Văn Cao - Nhân cách lớn, tài năng lớn
Những thập niên đầu thế kỷ thế kỷ XX vừa qua, quê hương Nam Định
chứng kiến sự xuất hiện của những người con ưu tú, trưởng thành trong công cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc, trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới mở đầu
kỷ nguyên độc lập, tự do, hạnh phúc. Họ là những chiến sĩ cách mạng kiên cường,
những văn nghệ sĩ hàng đầu, niềm tự hào của quê hương đất nước.Văn Cao là một
trong số những người con ưu tú ấy.
Nhạc sĩ Văn Cao tên khai sinh là Nguyễn Văn Cao, quê gốc ở thôn An Lễ, xã Liên
Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Quê hương Nam Định trong niềm yêu kính của
ông:
... Nam Định/
Ruộng đất mênh mông trong tiếng hát/ Quê mẹ quê cha cách một vườn trầu...
Sinh ngày 15-11-1923 tại Lạch Tray, thành phố Hải Phòng, trong một gia đình
viên chức, thân phụ ông từng là đốc công nhà máy nước Hải Phòng:
Sinh ra tôi đã có Hải Phòng...
Hải Phòng, thành phố hiển thị Những người trên cửa biển trong trường ca của Văn Cao, nơi ông thụ hưởng gia phong của một
gia đình nền nếp; một thành phố khoáng đạt hào sảng và lẫm liệt, nơi có trường
tiểu học khai tâm Bonnal, ngôi trường trung học Saint Josef, nơi Văn Cao bắt
đầu học Tân nhạc. Hải Phòng hội tụ những nhạc sĩ tiên phong của Tân nhạc Việt
Nam như Đinh Nhu, Lê Thương, Hoàng Quý...cuối những năm 30 thế kỷ trước. Cũng
tại đây, chàng thiếu niên Văn Cao hăng hái tham gia nhóm Đồng
Vọng của Hoàng Quý cùng Tô Vũ, Canh Thân, Đỗ Nhuận... Năm 16 tuổi, Văn
Cao viết Buồn tàn thu, nhạc phẩm trữ tình đầu tay
báo hiệu sự xuất hiện của một tài năng âm nhạc lớn với các ca khúc lãng mạn trữ
tình đặc sắc sau đó: Bến xuân, Suối mơ, Thiên Thai... Ở Hải Phòng, Văn Cao còn có các ca khúc hướng đạo tươi vui, khoẻ
khoắn Vui lên đường, khai thác đề tài lịch sử như Gò
Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Hò kéo gỗ Bạch Đằng Giang...biểu lộ lòng yêu nước.
Rời Hải Phòng năm 1942,Văn Cao lên Hà Nội, theo học lớp dự thính
trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Ông còn thử sức mình trong việc viết
truyện làm thơ đăng trên Tiểu thuyết Thứ
Bảy. Trong các năm 1943, 1944, tranh sơn dầu của Văn Cao hai lần xuất
hiện trong triển lãm Salon Unique trưng bày tại nhà Khai Trí Tiến Đức, Hà Nội: Cô
gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm...Nổi trội hơn cả là tác phẩm Cuộc
khiêu vũ những người tự tử "được đánh giá cao và gây
chấn động dư luận" lúc bấy giờ. Văn Cao có tranh tại Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam.
Căn gác trọ số 171 phố Mongrant - nay là 45, Nguyễn Thượng Hiền, Hà Nội trở
thành "địa chỉ đỏ" của âm nhạc cách mạng, nơi tác giả Buồn tàn
thu, Thiên Thai... tham gia công tác Việt Minh với
nhiệm vụ đầu tiên là viết một hành khúc. Tại đây sau những ngày lao động sáng
tạo đầy hứng khởi, Tiến quân ca của người nhạc 21 tuổi đã ra đời trong sự chứng kiến xúc
động của những người đồng nghiệp. RồiTiến quân ca được in trang trọng trên trang văn nghệ báo Độc Lập tháng 11 năm 1944. Ngày 13-8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chính
thức duyệt Tiến quân ca làmQuốc ca nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 17-8-1945 tại quảng trường
Nhà Hát lớn Hà Nội, Tiến quân ca được hát vang trong cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Nhạc sĩ có
lần kể lại kỷ niệm buổi hôm đó: "Bài Tiến quân ca đã nổ ra như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi
hàng ngàn giọng hát cất vang lên theo những đoạn sôi nổi".
Lần thứ hai, trong cuộc mít tinh ngày 19-8-1945, tại Hà Nội, hàng đoàn người và
các em thiếu nhi cùng hát Tiến quân ca. "Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng căm thù
vào mặt bọn đế quốc với sự hào hùng chiến thắng của cách mạng"- Văn Cao
viết.
Tiến quân ca ngày ấy còn tạo ra một cuộc hội
ngộ đặc biệt giữa NSND Đinh Ngọc Liên và nhạc sĩ Văn Cao. NSND Đinh Ngọc Liên
quê thôn Phú Nhai, xã Xuân Phương, huyện Xuân Trường, Nam Định, khi ấy là đoàn
trưởng Đoàn quân nhạc Vệ Quốc Quân, được cụ Hồ giao cho việc chỉ huy quân nhạc
cử Quốc ca trong ngày lễ Tuyên ngôn Độc
Lập. Đinh Ngọc Liên kể rằng từ hôm được giao nhiệm vụ, ông bắt tay vào việc
soạn bản tổng phổ. "Để bản nhạc được hoàn hảo hơn, xứng đáng làQuốc
thiều của nước Việt Nam Độc lập, Đinh Ngọc Liên cùng nhạc sĩ Nguyễn Hữu
Hiếu đã gặp nhạc sĩ Văn Cao bàn bạc thống nhất sửa hai nốt nhạc trong Tiến
quân ca. Đó là rút ngắn trường độ của nốt "rê" đầu tiên của chữ "Đoàn" và nốt "mi" ở đoạn giữa của chữ
"xác" để bản nhạc thêm khoẻ khoắn và trầm
hùng. Khi viết xong tổng phổ, cả 75 anh em trong ban nhạc đều lao vào luyện
tập. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, ngay sau khi chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà, Tiến quân ca vang lên, hàng vạn người trên
quảng trường im phăng phắc, nhiều anh em trong đội kèn ứa nước mắt...".
Một nghệ sĩ tài hoa giàu sức sáng tạo không nề hà việc gì. Tiểu sử nghệ thuật
"trích ngang" trong kỷ yếu Nhạc sĩ Việt Nam hiện đại, xuất bản năm 1997, ghi rõ: Văn Cao tham gia hoạt động Cách mạng,
viết và phụ trách ấn loát cơ quan Phan Chu Trinh, in sách báo và truyền đơn bí
mật. Ông phụ trách Đội Danh dự trừ gian. Thời gian này ông viết Chiến
sĩ Việt Nam. Sau Cách mạng Tháng Tám, Văn Cao vừa là phóng viên vừa trình bày
báo Lao Động thuộc Tổng Liên đoàn Lao Động
Việt Nam.
Năm 1946, Văn Cao có chuyến "hành phương Nam" lần thứ hai, ông cùng
đồng chí Hà Đăng Ấn chuyên chở tiền bạc và vũ khí vào mặt trận Nam Bộ.
Trở về, Văn Cao hoàn thành nhạc phẩm nổi tiếng Trương Chi, viết các ca khúc Hải quân Việt Nam,Không quân Việt
Nam, Bắc Sơn, Công nhân Việt Nam. Ông tham gia Hội Văn hoá Cứu
quốc và được bầu là Uỷ viên chấp hành Hội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Văn
Cao về Liên khu III rồi ông được phân công phụ trách một bộ phận điều tra
của Công an Liên khu X ở Lào Cai và viết báo Độc Lập.
Tác giả Quốc ca Việt Nam được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng
3-1948. Thời kỳ này, Văn Cao viết các
nhạc phẩm nổi tiếng nối tiếp mạch "hùng ca" và "tình ca": Trường
ca sông Lô, Làng tôi, Ngày mùa và Tiến về Hà Nội. Trở về
Việt Bắc, năm 1950, ông phụ trách Đoàn Nhạc sĩ Việt Nam, là Trưởng ban Âm nhạc
Vụ Văn học Nghệ thuật của Bộ Giáo dục.
Cuối năm 1951, ông về Hội Văn nghệ Việt Nam rồi lại sang làm công tác âm
nhạc ở Xưởng Điện ảnh. Các tác phẩm Ca ngợi Hồ Chủ tịch, Toàn
quốc thi đua, Hành khúc Tiểu đoàn Lũng Vài...ra đời trong thời kỳ này.
Năm 1952, Văn Cao sang Liên Xô nghiên cứu âm nhạc.
Sau những tháng năm gian khổ, vượt qua những thử thách, những hệ
luỵ...một kết thúc có hậu của một nghệ sĩ bậc thầy, sống tận hiến, thuỷ chung,
cao đẹp trong cuộc đồng hành vì độc lập, vì tự do cùng nhân dân đất nước đã về
đích thành công. Năm 1983, tại căn gác 51 Trần Hưng Đạo Hội Liên hiệp Văn học
Việt Nam tổ chức sinh nhật lần thứ 60 của nhạc sĩ Văn Cao. Lần đầu tiên sau
nhiều năm những tác phẩm Thiên Thai,
Suối mơ, Trương Chi...được hát trở lại. Rồi sau đó, năm 1986,
1987, 62 đêm nhạc Văn Cao đã được tổ chức ở nhiều nơi trong cả nước, nhất là ở
Hà Nội được đông đảo người xem người nghe đón nhận. Ông được nhân dân yêu quý,
được bạn bè, nhiều người tài đức trong giới quý trọng. Tình bằng hữu cao đẹp
của Văn Cao với Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng... mỗi khi
nhắc đến thật ấm lòng. Không chỉ với những người cùng thời, tình cảm của ông
với các nhà thơ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ lớp sau cũng thật thắm thiết. Nhạc sĩ
Trịnh Công Sơn viết: "Trong âm nhạc, Văn Cao sang trọng như một ông hoàng.
Trên cánh đồng ca khúc, tôi như một đứa bé ước mơ mặt trời là con diều giấy thả
chơi. Âm nhạc của anh Văn là âm nhạc của thần tiên bay bổng. Tôi la đà đi giữa
cõi con người. Anh cứ bay và tôi cứ chìm khuất. Bay và chìm trong những thân
phận riêng tư...".
Ca sĩ Ánh Tuyết là một trong những người thành công với các đêm nhạc Văn Cao ở
thành phố Hồ Chí Minh, ở Cung văn hoá Hữu nghị Việt Xô Hà Nội.
Năm 1988, tập thơ Lá của Văn Cao do Nhà xuất bản Tác
phẩm mới Hà Nội ấn hành được nhiều người tìm đọc. Lá chỉ với 27 bài ( 26 bài thơ và trường ca Những người
trên cửa biển) đã cho thấy một Văn Cao thi sĩ lặng thầm lao động, kiên định
trên con đường mình đã chọn. Tài năng thi ca bậc thầy của ông biểu lộ trong
việc sử dụng sáng tạo ngôn ngữ tiếng Việt làm nên những lời ca đẹp, giàu, sang
trọng bậc nhất trong những ca khúc đặc sắc hàng đầu của Tân nhạc và Âm nhạc
Việt Nam thế kỷ XX. Giờ đây với Lá, Văn Cao gom về một tập thơ chọn mà ông ưng ý. Từ những bài thơ
buổi đầu khá tinh tế nhưng còn nằm trong hoà điệu của thơ truyền thống, nhà thơ
trữ tình minh triết Văn Cao đã đi theo hướng cách tân, sáng tạo một thi pháp
hiện đại hàm súc, trữ tình ở bậc cao. Cái gốc trữ tình ấy ở trong tình yêu nhân
dân, tình yêu quê hương đất nước suốt đời Văn Cao gìn giữ. Ông là người nghệ sĩ
có trái tim lớn, nhân cách lớn.
"Tập thơ Lá là sự vang ngân của biết bao
tình cảm đẹp. Có thể nói tổng phổ xúc cảm trong thơ Văn Cao rất rộng. Ông yêu
thương, đớn đau cho bao kiếp người cần lao, căm thù sục sôi chế độ cũ cùng bầy
ác quỷ chà đạp lên quyền sống, phẩm giá con người. Ông yêu tha thiết đất nước
quê hương, thuỷ chung trong tình bạn, say đắm trong tình yêu". (Văn
Cao - Những chiếc lá còn xanh. Đỗ Thanh Dương - Nhà
thơ Việt Nam hiện đại Nam Định - NXB Hội Nhà văn, 2012,
tr.47).
"Đọc thơ Văn Cao đã lâu, tôi cứ nghĩ mãi vì sao thơ ông cô đặc được đến
vậy? Thì ra mỗi bài thơ của ông được dựng lên từ một lát cắt rất mảnh của thời
gian, hoặc từ sự cô đặc dồn nén cả một khoảng thời gian dài trong một chuyển
động bất chợt: Bất ngờ/ một con chim bay qua cửa sổ/ tự nhiên/
ánh sáng đi (Mùa xuân em)...Văn Cao là một nhà Cách mạng
rất nghệ sĩ, và là nhà nghệ sĩ sống rất Cách mạng. Hai con người này, nói như
Văn Cao là "Chúng tôi hai người - Một bóng", cái "bóng" ấy thấm đẫm xuống từng trang tác phẩm
của Văn Cao". (Thời gian cô đặc trong thơ Văn Cao. Thanh Thảo - Thể Thao &Văn Hoá, số 92, 18-11-2003).
Nhạc sĩ Văn Cao với miền quê Nam Định, ông có những chuyến đi về đáng nhớ. Năm
1970, khi Thành Nam ngổn ngang chiến hào công sự phòng không, tại nhà hát 3-2,
lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhà thơ Trần Tế Xương được cử hành trọng thể với sự
tham gia của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Viện Văn học, Hội Nhà văn Việt
Nam. Ông về cùng các nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, các
nhà thơ Xuân Diệu, Hoàng Trung Thông...Một cuộc hội ngộ ý nghĩa, một cuộc tiếp
sức. Năm 1987, Đêm nhạc Văn Cao do Hội
Văn học nghệ thuật và Sở Văn hoá Hà Nam Ninh phối hợp tổ chức tại nhà hát 3-2
với lời khai mạc của đồng chí Đinh Gia Huấn, chủ tịch UBND tỉnh. Người nghệ sĩ
mái tóc phong sương, cử chỉ tao nhã, ánh mắt nhân ái, thong thả bước lên trong
tiếng vỗ tay nồng hậu của bao người yêu mến, trong nỗi xúc động trong suốt và
đầy ắp "đầm ấm dương hoà" một thế giới nghệ thuật âm nhạc Văn Cao
hoành tráng, thánh thiện từ cuộc đời này đến chốn Bồng Lai...
Trước đó, ông dành
thời gian viếng mộ Tú Xương, gặp gỡ tiếp xúc thân tình với anh chị em văn nghệ
sĩ của tỉnh. Nhạc sĩ Văn Cao được tỉnh biểu dương là "một nghệ sĩ - chiến
sĩ kiên cường có những cống hiến to lớn vào thành tựu văn hoá cách mạng".
Các tác phẩm của ông được in trang trọng trong Tuyển tập thơ
tình Nam Định thế kỷ XX, Tuyển tập truyện ngắn Nam Định thế kỷ XX, Tuyển tập Âm nhạc Nam Định thế kỷ XX, trong đó có những kiệt tác làm rạng danh cho quê hương đất nước.
Sau ngày ông ra đi (10-7-1995), đã có trên mười tỉnh, thành phố có đường phố
mang tên ông.
Tại thành phố Nam Định, con đường "Cổng tỉnh" trong tiểu thuyết thơ
của nhà thơ Trần Dần, qua Năng Tĩnh nay là đường Văn Cao nối về Vụ Bản. Dọc con đường này, nhà thơ - nhạc sĩ - hoạ sĩ quê
hương đã trở về ướm những bước chân trên vạt cỏ bờ mương quê nhà trong bộ phim
chân dung Người đi trên biển không để lại dấu chân. Ông có dịp thăm lại những làng kháng chiến anh hùng trong 9 năm
kháng chiến chống Pháp: Làng tôi xanh bóng tre/ Từng
tiếng chuông ban chiều/ Tiếng chuông nhà thờ rung...và sống lại không khí Ngày
mùa vui thôn xóm/ đầy đồng giáo với gươm/ súng tì tay anh đứng/ em ngừng liềm
trông sang...
Tình yêu quê hương đất nước dập dìu trong một ca khúc được xem là khúc
ca khải hoàn của ông viết sau ngày đất nước thống nhất Mùa
xuân đầu tiên:
Ôi giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên! Ôi
giờ phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm! Từ đây người biết quê
người. Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người...
Vâng, đấy là những thông điệp thấm thía nhất, nhân văn nhất mà nhạc sĩ thiên
tài Văn Cao - huân chương kháng chiến hạng Nhất, huân chương Độc lập hạng Ba
(1988) huân chương Độc lập hạng Nhất (1994), Giải thưởng Hồ Chí Minh (1996) gửi
đến tất cả chúng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét