CHÀO NGUYÊN XUÂN
Bùi Giáng
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Bên hồ nước có bóng ta bên người
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng: bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: li biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.
Bùi Giáng (1926 - 1998) là thi sĩ và cũng là một học giả được liệt
vào hạng quái kiệt trong những nhân vật văn nghệ sĩ của thế kỉ XX ở Việt Nam.
Bài thơ Chào Nguyên xuân vừa dẫn ở trên nằm trong tập thơ đầu
tay, cũng là tập thơ nổi tiếng nhất và trong sáng nhất của Bùi Giáng: tập Mưa
nguồn. Bài thơ viết theo thể lục bát truyền thống của dân tộc gồm 28
câu với kết cấu 6 đoạn gồm 4 đoạn 4 câu, 1 đoạn 2 câu và 1 đoạn 10 câu. Thế
nhưng, sức quyến rũ chủ yếu của tác phẩm nằm ở nghệ thuật ẩn dụ mà tác giả đã
sử dụng nó như một hành trình xuyên suốt, tạo thành một bầu khí quyển vừa tươi
mới vừa lạ lùng lại thấm đẫm chất nhân văn của một tình yêu dâng hiến cho con
người và cuộc sống.
Đã có không biết bao nhiêu trứ tác thi ca cổ kim Đông Tây
viết về mùa xuân hoặc lấy cảm hứng từ mùa xuân. Bài thơ của Bùi Giáng chọn một
tựa đề chính danh là Chào nguyên xuân trong một kết cấu
động ngữ vớichào là động từ trung tâm, tính ngữ nguyên xuân đi
sau bổ nghĩa thêm cho động từ đi trước. Như vậy, thi tứ và thi hứng của bài thơ
khởi từ mùa xuân này sẽ được dồn nén nhiều ý vị qua biểu tượng "chào"
và biểu tượng "nguyên", kết nối nên một hành trình ẩn dụ xuyên suốt thi
phẩm.
Chào là một hành động mang tính phổ niệm toàn nhân loại. Chào biểu
thị văn hoá, thể hiện tình cảm tích cực trong xã hội con người. Ở phương Đông,
chào biểu thị một tinh thần trọng Lễ, vốn đã được khẳng định qua học thuyết
Khổng Tử cách đây hàng nghìn năm. Tục ngữ, thành ngữ Việt Nam có những câu về
lời chào đã trở thành kinh điển như: Lời chào cao hơn mâm cỗ, Đi
hỏi về chào. Tiếng Việt lại càng có nhiều biểu hiện phong phú về lời chào
hơn nữa, khi chào nhau mà không phải dùng đến từ chào. Như vậy, lời
chào có một vị trí vô cùng quan trọng trong cuộc sống trong vai trò kết nối
tình cảm mọi người, từ xa lạ trở thành yêu thương, từ dửng dưng hoá ra nồng ấm.
Bùi Giáng đã viết nên Chào nguyên xuân trong một cảm quan như
thế về lời chào và đây là thi phẩm lục bát duy nhất viết về lời chào trong thi
ca Việt Nam hiện đại. Đối tượng để thi sĩ tặng cho lời chào không ai khác chính
là mùa xuân, mà lại phải là Nguyên xuân, tức là mùa xuân trong sự khởi đầu,
trong sự toàn vẹn, trong tính nguyên sơ của nó. Đó chính là ý nghĩa của từ nguyên mà
các cuốn Từ điển Hán Việt đầy tin cậy của Thiều Chửu, Đào Duy
Anh, Nguyễn Văn Khôn đã khẳng định. Nói một cách dung dị hơn, Nguyên xuân chính
là mùa xuân đầu tiên. Mùa xuân đầu tiên ấy nằm trong sự cảm nhận riêng của một
người và cũng có thể là của nhiều người. Nó hoàn toàn mang tính chủ quan bởi có
ai biết được mùa xuân đầu tiên của đất trời đã diễn ra từ bao giờ đâu. Thế
nhưng, một điều có thật là thi ca Việt Nam trước và sau Bùi Giáng đã đón
nhận thêm hai mùa xuân đầu tiên. Mùa xuân đầu tiên thứ nhất nằm trong thi phẩmXuân
đầu tiên của Hàn Mặc Tử, thuộc tập Xuân như ý:
Xuân gấm đầu tiên giữa cõi đời
Mùi thơm ngây dại sóng con người
Hãy hoan hô, lời cao như sấm:
Vạn tuế bay ơi! Nắng rợp trời!
Mùa xuân đầu tiên thứ hai đến cùng nhạc phẩm Mùa xuân đầu
tiên (1976) của cố nhạc sĩ Văn Cao, đón mừng một kỉ nguyên mới của dân
tộc - kỉ nguyên của độc lập tự do, của sự làm chủ cuộc đời mình. Bản thân ca từ
của bài hát chính là một bài thơ:
Rồi dặt dìu muà xuân nay đã về
Người mẹ nhìn đàn con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai anh
Nếu như với Hàn Mặc Tử, mùa xuân đầu tiên là phút giây hoà lòng
mình với đất trời, là quyến luyến khát khao trong sự ngợi ca nồng nàn say đắm
cuộc sống; nếu như với Văn Cao, mùa xuân đầu tiên của ông cũng là sự bày tỏ
giùm muôn triệu trái tim của người Việt Nam trong một kỉ nguyên mới thống nhất
đất nước; thì mùa xuân đầu tiên của Bùi Giáng là mùa xuân của tình yêu miên
viễn thấm nhuần một thế giới quan và nhân sinh quan của riêng ông, và nhà thơ
đã mượn thi tứ lời chào như một biểu tượng xuyên suốt để gửi mùa xuân bất tận
đến cuộc đời mến thương và mỗi con người trần thế.
Lời chào đến đầu tiên với con đường, một không gian trần thế
rất cụ thể, rất đời thường, nơi chúng ta vẫn gặp nhau hàng ngày một cách giản
dị và dễ dàng nhất:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Con đường ấy cũng chính là cuộc đời và khi song hành cùng từ miên
trường vốn được hoà phối cả về vần và điệu, cặp lục bát đầu tiên đã
tạo nên một bộ ba: con đường - mùa xuân - miên trường như
những hình tượng mang ý nghĩa ẩn dụ. Tất cả những gì đáng lãng quên sẽ bỏ lại
phía sau như một giấc ngủ dài (miên trường) để đón những điều tốt đẹp
đang chờ đợi phía trước. Và lời chào chính là cầu nối giữa mỗi chúng ta, cầu
nối cho cuộc đời này. Thời gian và tuổi thanh xuân dù trôi đi (tóc xanh phai
màu) nhưng những hò hẹn yêu thương sẽ không bao giờ hết. Nhưng điều quan
trọng là phải có con người làm trung tâm trong những hò hẹn ấy. Khi con người
yêu thương nhau thì thiên nhiên cũng yêu thương nhau, giao hoà nhau trong tấm
tình đằm thắm:
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin chào nhau giữa lúc này
Có ngàn năm đứng ngó cây cối và
Có trời mây xuống lân la
Thiên nhiên được thổi vào linh hồn nhờ nghệ thuật nhân hoá xuất
hiện liên tiếp trong bốn câu thơ qua các động từ hẹn, ngó và lân
la. Cây xanh hò hẹn biểu thị tuổi trẻ, ngàn năm ngó cây cối là thiên nhiên
giao hoà vượt qua biên giới thời gian, trời mây lân la là sự giao hoà vượt qua
biên giới không gian. Không phải là người say đắm cuộc đời, không thể viết được
những câu thơ như thế. Mặc dù Bùi Giáng đã chẳng có những lúc giận dỗi (hay giả
vờ giận dỗi?!) thiên nhiên đó sao: Mưa ơi là mưa/ Gió ơi là gió/ Ta bỏ
đi đây (Bài thơ ngắn nhất).
Lời chào tiếp tục hành trình của mình, như để thấm nhuần từng tế
bào của thế giới này. Không gian đang từ bao la bỗng chuyển về một nơi thật nhỏ
nhắn - một không gian mà bất cứ ai cũng có quyền sở hữu: không gian của một bàn
tay:
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Năm ngón tay trên một bàn tay cũng chào nhau đầy yêu thương, đó
chính là biểu tượng về sự xoá nhoà những ranh giới và khoảng cách trong xã hội.
Đời cũng có kẻ sang kẻ hèn, người sáng kẻ ngu, người cao kẻ thấp, nhưng mọi bất
bình đẳng ấy, nhất đán, có thể xoá đi khi một lời chào bỗng đâu vang lên trên
con đường thu nắng quái. Thú vị hơn, lời chào của bàn tay và những ngón tay có
thể là một lời chào không cần đến ngôn ngữ. Phương Đông sẽ gọi là Dĩ
động thế ngôn còn phương Tây sẽ gọi là Body language.
Lời chào tiếp tục chặng đường của mình để dừng ở làn môi. Vẫn là
một điểm không gian thuộc cơ thể người nhưng đây là điểm không gian gần với lời
nhất. Ngôn ngữ từ miệng phát ra làm sao không đi qua cửa ngõ làn môi:
Xin chào nhau giữa làn môi
Có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây.
Trường liên tưởng của làn môi dẫn đến màu hồng và nước mắt. Dù có
đắng cay vẫn xin nhau một lời chào, dù có tuyệt vọng hay hi vọng, dù ở giữa sự
sống và cái chết vẫn xin chào và được nhận lời chào… Trịnh Công Sơn từng tâm
sự: "Nếu một ngày trên phố, gặp một người không hề quen biết
nở nụ cười với bạn, thì bạn cũng hãy đáp lại bằng một nụ cười hay cử chỉ yêu
thương với người đó đi, vì chỉ giây lát nữa thôi chúng ta có thể chẳng còn bao
giờ biết nhau nữa trên cõi đời này". Niềm vui bất tuyệt khi lời chào
là biểu hiện chân thành của tình yêu thương sẽ làm cho mỗi chúng ta trở thành
bất tử. Đó là khi Đạo trở về cõi miên viễn vậy.
Lời chào tiếp tục di chuyển không gian đến một điểm nhỏ nhất: hạt
bụi. Câu thơ "Xin chào nhau giữa bụi đầy" có thể làm ai đó
không khỏi chạnh lòng khi nghĩ về sự hư vô của kiếp người, nghĩ về lời dạy của
nhà Phật, rằng "cát bụi lại trở về với cát bụi". Thế nhưng,
bụi là nhỏ nhất mà phút chốc có thể làm không gian lan toả ra đến muôn nghìn.
Chào nhau giữa bụi đầy có thể là tiếng chào trên những con đường giang hồ gió
bụi. Vì thế, câu thơ kế tiếp bỗng nhiên hắt lên một không gian bao la của bầu
trời với một hình ảnh thật lãng mạn: "Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng
đầu". Thiên nhiên thật tình tứ như một sự chứng giám qua hình ảnh nhân
hoá "mây nghiêng đầu". Kết cấu của bài thơ đến đây đã tạo
thành một vòng tròn đầy mê hoặc với sự lặp lại đầu cuối tương ứng của áng mây
trong cùng một nghệ thuật tu từ nhân hoá: trời mây lân la ở câu thơ thứ 7 và
mây nghiêng đầu ở câu thơ thứ 18.
Thực ra, bài thơ đã có thể dừng ở đây trong một giọng điệu trữ
tình đằm thắm, nhẹ nhàng, duyên dáng nhưng Bùi Giáng đã không làm như vậy. Vòng
tròn thứ hai đã mở ra và kéo bài thơ đi thêm một chặng đường 10 câu lục bát
nữa. Và thực sự trong phần thứ hai này của bài thơ, bản lĩnh thi ca của Bùi
Giáng mới bộc lộ hết mình, bộc lộ thế giới thơ độc đáo có một không hai của
ông:
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng: li biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.
Cấu trúc của đoạn thơ cuối này chia làm ba cặp hỏi - thưa rõ rệt.
Lối đối đáp như thế dễ làm ta liên tưởng đến đối đáp trong lục bát của ca dao
truyền thống. Tuy nhiên, đối đáp trong ca dao truyền thống thường là đối đáp
phong tình giữa người nam và người nữ, chủ yếu mang tính duy tình; còn đối đáp
trong đoạn thơ này của Bùi Giáng là đối đáp mang tính triết học, lấy duy lí làm
chủ đạo của một người tôn sùng chủ nghĩa hiện sinh. Tuy thế, cái tình thực chất
đã được xuyên suốt từ phần một (5 đoạn) sang phần hai (1 đoạn) của bài thơ.
Lời chào giờ đây đã được hoá thân sang lời hỏi. Âu cũng là điều dễ
hiểu bởi lẽ hỏi là một sự biểu hiện quan tâm nhiều hơn đến nhau sau lời chào.
Tiếng Việt vì thế có từ chào hỏi với một trật tự - thứ tự được
mặc định là chào trước hỏi sau, thành ngữ cũng có câu Đi hỏi về chào như
đã dẫn trong phần đầu của bài viết. Mặt khác, trong ngôn ngữ giao tiếp thường
ngày của người Việt, hỏi cũng chính là chào. Chẳng hạn đối với những câu hỏi
như: Anh đi đâu đấy, Bác xách cái gì nặng thế, thì
thực chất chính là những câu chào mà người hỏi thực sự không quan tâm lắm đến
một câu trả lời tương ứng vào câu hỏi.
Lời chào trong phần xuất hiện của mình luôn được đặt trong
mối quan hệ với không gian và thời gian, nhưng ta sẽ xem lời hỏi ở đây được xử
lí như thế nào cũng trong mối quan hệ đó.
Hỏi rằng: người ở quê đâu
Thưa rằng: tôi ở rất lâu quê nhà
Trong cặp hỏi - thưa thứ nhất này, ta bắt gặp một sự lãng quên
không gian hay nói cách khác là vượt ra ngoài không gian. Trong một điều kiện
thông thường, câu hỏi trên cho ta một tính chất bình thường nhưng câu đáp rõ
ràng rất bất thường, thậm chí ngô nghê, vượt ra ngoài dự tính của lời hỏi. Thế
nhưng nó lại chuyển tải một ý nghĩa sâu sắc. Người ta không cần phải nói đến
một không gian cụ thể chỉ cho quê nhà của mình nữa khi đã đạt đến Đạo, làm chủ
tâm mình và ngoại cảnh: Đâu cũng không phải là quê nhà mà đâu cũng là không
gian quê nhà của tôi. Bùi Giáng có những bài thơ trình bày rõ hơn nhân sinh
quan này:
Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa
(Tặng Mã Giám
Sinh)
Hôm nay tôi kiếm củi trong rừng
Lạc mất đường về chơi bỗng dưng
Sực nhớ rằng đây rừng rú thẳm
Là quê thân thiết biết bao chừng
(Người về)
Sau sự lãng quên không gian, ở cặp hỏi - thưa thứ hai, con người
đi đến chỗ lãng quên thời gian:
Hỏi rằng: từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng: nói nữa là sai
Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào
Người hỏi muốn xác định một thời điểm (từ bước chân ra) nhưng
người nghe không những đã không trả lời mà còn phủ nhận luôn sự tồn tại xứng
đáng của câu hỏi đó: Thưa rằng: nói nữa là sai. Lúc này, thi sĩ chỉ
còn quan tâm đến lát cắt của hiện tại. Đó chính là yếu tố thời gian quan trọng
nhất khi mùa xuân sắp đến. Nhưng mùa xuân rất cần con người thổi hồn cho nó,
làm nó trở nên sống động, lung linh; bởi lẽ nếu không có con người, sự tồn tại
của mùa xuân cũng là vô nghĩa. Con người với ngôn ngữ, hành động, lời chào và
nhất là bằng trái tim của mình đã và đang làm nên bao nhiêu mùa xuân cho cuộc
đời này.
Và bây giờ đến cặp hỏi - thưa cuối cùng, đẩy tính duy lí của đoạn
thơ thứ 6 lên chỗ cao trào và kịch tính nhất: Có nhất thiết phải tồn tại lời
chào trong cuộc đời này không khi bản chất cõi thế chỉ là phù du, mỗi con người
là những thân phận bé nhỏ, mong manh và cô đơn, chúng thậm chí là những sinh
linh bị lưu đày và phiêu dạt:
Hỏi rằng: đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau
Hai chữ đất trích gợi cho ta nhớ đến tuyệt phẩm Tỳ
Bà hành của Bạch Cư Dị với những câu như: Tầm Dương đất trích
gối đầu sớm mai và Cùng một lứa bên trời lận đận. Hai
câu thơ này khiến giọng điệu bài thơ bỗng nhiên chùng xuống, không tránh khỏi
phút giây ngậm ngùi; nhưng hai câu kết của thi phẩm, cũng đồng thời là câu trả
lời đã làm cho câu thơ cuối vút lên, trong sáng và bay bổng, tràn ngập ánh sáng
và sắc hương của một mùa xuân mới:
Thưa rằng: li biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên xuân
Ai cũng một lần đến rồi đi, ai cũng một lần sống rồi từ biệt thế
giới này. Thế nhưng, chúng ta sẽ còn gặp lại nhau bất tử trong một cõi vĩnh tồn
bởi chúng ta đã gieo những hạt mầm vĩnh cửu trong cuộc đời này theo một cách
thật đơn giản: mỗi ngày để lại một lời chào cho trần thế. Khi cuộc đời và con
người nồng ấm chào nhau, mùa xuân nào cũng là Nguyên Xuân, cũng là mùa xuân đầu
tiên bất tận. Và nếu mùa xuân vẫn còn trên trái đất này, thì cũng có nghĩa là
chúng ta sẽ sống mãi khi từng phút giây, lời yêu thương vẫn cất lên tha
thiết...
Bức tranh ngôn từ tuyệt đẹp của Nguyên Xuân có thể được hình dung
lại qua sơ đồ sau:
Bên cạnh những vẻ đẹp ngôn từ theo một hành trình ẩn dụ như đã
trình bày, Bùi Giáng còn độc đáo trong việc tạo ra một bầu không khí vừa cổ
kính vừa lạ lùng qua việc sử dụng các từ Hán Việt một cách mới mẻ và nhuần nhị: miên
trường - hồng tàn lệ - bạc mệnh - bất tuyệt - ngẫu nhĩ - li biệt -
trùng ngộ - Nguyên Xuân.
Trương Trào, một danh nhân nổi tiếng của Trung Hoa với trứ tác U
mộng ảnh đã từng viết: "Một chữ tình để duy trì thế giới, một
chữ tài để tô điểm càn khôn". Vâng, điều quan trọng sau cùng trên thế
gian chỉ còn là một chữ Tình. Cuộc đời ngoài kia vẫn trôi đi. Bao
kiếp người đã và đang trôi đi, ngang qua mỗi chúng ta như ngang qua bầu trời và
mặt đất. Hậu sinh hôm nay lại thành tiền nhân của ngày mai. Có những lời chào
được sắp đặt và những lời chào không hẹn trước. Có lời chào đầu tiên và lời
chào tạm biệt. Nhưng tôi thầm tin rằng, sẽ không bao giờ có lời chào sau cuối:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.
Đỗ Anh Vũ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét