Vườn thơ thiền trong xuân
Hồng Bối
Có mùa xuân là có thi ca. Thi ca là biểu tượng, tia chớp đầu
tiên của mọi ý nghĩ, ngôn ngữ, tình cảm, tâm hồn. Cho nên cứ mỗi dịp xuân đến
người ta lại ngồi quây quần bên tách trà để nói về thơ, viết về thơ và ca tụng
thơ. Thơ mùa xuân rất nhiều, lắm bài hay nhưng khó tránh khỏi sự trùng ý, trùng
từ và trùng cảnh. Bàn về thơ đã khó mà bàn về thơ xuân lại càng khó hơn. Nhân
đây chúng ta cũng thử một lần lặn lội đi vào thâm sơn chọn lọc vài ba áng thi
tiêu biểu để đem ra thưởng lãm tăng thêm hương vị nét đẹp ngày xuân.
Mở đầu cùng thưởng thức bài Xuân Hiểu tức là Buổi sớm
mùa xuân của Mạnh Hạo Nhiên ( 689-740):
Xuân miên bất giác hiểu
Xứ xứ văn đề điểu
Dạ lai phong vũ thanh
Hoa lạc tri đa thiểu.
“Giấc xuân trời sáng không hay
Chim kêu ríu rít từng bầy khắp nơi
Đêm qua mưa gió tơi bời
Biết rằng hoa cũng có rơi ít nhiều”.
Bài thơ thanh thoát thật đẹp tả lại cảnh buổi sớm mùa
xuân trong khi mọi cảnh vật đang tĩnh lặng im lìm thì bị đánh thức bởi tiếng
chim kêu ríu rít. Tiếng chim nghe ra không phải vọng trên đầu cành cây hay bên
hiên nhà mà là vọng khắp nơi, khiến tiết trời xuân trở nên nhộn nhịp. Tác
giả cũng phải ngỡ ngàng trước cái tĩnh và cái động. Lòng không an tịnh,
không yêu thiên nhiên thì khó mà thốt nên ngôn từ nhã nhặn như thế. Chính cái
nhã nhặn, bình dị làm cho lời thơ thêm phong lưu khoáng đạt. Đặc biệt nhân tố
chính ở đây là nhờ tiếng chim xuất hiện. Nếu tiếng chim xuất hiện ngay từ câu đầu
thì tứ thơ sẽ không còn trong trẻo vi tế. Trong câu một và câu hai ta dễ dàng
nhận thấy sự thanh bình sắc thái ngày xuân. Nhưng qua câu thứ ba nó có vẻ phá
đi sự thanh bình của hai câu đầu mà chúng ta vẫn còn băn khoăn. Có lẽ câu cuối
là câu hay nhất, vừa gửi gắm được tấm lòng lại nói lên được sắc thái mùa xuân.
Phải chăng tác giả làm theo trực giác cảm hứng thấy cảnh sinh tình chớ chưa lập
ý, bố cục thì phải. Nên bài Xuân Hiểu vẫn có gì đó đọc lên chưa sướng tai so với
bài Xuân Hiểu của vua Trần Nhân Tông( 1258-1308):
Thụy khởi khai song phi
Bất tri xuân dĩ quy
Nhất song bạch hồ điệp
Phách phách xấn hoa phi.
“Tỉnh dậy ngó song mây
Xuân về lòng chửa hay
Chập chờn đôi bướm trắng
Thông thường trong thi ca sau tả cảnh là tới tả tình, để lồng
tình chan hòa với cảnh. Nhưng bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt của vua Trần Nhân Tông
đã vượt ra khỏi phạm trù níu kéo của khuôn phép làm nên nét đặc trưng riêng “
vô tình mới thật hữu tình”. Cái nhìn của thi nhân không khác chi “ sắc tức thị
không, không tức thị sắc” cái nhìn thấu cảnh thấu tâm mà lâng lâng thơ mộng
lãng đãng trời mây, nhả hương đượm hương. Phải nói Xuân Hiểu là một trong số
bài tiêu biểu của vua Trần Nhân Tông hội đủ ba yếu tố làm nên bài thơ toàn hảo
đó là: đạt ý, truyền cảm và trì hứng. Chỉ 20 chữ đã làm ta rung động thích thú,
càng đọc lại càng muốn đọc. Xuân Hiểu của Mạnh Hao Nhiên so với Xuân Hiểu của
vua Trần khác ý thơ chỗ động và không động. Một bên khi căn tiếp xúc trần liền
bị trần chi phối ; còn một bên khi căn tiếp xúc trần thì không mảy may để trần
chi phối. Căn chỉ nhận diện trần đơn thuần. Nếu không phải là người thoát tục,
thoát khỏi sự ràng buộc của trần tâm, trần cảnh thì khó lòng xuất khẩu thơ như
vậy. Tác giả đã hòa mình với mùa xuân khiến cho người thưởng lãm không biết
ở đâu là cảnh, đâu là tình nhưng khi nhìn vào ngữ vận ta sẽ thấy toát lên sự an
nhiên, tự tại của người thấu lẽ cõi đời và sống vui với cái vui hiện tại. Như
bài Xuân Cảnh tác giả đã nói được ý muốn “ sống đời vui đạo”.
Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì
Họa đường thiềm ảnh mộ vân phu
Khách lai bất vấn nhân gian sự
Chỉ bạng lang cang kháng thúy vi
“Chim kêu dương liễu nở hoa đầy
Bên mái tranh vàng mây chiều bay
Khách vào chẳng hỏi việc nhân thế
Lan can đứng tựa ngắm nhìn trời”.
Đứng trước cảnh thái bình mùa xuân, sống an nhàn với phút hiện
tại thì đâu cần bàn chi nữa việc đời, việc hơn thua thời thế. Ta hãy cùng thong
dong tự tại đứng ngắm sông, ngắm núi, ngắm cảnh vật để thấy lòng tĩnh lặng. “
Nhìn mây mắt thấy trời xanh, cho nên mắt cũng long lanh ánh hồng”. Sự thanh
nhàn, ý khoáng đạt trong bài thơ xuyên suốt miên viễn mùa xuân âm hưởng thi vị
lẫn đạo vị. Tâm là tâm Phật, Cảnh là cảnh đạo mà đối cảnh vô tâm mới là thiền.
Quả là tuyệt diệu, bất khả tư nghì. Đời Lý và đời Trần mang đậm tư tưởng thấm
nhuần đạo Phật nên thơ văn luôn có mùi vị giải thoát nơi đạo. Vua Trần Nhân
Tông tức Trúc Lâm đại sĩ đã thổi một luồn gió mới về thi ca văn học thông qua đạo
Phật. Nếu có dịp chúng ta thử tìm đọc cuốn “ Trái tim của Trúc Lâm đại sĩ” ta sẽ
thấy thiền ngữ người xưa tuyệt diệu siêu việt cỡ nào, nói chi tiết về cách sống
thanh nhàn nhưng luôn vui ở với đạo.
Thơ xuân hay, phần nhiều là của các bậc thiền sư giác
ngộ, đã thấu tỏ chân lý việc đời. Hay ở chỗ dung dị mà cao sang, gần gũi lại
thoát tục, khách chơi thơ đọc lên sẽ cảm nhận có uy linh gì đó vượt cả nghệ thuật.
Nghệ thuật, không phải nghệ thuật mà chính là nghệ thuật. Đây chính là diệu dụng
ngôn ngữ cửa thiền. Chúng ta muốn hiểu thiền, trước phải biết tu tâm dưỡng
tánh. Nếu không thì suốt đời ta không bao giờ hiểu được ngôn ngữ thiền. Hai câu
thơ của Mãn Giác thiền sư ( 1052-1096):
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
“Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
đủ cho chúng ta thấy ánh sáng bản thể chân như của chúa xuân
là bất diệt, không bao giờ mất hẳn. Khi hồn xuân đủ nhân duyên thì nó hiển thị
ra bên ngoài, còn khi thiếu nhân duyên thì lùi về tiềm tàng bên trong. Hai câu
của thiền sư là hai câu xứng tầm khó ai sánh bì, nó đặc biệt vì “ý tại ngôn ngoại”
bắt chúng ta phải liễu ngộ theo trực giác linh tính của mình. Trong thơ đã hàm
ý chân lý và chân lý ta phải tự suy nghiệm. Từ cổ chí kim, biết bao nhà thơ đã
ngồi suy nghiệm, suy nghiệm bản thể “ Mạc vị xuân tàn” để rồi đột nhiên thốt
lên giữa hư vô nơi trường mộng của đêm dài hoang vu “ Mùa xuân hiện giữa ngàn
mai/ Nguyên hình nữ chúa trên ngày phù du” hay “ Xin chào nhau giữa con đường/
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau” (Bùi Giáng). Đứng trước cảnh xuân thi
nhân không những cảm nhận bằng mắt, bắt bằng tâm mà cả bằng lý trí nữa, và mỗi
thi nhân có mỗi vẻ cảm nhận tự thể mùa xuân riêng.
Những nhà thơ chân chính thường lấy thi ca để tịnh dưỡng tâm
hồn, làm cho tánh tình mình ngày mỗi sắc bén linh động hễ thấy cảnh là thấy
tình. Cảnh là cảnh xuân và tình là tình thơ, mà xuân với thơ thường có mối
duyên nợ tự ngàn xưa. Cho nên thơ xuân nhiều hơn thơ gió, thơ trăng, thơ thu,
thơ đông… Lạc Nam vì chút tức tưởi cái duyên nghiệp nợ cầm mang “xuân và thơ
như hình với bóng” nên vội đề:
Xuân tự ngàn xưa bạn với thơ
Tình xuân là cả vạn lời thơ
Đẹp duyên hoa bút, xuân ngời sắc
Rộn khúc xuân thiều, nhạc ánh thơ.
Xuân vắng, oanh hờn, dầu dáng liễu
Xuân về hương tỏa ngát lời thơ
Xuân nương, thi sĩ, đôi ngời ngọc,
Dệt mộng ngày xuân lấy ý thơ".
Thơ xuân mà làm được nội dung như vậy quả là tài. Không sắc
nhưng khó chê khó bắt bẻ. Chỉ dùng một vận “ơ” gây thành một âm điệu mới mẻ,
xưa nay tìm hiếm gặp. Nhịp tiếp bài thơ thả từ đúng chổ, đúng điệu mà khách
chơi thơ thường gọi là “ thất ngôn bát cú song điệp vận”. Bài thơ của Lạc Nam
tiếp ý, tiếp từ nhẹ nhàng du dương uyển chuyển. Đặc biệt bao tâm huyết được dồn
về đặt nơi câu kết nên ý và lời nhã nhặn.
Thơ xuân là chút tình của người nghệ sỹ, gởi chút lòng mong
đem tình cảm phơi bày với thế nhân. Thơ của Mạnh Hao Nhiên, của Trúc Lâm đại
sĩ, của Mãn Giác thiền sư, của Lạc Nam đều là những áng thơ hay, công phu
tuyệt đỉnh. Cho nên trong cảnh xuân mới về mỗi nhà thơ là mỗi con mắt thiền, thấy
rõ thực tại chân lý cuộc đời, xuân là miên viễn, cảnh là vô thường. Dẫu đời có
thăng trầm, có vui khổ nhưng bản chất tinh thể xuân muôn đời vẫn là xuân. Xuân
là tánh, cảnh là tướng, mà vốn dĩ tánh bất biến còn tướng tùy duyên. Nói như vậy
là để mở ra một lối thoát cho thi nhân, để thi nhân có quyền nắn tạo nên một thế
giới thanh sắc thi ca ngôn ngữ chân lý mới. Vì tất cả nghệ thuật của thi ca là
lối bày tỏ hiểu biết trực giác tâm linh của mình qua ngôn ngữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét