Cuộc đời con người có thời gian vật lý và thời gian tâm lý.
Hai mươi bốn giờ một ngày ai cũng như ai nhưng “có những phút trở thành bất tử”
và có những ngày tháng không để lại dấu vết nào. Cuộc đời con người, khi nhớ lại,
đối với chính mình hay đối với người khác, thời gian tâm lý quan trọng hơn thời
gian vật lý. Ta chỉ nhớ về ta, người chỉ biết về ta qua những giờ phút ấy, ngày
tháng ấy, ghi đậm nét khuôn mặt của một con người.
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm và thường ghi dấu ấn trong
đời nhưng không phải lúc nào cũng vui vẻ. Số phận đưa con người đi qua những
mùa xuân với sắc thái khác nhau. Trong mùa xuân này, như những người khác, tôi
cũng thường nhớ lại những mùa xuân cũ. Và khi đã đi qua “60 năm cuộc đời”, có lẽ
việc nhớ lại này, một cách riêng tư, cũng là một cách chia sẻ tâm sự, hi vọng
có thể gợi ra đôi điều gì đó nơi người đọc.
Xuân thơ ngây
Thuở nhỏ tôi là đứa con trong một gia đình nghèo như hầu hết
các đứa bé khác trong một đất nước có chiến tranh. Tuy nhiên trẻ con có những
niềm vui rất đơn sơ mà hoàn cảnh không thể tước đoạt. Điều lý thú nhất đối với
tôi là được ăn mứt bánh trong những ngày tết.
Mẹ tôi người miền trung và tết nào bà cũng tự làm mứt bánh
theo truyền thống và không bao giờ đi mua ngoài phố. Hai loại mứt bà thường làm
là mứt gừng và mứt bí. Mứt gừng già rất cay và mứt bí với những miếng lớn hình
khối chủ nhật ngọt khủng khiếp. Nhưng điều thú vị đối với anh em chúng tôi
không phải là được ăn những miếng mứt lớn, đẹp được cho vào bao ni lông cất đi
dành đãi khách trong mấy ngày tết mà chính là những mảnh vụn còn sót lại. Mẹ
tôi thường làm mứt trong các thau lớn bằng nhôm và nấu trên bếp than. Khi làm
xong, sau khi lấy những miếng lớn ra, bao giờ cũng còn sót lại những mảnh vụn
và đường đọng ở đáy thau. Mấy anh em chúng tôi cạo ra và chia nhau mỗi người một
ít, gói vào giấy báo, để trong túi, thỉnh thoảng lại lấy ra nhấm nháp. Chính những
mảnh vụn và bột đường hơi cháy vì nằm sát đáy thau, quyện mùi thơm này mới ngon
tuyệt.
Mẹ tôi cũng nấu bánh tét. Bánh tét ngon nhất là khi mới nấu
xong, lấy ra còn bốc khói, cắt ăn ngay. Cách cắt bánh tét không dùng dao mà
dùng một sợi lạt gói bánh, tước nhỏ như sợi chỉ, một đầu ngậm vào miệng, đầu
kia dùng tay quấn vào bánh đã lột lá một phần, siết lại cho đứt rời ra từng lát
mỏng vừa phải. Bánh tét để được lâu hơn bánh chưng mà không bị mốc, có khi hàng
tháng. Bánh tét để lâu phải chiên ăn mới ngon. Từng lát bánh bỏ vào chảo dầu
chiên dòn lên, nóng hổi, ăn với dưa món thì bao nhiêu cũng hết, nhất là khi đồ
ăn tết đã vơi dần.
Không biết có phải vì tôi thuộc loại “tham ăn” hay sao mà nhớ
về những ngày tết thuở nhỏ tôi chỉ nhớ nhất những hương vị bánh mứt như thế.
Cũng chẳng sao vì niềm vui của tuổi nhỏ nhà nghèo thế cũng là trong sáng. Tết
có mứt bánh ăn đã là niềm hạnh phúc.
Xuân cô đơn trưởng thành
Vào đại học, tôi sống xa nhà. Mấy năm đầu tôi phải ở nhà bà
con, nhà những gia đình mà tôi dạy kèm cho con họ, hoặc thuê nhà trọ chung với
các bạn. Tôi khao khát có một phòng riêng. Đó là một nỗi khao khát lạ lùng. Tôi
nghĩ từ trước tôi chưa bao giờ thực sự là mình. Tôi luôn giữa người khác, bị
chia sẻ, chia năm xẻ bảy. Tôi muốn có lúc nào đó tôi chỉ là tôi, một mình tôi
thôi. Không có bất cứ ai khác. Nỗi khao khát đó nung nấu tôi một cách kỳ lạ như
một ngọn lửa âm ỷ cháy trong hồn.
Mãi đến đầu năm thứ ba đại học tôi mới có điều kiện thuê một
phòng riêng. Đó là một căn phòng nhỏ cũ kỹ chừng mười mét vuông, đủ kê một cái
giường và một bàn học. Căn phòng tách biệt ra khỏi ngôi nhà chính của chủ nên
khá riêng tư. Thế là đã đáp ứng khát vọng một mình của tôi. Tôi đi về, ăn ngủ,
làm việc một mình. Tôi cảm nhận tự do trong từng hành động nhỏ. Thật là một niềm
vui lớn lao.
Vào dịp tết, tôi quyết định không về nhà gia đình mà ở lại
nhà trọ. Tôi mua tích trữ sẵn thức ăn, quyết định suốt ba ngày sẽ nằm trong
phòng không đi ra ngoài, không tiếp xúc với ai. Tôi mở cửa sổ, ra khóa ngoài cửa
chính rồi nhảy vào cửa sổ đóng lại. Thế là ai đến nhìn thấy khóa ngoài cũng yên
chí tôi đi vắng. Tết là dịp người ta gặp gỡ nhau, tôi lại càng muốn cô độc
trong thời gian đó.Một ý muốn kỳ quặc hay chính là một trải nghiệm tâm linh cần
thiết cho cuộc làm người. Làm người có cần tương giao không? Tôi thử cắt bỏ mọi
tương giao trong một thời gian ngắn để hiểu nó tác động đến mình như thế nào.
Tôi được thực sự cảm nhận, gậm nhấm, chiêm nghiệm nỗi cô đơn của mình. Một thú
vị đau thương.
Tôi ghi trong nhật ký:
“…Tôi thấy rõ mình trong bóng tối. Rỗng không. Khô héo. Trong
bóng tối tôi được kéo ra khỏi mọi liên hệ. Còn lại tôi, còn lại tôi. Một xác
ve. Một xác ve bám trên cành khô bằng gai nhọn ở chân. Rỗng không. Vô hồn. Lạc
loài. Tôi tỉnh giấc mơ sống. Tỉnh ra khỏi một cơn thức. Một cơn thức máy móc và
phiền toái. Tôi tỉnh thức, thấy một xác ve nằm trên giường. Trong bóng tối. Niềm vui vỡ ra thành một tiếng thét vang động không
âm thanh. Tôi thèm được một mình. Thèm chết được. Tôi thèm được kéo ra khỏi
liên hệ”
Xuân chiến tranh
Xuân này tôi đã ra trường đi dạy học ở một thành phố cao
nguyên. Lại vẫn còn tâm trạng cũ, tôi vẫn muốn được cô đơn trong mấy ngày tết
nên tôi không về với gia đình mà ở lại căn nhà trọ của mình nơi một thành phố
chưa mấy quen thân, thường được gọi là “buồn muôn thuở, bụi mù trời”. Tôi vẫn
chưa thoát ra khỏi nỗi khát khao lạ lùng muốn gậm nhấm một thú đau thương phần
nào mang sắc thái siêu hình.
Nhưng chiến tranh đã giáng cho tôi một đòn chí mạng. Tối 30 tết
Mậu Thân, tiếng súng xé toang màn đêm. Từng đợt pháo từ bên ngoài dội vào ngay
xóm tôi ở. Cùng với dân trong xóm, chúng tôi nháo nhào chạy thoát ra
trung tâm thành phố, nơi có nhà thờ để ẩn nấp. Có lẽ mọi người hi vọng chiếc
thánh giá và nơi thờ phượng Chúa sẽ là chốn bình an trong cơn bão lửa điên rồ.
Trong nhà thờ người đã đông nghẹt nên tôi chỉ có thể ngồi bên ngoài hành lang.
Đêm 30 trời tối đen như mực nhưng trước sân có ánh sáng mờ mờ
do ánh đèn bên trong nhà thờ hắt ra. Gần nửa đêm, tôi chợt thấy một toán người
chạy ngang qua trước nhà thờ. Lập tức không biết từ đâu nhiều loạt súng rộ lên,
tôi đoán là súng đại liên vì tiếng nổ hàng tràng vang động cả dãy phố. Tóan người
như bị chém phạt ngang lưng. Họ đổ gục xuống quằn quại, tiếng kêu thét rú ré vọt
cao tới trời, thốc vào nhà thờ, làm cho mọi người điếng hồn tê dại. Tôi không
phải là chiến sĩ. Đây không phải là phim ảnh. Tôi chứng kiến một cảnh thực quá
khủng khiếp diễn ra trước mắt.
Tôi đã từng chán ghét chiến tranh và đấu tranh đòi hòa bình
nhưng suy nghĩ của tôi có phần nào trừu tượng. Chỉ khi chứng kiến cảnh này tôi
mới thực sự cảm nhận được sự tàn ác, phi nhân, phi lý của cuộc chiến. Trong hoạt
cảnh tàn khốc đó tôi không biết ai bắn ai. Chỉ biết chắc là người Việt giết người
Việt, một cách man rợ điên rồ nhất. Sau sự việc đó khát vọng cô đơn của tôi vỡ
tan và tôi bị “sốc” nặng, mất thăng bằng tâm lý một thời gian khá dài.
Xuân gia đình
Rồi tôi cũng từ bỏ nỗi cô đơn và khát vọng “chung thân ngựa
hoang” để cùng một cô gái - người yêu tri kỷ - xây dựng một mái ấm
gia đình. Ngày tết chúng tôi cũng không về với bố mẹ mà trải qua cái tết chung
cùng đầu tiên trong một căn nhà trọ (vẫn là nhà trọ) nơi một thị trấn vùng cao
có tên “thị trấn sương mù”.
Chúng tôi học được cách làm bánh chưng với bà chủ nhà người bắc.
Bánh chưng dễ gói hơn bánh tét, nhất là khi có khuôn. Đóng khuôn bằng mấy nẹp gỗ
cỡ bằng giát giường. Lá dong mua về rửa sạch, lau khô từng lá một. Lạt buộc mua
thứ người ta đã chẻ sẵn. Ngâm đậu xanh từ đêm hôm trước, đãi vỏ thật sạch. Việc
này hơi mất thời gian. Nếp cũng ngâm từ đêm hôm trước. Thịt heo cắt thành lát
dài ướp tiêu và nước mắm. Lót lá vào khuôn, đổ một lớp nếp, cho đậu và thịt làm
nhân ở giữa, rồi đổ thêm một lớp gạo nếp lên trên. Ép các góc cho đầy đặn, gói
lại, buộc lạt chặt là có được một chiếc bánh chưng vuông góc xinh xắn. Tất cả
những việc này làm mất một buổi sáng.
Vì ở nhà phố, nấu ít, lại không có điều kiện đun củi nên
chúng tôi cho bánh vào một cái thùng thiếc, bắc lên nấu trên bếp dầu. Nấu từ
trưa 30 cho đến khuya giao thừa là nồi bánh vừa chín, vớt ra thưởng thức
trong tiếng pháo nổ giòn giã khắp phố.
Thủ tục nấu bánh chưng đón giao thừa này chúng tôi duy trì được
gần hai chục năm, khi các con lần lượt ra đời và còn ở trong gia đình, gần như
thành truyền thống. Xây dựng một truyền thống cho cái tết gia đình làm cho
mọi người trong nhà gần gũi nhau hơn, tạo nên một hương vị riêng, trở thành kỷ
niệm khó quên trong đời dù ta đi bất cứ đâu và sống đến bao nhiêu tuổi.
Tôi không bi quan và vẫn tìm cách tận hưởng mùa xuân trong
khung trời riêng của mình. Không ra khỏi khu vườn - nơi tôi đặt tên một
cách thơ mộng là “động hoa vàng” - nhưng hàng ngày tôi vẫn thấy mảnh trời
xanh trên thung lũng, nơi đó muôn đời khát vọng tự do của riêng tôi và của mọi
người vẫn không ngừng bay lên. Cây mai vàng trong sân nhà tôi vẫn nở. Tôi vẫn viết thiệp xuân gởi cho bạn bè trong đó có ghi
lời cảm xúc:
Món quà Xuân "bánh chưng xanh, đĩa dưa hành, câu đối đỏ"
thơm ngát nghĩa tình, lồng lộng khí phách sĩ phu Phương Bắc.
Trên xứ lạnh, trước sân nhà, một cây mai hiếm hoi nở rộ, chợt
nhớ câu thơ Cao Chu Thần " nhất sinh đê thủ bái mai hoa" (*)
Xuân kết thúc một vòng đời.
Tính theo con giáp, người ta nói “60 năm cuộc đời”. Ai sống
thêm nữa coi như có diễm phúc. Đúng đến mùa xuân năm 60 tuổi tôi mới làm căn
nhà đầu tiên trong đời mình. Tôi không nghĩ đó là quá trễ. Trước đây tôi luôn ở
nhà trọ, nhà thuê hay nhà do người khác xây dựng. Gần nhất tôi ở trong căn nhà
gỗ mua lại của người khác. Tôi xem giấy tờ thấy căn nhà đó bằng tuổi tôi. Khi
mua, tôi không thèm chú ý đến cột đã mục, tường bị mối ăn, vách tôn han gỉ. Tôi
chỉ mê khu vườn khá rộng, có vẻ hoang sơ với một bụi lau phất phơ trong gió
trên một cái giếng thơi trong trẻo trước nhà. Tôi đã ở trong căn nhà đó gần 20
năm.
Vào lúc đời sống khó khăn nhất do “thất nghiệp bất đắc dĩ”
cũng gần 20 năm, tôi quyết định bán một nửa khu vườn của mình. Ngày trước đây
là nơi khá hẻo lánh, giá đất rất rẻ, nhưng từ khi có kinh tế thị trường và cơn
sốt nhà đất, giá trị khu vườn của tôi có khá hơn. Tôi rất muốn giữ khu vườn của
mình vì đó chính là một mảnh tâm hồn tôi, nơi dung thân và là “một cõi đi về”
trong những ngày khốn khó nhưng tôi phải đành đọan cắt đi một nửa để có thể tiếp
tục tồn tại. Thế là tôi có cơ hội xây căn nhà đầu tiên của mình trên nửa vườn
còn lại, theo thiết kế do cả gia đình bàn bạc lựa chọn. Có lẽ bụi hoa lau
phất phơ năm trước, bây giờ không còn nữa, nhưng cái đẹp và niềm say mê cái đẹp
đã cứu tôi ra khỏi cảnh khốn cùng, cả về vật chất cũng như tâm linh.
Ngày 30 tết chúng tôi dọn vào nhà mới. Gia đình đoàn tụ trong
ngôi nhà khá khang trang rộng rãi. Trước nhà là sân rộng trống trải, rồi đây
chúng tôi sẽ trồng cây và hoa để tái lập lại “động hoa vàng” giữa chốn trần
gian mịt mù bụi bặm.
Xuân giang hồ.
Ngôi nhà chỉ là ngôi nhà. Dù nó to lớn nguy nga tráng lệ đến
mấy cũng không mang lại hạnh phúc cho những người sống trong đó nếu thiếu tình
yêu và hòa thuận. Mái ấm gia đình là yêu thương chia sẻ dù trên đầu là mái dát
vàng, mái ngói, mái tôn hay mái lá, nhà rộng một ngàn mét vuông hay chỉ mười
mét vuông chật chội.
Tôi thích căn nhà mới của mình, căn nhà của riêng mình và tôi
ý thức rất rõ đâu là thiên đường địa ngục trong một căn nhà. Một năm sau cây cỏ
đã phủ màu xanh và đủ loại hoa, trong đó nhiều nhất là các loại hoa vàng do
chính bàn tay vợ tôi và tôi vun trồng chăm sóc. Việc làm vườn giúp chúng tôi có
cơ hội lao động chân tay và tâm trí thư thái, gần gũi với thiên nhiên, xa lánh
cơn lốc kinh tế thị trường đang cuốn mọi người vào dòng xoáy cạnh tranh khốc liệt
để tồn tại và làm giàu.
Tết năm sau chúng tôi quyết định không ăn tết ở nhà. Mọi người
trong gia đình tôi đều có máu giang hồ. 25 tháng chạp các con ở xa về, cả gia
đình lên chiếc xe tàng của con trai lớn trực chỉ phương bắc làm một chuyến lãng
du ăn tết trên đường.
Nhìn ngắm người ta chuẩn bị tết cũng gây niềm cảm khái. Ở đâu
cũng có bày bán hoa kiểng, bánh trái, thực phẩm ê hề. Người mua người bán đều hối
hả chạy đua với mấy ngày “năm cùng tháng tận”. Những người nghèo phải đợi đến
chiều 30 mới có thời gian đi mua sắm và hi vọng có thể mua với giá rẻ. Những
người bán, nhất là bán hoa, đến thời điểm cuối vẫn chưa bán hết, mang khuôn mặt
buồn phiền như những cánh hoa bắt đầu héo úa. Tối 30 và sáng mồng một tết, tưởng
người ta không mua bán gì, chúng tôi đã mua sẵn thức ăn, không dè ngay bên cạnh
khách sạn, các cửa hàng ăn uống vẫn mở và người ta còn bán khuya hơn, sớm hơn
ngày thường.
Vì cuộc sống cơm áo bức thiết hàng ngày, có người không biết
đến tết. Và trên dặm dài đất nước chúng tôi đi qua, bao người vẫn trong cảnh khốn
cùng mà vui xuân vẫn còn là một điều xa xỉ. Nỗi vui buồn lớn lao hay bé mọn trộn
lẫn quay cuồng giữa nhân gian. Chỉ là quy ước thôi nhưng mọi người đều đã lệ
thuộc vào nó mất rồi. Thực ra thời gian vẫn mải miết xuôi dòng chảy của mình,
chẳng hề có cột mốc năm tháng nào cả.
Đêm 30 chúng tôi đón giao thừa trong khách sạn nơi thành phố
Huế quê hương của tôi. Tôi không phiền lòng khi đón tết trên quê hương nơi một
căn phòng trọ. Tôi hiểu rõ quê hương là cội nguồn, là đất nước và cũng là
yêu thương. Nếu có chia sẻ và yêu thương thì trên trái đất này đâu cũng là quê
hương.
Chúng tôi là những kẻ mải mê trên đường tìm kiếm quê hương trần
gian đích thực.
Mùa xuân tương lai?
Tự sự mùa xuân này có thể xem là tổng kết nho nhỏ về một đời
người. Một con người rất nhỏ bé nhưng cuộc sống của nó cũng phản ánh phần nào
dòng chảy lịch sử. Mỗi con người có hoàn cảnh riêng của mình nhưng gộp tất cả lại,
những cá nhân làm nên lịch sử. Số phận cá nhân nằm trong số phận đất nước. Số
phận đất nước là tập hợp những số phận cá nhân. Những mùa xuân đã qua trong một
chu kỳ đời người gần nhất không mấy vui vẻ.
Vậy những mùa xuân sắp tới? Ai cũng hi vọng những gì tốt
đẹp hơn. Và những gì tốt đẹp hơn do chính chúng ta làm ra, không ai khác. Hoàn
cảnh đất nước có vô số câu hỏi được đặt ra cần có câu trả lời và hành động thiết
thực. Thực tế cho thấy đã có những câu trả lời và hành động rất khác nhau. Điều
quan trọng là cần có một nền tảng chung. Không thể thiếu tình yêu
và lòng bao dung, nhân ái.
(*) Câu thơ của Cao Bá Quát: Một
đời chỉ biết cúi đầu bái lạy trước hoa mai.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét