Đức tin, khoa học và tôn giáo
Cuộc sống xô bồ và dồn dập trong các xã hội phương Tây
không cho phép một số người có thì giờ đọc toàn bộ những quyển sách liên quan
đến các vấn đề khúc mắc của tâm linh. Vì thế nhiều tác giả chọn lọc các lời
thuyết giảng, các câu phát biểu ngắn gọn hoặc các đoản văn ý nghĩa nhất để gom
lại thành sách giúp người đọc dễ theo dõi và tìm hiểu, vì họ muốn đọc hay muốn
dừng lại ở đoạn nào cũng được.
Năm 1996, nhà xuất bản Le Pré aux Clercs có
phát hành một quyển sách theo thể loại trên đây. Sách gồm những lời phát biểu
của Đức Đạt-lai Lạt-ma về Phật giáo và vài vấn đề liên quan đến Phật giáo chọn
lọc từ các bài diễn văn, phỏng vấn, các buổi thuyết giảng và các sách của Đức
Đạt-Lai Lạt-ma.
Nói chung khi đọc lại một số sách khá xưa của
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, kể cả các sách đã xuất bản từ vài chục năm trước, đôi khi
chúng ta giật mình và bàng hoàng trước tính cách hiện đại, chính xác, thích
nghi với tư tưởng con người trong bất cứ thời đại nào, trong bất cứ bối cảnh xã
hội nào. Một điều khiến chúng ta càng kính phục và ngưỡng mộ hơn nữa là trong
tất cả các sách, các bài phỏng vấn, thuyết giảng ... vô cùng phong phú của Ngài
chưa hề thấy ai tìm thấy những lỗi lầm hay ý tưởng mâu thuẫn. Đọc lại những lời
Ngài phát biểu cách nay hàng chục năm ta cứ ngỡ là Ngài vừa nói lên ngày hôm
qua để nhắc nhở chúng ta những gì phải học và phải làm trong ngày hôm nay,
không giống như những tuyên ngôn của các chính trị gia hay những nhà lãnh đạo
tinh thần khác.
Đức tin, khoa học và tôn giáo
Tôn giáo
Tôi có thể khẳng định với quý vị tôn giáo là
một thứ xa xỉ phẩm. Tu tập theo bất cứ tôn giáo nào đều là một điều tốt. Thế
nhưng, thật hết sức rõ ràng không cần đến tôn giáo chúng ta vẫn có thể dàn xếp
mọi chuyện với nhau. Trái lại, nếu thiếu các phẩm tính căn bản của con người -
như tình thương, lòng từ bi và lòng nhân ái - con người không thể tồn tại được.
Sự an bình và thể dạng thăng bằng tâm linh của chúng ta phát sinh từ các phẩm
tính ấy.
Cốt tủy của tất cả mọi tôn giáo
Tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào đều bắt
nguồn từ lòng từ bi.
Sự ích lợi của tôn giáo
Tôn giáo nào cũng đều quan tâm đến sự tiến bộ
xã hội, tình thương, sự kính trọng người khác và chia sẻ khổ đau với người
khác. Nếu tình thương thật sự là trọng tâm của mỗi tôn giáo thì tất cả các tôn
giáo có thể gom lại thành một, đấy là tôn giáo của tình thương. Tuy nhiên kỹ
thuật và phương pháp sử dụng để phát động tình thương mang lại hạnh phúc vĩnh
hằng hay sự giải thoát toàn diện lại có nhiều khác biệt giữa các tôn giáo với
nhau. Tôi không nghĩ rằng chỉ có một thứ triết học duy nhất hay một tôn giáo
duy nhất, vì lý do con người quá đa dạng, bẩm tính và xu hướng quá khác biệt
nhau, do đó tôi nghĩ cần phải có nhiều thứ tín ngưỡng khác nhau. Thực tế cho
thấy có thật nhiều hình thức tu tập khác biệt nhau trên con đường tâm linh.
Luận bàn về lòng tin
Phật giáo luôn luôn giữ vững chủ trương không
có sự hiện hữu cùng khắp của một vị trời sáng tạo. Thế nhưng không phải vì lý
do đó mà chúng tôi "duy lý hoá" triệt để tín ngưỡng của chúng tôi.
Chúng tôi tin có những sinh linh thuộc các cấp bậc cao, ít ra cũng cao hơn con
người, chúng tôi tin vào sấm truyền, vào những điềm báo trước, việc đoán mộng
và sự tái sinh. Đối với chúng tôi những sự tin tưởng ấy hoàn toàn mang tính cách
xác thực, tuy thế chúng tôi không hề bắt buộc bất cứ ai, dù dưới hình thức nào,
phải tin như chúng tôi. Phật giáo phát sinh từ kinh nghiệm..., một thứ kinh
nghiệm mang tính cách cá nhân. "Hãy trông cậy vào chính mình" là một
trong những lời giáo huấn căn bản nhất của Đức Phật.
Sự kiện hiển nhiên vượt lên trên đức tin
Quan điểm của Phật giáo nói chung phải luôn
luôn chấp nhận các sự kiện. Người Phật giáo tin vào sự tái sinh. Thế nhưng nếu
khoa học một ngày nào đó dựa vào khảo cứu cho thấy một cách chắc chắn không có
hiện tượng tái sinh, và điều đó được chứng nghiệm minh bạch, chúng tôi sẽ chấp
nhận. Trên nguyên tắc, đối với bất cứ một chủ đề nào được nêu lên, Phật giáo
luôn luôn căn cứ vào sự kiện.
Con người làm chủ lấy chính mình
Phật giáo chủ trương mỗi người là vị chủ nhân
của chính mình, hoặc ít ra cũng có tiềm năng trở thành vị chủ nhân ấy. Đấy là
căn bản của triết học Phật giáo, những người Phật giáo chúng tôi nhờ vào nhiều
phương pháp thực nghiệm đã mang lại sự hiểu biết ấy. Tâm thức là kẻ sáng tạo ra
chính mình trong từng giây phút một. Vì thế tâm thức mang một trách nhiệm lớn
lao.
Phật giáo là một ngành khoa học
Phật giáo không chấp nhận giả thuyết có một vị
trời hay một vị sáng tạo. Trên một khía cạnh nào đó Phật giáo là một tôn giáo,
trên một khía cạnh khác là một ngành khoa học tâm thần.
Đức Phật là ai?
Đức Phật là một chúng sinh đã tinh khiết hoá được hoàn toàn tâm
thức, ngôn từ và thân xác. Ngài hiện ra cách nay hơn hai ngàn năm trăm năm dưới
hình tướng của vị Thích-ca Mâu-ni (Shakyamauni)
một hiền nhân trong dòng họ Thích-ca (Shakya). Sau khi chọn con
đường tu hành Ngài luyện tập thật nghiêm túc theo các phép du-già và thiền định
dưới một gốc cây tại "Chính Giác Sơn" ("Bodh Gaya") nơi miền bắc Ấn và đạt được sự Giác ngộ hoàn hảo. Sau
khi Giác ngộ Ngài thuyết giảng không ngưng nghỉ, những lời giảng huấn của Ngài
thật phong phú, thích nghi với các khuynh hướng khác nhau và ước vọng vô cùng
đa dạng của chúng sinh trong mục đích giải thoát họ khỏi khổ đau, đấy là sự
thực thứ nhất trong Tứ Diệu Đế.
Đức Phật là một vị hướng đạo, không phải là
một vị trời
Đức Phật chỉ cho chúng ta một con đường, trên con đường đó có
nhiều thứ cần phải gìn giữ nhưng cũng có nhiều thứ phải bỏ đi [chọn lấy đạo đức, gạt bỏ mọi ảo giác, sai lầm
và dục vọng]. Ngài thuyết giảng
cho chúng ta con đường tạo ra nguyên nhân và hậu quả. Số phận của chúng ta nằm
trong tay chúng ta, không phải trong tay của Trời cũng không phải trong tay của
Đức Phật.
Đức tin và lý trí
Những gì Đức Phật thuyết giảng cho đại chúng
và người am hiểu đôi khi trái hẳn nhau. Dầu sao, sự hiểu biết cũng tùy thuộc
mật thiết với khả năng thấu triệt của từng người và từng xu hướng cá nhân. Phải
thật cởi mở để dò tìm, cố gắng khám phá ra sự thật hay một quy luật nào đó,
kiểm chứng sự thật ấy rồi sau đó hãy chấp nhận, không nên chấp nhận giáo điều
một cách dễ dãi hoặc đặt hết niềm tin vào Đức Phật. Trên khía cạnh đó tôi nghĩ
rằng cách tiếp cận của Phật giáo khá tương tợ với khoa học.
Vứt bỏ vàng ròng trong tay là làm trò cười cho
thiên hạ
Trên bình diện tổng quát, người Phật giáo cho
rằng sự hiện hữu hiện tại nhất thiết là kết quả mang lại từ sự giữ gìn nghiêm
túc đạo đức trong kiếp trước [tái sinh làm thân con người là một sự quý báu đấy
là nhờ kiếp trước biết giữ gìn đạo đức]. Vì thế, nếu ai đang nắm vàng ròng
trong ta mà vứt bỏ đi để sau đó cầu khẩn xin được nhiều hơn nữa, như thế chỉ là
cách làm trò cười cho thiên hạ.
Tôi không tìm cách cải đạo một ai cả
Đối với một số người, Phật giáo có thể không
hồi đáp được sự mong mỏi của họ. Các tôn giáo khác nhau mang lại các giải đáp
khác nhau tùy theo nhu cầu của từng người. Tôi không tìm cách khuyến dụ người
khác theo Phật giáo mà chỉ cố gắng tìm hiểu xem những người Phật giáo chúng tôi
có thể cống hiến được gì cho xã hội con người theo quan điểm của chúng tôi.
Thông điệp của Đức Phật trong thời đại nhiễu
nhương
Một số hệ tư tưởng mất dần giá trị trên dòng
lịch sử. Đức Phật dạy rằng sự sống là gia tài quý báu nhất của ta, thế nhưng
phải xem sự sống của người khác còn quý báu và quan trọng hơn gấp bội so với sự
sống của chính mình. Thông điệp và giáo lý của Đức Phật lúc nào cũng giữ được
giá trị vượt thời gian. Vào thời đại tân tiến ngày nay thế giới đang phải đương
đầu với hiểm họa bị hủy diệt, vì thế thông điệp của Đức Phật lại càng mang một
tầm quan trọng lớn lao hơn nữa.
Đức Phật và Đức Chúa Trời (Christ)
Tương tợ với Đức Phật, Đức Chúa Trời biểu lộ tấm gương khoan
dung, khiêm nhường và phục vụ người khác trong tinh thần bất vụ lợi. Cuộc đời
của phần lớn các vị truyền giáo thật thánh thiện, họ sống cuộc sống đơn sơ của
những người bình dị, không vương giả và cao sang. Sức mạnh nội tâm của họ thật
phong phú. Họ không quan tâm đến bề ngoài và an phận với những gì họ có, cách
sinh sống của họ thật đơn giản [trong xã hội ngày nay lúc nào cũng có những ngoại lệ, thế nhưng
không nên nhìn vào các trường hợp ngoại lệ để đánh giá chung].
Phật giáo và khoa học
Ngày nay cộng đồng khoa học ngày càng quan tâm
nhiều hơn đến tư tưởng triết học Phật giáo. Tôi rất lạc quan cho rằng trong các
thập niên tới đây cách nhìn của chúng ta về thế giới này sẽ thay đổi sâu xa
trên cả hai phương diện vật chất và tâm linh.
Sức mạnh của Phật giáo
Chỉ khi nào chúng ta có thể dẹp sang một bên
giả thuyết không thể kiểm chứng được về sự hiện hữu của một vị trời sáng tạo
giữ chức vụ thẩm phán tối cao, thì khi đó chúng ta mới có thể hình dung ra một
thứ khái niệm mang đặc tính của một "tôn giáo nhân bản" phát sinh từ
sự suy tư của con người, mang chủ đích phục vụ cho con người.
Đứng trên quan điểm đó, khái niệm về một vị bồ-tát (boddhisattva) có lẽ gần với khoa học hơn so với tất cả những thứ tạo dựng
mang tính cách thần học. Tôi tin tưởng thật sâu xa khái niệm về người bồ-tát nhất
định đúng đắn và phù hợp hơn với thế giới ngày nay so với các khái niệm tôn
giáo khác. Sức mạnh từ bi trong lòng ngườibồ-tát là một thể hiện
bền vững phát sinh từ nơi bản chất bất định của chúng ta (người bồ-tát là hình ảnh nhân
cách hóa của chính chúng ta),
thể hiện đó thu hút ngày càng nhiều sự hiếu kỳ của giới khoa học nghiên cứu về
Phật giáo. Thật vậy, tôi tin rằng Phật giáo sâu xa và tinh tế hơn các tôn giáo
khác và cả các học phái tư tưởng khác. Chúng tôi không kéo hết sự thật về phía
chúng tôi, mà chỉ cống hiến kết quả mang lại từ những kinh nghiệm suy tư thật
lâu dài của chúng tôi.
Phật giáo và người phụ nữ
Với tư cách một người Phật giáo, tôi tin có sự tái sinh. Vì thế
nhất định trong các kiếp sống trước đây tôi đã từng là người phụ nữ. Các kiếp
sống tương lai của tôi cũng [sẽ
lập lại] như thế. Phật giáo
không hề kỳ thị giới tính. Đối với người đàn ông hay người đàn bà mục đích tối
hậu của sự tu tập vẫn chỉ là một. Tiềm năng đạt đượcniết-bàn (nirvana) không khác nhau giữa hai phái tính. Trên bình diện tổng quát,
xã hội Tây tạng không hề quy định thứ bậc phân chia nam nữ. Trước đây người Tây
tạng chúng tôi không hề có một ý niệm gì về sự kỳ thị giữa nam giới và nữ giới,
chỉ sau này khi tiếp xúc với các xã hội Ấn độ và Trung quốc chúng tôi mới hiểu
đấy là gì.
Sứ mạng của tất cả chúng ta
Với tư cách những người Phật giáo chúng ta có
bổn phận giúp đỡ tất cả chúng sinh. Nếu không đủ sức mở rộng tâm thức mình
hướng vào chúng sinh trên các hành tinh khác, thì ít ra chúng ta cũng phải nghĩ
đến nhân loại trên hành tinh này, đó là một cách thực tế nhất giúp giải quyết
các vấn đề khó khăn chung.
Trong giai đoạn đầu, trước hết chúng ta phải
tự kiểm soát chính mình phải ngưng ngay các hành động có thể gây nguy hại cho
người khác, cố gắng tối đa với tất cả sức mạnh của mình. Đấy là giai đoạn phòng
vệ. Kế đến khi đạt được một trình độ nào đó ta mới tự đặt ra cho mình các mục
tiêu rõ rệt hơn hướng vào việc giúp đỡ người khác, sự giúp đỡ đó không phải chỉ
thực thi trong những lúc tụng niệm mà bất cứ lúc nào trong cuộc sống thường
nhật của mình. Chỉ có cách đó mới tạo được sư an bình lâu bền và mang lại sự
hài hòa cho toàn thế giới.
Làm người Phật giáo
Trên phương diện thực tế, người Phật giáo khác với người không
Phật giáo ở điểm họ "quy y Tam Bảo". Trên phương diện giáo lý
người Phật giáo cần phải chấp nhận Bốn Dấu Ấn quy định nền
tảng giáo lý của Đức Phật.Tam Bảo gồm có Phật, Pháp (giáo lý của Đức Phật) và Tăng đoàn (tập thể những người tu tập).
Bốn Dấu Ấn xác nhận căn bản giáo lý đúng theo những lời giảng
huấn của Đức Phật gồm có : tất cả mọi vật thể cấu hợp đều vô thường ; sự hiện
hữu trói buộc trong điều kiện nhất thiết là khổ đau ; tất cả mọi hiện tượng đều
trống không về sự hiện hữu của cái ngã (cái tôi) ; niết-bàn (nirvana) là an bình.
Giáo lý của Đức Phật
Giáo lý của Đức Phật có thể tóm tắt bằng hai
câu: "Hãy giúp đỡ người khác" và "Nếu không giúp đỡ được người
khác thì ít ra cũng đừng làm gì có thể gây ra nguy hại cho họ". Nguyên tắc
giáo lý đó phải bám rễ thật sâu vào mảnh đất của yêu thương và lòng từ bi.
Cần phải có một nền đạo đức
Đức Phật luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của
việc giữ gìn đạo đức. Trước khi Đức Phật nhập vào Đại-bát niết-bàn, các đệ tử
hỏi Ngài ai sẽ là người thừa kế, Đức Phật trả lời rằng sự tu tập đạo đức sẽ
thay Ngài làm người hướng dẫn cho họ và đạo đức là vị thầy đại diện cho toàn
thể giáo lý. Đức Phật chỉ định người thừa kế Ngài chính là đạo đức.
Đạo đức, sự tập trung tâm thức và trí tuệ
Trong bất cứ một cuộc chiến nào điều đầu tiên
là phải phòng thủ; trong cuộc chiến tâm linh chống lại những xúc cảm mang tính
cách tàn phá, đạo đức là thành trì kiên cố của ta. Khi nào việc phòng thủ được
vững chắc và ta đã thấm nhuần đạo đức, khi đó ta mới chuyển sang thế tấn công.
Trong giai đoạn tấn công khí giới của ta sẽ là trí tuệ. Trí tuệ tương tợ như
viên đạn nằm trong nòng súng hay một tên lửa bộc phá, khí giới dùng để bắn viên
đạn hay phóng tên lửa là thể dạng thăng bằng trong tâm thức do thiền định mang
lại.
Giai đoạn kế tiếp sau khi đã thiết lập nền
móng đạo đức là giai đoạn phát huy sự bình lặng tâm thức và sau hết là triển
khai trí tuệ.
Con đường đạo đức
Đạo đức là một thể dạng tâm thức biết giữ gìn
không tạo ra tình huống có thể gây ra nguy hại cho người khác. Sự hoàn thiện
đạo đức sẽ đạt được khi nào ta phát huy được thể dạng tâm thức tuyệt đối không
gây thiệt hại cho người khác. Đạo đức gồm có mười yếu tố hay mười lãnh vực khác
nhau trong mục đích cảnh giác không cho chúng vi phạm vào các hành động tiêu
cực.
Mười hành động tiêu cực và bốn liều thuốc hóa
giải
Chúng ta hành động xuyên qua ba cửa ngõ: thân
xác, ngôn từ và tâm thức. Các hành động tiêu cực của ta phát sinh từ ba cửa ngõ
đó. Trong số các hành động tiêu cực có ba hành động thuộc thân xác: sát sinh,
trộm cắp, hành động tính dục thiếu hạnh kiểm; bốn hành động thuộc ngôn từ:
nói dối, dèm pha, phỉ báng và ba hoa vô ích; ba hành động thuộc tâm thần:
tham lam, nham hiểm, các quan điểm sai lầm và lệch lạc.
Giữ gìn đạo đức là tránh không vi phạm vào các
hành động tiêu cực. Quyết tâm không để bị lôi cuốn vào các hành động nguy hại
chính là cách thực thi những hành động tích cực.
Dù ta cố gắng cách mấy đi nữa để tránh các
hành động tiêu cực, nhưng ảo giác chi phối ta từ lâu vì thế đôi khi ta cũng vô
tình vi phạm vào những hành động tiêu cực. Các hành động tệ hại đó tất nhiên
sẽ mang lại hậu quả. Vì thế nên tu tập để tinh khiết hóa các hậu quả ấy bằng
các phương pháp mà Đức Phật đã giảng dạy cho chúng ta. Đức Phật khuyên chúng ta
nên áp dụng bốn liều thuốc hóa giải sau đây để tinh khiết hóa tính cách
"tiêu cực" của những hành động mà chúng ta vô tình vi phạm.
Bốn liều thuốc hóa giải là sức mạnh của sự hối
cải, tiềm năng mang lại sự tinh khiết hóa, sức mạnh của sự quyết tâm và sức
mạnh tối thượng do thiền định mang lại khi hướng vào Tam Bảo.
Tại sao phải thiền định?
Tạo được một tâm thức tích cực và thăng bằng
đủ khả năng đương đầu với những khó khăn của sự hiện hữu là một lợi điểm không
nhỏ. Chẳng hạn ta tập luyện thể dục để nhảy xa, thành tích lập được tùy thuộc
vào khả năng thân xác. Thân xác bị giới hạn bởi vật chất và khả năng vật chất
không thể vượt xa hơn một mức độ nào đó. Tâm thức thì khác, thuộc vào lãnh vực
của sự trong sáng và hiểu biết. Tâm thức không hề biết giới hạn như trường hợp
của vật chất, nếu tâm thức được luyện tập kiên trì các phẩm tính mang lại sự
thăng bằng sẽ ngày càng gia tăng thêm. Chỉ cần thực thi thiền định vài phút mỗi
ngày cũng đủ giúp cho tâm thức trở nên phong phú và ít xao lãng hơn.
Du hành trong nội tâm
Không bắt buộc là một Phật tử mới có thể gặt
hái được kết quả từ các bài học cũng như những lời giáo huấn đủ loại trong Phật
giáo. Chẳng hạn ta có thể học thế nào là sự khoan dung, thật vậy thiếu khoan
dung sự sống sẽ trở nên thật nặng nề. Ta cũng có thể học thế nào là con đường
mang lại an bình cho tâm thức, đó là những gì tối cần thiết giúp ta hành động
đúng đắn. Thật vậy an bình tâm thức là trọng tâm của mọi sự tu tập. Thể dạng an
bình trong tâm thức giúp ta lúc nào cũng chủ động được hành động của mình giữa
thế gian này, cũng nên hiểu là trong thế gian ta đang sống có những người láng
giềng của ta nhưng đồng thời cũng có cả kẻ thù của ta và cả ta nữa. Phương pháp
chính yếu giúp đạt được thể dạng an bình là thiền định, đó là trọng tâm của mọi
phép tu tập và cốt tủy của giáo pháp. Thiền định nhất thiết giúp ta dần dần
lắng sâu vào nội tâm của mình, và từ đó sự an bình sẽ hiển lộ. Tất cả chúng ta
đều ước mong thật sâu xa thực hiện được điều ấy, thế nhưng sự an bình lại
thường bị chôn vùi, che khuất và ngăn chận. Sự hung hãn là một thành phần liên
kết với sự hiện hữu của ta. Và đấy chính là gì mà ta phải chiến đấu để chống
lại. Thế nhưng bản chất đích thực của chúng ta là an bình, vì thế Đức Phật
Thích-ca Mâu-ni khuyên chúng ta hãy đi tìm sự an bình tại nơi sâu kín của lòng
mình và nhất định chúng ta sẽ tìm thấy nó.
Khổ đau ngự trị trong bóng tối dầy đặc mà chúng ta gọi là
"vô minh căn bản". Ánh sáng nội tâm càng chiếu rọi, bóng tối càng
giảm đi. Ánh sáng ấy mở ra con đường duy nhất có thể mang lại cho ta sự giải
thoát tức niết-bàn(nirvana).
Loại bỏ ảo giác để biến cải tâm thức
Loại bỏ ảo giác - tức vô minh căn bản - đòi
hỏi sức cố gắng của cả một đời người. Nếu ta tích cực tu tập, hết tháng này đến
năm nọ, đến một lúc nào đó ta sẽ nhận thấy tâm thức biến cải. Nếu ta mong chờ
hiệu quả phải xảy ra ngay tức khắc hoặc ước muốn sớm chủ động được tư duy và
xúc cảm, ta sẽ thất vọng và chán nản.
Một trong các vị thầy lớn nhất trong lịch sử Phật giáo Tây tạng
là Mật-lặc Nhật-ba (Milarépa), một vị du-già vào thế kỷ thứ XI. Ngài sinh
sống như một con thú hoang trong nhiều năm trường, gắng sức tu tập bằng đủ mọi
phương cách, và sau đó mới đạt được sự hoàn thiện tối thượng.
Đạo Pháp (Dharma) là quy luật của vũ trụ
Sau khi đạt được giác ngộ, Đức Phật "chuyển động bánh xe
Đạo Pháp nhiều lần" trước khi nhập vào Đại-bát niết- bàn (Parinirvana). Bánh xe Đạo Pháp là biểu hiện của quy luật vũ trụ mà Đức Phật
đã khám phá ra, bánh xe ấy tượng trưng cho những lời giáo huấn của Đức Phật với
mục đích giúp chúng ta tránh khỏi khổ đau trong thế giới ta-bà (samsara).
Giữ vững kỹ cương cho tâm thức là cách tu tập
chính yếu nhất. Không nên chấp nhận những lời giáo huấn của Đức Phật bằng đức
tin mù quáng mà phải suy xét thật cẩn thận. Vì thế không nên đơn giản thốt lên:
"Tôi tin là đúng". Nhất thiết phải dựa vào sự hữu lý (lôgic) và lý
trí để phân tích. Nếu nhận thấy điều gì không phù hợp với lý trí và thực tế thì
nhất định không bao giờ chấp nhận.
Một người nào đó khi đã hiểu được Đạo Pháp (Dharma) là gì sẽ nhìn của cải trong thế gian này tương tợ như một giọt
sương trên đầu cọng cỏ.
Giáo huấn của Đức Phật hay kinh sách Kangyr
của người Tây tạng
Chư Phật giảng dạy kinh sách su-tra (kinh của Phật giáo nói
chung) riêng Đức Phật [Thích-ca] giảng dạy cả hai thứ kinh su-tra và tan-tra
(kinh của Phật giáo bí
truyền).
Các kinh sách quan trọng ghi chép toàn bộ các
lời giảng huấn của Đức Phật được dịch sang tiếng Tây tạng mang tên là Kangyur.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết giảng cho các cử tọa đại chúng gồm những người
có kiến thức trung bình và cho cả những người có tâm thức uyên bác hơn.
Vì thế các lời giảng huấn của Đức Phật gồm
nhiều cấp bậc khác nhau, từ các cấp bậc dễ hiểu cho mọi người đến các cấp bậc
thật cao siêu rất khó thấu triệt.
Mục đích tạm thời và tối thượng
Khi luận bàn về mục đích, ta sẽ thấy có hai lãnh vực khác nhau :
tạm thời và tối thượng. Mục đích tạm thời hướng vào việc tái sinh trong kiếp
sống sau dưới thể dạng quý giá của con người. Mục đích tối thượng nhắm vào sự
giác ngộ hoàn hảo tức là niết-bàn, hoặc thể dạng hiểu biết toàn
năng mang chủ đích giúp đỡ người khác [tức là người bồ-tát].
Muốn thực hiện mục đích tối hậu dưới thể dạng
hiểu biết toàn năng [người bồ-tát] phải thể hiện qua hình tướng con người xuyên
qua nhiều kiếp. Tu tập đạo đức [còn gọi là tu giới] là yếu tố tiên quyết giúp
tái sinh theo chiều hướng đó.
Chúng ta có thể chọn lựa
Nếu chúng ta biết lợi dụng thể dạng con người để thực thi những
hành động tích cực, trong lâu dài thể dạng đó sẽ được cải thiện hơn, lúc ấy sự
hiện hữu của ta sẽ trở nên thật sự quý báu [tái sinh để trở thành một con người hoàn hảo hơn]. Ngược lại, nếu ta sử dụng khả năng thân xác
và tiềm năng tinh thần của mình để thực hiện những hành động tiêu cực trong mục
đích đày đọa, khai thác và triệt hạ người khác, sự hiện hữu của ta sẽ trở thành
một mối nguy hiểm cho chính mình và cả người khác. Sử dụng sự hiện hữu trong
mục đích tàn phá thì sự hiện hữu đó sẽ hủy diệt tất cả những gì mà ta đã thu
góp được [tái sinh dưới một thể
dạng thấp kém hơn].
Sự chiến đấu của người tu tập
Dưới một góc cạnh nào đó có thể so sánh một
người tu tập dù là đàn bà hay đàn ông với một chiến sĩ đang xông vào cuộc
chiến. Vậy người tu tập chiến đấu chống lại ai ? Họ chống lại những kẻ thù đang
ẩn nấp trong nội tâm của họ, đó là vô minh, nóng giận, bám víu, kiêu ngạo...,
tất cả những thứ ấy là địch thủ tối hậu của chính họ. Chúng không tấn công từ
bên ngoài vì chúng hiện hữu tự tại ngay từ bên trong người chiến sĩ. Các món
khí giới giúp họ chống cự với kẻ thù là trí tuệ và sự tập trung tâm thức. Đạn
dược và đại pháo là trí tuệ, súng ống để bắn đi là các kỹ thuật tập trung tâm
thức : tức là sự nhập định sâu xa.
Lý thuyết và thực hành
Người Tây tạng thường kể một câu chuyện như sau: Có một người
hành hương tìm đến một ngôi chùa và trông thấy một người đang ngồi trong tư thế
thiền định [ám chỉ một người tu
hành] bèn hỏi người này
đang làm gì thế. Người hành thiền đáp như sau : "Tôi đang luyện tập sự
kiên nhẫn". Người hành hương bèn thốt ra một lời nguyền rủa thật thô tục,
người hành thiền đùng đùng nổi giận. Phản ứng ấy cho thấy sự tu tập của người
hành thiền này chỉ mang tính cách lý thuyết suông.
Sự hiểu biết mang tính cách lý thuyết đơn
thuần rất nguy hiểm
Nếu phải lựa chọn giữa thực hành và lý thuyết
thì nên chọn thực hành vì sự thực hành sẽ giúp rút tỉa được ngay những gì hữu
ích từ sự hiểu biết của mình. Lý thuyết đơn thuần đối với một người mang tâm
thức chưa được thuần hóa có thể làm phát sinh hoặc làm gia tăng thêm những thể
dạng tâm thức đáng tiếc, mang lại những điều phiền lụy cho mình và cho người
khác, thay vì mang lại sự an bình trong tâm thức mà mình mong ước. Có thể xảy
ra trường hợp ta ganh tị với những người có địa vị cao hơn, tranh giành với
những người ngang hàng, hoặc tự kiêu và khinh miệt những kẻ thấp kém hơn, v.v.
Trường hợp như thế cũng tương tợ như một phương thuốc trị bệnh hóa thành một
liều thuốc độc. Lý thuyết đơn thuần vô cùng nguy hiểm, vì thế phải luôn luôn
ứng dụng nó vào thực tế và lòng nhân từ.
Nghiên cứu kinh sách và tấm da gấu
Có một câu chuyện mang tính cách khuyên bảo
như sau: Có một người du-già thông thái đang ngồi nghiên cứuLuật tạng và
đọc thấy một câu trong giới luật cấm không được ngồi lên một tấm da thú để
thiền định. Vị này lật đật gấp tấm da gấu phủ trên chiếc ghế mình đang ngồi và
đẩy ra nơi khác. Sau đó vị này ngồi đọc tiếp, câu sau lại nói rằng nếu gặp
trường hợp trời giá rét hay bị bệnh tê thấp thì không cấm. Thế là vị này liền
rón rén đưa tay kéo tấm da đến gần, mở ra phủ trở lên ghế thật ngay ngắn. Đấy
là cách ứng dụng vào thực tế : đem ra áp dụng tức khắc những gì mình vừa học
hỏi được.
Đạo Pháp quan trọng hơn người thầy
Có phải chính Đức Phật với tư cách một người
Thầy đã từng nói như thế này : "Này các tỳ kheo, các tỳ kheo ni, không nên
tin vào những lời giảng huấn của Như Lai chỉ vì kính trọng Như Lai, phải mang
những lời giảng huấn ấy phân tích như một người thợ nữ trang chà sát, cắt, nấu
vàng" [....] "Không nên tin vào một cá thể con người. Chỉ nên tin vào
Đạo Pháp". Câu trên đây có nghĩa là không nên nhìn vào uy tín của người
thầy mà đánh giá Đạo Pháp. Dù cho người thầy được nhiều người kính nể, nhưng
nhất thiết phải nhìn vào những lời giảng huấn của người ấy để đánh giá xem có
chính thực và đúng đắn hay không.
Sức mạnh của sự truyền thụ
Nghiên cứu đơn thuần bằng kinh sách về phép
luyện tập phát lộ lòng từ bi cũng có thể mang lại một sức mạnh vững bền. Thế
nhưng nếu gặp được một người thầy từng luyện tập từ bi và nếu vị này sẵn sàng
truyền lại cho mình những kinh nghiệm mà chính vị ấy đã đạt được trong sự hiện
hữu của mình nhất định sẽ mang lại cho ta những hiệu quả mãnh liệt hơn nhiều.
Một cấp bậc thực hiện cao độ chỉ có thể đạt được bằng sự hướng dẫn của một vị
thầy đã đạt được những kinh nghiệm đích thực.
Người đệ tử phải đảm đang vai trò một người
thầy
Đối với tín ngưỡng Phật giáo, trở thành người
thầy là nhờ vào người đệ tử. Không có thứ giấy má chứng thực nào, văn bằng hay
chứng chỉ nào chứng nhận tư cách làm thầy cho bất cứ ai. Chỉ có thể gọi là một
vị lạt-ma khi nào người này có đệ tử, đơn giản chỉ có thế. Khi một vị đạo sư (guru)
tức người thầy tinh thần lạm dụng quyền lực của mình, thực thi những hành động
sai trái và bất chính, người đệ tử phải phản đối ngay tức khắc. Lỗi lầm thuộc
cả hai bên. Lỗi lầm trước nhất do người đệ tử quá nhiệt tình, quá dễ dãi , hết
lòng tận tụy, chấp nhận mù quáng tất cả những gì nơi người thầy, thái độ đó làm
hủ hóa người thầy. Lỗi lầm sau đó là do người thầy không giữ được sự liêm chính
trước những cám dỗ trong bối cảnh do người đệ tử tạo ra.
Khi phải kết nối sự tương giao với một người
thầy tâm linh, chớ nên vội vã xem người này là vị thầy của mình. Sức mạnh tương
kết giữa thầy và trò rất quan trọng, vì thế tốt nhất trước hết chỉ nên đơn giản
xem người ấy là "một người đồng hành với ta trên đường tìm kiếm những giá
trị tâm linh", tiếp tục giữ tình trạng ấy trong một khoảng thời gian do ta
quyết định - hai năm, năm năm, mười năm hay hơn nữa. Trong khoảng thời gian này
ta xét đoán từ cách ăn ở cho đến những lời giảng huấn của vị ấy cho đến khi nào
ta tìm được đầy đủ bằng chứng xác nhận sự liêm khiết đích thực của vị ấy. Một
cách vắn tắt, không cần phải nhìn vào các thứ giấy tờ chứng minh. Tóm lại điểm
tối quan trọng là ngay từ lúc đầu phải thận trọng và kiên quyết.
Cách chọn lựa một đạo sư (guru)
Một trí giả uyên bác Tây tạng là Sakya Pandita (1182-1251)
thường khuyên bảo mọi người phải thật thận trọng trong từng quyết định dù nhỏ
nhặt cách mấy, chẳng hạn như chọn mua một con ngựa. Vì thế, đối với việc tu tập
Đạo Pháp (Dharma) nhất định ta còn phải cẩn thận hơn nhiều để
chọn cho mình một cách tu tập thích hợp và một người thầy đích thực, bởi vì mục
đích khác hơn với một phương tiện chuyên chở [tu tập Đạo Pháp quan trọng hơn là
đi mua một con ngựa].
Phật giáo là một kho tàng quý giá
Phật giáo là kho tàng quý giá của toàn thể mọi
người. Nghe giảng về Đạo Pháp hay đứng ra thuyết giảng Đạo Pháp đều là cách góp
phần kiến tạo sự an lành cho nhân loại.
Khổ đau theo quan điểm Phật giáo
Trong giáo lý nhà Phật có một khái niệm quan trọng mà chúng ta
cần phải nắm vững trước nhất ấy là thân xác và tâm thức chúng ta mang sẵn những
mầm mống của khổ đau. Những khổ đau đó thể hiện dưới ba dạng khác nhau : trước
hết là khổ đau thông thường tức là những cảm nhận đau đớn phát hiện trên thân
xác hay trong tâm thức ; thứ hai là khổ đau phát sinh từ sự đổi thay lệch lạc [không theo ý muốn của mình], sự bất toại nguyện đó liên hệ với bản chất
phù du của hạnh phúc ; sau cùng là một thứ khổ đau thật tinh tế nội tại trong
sự hiện hữu, tức là tính cách khổ đau của chính sự hiện hữu lệ thuộc (vào điều kiện) [khổ đau sinh ra từ sự
bất toại nguyện về hình tướng của thân xác và sự vận hành không đúng với sự
mong muốn trong tâm thức của mình].
Giải thích về ba thứ khổ đau
Thí dụ như khi bị bỏng, ta thoa kem vào chỗ bỏng và có cảm giác
được chăm sóc làm giảm bớt đau rát, đó là khổ đau của sự đổi thay, vì dù đau
đớn có giảm bớt trong nhất thời thì sự giảm bớt ấy cũng không thể kéo dài. Nếu
có ai vô tình chạm vào vết bỏng hay đổ nước sôi vào đấy, ta sẽ cảm thấy đau rát
dữ dội, đấy là sự khổ đau mang tính cách hiển nhiên. Hai thứ khổ đau trên đây [khổ đau của sự đổi thay và đau đớn hiển nhiên] có thể xảy ra là vì trước đó có sẵn một vết
bỏng. Nếu không có vết bỏng sẽ không có hậu quả nào xảy ra. Vết bỏng tạo ra
điều kiện cần thiết cho những khổ đau xảy ra sau đó, tương tợ như sự chiếm hữu
một thân xác và một tâm thức sẽ tạo cơ sở cần thiết cho những khổ đau phát
sinh. Bản chất của thân xác tự tạo ra cho nó các điều kiện cần thiết để bị
bỏng. Thân xác hàm chứa sẵn điều kiện tất yếu để gánh chịu khổ đau. Đấy là khổ
đau phát sinh từ điều kiện tiên quyết nhất [tức là thân xác].
Khổ đau vì sự hiện hữu trói buộc
Ta đánh giá quá cao tất cả những gì ta cho là
thuộc "sở hữu của ta". Nhất là trong các trường hợp liên quan trực
tiếp đến "thân xác của ta" và "tâm thức của ta" ta lại còn
xem trọng hơn nữa. Dù ra sức tìm kiếm lạc thú và lẫn tránh khổ đau, khổ đau vẫn
cứ bám sát ta và lạc thú thì mỗi lúc mỗi xa dần. Sở dĩ điều đó xảy ra là vì tâm
thức và thân xác ta, gồm những cấu hợp tâm thần và vật chất, luôn
phản ứng tùy thuộc vào các điều kiện trói buộc tạo ra từ các hành động và xúc
cảm bấn loạn của ta trong quá khứ. Tâm thức và thân xác ta lệ thuộc vào những
nguyên nhân kém tinh khiết [ô nhiễm] từ trước, do đó chúng cũng thừa hưởng những
khổ đau từ trước, thế nhưng chúng lại tiếp tục tạo ra những khổ đau khác cho
tương lai.
Sự hiện hữu của ta phát sinh từ những thứ cặn
bã
Sự hiện hữu dưới thể dạng con người mà chúng
ta xem là quý báu phát sinh từ những thứ cặn bã. Thân xác ta được tạo tác từ sự
kết hợp giữa các chất lỏng do cha mẹ tiết ra, trong đó có tinh trùng và noãn
cầu. Cha mẹ ta cũng sinh ra từ những chất liệu như thế, cha mẹ của cha mẹ ta
hay ông bà của cha mẹ ta cũng thế. Nếu tiếp tục nhìn theo cách đó ta sẽ nhận
thấy thân xác là sản phẩm cuối cùng tạo ra từ các vật liệu bài tiết trên đây.
Nếu lý luận xa hơn ta sẽ phải chấp nhận thân xác chỉ là một bộ máy sản xuất
phân và nước tiểu. Thân xác tương tợ như những thứ bài tiết chẳng có gì để cho
ta trau chuốt.
Các mối tương quan và trói buộc của sự hiện
hữu
Dầu sau thì sự hiện hữu của ta không độc lập
dưới bất cứ hình thức nào. Thế nhưng tự nó lại là một sự hiện hữu. Vì thế mà
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã nói rằng: " Thân xác này phải gánh
chịu cái chết, nó đo được chưa đầy hai thước chiều cao, thế nhưng bên trong nó,
nó có thể chất chứa cả thế giới, nguồn gốc của thế giới, sự chấm dứt của thế
giới và luôn cả con đường đưa đến niết-bàn".
Tính chất khổ đau trong vẻ đẹp của sự hiện hữu
Nếu ta nghĩ đến hậu quả không tránh khỏi, phát
sinh từ những sai lầm trong quá khứ và bản chất khổ đau trong những vẻ đẹp của
sự hiện hữu trói buộc trong chu kỳ luân hồi, ta sẽ bớt bám víu vào kiếp sống
hiện tại và các kiếp sống khác trong tương lai và ta càng mong ước nhiều hơn
được giải thoát ra khỏi những kiếp sống đó.
Người bồ-tát
Người bồ-tát (bodhisattva)
đối với chúng ta là một sinh linh lý tưởng, một sinh linh mang khả năng đạt
được niết-bàn (nirvana) và sự yên nghỉ tuyệt đối trong thể dạng
trong sáng, thế nhưng người bồ-tát không hội nhập vào thể dạng ấy mà lại bước
vào thế giới của khổ đau để trợ giúp chúng sinh. Nói cách khác người bồ-tát
không thể tìm thấy sự nghỉ ngơi thật sự khi nào trong thế gian này vẫn còn một
chút bóng dáng của khổ đau. Chúng ta cần phải tạo ra hình ảnh người bồ-tát
trong tâm thức của chính mình. Nếu tôi nhất quyết sẽ phục vụ chúng sinh trong
một khoảng thời gian thật dài không biết bao giờ sẽ chấm dứt, có thể sẽ kéo dài
mãi mãi cho đến vô tận, đương nhiên tôi phải chối bỏ mọi thể dạng yên nghỉ của
phúc hạnh, điều đó đòi hỏi tôi phải có một ý chí thật vẹn toàn và hoàn hảo.
Thiếu một cái ngã cực mạnh ta sẽ không bao giờ thực hiện được
quyết tâm ấy [nếu còn giữ một cái
ngã để phục vụ chúng sinh ta sẽ chưa đạt được giác ngộ hoàn hảo để hội nhập với
niết bàn] .
Phép tu tập của người bồ-tát
Quá trình tu tập của người bồ-tát được phân
chia thành sáu cấp bậc hoàn thiện gồm có sự hào phóng, đạo đức, kiên nhẫn, cố
gắng, tập trung tâm thức và trí tuệ.
Muốn giúp người khác thực hiện được ước vọng
của họ, trước hết chính mình phải tu tập để đạt được sự rộng lượng, sau đó muốn
cho sự rộng lượng được vững bền phải cần giữ gìn đạo đức, tức không gây ra nguy
hại cho người khác. Muốn giữ gìn đạo đức cần có sự trợ giúp của kiên nhẫn vì
kiên nhẫn rất cần thiết để tự vệ trước các hành vi độc ác của người khác. Sau
hết muốn hoàn tất tốt đẹp các cấp bậc tu tập trên đây ta phải có một sức cố
gắng thật mạnh. Sức cố gắng sẽ không lâu bền và hiệu quả nếu ta chưa đủ sức
phát động sự tập trung tâm thức. Sau hết khi nào ta chưa phát huy được trí tuệ
để nắm bắt bản thể của mọi hiện tượng thì khi đó ta vẫn chưa hội đủ khả năng
hướng dẫn người khác một cách đúng đắn trên đường đưa đến giác ngộ.
Tu tập đại từ bi
Chỉ cần một phép tu tập duy nhất cũng đủ đạt
được Phật tính. Phép tu tập ấy gọi là đại từ bi. Khi ta phát huy được bồ đề tâm
(bodhicitta) - tức ước vọng xuất phát từ lòng từ bi mong muốn đạt được
giác ngộ để phục vụ người khác - ngay cả trong trường hợp ta đang sống trong
một cõi hiện hữu thật thấp ta vẫn được xem là một người bồ-tát, một người con
Phật.
Hương vị ngọt ngào của người bồ-tát
Một thi hào Ấn độ thế kỷ thứ VI là
Chandragomin nói rằng thật hết sức ngu xuẩn khi ta mong muốn biến đổi vị đắng
của một thứ hoa quả bằng cách cho thêm một vài giọt mật. Cũng thế ta không thể
chờ mong sau một hay hai lần thiền định, hương vị quá ô nhiễm vì ảo giác của
tâm thức vụt biến thành hương vị ngọt ngào tỏa ra từ bồ tát hạnh và lòng từ bi.
Sự cố gắng kiên trì và đều đặn thật vô cùng cần thiết. Đức Phật cho biết là
người bồ-tát loại bỏ ảo giác bằng sức mạnh của trí tuệ, thế nhưng sức mạnh của
từ bi không cho phép người bồ-tát làm ngơ trước khổ đau của chúng sinh.
Các thần linh thịnh nộ
Người ta thường hỏi tôi: " Người Tây
tạng lúc nào cũng nói đến từ bi tại sao một số thần linh Tây tạng lại có vẻ
hung tợn đến thế ?".
Phép tu tập du-già về thần linh nhất thiết
nhắm vào một mục đích duy nhất: thực hiện lý tưởng bồ-tát hạnh, đó là phương
tiện duy nhất có thể giúp phục vụ tối đa và tuyệt đối tất cả chúng sinh. Trong
phép du-già đó, người tu tập cố gắng đạt đến cấp bậc cao nhất : tức là thể dạng
tột đỉnh của giác ngộ. Trong quá trình thiền định đó, chẳng những người tu tập
khẩn cầu sự giúp đỡ của các thần linh hiền hòa mà còn kêu gọi đến các thần linh
hung tợn để biến họ thành đồng minh trong mục đích lợi dụng năng lực phát sinh
từ dục vọng của họ để gia tăng thêm sức mạnh của mình trong việc trợ giúp người
khác, năng lực mãnh liệt đó phát sinh từ tâm thức khi nó bị sự giận dữ xâm
chiếm. Các vị thần linh thịnh nộ hiển hiện tạo ra cơ hội cho ta lèo lái sự giận
dữ trên đường giác ngộ.
Một vài quyền năng của Đức Phật
Đức Phật có sức mạnh quán thấy được các tiềm
năng tinh tế, trung bình hay yếu kém của từng chúng sinh trong việc tu tập.
Đức Phật có khả năng quán thấy được các kiếp
trước của mỗi chúng sinh và lúc nào cái chết sẽ đến với họ và cả sự tái sinh
của họ, phù hợp với căn nghiệp của họ.
Trí tuệ của Phật
Trí tuệ của Đức Phật lúc nào cũng tập trung
vào Tánh không, vì thế không lúc nào Ngài rời khỏi bản thể của hiện thực.
Thực ra tâm thức của chúng sinh cũng trống không và không mang
bản chất tự tại [Phật tính]. Người ta chỉ định Tánh không tự nhiên đó
của tâm thức bằng thuật ngữ : "hạt giống của các vị Như Lai (Tathagata), hay dòng truyền thụ của chư Phật". Hạt giống đó hiện hữu trong mỗi chúng
sinh, do đó tất cả chúng sinh đều hàm chứa khả năng đạt được thể dạng của
Phật".
Thái độ của Phật
Không có một tư duy nào hiển hiện trong trí
tuệ của một vị Phật. Không có bất cứ gì khích lệ một vị Phật thực hiện sự an
lành cho chúng sinh, bởi vì vị Phật bằng sức mạnh của đại từ bi đã khiến cho sự
an lành phải bắt rễ từ trong tim của mỗi con người, giúp họ rút tỉa được lợi
ích cho cuộc sống tạm bợ này và cho sự an lành trong tâm linh họ.
Tiềm năng vô tận của lòng từ bi
Thân xác, ngôn từ và tâm thức của chư Phật
không bao giờ biết mệt khi phục vụ cho lợi ích của chúng sinh. Chư Phật thực
hiện ước vọng của chúng sinh và hướng dẫn họ từng giai đoạn một với tất cả sự
khéo léo cần thiết, phù hợp với nhu cầu, khả năng và ước vọng đa dạng của họ.
Mỗi khi một vị Phật trông thấy chúng sinh khổ đau, tâm thức của vị ấy liền bị
khơi động bởi lòng từ bi vô tận hàm chứa một tiềm năng vô biên.
Đại từ bi
Trong tinh thần đại từ bi Đức Phật đưa ra con
đường và các phương tiện giúp mỗi người trong chúng ta tự giải thoát khỏi mọi
dục vọng, chính vì thế đã hiển hiện ra muôn ngàn hành động [của chư Phật] sinh
khởi không ngưng nghỉ từ thể dạng đại từ bi.
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni còn gọi là Đức Phật
Cồ-đàm sinh ra cách nay đã hơn hai nghìn năm trăm năm tại Ấn độ trong một gia
đình hoàng tộc, thuộc dòng họ Thích-ca. Ngài sống cuộc đời vương giả của một vị
hoàng tử, thế nhưng lại sớm nhìn thấy khổ đau cùng khắp và bản chất mong manh
của thể dạng con người, vì thế Ngài rời bỏ vương quốc của vua cha và quyết tâm
hy sinh đời mình để tu luyện khổ hạnh.
Trên quan điểm con người có tất cả mười hai biến cố xảy trong
kiếp nhân sinh của Ngài: giáng trần từ cõi trời Đâu Suất (Tushita), thụ thai, đản sinh, học hỏi khi lớn lên, kết hôn, từ bỏ thế
tục, khổ hạnh, thiền định dưới cội Bồ-đề (cội cây giác ngộ),
chiến thắng Ma vương (Mara - tức các sức mạnh của vô minh), đạt được Phật tính, giảng huấn và giải
thoát khỏi cõi ta-bà.
Trên đường học hỏi Đức Phật chấp nhận mọi thử
thách: đày đọa thân xác, xa lìa người thân, từ bỏ sản nghiệp để xả thân học
hỏi và tu tập.
Trí tuệ của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni
Chúng ta xem Đức Phật Thích-ca Mâu-ni như một sinh linh thượng
thặng đạt được một cấp bậc tâm linh và hiện hữu cao nhất. Tuy thế trong thời
gian đầu, trước khi đạt được giác ngộ và tiếp theo đó suốt trong bốn mươi lăm
năm giảng huấn, Ngài chỉ là một chúng sinh như các chúng sinh khác. Nhờ vào sự
cố gắng của chính mình và sự chuyên cần nghiệt ngã, Ngài trở thành một vị Phật.
Trong suốt bốn mươi lăm năm Ngài không ngừng học hỏi thêm, cảnh giác các đồ đệ,
trình bày giáo lý, hiển lộ như một thánh nhân (những người Ấn giáo tin rằng Đức Thích-ca Mâu-ni là vị Hóa thân
thứ chín của Thần Vishnu).
Những gì trên đây chứng minh cho thấy tâm thức
kỳ diệu của Đức Phật. Cho đến giây phút cuối cùng trước khi nhập vào niết-bàn
tâm thức Đức Phật không ngừng hoạt động, quán xét , thăng tiến đến một mức độ
cực kỳ tinh vi và cao siêu. Vậy thì chúng ta đây, chúng ta phải làm gì đối với
tâm thức của chính mình ?
Sự hiểu biết siêu nhiên của Đức Phật
Trí tuệ của Đức Phật thấu triệt được toàn bộ
các hiện tượng quy ước và tuyệt đối, dễ dàng như nhìn một vật thể trong lòng
bàn tay. Tâm thức của Đức Phật cũng đạt được sự quán thấy siêu nhiên. Ngài cảm
nhận được toàn thể thế giới hiện tượng không một mảy may sơ sót vì Ngài đã đạt
được thể dạng toàn vẹn không còn vướng mắc một chút vết tích nhỏ nhoi nào của
sự bế tắc có thể ngăn chận sự hiểu biết của Ngài.
Các tướng tốt trên thân của Đức Phật
Trong số ba mươi hai tướng tốt chính yếu trên
thân của Đức Phật có thể kể ra hai bánh xe bằng vàng in đậm ở lòng hai bàn
chân. Trong số tám mươi tướng tốt thứ yếu có thể kể ra các móng tay màu đỏ như
đồng. Khi nào nhìn thấy một thân thể mang các dấu hiệu như thế, chúng ta có thể
tin chắc cội rễ của giác ngộ đã ăn sâu vào tấm thân ấy.
Đức độ của ngôn từ
Ngôn từ của một vị Phật thật khả ái và mang
lại lợi ích. Người ta bảo rằng ngôn từ của Phật thật dịu dàng vì mỗi khi nghe
được ngôn từ ấy tâm thức ta sẽ tràn ngập hân hoan.
Khi một vị Phật thuyết giảng, tất cả sinh linh
trên cõi thiên, cõi long xà (naga), ngạ quỷ, các nhạc công trên cõi
trời, loài người và mọi chúng sinh trong các cõi khác đều hiểu được, tùy theo
ngôn ngữ của họ : đó đã đặc tính lớn nhất của một vị Phật.
Hạt giống của một vị Phật
Chúng ta không nên quên là trong mỗi con người
dù sa đọa hay hung bạo cách mấy đi nữa nhưng đã là một con người thì họ đều hàm
chứa hạt giống của yêu thương và lòng từ bi giúp cho họ trở thành một vị Phật
một ngày nào đó.
Bures-Sur-Yvette, 11/2010
Đức ĐẠT-LAI LẠT-MA
Frédérique Hatier biên soạn
Hoàng Phong chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét