nhiều, khoảng một ngàn triệu triệu triệu triệu triệu triệu tấn (số 1 với
39 số không theo sau). Những tiên đoán của lý thuyết dây sẽ giống như những
tiên đoán của thuyết tương đối tổng quát, trên những cỡ chiều dài bình thường,
nhưng chúng sẽ khác ở những khoảng cách rất nhỏ, dưới một phần ngàn triệu triệu
triệu triệu triệu của một centimét (một centimét chia cho số 1 với 33 số không
theo sau). Tuy nhiên, công trình của họ đã không được chú ý nhiều, bởi vì cũng
đúng khoảng thời gian đó hầu hết mọi người đã bác bỏ lý thuyết dây nguyên thủy
của lực mạnh để thiên về lý thuyết căn cứ vào các quark và gluon, có vẻ phù hợp
hơn nhiều với những quan sát. Scherk đã chết trong trường hợp bi thảm (ông bị bệnh
tiểu đường và đã bị hôn mê khi không có ai ở gần để chích cho ông một mũi thuốc
insulin). Do đó Schwarz bị bỏ lại một mình hầu như là người duy nhất ủng hộ
thuyết dây, nhưng hiện giờ trị số của sức căng dây được đề nghị cao hơn nhiều.
Trong năm 1984 sự chú ý về
các dây bỗng sống lại, có vẻ như vì hai lý do. Một là người ta không thực sự tiến
bộ nhiều theo chiều hướng chứng tỏ rằng siêu hấp lực là hữu hạn hoặc có thể giải
thích các loại hạt mà chúng ta quan sát. Lý do kia là việc xuất bản một tài liệu
của John Schwarz và Mike Green ở trường Queen Mary College ở Luân Đôn, chứng
minh rằng thuyết dây có thể giải thích sự hiện hữu của các hạt có một đặc tính
nội tại là thuận bên trái, giống như vài trong số những hạt mà chúng ta quan
sát. Dù với lý do nào, nhiều người chẳng bao lâu khởi sự nghiên cứu về lý thuyết
dây và một phiên bản mới đã được phát triển, cái được gọi là thuyết dây dị biệt,
có vẻ như có thể giải thích các loại hạt mà chúng ta quan sát.
Các lý thuyết dây cũng đưa tới
những vô hạn, nhưng người ta cho rằng chúng sẽ triệt tiêu tất cả trong những
phiên bản như thuyết dây dị biệt (mặc dù điều này chưa được biết chắc chắn).
Tuy nhiên, các lý thuyết dây, có một khó khăn lớn lao hơn: chúng hình như chỉ
phù hợp nếu không-thời gian hoặc có mười hoặc có hai mươi sáu chiều, thay vì bốn
chiều bình thường! Dĩ nhiên những chiều không-thời gian phụ trội là một chuyện
thông thường của khoa học giả tưởng; thật vậy, chúng hầu như là một sự cần thiết,
bởi vì nếu không chuyện thuyết tương đối cho rằng người ta không thể du hành
nhanh hơn ánh sáng có nghĩa rằng di chuyển giữa các ngôi sao và các thiên hà sẽ
mất quá nhiều thì giờø. Ý tưởng của khoa học giả tưởng là có lẽ người ta có thể
dùng một con đường tắt qua một chiều cao hơn. Người ta có thể hình dung điều
này như sau. Hãy tưởng tượng rằng không gian mà chúng ta đang sống chỉ có hai
chiều và bị cong như bề mặt của một vòng neo tầu hoặc hình vành khuyên (Hình
10.7). Nếu bạn ở một phía của bờ trong của vành và bạn muốn đi tới một điểm nằm
phía bên kia, bạn sẽ phải đi quanh bờ trong của vành. Tuy nhiên, nếu bạn có thể
di chuyển trong chiều thứ ba, bạn có thể đi tắt thẳng qua bên kia.
Tại sao chúng ta đã không nhận
thấy tất cả những chiều phụ trội này, nếu chúng thực sự có mặt? Tại sao chúng
ta chỉ nhìn thấy ba chiều không gian và một chiều thời gian? Đề nghị để giải
đáp là những chiều kia bị uốn cong lại thành một không gian cỡ rất nhỏ, một cái
gì đó như một phần triệu triệu triệu triệu triệu của một inch. Nó quá nhỏ đến độ
chúng ta không nhận thấy nó, chúng ta chỉ nhìn thấy một chiều thời gian và ba
chiều không gian, trong đó không-thời gian hơi phẳng. Nó như bề mặt của một
trái cam: nếu bạn nhìn thật gần, nó cong và nhăn nheo, nhưng nếu bạn nhìn nó từ
xa, bạn không nhìn thấy những chỗ lồi lõm và nó có vẻ nhẵn nhụi. Do đó với
không-thời gian: trên một cỡ thật nhỏ, nó có mười chiều và rất cong, nhưng ở những
cỡ lớn hơn bạn không nhìn thấy độ cong hoặc những chiều phụ trội. Nếu hình ảnh
này là đúng, nó có nghĩa là tin buồn cho những nhà du hành không gian tương
lai: những chiều phụ trội sẽ quá nhỏ để cho phép một phi thuyền không gian đi
qua. Tuy nhiên, nó nêu lên một vấn nạn lớn khác. Tại sao một số, mà không phải
tất cả, các chiều lại cong lại thành một trái banh nhỏ? Giả sử, trong một vũ trụ
rất sơ khai mọi chiều đã rất cong. Tại sao một chiều thời gian và ba chiều
không gian đã phẳng lại, trong khi những chiều kia vẫn cong vòng?
Một câu trả lời có thể có là
nguyên tắc vị nhân chủng. Hai chiều không gian hình như không đủ để cho phép
phát triển những sinh vật phức tạp như chúng ta. Thí dụ, những động vật hai chiều
sống trên một trái đất một chiều sẽ phải bò lên nhau để vượt qua nhau. Nếu một
sinh vật hai chiều ăn cái gì đó nó có thể không tiêu hóa hoàn toàn, nó sẽ phải
đưa ngược trở lên những đồ còn sót lại theo cùng con đường nó đã nuốt vào, bởi
vì nếu có một đường đi qua cơ thể của nó, con đường sẽ chia sinh vật này ra làm
hai nửa rời nhau, sinh vật hai chiều của chúng ta sẽ rã ra (Hình 10.8). Tương tự,
thật khó mà thấy bằng cách nào có thể có sự lưu thông của máu trong một sinh vật
hai chiều.
Cũng sẽ có những vấn nạn với
không gian có quá ba chiều. Hấp lực giữa hai vật thể sẽ giảm nhanh hơn theo khoảng
cách so với trong không gian ba chiều. (Trong ba chiều, hấp lực giảm còn 1/4 nếu
tăng gấp đôi khoảng cách. Trong bốn chiều, nó sẽ giảm còn 1/8, trong năm chiều
còn 1/16, và cứ thế.) Ý nghĩa của điều này là những quỹ đạo của các hành tinh,
như trái đất, quanh mặt trời sẽ không ổn định: sự quấy rối nhỏ nhất từ một quỹ
đạo tròn (như gây ra bởi sức hút trọng lực của những hành tinh khác) sẽ khiến
trái đất xoáy ra xa hoặc đâm vào mặt trời. Chúng ta hoặc sẽ lạnh băng hoặc bị
cháy tiêu. Thật vậy, phản ứng như vậy của trọng lực với khoảng cách ở các không
gian quá bốn chiều có nghĩa là mặt trời không thể tồn tại trong một trạng thái ổn
định với trọng lực cân bằng áp lực. Nó hoặc sẽ rã ra hoặc sẽ suy sụp để tạo
thành một hố đen. Trong bất cứ trường hợp nào, nó sẽ không ích lợi gì như một
nguồn phát nhiệt và ánh sáng cho đời sống trên Trái Đất. Trên một tầm mức nhỏ
hơn, các lực điện khiến các điện tử quay chung quanh nhân trong một nguyên tử sẽ
xử sự giống như các hấp lực. Do đó các điện tử sẽ hoặc từ nguyên tử thoát đi hết
hoặc sẽ xoáy vào nhân. Trong bất cứ trường hợp nào, người ta không thể có các
nguyên tử như chúng ta biết.
Như vậy có vẻ rõ ràng đời sống,
ít nhất như chúng ta biết, chỉ có thể tồn tại trong những vùng không-thời gian
trong đó một chiều thời gian và ba chiều không gian không bị uốn cong nhỏ lại.
Điều này sẽ có nghĩa người ta có thể cầu cứu tới nguyên tắc vị nhân chủng yếu,
với điều kiện người ta có thể chứng tỏ rằng thuyết dây quả thật ít ra cho phép
có những vùng vũ trụ như vậy -- và có vẻ như thuyết dây cho phép. Rất có thể có
những vùng khác của vũ trụ, hay những vũ trụ khác (dù cái đó có nghĩa là gì),
trong đó mọi chiều đều cong nhỏ lại hoặc trong đó hơn bốn chiều gần như phẳng,
nhưng sẽ không có các sinh vật thông minh ở những vùng như vậy để quan sát con
số khác nhau của những chiều thật sự.
Ngoài vấn đề số chiều mà
không-thời gian có vẻ có, lý thuyết dây vẫn có nhiều vấn đề khác phải được giải
quyết trước khi nó có thể được tuyên bố như thuyết thống nhất tối hậu của vật
lý. Chúng ta chưa biết liệu mọi vô hạn có triệt tiêu lẫn nhau hết hay không,
hay làm thế nào để liên kết chính xác các sóng trên sợi dây với các loại hạt đặc
biệt mà chúng ta quan sát. Tuy nhiên, có thể rằng những giải đáp cho những câu
hỏi này sẽ được tìm ra trong những năm tới đây, và rằng trước cuối thế kỷ 20
chúng ta sẽ biết liệu lý thuyết dây có thật là lý thuyết thống nhất của vật lý
mà từ lâu người ta tìm kiếm hay không.
Nhưng liệu thật sự có thể có
một thuyết thống nhất như vậy hay không? Hoặc chúng ta chỉ đuổi theo một ảo ảnh?
Có thểû có ba điều khả dĩ:
1) Thật sự có một lý thuyết
thống nhất hoàn chỉnh, mà một ngày nào đó chúng ta sẽ khám phá ra nếu chúng ta
đủ tinh khôn.
2) Không có lý thuyết tối hậu
nào của vũ trụ, chỉ là một chuỗi vô tâïn các lý thuyết mô tả vũ trụ ngày càng
chính xác hơn.
3) Không có lý thuyết của vũ
trụ; các biến cố không thể được tiên đoán vượt xa hơn một mức độ nào đó mà xảy
ra một cách tình cờ và độc đoán.
Vài người sẽ bênh vực cho điều
khả dĩ thứ ba với lý luận rằng nếu có một bộ hoàn chỉnh các định luật, điều đó
sẽ cản trở tự do của Thượng Đế để đổi ý và can thiệp vào thế giới. Nó hơi giống
như điều mâu thuẫn cũ: Thượng Đế có thể làm ra một tảng đá nặng đến độ Ngài
không thể nhấc lên nổi hay không? Nhưng ý tưởng rằng Thượng Đế có thể muốn đổi
ý là một thí dụ của sự ngụy biện, đã được vạch ra bởi St. Augustine, khi tưởng
tượng Thượng Đế như một sinh vật hiện hữu trong thời gian: thời gian là một đặc
điểm chỉ có ở vũ trụ mà Thượng Đế tạo ra. Giả sử Thượng Đế đã biết những gì người
dự tính khi thành lập ra nó!
Với sự ra đời của cơ học lượng
tử, chúng ta đã đi tới việc thừa nhận rằng các biến cố không thể được tiên đoán
với sự chính xác hoàn toàn nhưng rằng luôn luôn có một mức độ bất trắc nào đó.
Nếu người ta muốn, người ta có thể cho sự tình cờ này là do sự can thiệp của
Thượng Đế, nhưng đóù sẽ là một loại can thiệp rất lạ thường: không có bằng chứng
nào là nó được hướng dẫn tới mục đích nào. Thật vậy, nếu nó đã được hướng dẫn,
theo định nghĩa nó sẽ không còn là tình cờ nữa. Ở thời đại tân tiến, chúng ta
đã loại bỏ điều khả dĩ thứ ba ở trên một cách hiệu quả bằng cách tái định nghĩa
mục tiêu của khoa học: mục đích của chúng ta là hình thành một bộ các định luật
cho phép chúng ta tiên đoán các biến cố chỉ tới giới hạn đặt ra bởi nguyên tắc
bất định.
Điều khả dĩ thứ nhì, rằng có
một chuỗi vô hạn các lý thuyết ngày càng tinh vi hơn, phù hợp với mọi kinh nghiệm
của chúng ta cho tới ngày nay. Trong nhiều dịp chúng ta đã gia tăng độ chính
xác những đo đạc của chúng ta hoặc thực hiện một lớp các quan sát mới, chỉ để
khám phá những hiện tượng mới đã không được tiên đoán bởi lý thuyết hiện hữu,
và để xét tới những hiện tượng này chúng ta đã phải phát triển một lý thuyết tiến
bộ hơn. Do đó sẽ rất không có gì đáng ngạc nhiên nếu thế hệ hiện nay của các lý
thuyết thống nhất lớn là sai lầm khi cho rằng trên căn bản không có gì mới sẽ xảy
ra giữa năng lượng thống nhất điện yếu vào khoảng 100 GeV và năng lượng thống
nhất lớn vào khoảng một ngàn triệu triệu GeV. Chúng ta có thể thực sự trông đợi
tìm ra nhiều lớp mới về cấu trúc căn bản hơn là các quark và điện tử mà hiện giờ
chúng ta coi như các hạt "căn bản."
Tuy nhiên, hình như hấp lực
có thể cung cấp một giới hạn cho chuỗi "hộp bên trong hộp" này. Nếu
người ta có một hạt với một năng lượng trên mức được gọi là năng lượng Planck,
10 triệu triệu triệu GeV (số 1 theo sau bởi mười tám số 0), khối lượng của nó sẽ
tập trung đến độ nó sẽ tự tách rời khỏi phần còn lại của vũ trụ và hình thành một
hố đen nhỏ. Như vậy hình như quả thật chuỗi lý thuyết ngày càng tinh vi phải có
giới hạn nào đó khi chúng ta tiến tới những năng lượng ngày càng cao, để cho phải
có một lý thuyết vũ trụ tối hậu nào đó. Dĩ nhiên, năng lượng Planck là một con
đường dài từ năng lượng khoảng một trăm GeV, là năng lượng lớn nhất mà chúng ta
có thể sản xuất trong phòng thí nghiệm ngày nay. Chúng ta sẽ không nối cách biệt
đó bằng các máy gia tốc hạt trong tương lai có thể nhìn thấy được! Tuy nhiên,
chính những giai đoạn sơ khai của vũ trụ là một khung cảnh mà những năng lượng
như vậy đã phải xảy ra. Tôi nghĩ có một cơ may rằng việc nghiên cứu vũ trụ sơ
khai và những đòi hỏi về sự phù hợp toán học sẽ đưa chúng ta tới một lý thuyết
thống nhất hoàn chỉnh trong vòng cuộc đời của một vài người trong chúng ta hiện
đang sống ngày nay, luôn luôn giả sử chúng ta không làm nổ tung chúng ta trước.
Sẽ có nghĩa gì nếu chúng ta
quả đã khám phá được thuyết tối hậu của vũ trụ? Như đã được giải thích ở Chương
1, chúng ta không bao giờ có thể chắc chắn rằng mình thực sự đã tìm ra lý thuyết
đúng, bởi vì các lý thuyết không thể chứng minh được. Nhưng nếu lý thuyết phù hợp
về toán học và luôn luôn cho những tiên đoán phù hợp với những quan sát, chúng
ta có thể tin tưởng một cách hợp lý rằng đó là lý thuyết đúng. Nó sẽ đưa tới sự
kết thúc một chương dài và đầy thắng lợi trong lịch sử tranh đấu trí tuệ của
nhân loại để hiểu biết vũ trụ. Nhưng nó cũng sẽ cách mạng hóa sự hiểu biết của
người thường về các định luật chi phối vũ trụ. Vào thời Newton một người có học
thức có thể có một sự hiểu biết về toàn thể kiến thức con người, ít ra về đại
cương. Nhưng kể từ đó, nhịp độ phát triển của khoa học đã làm cho điều này trở
thành không thể được. Bởi vì các lý thuyết luôn luôn thay đổi để bao gồm những
quan sát mới, chúng không bao giờ được tiêu hóa hoặc đơn giản hóa một cách
thích hợp để người thường có thể hiểu được chúng. Bạn phải là một chuyên viên,
và ngay cả khi đó, bạn chỉ có thể hy vọng nắm được một phần nhỏ của các lý thuyết
khoa học. Hơn nữa, nhịp độ tiến bộ nhanh đến độ những gì người ta học được tại
trường luôn luôn hơi lỗi thời. Chỉ một số ít người có thể bắt kịp biên cương mở
rộng nhanh chóng của kiến thức, và họ phải dành trọn thì giờ và chuyên chú vào
một lãnh vực nhỏ. Phần còn lại của người dân ít có ý kiến về những tiến bộ đang
được thực hiện hoặc sự khích động mà chúng tạo ra. Bảy mươi năm về trước, nếu
Eddington nói đúng, chỉ có hai người hiểu thuyết tương đối tổng quát. Ngày nay
hàng chục ngàn những người tốt nghiệp đại học có thể hiểu rõ, và nhiều triệu
người ít nhất quen thuộc với ý tưởng này. Nếu một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh
được khám phá, sẽ chỉ là một vấn đề thời gian trước khi nó được tiêu hóa và đơn
giản hóa giống như vậy và được dạy tại các trường học, ít nhất về đại cương.
Khi đó tất cả chúng ta có thể có một ít hiểu biết về các định luật chi phối vũ
trụ và chịu trách nhiệm về sự hiện hữu của chúng ta.
Cho dù chúng ta khám phá được
một lý thuyết thống nhất hoàn chỉnh, nó sẽ không có nghĩa rằng chúng ta sẽ có
thể tiên toán được các biến cố nói chung, vì hai lý do. Lý do thứ nhất là sự giới
hạn mà nguyên tắc bất định của cơ học lượng tử đặt ra cho khả năng tiên đoán của
chúng ta. Không có gì chúng ta có thể làm được để tránh điều đó. Tuy nhiên,
trên thực tế, giới hạn thứ nhất này ít chặt chẽ hơn giới hạn thứ nhì. Nó phát
sinh từ sự kiện rằng chúng ta đã không thể giải được các phương trình của lý
thuyết một cách chính xác, ngoại trừ trong những tình huống rất đơn giản.
(Chúng ta không thể giải đúng ngay cả sự chuyển động của ba vật thể trong thuyết
hấp lực của Newton, và sự khó khăn gia tăng với con số vật thể và sự phức tạp của
lý thuyết.) Chúng ta đã biết các định luật chi phối cách xử sự của vật chất dưới
mọi tình huống ngoại trừ những tình huống cực đoan nhất. Đặc biệt, chúng ta biết
các định luật căn bản làm nền móng cho hóa học và sinh học. Tuy nhiên chắc chắn
chúng ta chưa giảm những môn này xuống tới địa vị của những bài toán đã được giải
đáp, chúng ta cũng ít thành công trong việc tiên đoán động thái của con người bằng
các phương trình toán học! Do đó dù chúng ta tìm được một bộ định luật căn bản
hoàn chỉnh, trong những năm tới đây vẫn có những nhiệm vụ thách đố trí tuệ
trong việc phát triển những phương pháp ước lượng tốt hơn, để chúng ta có thể
thực hiện những tiên đoán có ích về các hậu quả có thể xảy ra trong những tình
huống phức tạp và thực tế. Một lý thuyết thống nhất phù hợp, hoàn chỉnh chỉ là
bước đầu: mục tiêu của chúng ta là một sự hiểu biết toàn diện các biến cố chung
quanh chúng ta, và sự hiện hữu của chính chúng ta.
CHƯƠNG 11
KẾT LUẬN
Chúng ta thấy mình ở trong một
thế giới đầy những thắc mắc. Chúng ta muốn giải thích những gì chúng ta nhìn thấy
chung quanh chúng ta và đặt câu hỏi: Bản chất của vũ trụ là gì? chỗ đứng của
chúng ta trong đó là gì và nó và chúng ta từ đâu mà tới? Tại sao nó lại như thế?
Để cố trả lời những câu hỏi
này chúng ta chấp nhận một "hình ảnh thế giới" nào đó. Cũng như một
cái tháp vô tận gồm những con rùa chống đỡ trái đất dẹp là một hình ảnh như vậy,
lý thuyết về những sợi dây siêu đẳng cũng thế. Cả hai đều là những thuyết về vũ
trụ, mặc dù thuyết sau có tính cách toán học và chính xác hơn nhiều so với thuyết
trước. Cả hai thuyết đều thiếu chứng cớ do quan sát: không ai từng nhìn thấy một
con rùa khổng lồ với trái đất nằm trên lưng, nhưng rồi cũng không ai thấy một sợi
dây siêu đẳng. Tuy nhiên, thuyết con rùa không phải là một thuyết khoa học tốt
bởi vì nó tiên đoán rằng người ta phải có thể rơi khỏi bờ của thế giới. Điều
này đã không thấy phù hợp với kinh nghiệm, ngoại trừ nó biến thành sự giải
thích về những người coi như đã biến mất trong Tam Giác Bermuda!
Những cố gắng về mặt lý thuyết
ban đầu để mô tả và giải thích vũ trụ liên quan đến ý tưởng rằng các biến cố và
hiện tượng thiên nhiên bị kiểm soát bởi những thần linh có những cảm xúc của
con người và hành động theo một bản chất rất giống con người và không thể tiên
đoán được. Những thần linh này nằm ở những vật thiên nhiên, như sông và núi, kể
cả các vật thể vũ trụ, giống như mặt trời và mặt trăng. Người ta phải làm hài
lòng và tìm ân huệ của những thần linh này để bảo đảm sự mầu mỡ của đất đai và
sự quay vòng của mùa. Tuy nhiên, dần dần, người ta phải nhận thấy rằng có những
sự đều đặn nào đó: mặt trời luôn luôn mọc ở hướng đông và lạên ở hướng tây, dù
có dâng vật cúng tế nào cho thần mặt trời hay không. Hơn nữa, mặt trời, mặt
trăng, và các hành tinh đi theo những con đường rõ rệt ngang bầu trời, có thể
được tiên đoán với sự chính xác đáng kể. Mặt trời và mặt trăng có thể vẫn còn
là thần linh, nhưng chúng là những thần linh chịu tuân theo những định luật chặt
chẽ, có vẻ như không có ngoại lệ nào, nếu người ta bỏ qua những câu chuyện như
câu chuyện mặt trời ngừng lại vì Joshua.
Lúc đầu, những sự đều đặn và
định luật này chỉ hiển nhiên trong thiên văn học và một vài tình huống khác.
Tuy nhiên, khi nền văn minh phát triển, và đặc biệt trong 300 năm vừa qua, càng
ngày những sự đều đặn và các định luật càng được khám phá thêm. Sự thành công của
những định luật này đã khiến Laplace vào đầu thế kỷ 19 đưa ra thuyết định mệnh
khoa học, nghĩa là, ông cho rằng sẽ có một bộ các định luật quyết định sự tiến
hóa của vũ trụ một cách chính xác, xét về hình dạng của nó tại một thời điểm.
Thuyết định mệnh của Laplace
không đầy đủ trên hai phương diện. Nó đã không cho biết các định luật đã được lựa
chọn như thế nào và nó đã không định rõ hình dạng ban đầu của vũ trụ. Những điều
này đã được dành cho Thượng Đế. Thượng Đế sẽ lựa chọn cách vũ trụ khởi đầu và
những định luật nào nó tuân theo, nhưng sẽ không can thiệp vào vũ trụ một khi
nó đã khởi đầu. Hậu quả là, Thượng Đế đã bị giới hạn ở những lãnh vực mà khoa học
thời thế kỷ 19 đã không hiểu.
Hiện giờ chúng ta biết rằng
hy vọng của Laplace về thuyết định mệnh không thể thành hình, ít ra theo các điều
kiện mà ông đã hình dung. Nguyên tắc bất định của cơ học lượng tử ngụ ý rằng vài
cặp số lượng, như vị trí và tốc độ của một hạt, không thể tiên đoán cả hai với
sự chính xác hoàn toàn.
Cơ học lượng tử đối phó với
tình trạng này qua một lớp các lý thuyết lượng tử trong đó các hạt không có những
vị trí và tốc độ được xác định rõ rệt mà được biểu diễn bởi một sóng. Những lý
thuyết lượng tử này có tính cách định mệnh theo ý nghĩa rằng chúng đưa ra những
định luật cho sự tiến hóa của sóng theo thời gian. Như vậy nếu người ta biết
sóng tại một thời điểm, người ta có thể tính toán nó ở bất cứ thời điểm nào
khác. Yếu tố tình cờ, không thể tiên đoán được chỉ du nhập khi chúng ta cố giải
thích sóng theo vị trí và tốc độ của các hạt. Nhưng có lẽ đó là sự lầm lẫn của
chúng ta: có thểõ không có các vị trí và tốc độ của hạt, mà chỉ có các sóng. Chỉ
vì chúng ta cố đưa các sóng vào những ý tưởng đã được ấp ủ từ trước về các vị
trí và tốc độ. Sự không ăn khớp do đó là nguyên nhân đưa đến sự bất khả tiên
toán thấy rõ.
Thật vậy, chúng ta đã định
nghĩa lại nhiệm vụ của khoa học như là sự khám phá các định luật sẽ cho phép
chúng ta tiên đoán các biến cố tới các giới hạn được đặt ra bởi nguyên tắc bất
định. Tuy nhiên, câu hỏi vẫn còn đó: Như thế nào hoặc tại sao các định luật và
tình trạng sơ khởi của vũ trụ đã được lựa chọn?
Trong cuốn sách này tôi đã
dành ưu thế đặc biệt cho các định luật chi phối hấp lực, bởi vì chính hấp lực
là cái hình thành cơ cấu tầm mức lớn của vũ trụ, mặc dù nó là lực yếu nhất
trong số bốn loại lực. Các định luật về hấp lực không phù hợp với quan điểm được
duy trì mãi cho tới gần đây rằng vũ trụ không thay đổi theo thời gian: sự kiện
rằng hấp lực luôn luôn thu hút ngụ ý rằng vũ trụ phải hoặc đang bành trướng hoặc
đang co rút. Theo thuyết tương đối tổng quát, phải có một tình trạng mật độ vô
hạn trong quá khứ, vụ nổ lớn, là một sự khởi đầu có hiệu quả về thời gian.
Tương tự, nếu toàn thể vũ trụ co sụp trở lại, phải có một tình trạng mật độ vô
hạn khác trong tương lai, vụ đổ vỡ lớn, sẽ là một kết cuộc về thời gian. Cho dù
toàn thể vũ trụ không co sụp trở lại, sẽ có những điểm kỳ dị tại những vùng nhỏ
co sụp để hình thành các lỗ đen. Những điểm kỳ dị này sẽ là một kết cuộc về thời
gian đối với bất cứ ai rơi vào lỗ đen. Tại vụ nổ lớn và những điểm kỳ dị khác,
mọi định luật sẽ sụp đổ, do có Thượng Đế vẫn còn hoàn toàn tự do để lựa chọn những
gì đã xảy ra và vũ trụ đã bắt đầu như thế nào.
Khi chúng ta kết hợp cơ học
lượng tử với thuyết tương đối tổng quát, hình như có một sự khả dĩ mới đã không
xuất hiện trước đây: rằng không gian và thời gian cùng nhau có thể hình thành một
không gian bốn chiều hữu hạn mà không có các điểm kỳ dị hoặc biên giới, giống
như bề mặt của trái đất nhưng với nhiều chiều hơn. Hình như ý tưởng này có thể
giải thích nhiều trong số những đặc điểm đã được quan sát của vũ trụ, như sự đồng
đều của nó trên tầm mức lớn và cả những thất thoát với tầm mức nhỏ hơn từ sự đồng
nhất, như các thiên hà, các ngôi sao, và ngay cả nhân loại. Nó còn liên quan đến
mũi tên thời gian mà chúng ta quan sát. Nhưng nếu vũ trụ hoàn toàn tự chứa đựng,
mà không có các điểm kỳ dị hoặc biên giới, và hoàn toàn được mô tả bởi một thuyết
thống nhất, điều đó có những hàm ý sâu xa về vai trò của Thượng Đế với tính
cách Đấng Sáng Tạo.
Einstein có lần đã đặt câu hỏi:
"Thượng Đế có bao nhiêu lựa chọn trong việc xây dựng vũ trụ?" Nếu ý
kiến không biên giới là đúng, Thượng Đế không có tự do nào trong việc lựa chọn
những điều kiện sơ khởi. Dĩ nhiên Thượng Đế vẫn có tự do để lựa chọn những định
luật mà vũ trụ tuân theo. Tuy nhiên, điều này có thể không thực sự là một lựa
chọn; rất có thể chỉ có một lựa chọn, hoặc một số nhỏ, các lý thuyết thống nhất
hoàn chỉnh, như lý thuyết dây dị biệt, tự phù hợp và cho phép sự hiện hữu của
các cơ cấu phức tạp như con người, sinh vật có thể khảo sát những định luật của
vũ trụ và đặt câu hỏi về bản chất của Thượng Đế.
Cho dù chỉ có thể có một lý
thuyết thống nhất, đó cũng chỉ là một bộ các quy luật và các phương trình. Điều
gì gây ra những phương trình và tạo một vũ trụ để chúng mô tả? Phương pháp thường
lệ của khoa học trong việc xây dựng một mô hình toán học không thể trả lời những
câu hỏi tại sao phải có một vũ trụ để mô hình mô tả. Tại sao vũ trụ lại làm cho
mọi người thắc mắc về sự hiện hữu? Thuyết thống nhất có đủ sức thuyết phục để
đem lại sự tồn tại của chính nó hay không? Hay liệu có cần một đấng sáng tạo
hay không, và, nếu như vậy, đấng sáng tạo có ảnh hưởng nào khác đối với vũ trụ
hay không? Và ai tạo ra đấng sáng tạo?
Cho tới bây giờ, hầu hết các
khoa học gia còn quá bận rộn với sự phát triển các lý thuyết mới mô tả vũ trụ
là gì nên chưa đặt câu hỏi tại sao. Mặt khác, những người làm công việc đặt ra
câu hỏi tại sao, các triết gia, đã không thể bắt kịp đà tiến bộ của những lý
thuyết khoa học. Trong thế kỷ 18, các triết gia đã coi toàn thể kiến thức của
nhân loại, kể cả khoa học, như lãnh vực của họ và thảo luận những câu hỏi như:
Vũ trụ đã có một khởi đầu hay không? Tuy nhiên, trong các thế kỷ 19 và 20, khoa
học đã trở nên có tính cách quá kỹ thuật và toán học đối với các triết gia, hoặc
bất cứ ai khác trừ một số các chuyên gia. Các triết gia đã giảm tầm mức những
câu hỏi của họ nhiều đến độ Wittgenstein, triết gia nổi tiếng nhất của thế kỷ
này, đã phải nói "Nhiệm vụ chính yếu còn lại cho triết học là phân tích
ngôn ngữ." Quả là một tuột dốc từ truyền thống vĩ đại của triết học từ
Aristotle đến Kant!
Tuy nhiên, nếu chúng ta khám
phá được một lý thuyết hoàn chỉnh, rồi ra nó phải có thể hiểu được trên nguyên
tắc rộng rãi bởi tất cả mọi người, không phải chỉ một vài khoa học gia. Rồi tất
cả chúng ta, những triết gia, khoa học gia, và cả những người bình thường, sẽ
có thể tham gia vào cuộc thảo luận câu hỏi tại sao chúng ta và vũ trụ lại hiện
hữu như thế. Nếu chúng ta tìm được câu trả lời cho điều đó, đây sẽ là một chiến
thắng tối hậu cho lý luận của con người -- bởi vì khi đó chúng ta sẽ biết được
ý nghĩ của Thượng Đế...
THUẬT NGỮ DÙNG TRONG SÁCH
(Theo thứ tự abc của từ ngữ Anh văn trong ngoặc
(Theo thứ tự abc của từ ngữ Anh văn trong ngoặc
Độ không tuyệt đối (absolute
zero): Ôn độ thấp nhất có thể đạt đến, ở ôn độ này vật chất không chứa nhiệt
năng.
Độ gia tốc (acceleration): Tốc
xuất mà tốc độ của một vật thay đổi.
Nguyên lý vị nhân chủng
(anthropic principle): Chúng ta thấy vũ trụ ở dạng này là vì nếu nó khác thì
chúng ta đã không có mặt ở đây để quan sát nó.
Phản hạt (antiparticle): Mỗi
loại hạt vật chất (matter particle) đều có một phản hạt. Khi một hạt đụng chạm
với phản hạt của nó thì chúng hủy diệt lẫn nhau, chỉ lưu lại năng lượng.
Nguyên tử (atom): Đơn vị cơ
bản của vật chất thông thường, cấu tạo bởi một cái nhân thật nhỏ (trong nhân
bao gồm những proton vàtrung hòa tử), với các điện tử chuyển động xung quanh
nhân này.
Bùng nổ lớn (big bang): Điểm
kỳ dị vào lúc mở đầu vũ trụ.
Co sụp lớn (big crunch): Điểm
kỳ dị vào lúc kết thúc vũ trụ.
Hố đen (black hole): Một khu
vực trong không-thời gian mà từ đó không vật gì, kể cả ánh sáng, có thể thoát
ra, vì hấp lực tại đây quá mạnh.
Giới hạn Chandrasekhar
(Chandrasekhar limit): Khối lượng tối đa khả hữu của một tinh tú nguội lạnh
(cold star) ổn định, nếu vượt quá khối lượng này tinh tú phải co sụp thành một
hố đen.
Bảo tồn năng lượng
(conservation of energy): Định luật khoa học nói rằng năng lượng (hoặc khối lượng
tương đương của nó) không thể được tạo ra hoặc hủy diệt.
Tọa độ (coordinates): Những
con số chỉ định vị trí của một điểm trong không-thời gian.
Hằng số vũ trụ
(cosmologiacal constant): Một phương pháp toán học mà Einstein đã dùng để khiến
không-thời gian có khuynh hướng bành trướng cố hữu.
Vũ trụ luận (cosmology): Môn
học nghiên cứu toàn thể vũ trụ.
Điện tích (electric charge):
Đặc tánh của một hạt khiến nó đẩy xa (hoặc hấp dẫn) những hạt khác có điện tích
giống như nó (hoặc tương phản với nó).
Lực điện từ (electromagnetic
force): Lực phát ra giữa những hạt có điện tích, lực này có sức mạnh thứ nhì
trong bốn lực cơ bản.
Điện tử (electron): Một hạt
có điện tích âm chạy quanh nhân của một nguyên tử.
Năng lượng thống nhất điện yếu
(electroweak unification energy): Năng lượng (khoảng 100 GeV) mà khi vượt trên
giới hạn này thì sự khác biệt giữa lực điện từ và lực yếu sẽ biến mất.
Hạt cơ bản (elementary
particle): Một hạt không thể phân chia được nữa.
Biến cố (event): Một điểm
trong không-thời gian được ấn định bởi không gian và thời gian của nó.
Chân trời biến cố (event
horizon): Biên giới của một hố đen.
Nguyên lý loại trừ
(exclusion principle): Hai hạt có vòng quay ½ giống hệt nhau không thể vừa có cùng
vị trí vừa có cùng tốc độ (trong giới hạn do nguyên lý bất định đặt ra).
Trường (field): Cái gì đó hiện
hữu trong khắp không-thời gian, trái với một hạt chỉ hiện hữu tại một điểm ở thời
gian nào đó.
Tần số (frequency): Tổng số
chu kỳ của một làn sóng trong một giây đồng hồ.
Tia gamma (gamma ray): Những
sóng điện từ có độ dài rất ngắn, phát sinh từ sự suy biến phóng xạ hoặc bởi những
đụng chạm giữa các hạt cơ bản.
Tương đối tổng quát (general
relativity): Lý thuyết của Einstein đặt căn bản trên điều tin tưởng rằng các định
luật khoa học đều giống nhau đối với mọi người quan sát, bất kể họ chuyển động
như thế nào. Thuyết này giải thích hấp lực theo dạng cong của không-thời gian bốn
chiều.
Trắc địa tuyến (geodesic):
Con đường ngắn nhất (hoặc dài nhất) giữa hai điểm.
Năng lượng đại thống nhất
(grand unification energy): Người ta tin rằng ở trên năng lượng này lực điện từ,
lực yếu và lực mạnh trở thành bất khả phân biệt.
Thuyết đại thống nhất (GUT -
grand unified theory): Lý thuyết thống nhất lực điện từ, lực mạnh và lực yếu.
Thời gian tưởng tượng
(imaginary time): Thời gian đo bằng những con số tưởng tượng.
Hình nón ánh sáng (light
cone): Một bề mặt trong không-thời gian đánh dấu những chiều hướng mà các tia
sáng có thể đi qua một biến cố.
Giây ánh sáng (hoặc năm ánh
sáng): Khoảng cách mà ánh sáng di chuyển trong một giây (hoặc một năm).
Từ trường (magnetic field):
Trường của từ lực, ngày nay đã được hợp nhất với điện lực thành lực điện từ.
Khối lượng (mass): Số lượng
của vật chất trong một vật thể; quán tính của vật thể, hoặc sự kháng cự của vật
thể đối với độ gia tốc.
Bức xạ bối cảnh sóng ngắn
(microwave background radiation): Bức xạ từ sự rực sáng của vũ trụ nóng trong
thời kỳ sơ khai, ngày nay nó đã chuyển đỏ nhiều tới độ chúng ta không nhận thấy
nó là ánh sáng mà là những sóng ngắn (những sóng vô tuyến có độ dài vài
centimét).
Điểm kỳ dị trần truồng
(naked singularity): Một điểm kỳ dị trong không-thời gian không có hố đen vây
quanh.
Neutrino (trung vi tử): Một
hạt cơ bản cực nhẹ (có thể không có khối lượng) chỉ chịu ảnh hưởng của lực yếu
và hấp lực.
Trung hòa tử (neutron): Một
hạt không có điện tích, rất giống proton, bao gồm khoảng một nửa những hạt
trong nhân của đa số nguyên tử.
Trung tử tinh (neutron star):
Một tinh tú nguội lạnh được chống đỡ bởi lực đẩy giữa các trung hòa tử theo
nguyên lý loại trừ.
Điều kiện vô biên giới (no
boundary condition): Ý kiến cho rằng vũ trụ là hữu hạn nhưng không có biên giới
(trong thời gian tưởng tượng).
Tụ biến hạt nhân (nuclear
fusion): Tiến trình trong đó hai hạt nhân đụng nhau và kết hợp thành một hạt
nhân nặng hơn.
Hạt nhân (nucleus): Phần
trung tâm của một nguyên tử, chỉ gồm có những protons và trung hòa tử, được giữ
dính vào nhau bởi lực mạnh.
Máy gia tốc hạt (particle
accelerator): Một loại máy sử dụng điện từ có thể gia tăng tốc độ những hạt có
điện tích đang chuyển động, khiến chúng có thêm năng lượng.
Pha (phase): Đối với một
sóng, vị trí trong chu kỳ của nó ở một thời gian đặc biệt: sự đo lường sóng để
biết nó ở đỉnh, ở đáy, hay ở điểm nào đó giữa đỉnh và đáy.
Quang tử (photon): Một lượng
tử của ánh sáng.
Nguyên lý lượng tử của
Planck (Planck's quantum principle): Ý kiến cho rằng ánh sáng (hoặc bất cứ những
sóng cổ điển nào) chỉ có thể được phát ra hoặc thu hút trong những lượng tử cố
định, và năng lượng của chúng có tỷ lệ thuận với tần số của chúng.
Phản điện tử (positron,
dương điện tử): Phản hạt (có điện tích dương) của điện tử.
Hố đen ban đầu, hay nguyên
thuỷ (primordial black hole): Loại hố đen được cấu tạo trong thời kỳ sơ khai của
vũ trụ.
Tỷ lệ thuận, tỷ lệ nghịch
(proportional, inversely proportional): "X có tỷ lệ thuận với Y"
nghĩa là khi Y được nhân lên bởi bất cứ con số nào thì X cũng tăng lên như vậy.
"X có tỷ lệ nghịch với Y" nghĩa là khi Y được nhân lên bởi bất cứ con
số nào thì Y được chia ra bởi con số đó.
Proton: Hạt có điện tích
dương bao gồm khoảng một nửa tổng số hạt trong đa cố nguyên tử.
Lượng tử (quantum): Đơn vị
không thể phân chia trong đó sóng có thể phát xạ hoặc hấp thụ.
Cơ học lượng tử (quantum
mechanics): Lý thuyết được khai triển từ nguyên lý lượng tử của Max Planck và
nguyên lý bất định của Werner Heisenberg.
Quark: Một hạt cơ bản cảm thụ
lực mạnh. Mỗi proton và trung hòa tử được cấu tạo bởi 3 quark.
Radar: Hệ thống dùng sóng vô
tuyến xung động để dò tìm vị trí của những vật thể bằng cách đo lường thời gian
mà một xung cần đến để đạt tới vật thể và phản chiếu lại.
Tánh phóng xạ
(radioactivity): Sự tan vỡ tự động của một loại hạt nhân nguyên tử để trở thành
một loại hạt nhân nguyên tử khác.
Chuyển đỏ (red shift): Sự
chuyển đổi sang màu đỏ của ánh sáng từ một tinh tú đang di chuyển càng lúc càng
xa trái đất hơn.
Điểm kỳ dị (singularity): Một
điểm trong không-thời gian ở đó dạng cong của không-thời gian trở thành vô hạn.
Định đề điểm kỳ dị
(singularity theorem): Định đề nói rằng một điểm kỳ dị phải hiện hữu trong những
tình huống nào đó – đặc biệt là vũ trụ cần phải bắt đầu từ một điểm kỳ dị.
Không-thời gian (space-time):
Không gian bốn chiều mà các điểm của nó là những biến cố.
Chiều không gian (spatial
dimension): Bất cứ chiều nào giống như không gian của ba chiều trong không-thời
gian – nghĩa là bất cứ chiều nào, ngoại trừ chiều thời gian.
Tương đối đặc biệt (special
relativity): Lý thuyết của Einstein đặt căn bản trên điều tin tưởng rằng các định
luật khoa học đều giống nhau đối với mọi người quan sát, bất kể tốc độ di chuyển
của họ.
Phổ (spectrum): Có nhiều loại
phổ, thí dụ như sự phân chia của một sóng điện từ thành những tần số của nó.
Quay (spin): Một đặc tánh nội
tại của những hạt cơ bản, liên hệ tới (nhưng không giống hệt) quan niệm thông
thường của chúng ta về động tác quay.
Trạng thái ổn cố (stationary
state): Trạng thái không thay đổi với thời gian: một khối hình cầu quay ở một vận
tốc cố định được coi là ổn cố vì trông nó giống nhau ở bất cứ thời khắc nào,
tuy rằng nó không bất động.
Lực mạnh (strong force): Lực
mạnh nhất trong bốn lực cơ bản, với tầm xa ngắn nhất trong số bốn lực. Nó giữ
cho các quark dính vào nhau bên trong các proton và trung hòa tử, và giữ cho
các proton và trung hòa tử dính vào nhau để tạo thành nguyên tử.
Nguyên tắc bất định: Người
ta không bao giờ có thể biết chính xác cả vị trí lẫn vận tốc của một hạt cùng một
lúc; khi càng biết chính xác hơn về điều này thì càng biết ít chính xác hơn về
điều kia.
Hạt ảo (virtual particle):
Trong cơ học lượng tử, một hạt mà người ta không bao giờ có thể dò tìm một cách
trực tiếp, nhưng sự hiện hữu của nó có những hiệu ứng có thể đo lường được.
Độ dài sóng (wavelength):
Khoảng cách giữa hai đỉnh hoặc hai đáy kế cận nhau của sóng.
Lưỡng tính sóng/hạt
(wave/particle duality): Khái niệm trong cơ học lượng tử nói rằng không có sự
khác biệt giữa các sóng và các hạt; đôi khi các hạt có hành vi giống như sóng,
và đôi khi các sóng có hành vi giống như hạt.
Lực yếu (weak force): Lực yếu
thứ nhì trong số bốn lực cơ bản, với tầm xa rất ngắn. Lực này ảnh hưởng tới tất
cả các hạt vật chất, nhưng không ảnh hưởng tới các hạt mang kèm lực.
Trọng lượng (weight): Lực
tác động lên một vật thể bởi trường hấp lực. Lực này có tỷ lệ thuận với khối lượng
của vật thể, nhưng không giống hệt khối lượng.
Bạch tiểu tinh (white
dwarf): Một tinh tú nguội lạnh được chống đỡ bởi lực đẩy giữa các điện tử theo
nguyên lý loại trừ.
Dịch Giả: Thích Viên Lý
Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới, USA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét