Đôi khi
bạn nghe một dòng nhạc, và những âm vang này có thể đi theo bạn tới cả đời. Nó
lảng vảng trong trí nhớ, nơi đâu đó, có khi ẩn xuống và rồi một đêm nào đó, một
buổi chiều nào đó, dòng nhạc đó lại hiện lên với những nốt nhạc làm toàn thân
bạn rung động.
Tôi đã trải qua những kinh
nghiệm tương tự. Không hoàn toàn như thế. Không, không phảỉ là nhạc. Tôi ưa
thích nhạc, nhưng không giỏi về nhạc, cũng không say mê âm nhạc kiểu bỏ ăn bỏ
ngủ. Ngay cả sau khi tôi đi dự một buổi hòa nhạc rất xuất sắc, với những nhạc
sĩ tôi quý trọng, và những ca khúc của họ trình diễn bởi các ca sĩ tuyệt vời
tôi ưa thích... những dòng nhạc đó có theo tôi thoang thoảng trong trí nhớ, và
chỉ hôm sau là quên. Hệt như là, tôi đã đưa tay chụp bắt được những dòng nhạc
chạy theo trong trí nhớ, và rồi ném ra xa thật mạnh, thế là cho quên biền biệt
để còn có thì giờ làm chuyện khác.
Trí nhớ là cái gì rất là bí
hiểm. Có những cái chúng ta muốn lưu giữ, thì lại quên, và ngược lại. Nói
chung, về âm nhạc, tôi chỉ là một kẻ i tờ, tuy rằng cũng biết thưởng thức – nói
“thưởng thức” cũng là điều nên dè dặt. Vì chỉ biết có nhạc hay, có nhạc dở, có
nhạc trung bình. Và thế thôi, không nhiều hơn, và cũng không giải thích nổi vì
sao nhạc này hay, nhạc kia dở. Thế là, đành dựa cột mà nghe.
Đôi khi đó cũng là điều tốt.
Nên lắm. Vì có một lần, một anh bạn nhạc sĩ sáng tác nói với tôi rằng, anh từ
sáng cho đến tối, cho tới cả trong giấc ngủ... lúc nào cũng nghe các dòng nhạc
vang trong đầu. Tôi nghe và lo sợ. Vì đôi khi tôi làm thơ, đôi khi viết
truyện... nhưng hễ nói ngưng, là thôi, tất cả các dòng thơ và ý truyện không
quấy rối mình nữa.
Tôi nghĩ, trong khi những dòng
nhạc đuổi theo anh ta cả ngày đêm như thế, rủi đứng tim mà chết là sẽ bị
dòng nhạc nâng chàng lên tức khắc, và đưa chàng tái sanh vào một gia đình cũng
say mê âm nhạc; như thế, có khi cũng nên nếu chàng muốn thế, nhưng có khi chỉ
lại bận rộn thêm một đời tương tự. Đó là, chỉ nghĩ linh tinh thôi, nhưng làm
sao dám nói ra. Thêm nữa, nói những chuyện ngoài khoa học vật lý là cái gì nên
dè dặt.
Trong khi đó, tôi chỉ ngạc
nhiên vì, thỉnh thoảng phảng phất quanh tôi là một mùi hương lạ, theo cả nhiều
thập niên – nó thoang thoảng ở đâu đó, rồi có lúc ẩn, lúc hiện. Mùi hương lạ
như tự trời xuống. Mùi hương lạ đấy, không phải mùi nước hoa đâu, cũng không
phải kiểu văn chương mà người ta ưa nói là “mùi hương giai nhân” hay “mùi hương
con gái” tuy rằng, đúng là có hình ảnh một cô bé nơi đây.
Nói đúng ra, có hai cảm giác
chạy theo tôi nhiều thập niên. Nhưng tôi muốn nói mùi hương trước, vì như thế
mới tinh tế. Và cảm giác kia là nằm ở bàn tay, khi một lần tôi chợt nắm tay một
cô bạn gái, và tay tôi như điện giật tự nhiên rút về. Chính ngay lúc đó, tôi
ngửi thâý một mùi hương từ cơn gió nhẹ trong sân chùa thoảng qua. Và hai cảm
giác, mùi hương và cái nắm tay bất chợt đó đã theo tôi gần trọn cả đời. Không
cố ý đâu. Bất chợt nắm tay thôi. Cả tôi và cô bé không biết gì hơn là một cái
nắm tay. Đúng ra, có hình ảnh một đôi mắt nữa, có một bờ tóc, có một tà áo
trắng, có lẽ, đôi khi trong mơ.
Nhưng tôi thích nói về mùi
hương hơn. Vì mùi hương tinh tế hơn, còn cảm giác nắm tay lại có vẻ thô thô thế
nào. Một lần, tôi kể cho tên bạn cùng ngồi học thi ở Chùa Xá Lợi, hắn cười lên
hô hố... nói rằng mới chỉ nắm tay là còn dở lắm. Sau đó, tôi chỉ muốn nói về
mùi hương thôi, cho nó có chất thơ hơn. Và cảm giác sờ chạm, nói ra là dễ bị
hiểu nhầm.
Năm đó, tôi 17 tuổi, vào ngồi
sân Chùa Xá Lợi để học thi. Có một nhóm bạn cũng ưa vào đây ngồi lê la sân
chùa, vì ngồi đây học thi là tuyệt vời. Tìm đâu ra bóng mát dưới những trưa
nắng để ngồi học bài. Dĩ nhiên, là ngồi bệt xuống đất, tựa lưng vào tường...
bởi vì thư viện chùa nhỏ lắm, không có chỗ, và thường là đóng cửa hoài. Đôi khi
đói bụng, xuống bếp xin ăn chùa, nếu lúc đó đám bạn không ai còn dư tiền để từ
bi ra mua thứ gì cho cả nhóm chia nhau ăn.
Trong sân chùa có hai nhóm,
nhóm trẻ là tụi tôi học thi; còn nhóm già hơn, là các anh hầu hết đã học xong
đại học, đã ra đi làm. Trong nhóm lớn tuổi đó, có anh luật sư Lộc, bây giờ cũng
ở Little Saigon, đã bỏ nghề luật để vào nghề báo. Đó là nói người gần thôi, còn
các bạn bây giờ ở xa thì nhiều lắm, kể không hết.
Cô bé lúc đó học Gia
Long, sau tôi cỡ hai lớp -- hay một lớp, không nhớ rõ đâu. Giờ tan trường, cô
bé đứng nơi hàng hiên bên hông chùa để chờ chị tới đón về nhà. Chỗ cửa tam quan
cho người bộ hành vào, chứ không phải chỗ cửa cho xe hơi vào sân. Làm sao mà tôi
quen được thì không nhớ nổi. Bởi vì tên nhóc khù khờ nhất trong nhóm là tôi
thôi. Có thể quen vì mấy tên bạn giới thiệu. Mấy tên kia thì nhanh nhẹn, nói
khéo; trong đó có tên đàn hay, hát giỏi, và vân vân. Trong khi tôi ngồi đâu là
ngồi một chỗ, ưa lặng lẽ, một phần cũng vì thói quen tập thiền từ nhỏ -- lúc
đó, đã tự mua sách về tập thôi, chưa theo thầy nào hay dòng phái nào hết; chỉ
khi vào Đại học, mới theo bạn lên Chùa Tây Tạng Bình Dương.
Bấy giờ mà kể chuyện nhớ tới
một mùi hương ra hằn là bọn nó sẽ cười tới tắt thở, sẽ bảo là ngộ nhận rồi. Vì
trong sân chùa có cây hoa ngọc lan. Có những đêm, mấy đứa ngủ lại trong chùa,
nằm dưới hàng hiên trên lầu, thường có thoảng dịu dàng mùi hoa hoa ngọc lan.
Các sư cấm bọn học trò vào chùa ngủ, nhưng chúng tôi chờ tới khoảng 9 hay 10
giờ tối là trèo cổng bên hông vào chùa, lên hiên tầng chánh điện ngồi học bài,
tới mệt mới ngủ.
Hình ảnh ngồi học đêm ở hàng
hiên nơi sân trên lầu, tầng chánh điện đẹp y hệt như ở cõi nào khác. Ánh sáng
trắng từ đèn hàng hiên tỏa xuống, mấy tên ngồi học bài trong không khí thinh
lặng, vắng vẻ. Chùa Xá Lợi chỉ có vài nhà sư, không nhiều. Đôi khi một thầy nửa
đêm bước ra hiên, gặp, mới vào lấy mấy trái táo, trái cam ra cho bọn học trò.
Nhưng rồi sư cũng dặn, trên nguyên tắc là cấm học trò vào ngủ đêm hiên chùa, vì
như thế là phạm luật.
Để nói về mùi hương lạ. Một
buổi chiều, lúc đó là chặp tối. Cô bé vẫn còn đứng chờ chị tới đón về. Có lẽ vì
lý do gì, nên trễ lắm. Các nữ sinh khác đã về cả rồi. Không hiểu tại sao bọn
học trò lúc đó chỉ có một mình tôi. Như tiền định, một mình tôi đứng, nói
chuyện với cô bé. Chỉ có hai đứa thôi.
Cô bé bảo, bây giờ chơi trò này
nhé, nhìn vào mắt nhau anh nhé.
Tôi nói, ừa thì nhìn vào mắt
nhau.
Trời ạ, bây giờ tóc đổi màu
trắng phau rồi, mới nghĩ lại, thấy mình sao khù khờ chi lạ. Đứng dưới cổng tam
quan bên hông chùa lúc đó làm gì có bao nhiêu ánh sáng mà nhìn. Bóng tối nhiều
hơn ánh đèn. Thêm nữa, con đường bên hông chùa tối lắm, chỉ có đèn đường nơi
đầu một sở Mỹ sau chùa thôi.
Tôi nhìn, chỉ thấy mắt nàng đen
lánh, tóc xõa chấm vai... Bất chợt, không hiểu sao, tự nhiên tôi nắm tay cô bé.
Bây giờ nhớ lại, tôi nghĩ, có thể lúc đó cô bé tự động nắm tay tôi trước.
Tay tôi như điện chạy tê rần,
hốt nhiên giật lại. Một mùi hương từ sân chùa theo gió bay ra. Tôi không nhớ
chính xác rằng chị cô bé tới khi nào. Cũng không hiểu tại sao không nhớ. Vì chị
cô bé đi xe Honda dame, hễ tới là mình phải thấy chớ. Khi nhìn lại, cô bé biến
đi rồi.
Cảm giác từ bàn tay và mùi
hương vẫn theo tôi về tận nhà đêm hôm đó. Giấc ngủ tôi bồng bềnh như bay. Sáng
dậy, mùi hương vẫn thoang thoảng. Không phải hương hoa ngọc lan. Cũng không
phải hương nước hoa hay gì hết, vì đây là hương từ sân chùa bay ra, tôi nghĩ,
hẳn là hương trời. Nhưng, tại sao lại hương trời? Không hiểu nổi.
Hôm sau, tôi vào sân chùa, đi
khắp mọi nơi, từ sân chùa, tới chính điện, từ tháp thư viện cho tới nhà bếp, từ
hàng hiên dưới cổng tam quan cho tới đứng trên cao, nơi đầu gió và cuối gió...
để tìm xem mùi hương lạ đó ở đâu ra. Hoàn toàn không hiểu được, hoàn toàn không
có mùi hương nào như thế.
Cũng lạ, từ hôm đó trở đi, cô
bé không ra đứng ở hiên chùa nữa. Có thể là cô chị tới đón ngay trước cổng,
đúng giờ hơn. Cũng có thể, cô chị rầy tại sao đứng nơi hàng hiên tối dưới cổng
chùa... xã hội này bất trắc lắm. Và cũng có thể, cô bé không mong đợi là tôi
khù khờ như thế.
Nhiều thập niên sau, khi
đã đọc nhiều và xem phim nhiều, tôi nghiệm ra rằng, theo đúng kịch bản ở truyện
và phim, lúc đó là phải ôm hôn. Thế thì liều quá. Rồi tôi cũng tin rằng, hộ
pháp đã không muốn tôi liều như thế, ai mà ôm hôn nơi cổng chùa nhỉ... Hay mùi
hương lạ đó là một cách ngăn cản khéo léo, vì muốn làm tôi khựng lại? Ai mà
biết được.
Liên tục hai kỳ thi hai bậc Tú
Tài, tôi đều đậu dễ dàng. Ngồi làm bài thi, đôi khi tôi chợt thấy mùi hương lạ
đó. Những lúc như thế, cứ bất chợt, tôi ngẩng đầu lên, như chờ đợi nhìn thấy
đôi mắt của cô bé. Nhưng không, không phải. Và nghĩ tới bàn tay đã nắm tay cô
bé, cảm xúc khi đó lại, mạnh như tươi mới.
Trong các buổi ngồi thiền ban
đêm hay rạng sáng, mùi hương đó vẫn thoang thoảng quanh tôi. Và khi nghĩ tới
bàn tay, cảm giác vẫn đầy rung động. Tôi không biết làm sao để kết thúc những
cảm xúc lãng đảng nơi mùi hương và bàn tay như thế. Ngườì khác có thể gọi
mùi hương khi ngồi thiền là mầu nhiệm, hay linh tinh gì khác. Nhưng tôi biết
không phải. Mình phải chạy trốn mùi hương này chứ, tôi nghĩ thế.
Tôi thuộc bài Bát Nhã Tâm Kinh,
biết rõ rằng mùi hương và cảm giác bàn tay nắm bàn tay cũng nằm trong nhóm sắc thanh
hương vị xúc pháp, và như thế cũng đều là không. Thế nhưng, tôi tự hỏi, tại sao
với mình lại là có? Mà lại có như thật, như thiệt. Hễ nghĩ tới là hiện ra.
Tôi cũng nhớ lời Kinh Phật dạy
là đừng lưu luyến các cảm thọ quá khứ, và đừng có vẽ vời gì cho cảm thọ tương
lai. Nhưng làm sao được, vì mùi hương vẫn bay quanh tôi, thoang thoảng.
Liên tục hai mùa hè, tôi ngồi
nơi ghế đá sân chùa. Cũng không thấy cô bé đâu hết. Tôi nghĩ, tuy là nghỉ hè,
nhưng lẽ ra cô bé phải đi xe đạp tới thăm chùa, nơi cô bé phảỉ biết là có tôi
đang ngồi chờ. Nhà cô bé cũng nào có xa đâu, chỉ loanh quanh trong xóm Bàn Cờ
thôi. Hay là, tôi nghĩ, có thể ba mẹ bắt buộc cô bé đi học hè để luyện thi. Ai
biết được.
Có lúc ngồi ghế đá, thoảng thấy
mùi hương lạ đó, tôi bất ngờ quay đầu lại để nhìn sau lưng. Không ai hết. Tôi
hỏi thằng Thành đang ngồi kế bên, có thấy mùi hương gì không.
Nó nói, không có gì cả, có thể
là mùi hương trên chính điện bay xuống, hay mày nhầm với mùi dầu cù là, tao có
chai dầu trong túi áo...
Tôi im lặng, biết là không
phải. Tôi nghĩ, có thể tên này không có chiếc mũi nhạy cảm như mình. Nhưng
không phải, nhiều thập niên sau, tên này vào làm ở Ty Cảnh Sát Dallas; nghĩa
là, thể lực phải tốt lắm, làm sao mà hỏng mũi được.
Thế rồi năm 1975 tới. Tôi không
nhớ tới cô bé nữa. Một đôi khi, tôi nghĩ những chuyện xưa như là cổ tích. Kể cả
mùi hương và cái nắm tay. Lịch sử như một cuốn sách để giữa trời, và gió lật
qua từng trang tàn khốc. Có trang lật qua nhẹ nhàng, khẽ khàng; có trang
lật qua ào ạt, như trận gió giận dữ ào tới. Không ai níu kéo được thời gian. Đã
có vài tên bạn của tôi từ biệt cõi đời này.
Khoảng năm 1980, thỉnh thoảng
tôi ghé thăm Thầy Đồng Nguyên ở Đại Tùng Lâm, khi có việc ra Vũng Tàu. Tuy cùng
là học trò của Thầy Tịch Chiếu ở Bình Dương, nhưng tôi vẫn luôn xem Thầy Đồng
Nguyên là nơi tôi cần học hỏi nhiều.
Một đêm ngủ lại ở Đại Tùng Lâm,
tôi bước ra sân. Thời đó, chùa này hoang sơ lắm, không lớn như bây giờ. Đêm
trăng sáng, tôi và Thầy Đồng Nguyên đi dạo trong sân chùa. Bất chợt, mùi hương
lạ năm cũ lại thoảng qua. Tôi hỏi Thầy Đồng Nguyên có thấy mùi hương gì lạ
không. Thầy nói, chỉ có gió rừng, hương hoa và lá rừng như mọi ngày thôi.
Tôi nói rằng, có một mùi hương
lạ theo tôi từ một buổi tôi nhìn vào mắt một cô bé. Tôi không kể thêm là khi
nhìn vào mắt cô bé một chặp, bất chợt tôi đã nắm tay cô bé. Nếu kể ra, thấy có
gì kỳ kỳ. Ai mà đi kể chuyện nắm tay, nhất là kể với thầy chùa. Dĩ nhiên, mắt
làm sao mà có mùi hương được.
Thầy Đồng Nguyên chậm rãi nói,
như thế là em đang đuổi bắt một mùi hương, có phải không.
Tôi không trả lời chỗ này,
vì không chính xác như thế, nhưng cũng không biết giảỉ thích minh bạch ra
sao.
Thầy Đồng Nguyên nói, ngay khi
em đuổi bắt một mùi hương, là ngay khi đó tâm em đã bị mùi hương đó chụp bắt
rồi.
Thầy nói tiếp, hiểu không.
Tôi đáp, em thấy lờ mờ.
Thầy nói, thí dụ, bây giờ em
luyến nhớ tới một nụ hôn với cô ta...
Thế đấy, tôi không có khiếu
giải thích chuyện gì hết. Chỉ mới hỏi một câu, là anh ra ngay một thí dụ đầy
ngộ nhận.
Thầy Đồng Nguyên và tôi vẫn
bước đi trong sân Chùa Đại Tùng Lâm, giữa tiếng gió rừng xô là xao xác,
giữa những trận gió lịch sử khốc liệt đang thổi tung khắp đất nước.
Thầy nói tiếp, thế này nhé, khi
em luyến nhớ một nụ hôn với cô ta, chính ngay lúc đó, tâm em đã bị nụ hôn đó
chụp bắt.
Tôi nói, vâng, hẳn là thế,
nhưng thiệt sự em chưa từng hôn gì hết.
Thầy cười và nói, chỉ là thí dụ
mà.
Trong bóng trăng lờ mờ, tôi
đoán được kiểu cười của Thầy Đồng Nguyên, người sư huynh tuyệt vời của tôi.
Thầy nói thêm, để anh nói cái
này thì nó hàn lâm hơn. Thế này nhé. Sư Lâm Tế nói Tứ Liệu Giản, câu đầu nói là
“Hữu thời đoạt nhân, bất đoạt cảnh.” Có nghĩa là, có khi đoạt nhân, không đoạt
cảnh. Nhân đây là tâm, cảnh đây là đối tượng của tâm. Đoạt nhân là khi em chủ
động được tâm mình. Thế nào là chủ động được tâm mình? Đó là khi tâm em vô trụ.
Nghĩa là, không trụ vào bất cứ gì hết, kể cả trụ vào một mùi hương nào đó. Ngay
khi em trụ vào một mùi hương nào, là em không còn ở thế đoạt nhân nữa, mà chính
là tâm em đã bị mùi hương kia đoạt mất rồi. Đấy nhé, lúc đó mất tâm rồi nhé...
Lúc đó, không phải là “đoạt nhân,” mà là “bị nhân đoạt” vậy.
Thầy tiếp, hay nói thế này xem,
rằng khi em giận dữ hay khi em thèm muốn gì đó, có nghĩa là tâm của em đã bị
cái sân và cái tham đó chiếm đoạt rồi; đó là “nhân bị đoạt” chứ không phải là
em đã “đoạt nhân,” đúng không. Tôi chỉ trầm ngâm.
Lòng tôi rối bời bời. Lúc đó
đất nước ngổn ngang, mình tu tập thiền định chẳng tới đâu, lại gặp ông sư huynh
nói như thế. Tôi ngáp, nói thôi cho em vào ngủ.
Vị sư huynh này nói thêm, nhưng
hễ chạy trốn mùi hương đó cũng là hỏng rồi đó, vì cả đuổi bắt và chạy trốn đều
sai, đều trật.
Giấc ngủ đêm hôm đó, mùi hương
bay tràn ngập trong hồn tôi. Sáng ra, khi ngồi uống trà với Thầy Đồng Nguyên và
gật gù, tôi tự nhủ, đúng vậy hồn mình đã bị mùi hương kia đoạt rồi, ngay khi
mình đuổi bắt hay chạy trốn là mình đã bị chụp bắt rồi. Nhưng tôi không nói
thêm với ông anh chuyện này nữa.
Mấy ngày trước khi vượt biên,
tôi lên Bình Dương thăm Thầy Tịch Chiếu. Chùa lúc đó vắng lắm, không bao nhiêu
người. Quê nhà khi đó đang vào một thời kỳ say men xã hội chủ nghĩa. Không có
lời nào mô tả được thời kỳ này. Nhà nước sau này, gọi đó là thời bao cấp. Nói
như thế chỉ là phiến diện. Nhưng dù gọi gì thì gọi, thời đó nhiều chuyện cực kỳ
đau đớn hơn bây giờ nhiều.
Khi tôi nói là tôi sắp rời nước
ra đi, Thầy Tịch Chiếu nói tôi cùng đi dạo bước với thầy quanh chùa. Thầy dẫn
tôi tới ngọn đồi sau chùa. Nơi đó, chim bay xao xác, nhiều loại chim. Tiếng
chim kêu, hòa vào tiếng gió thổi.
Thầy nói với giọng Huế của
người đã vào Nam từ lâu, rằng tôi có nghe tiếng chim kêu với tiếng gió thổi xao
xác không. Tôi nói, thưa Thầy, con nghe có tiếng chim kêu, tiếng gió thổi.
Thầy nói, tâm con trước giờ vốn
lặng lẽ, trước giờ vốn không tịch, trước giờ không có tướng mạo, như tấm
gương trong trẻo vậy, và bây giờ khi chim kêu thì tâm con mới khởi ra tiếng
chim kêu, khi tiếng gió xao xác thì tâm con mới khởi ra tiếng gió thổi. Do vậy,
tiếng chim kêu không hề lìa tánh không tịch. Các pháp đều không hề lìa tánh
không tịch. Các pháp đều hiện trong tâm, dù là những gì con thấy hay nghe,
những gì con cảm thọ vui hay buồn, những gì con tham hay sân, đều từ tánh không
tịch khởi lên, trụ lại, rồi hoại đi và rồi mất dạng về không tịch. Hãy thấy như
vậy, đừng để tâm mình trụ vào bất kỳ thứ gì.
Tôi chỉ lờ mờ hiểu thôi. Nhưng
tôi đoán rằng, cái gì lờ mờ đều là hỏng.
Buổi chiều, trước khi rời chùa,
tôi cũng kể cho thầy nghe về mùi hương lạ, vẫn thường khi phảng phất quanh tôi,
trong cả mơ lẫn thực. Tôi hỏi, biết rằng các pháp sinh rồi sẽ diệt, sao mùi
hương này như dường cứ còn hoài. Dĩ nhiên, tôi không kể cho Thầy nghe chuyện
nắm tay làm chi.
Tôi ngồi uống trà với Thầy.
Chiếc bàn và chiếc ấm trà đều cũ kỹ, sứt mẽ. Ngôi chùa này hồi đó xiêu dột
lắm. Trên mái, những viên ngói mọc rêu xanh, rêu đen như dường xưa cổ từ cả
ngàn năm rồi.
Ngôi chùa vắng, cửa trống để
gió luồng vào từng đợt khắp chùa. Hình ảnh như dường đang tái diễn từ một giấc
mơ nào đó, như dường Thầy và tôi đã ngồi uống trà từ nhiều ngàn năm rồi, và bây
giờ gặp lại để cùng uống trà...
Thầy cũng nói, khi con thấy có
cảm thọ nào khởi lên, khi thấy có niệm tưởng nào khởi lên, hãy thấy rằng nó
đang biến hiện, theo tuần tự thành trụ hoại không, rằng nó khởi lên, rằng nó
đang trụ, rằng nói đang biến dần, rằng nói đã biến mất. Hãy thấy trong tâm mình
các pháp thành trụ hoại không như thế.
Tôi nói, thế nhưng cái mùi
hương lạ này, mùi hương theo con cả trong giấc ngủ nửa đêm.
Thầy Tịch Chiếu đưa tay chỉ về
hướng ngọn đồi hồi trưa, nơi những cây cổ thụ vươn cao với các bóng chim bay
núi vắng. Thầy hỏi tôi, bây giờ nơi đó, cũng vẫn còn những cánh chim bay,
vẫn còn những cây lá uốn mình theo gió... vậy thì, tiếng chim kêu ở đâu rồi,
tiếng gió xao xác ở đâu rồi? Hãy nhìn vào tâm mình mà hỏi, mà xem, rằng ai nghe
đó?
Tôi ngần ngừ. Thầy lắc đầu dịu
dàng.
Đêm đó, tôi thấy được mùi hương
bỗng nhiên hiện ra hình cánh chim, hình cây lá xao xác trước gió, và rồi mùi
hương trở thành những tách trà trên bàn, nơi Thầy và tôi ngồi nói chuyện.
Vào năm 2006, tên Sơn từ Sài Gòn
email sang cho tôi biết, rằng cô học trò Gia Long năm xưa ở xóm Bàn Cờ -- tức
là cô bé đã từng thỉnh thoảng vào sân chùa Xá Lợi và thường ngồi nói chuyện với
tôi, đúng ra là nói chuyện với cả nhóm chúng tôi – đã từ trần vì bệnh ngặt.
Hắn kể rằng cô ta thường tới
sân Chùa Xá Lợi chơi, vài tháng trước khi cô ta biến mất trên đời này. Nói “cô
ta” là theo thói quen, thực ra là cao niên cả rồi. Có khi cô ta tới một mình,
có khi cùng đi với bà chị. Hai người thường ngồi nơi ghế đá chúng tôi ưa ngôì.
Chùa lúc này khác lắm, không như ngày xưa.
Tên Sơn lúc này chuyên dịch
kinh sách Phật Giáo Tây Tạng từ các bản Anh ngữ sang Việt ngữ. Thường khi nhận
được những bản kinh sách Anh ngữ tôi hay các bạn trong nhóm Viet Nalanda gửi về
là Sơn cầm vào sân chùa ngồi đọc, nghiền ngẫm rồi một thời gian sau mới bắt đầu
dịch. Chính những lần ngồi sân chùa như thế, Sơn mới gặp lại cô bé. Thế
rỗi bẵng một thời gian, theo lời Sơn, bà chị cô ta gặp Sơn và nói rằng cô ta từ
trần rồi.
Không ngờ em lại ra đi trước
chị. Chị kể với tên Sơn, rằng trong những ngày cuối đời, khi bệnh chưa tới lúc
liệt giường, cô ta bảo bà chị thỉnh thoảng chở ra sân chùa ngồi. Khi chị hỏi
chi vậy, cô ta trả lời là cô ta nhớ một mùi hương. Chị mới nói, muốn có
mùi hương ngọc lan, chị sẽ chở tới một sân chùa khác, nơi có trồng nhiều cây
ngọc lan hơn, thêm nữa Chùa Xá Lợi bây giờ không còn vắng vẻ để ngồi như những
ngaỳ thơ trẻ nữa. Cô ta lắc đầu, theo lời chị kể với tên bạn tôi. Khi đọc tới
đó, tôi ngạc nhiên tự hỏi, sao cô nàng lại nhớ mùi hương, vì như thế, mùi hương
kia là có thật...
Tôi điện thoại về hỏi Sơn, thế
bà chị kia có kể những gì nữa không. Tên này nói là không, không nghe kể gì nữa
hết. Hình như có vẻ tôi hỏi kiểu tra vấn hơi nhiều. Tên bạn nói, thôi thì từ
trần là chuyện bình thường, tuổi nào cũng có thể ra đi cả, Thầy Đồng Nguyên
tịch rồi, rồi tên Hiển cũng chết rồi... sinh bệnh lão tử mà. Tôi lặng lẽ, không
hỏi gì thêm.
Đêm đó, trong khi ngồi thiền,
đôi mắt cô ta hiện ra, và bàn tay tôi rung động như đang nắm tay cô ta, và mùi
hương lại bay thoàng quanh tôi. Tôi mở to mắt, nhìn vào bức tường trắng trước
mặt, tôi có cảm giác như thấy được mùi hương. Thấy được mùi hương? Đúng vậy.
Mùì hương này không phải là làn khói, không mang hình dạng gì hết... Tôi tự
hỏi, tại sao lai có cảm giác thấy được bằng mắt.
Nhưng đúng là thấy được, mùi
hương hiện quanh mình, trong khi đàn chim từ ngọn núi Bình Dương về bay xao xác
quanh tôi. Nhắm mắt cũng thấy chim bay, và cũng thấy mùi hương phảng phất.
Tôi đứng dậy, vào bàn và nghĩ
rằng mình phảỉ vẽ lại mùi hương trên giấy. Tôi đã từng học vẽ hai thập niên
trước, nhưng bỏ lâu rồi, vì không có thì giờ. Mùi hương là vô hình mà, tôi tự
nhủ, nhưng sao mình lại có cảm giác là thấy mùi hương. Không phải vẽ làn tóc,
không phải vẽ tà áo, không phải vẽ bất kỳ thứ gì khác mùi hương. Phải vẽ đúng
mùi hương khi tôi nắm tay cô bé, tôi tự nhủ như thế.
Ngay khi cầm cọ lên, tôi mới
nhận ra rằng không có gì tự có trên đời này cả. Không có mùi hương nào là tự có
cả. Tôi nhớ lời Thầy Tịch Chiếu nói năm xưa, rằng khi tôi trở về sân chùa ngồi
và khi trên đồi vẫn còn chim kêu và vẫn còn gió thổi ào ạt, vậy thì tiếng chim
kêu và tiếng gió bạt ở đâu.
Tôi vẽ vòng tròn Thiền Tông lên
giấy. Mực tàu loang trên giấy, và tôi thấy mình hiện ra trên đó, trên nét mực
đó, có khuôn mặt của tôi, có khuôn mặt của nàng, có tiếng cười của mấy tên bạn
đùa nghịch sân chùa Xá Lợi, có tiếng chim kêu trên núi Bình Dương, có tiếng
Thầy Đồng Nguyên nói vọng lại từ Đại Tùng Lâm, có tiếng sóng biển Vũng Tàu, và
trong nét mực trước mặt tôi đã tất cả những âm thanh của trần gian này...
Tôi mỉm cười trước trang giấy
với nét vẽ vòng tròn Thiền Tông. Vậy à, khi không có một ai đứng nơi đồi chim
đó, những âm thanh đó ở đâu. Tôi nghe lại giọng từ tốn của Thầy Bình Dương,
rằng khi không có một tâm nào nơi đó, cảnh kia ở đâu hiện ra. Vâng, thưa Thầy,
con biết, sắc tức là không, và không tức là sắc.
Buổi trưa hôm đó, khi tôi tới
một ngôi chùa Quận Cam và nhờ một vị sư ghi tên cô ta vào danh sách cầu siêu
trong 49 ngày. Lúc đó, tôi mới nhớ rằng mình đã quên tên cô ta rồi, điều rất lạ
vì hôm qua khi viết email cho tên bạn, tôi còn ghi đầy đủ cả tên lẫn họ cô
nàng, trong khi tên bạn chỉ nhớ mỗi tên cô ta thôi.
Tôi lấy iPhone ra, mở email cũ
xem lại. Tiếng tụng kinh không ngớt từ chính điện vọng ra, trong khi vị sư và
tôi ngồi nơi bàn khách giữa hàng người đi tới đi lui. Một điều lạ nữa xảy ra:
email tôi trả lời tên bạn về cô ta cũng biến mất, không còn nơi đâu cả, kể cả
trong nơi lưu giữ các email đã xóa. Tôi nghĩ, bây giờ còn trong hạn 49 ngày vừa
ra đi, hẳn là cô ta giấu email để giỡn với mình trước khi đi xa.
Vị sư già hỏi lại, Phật tử đó
họ gì. Tôi ghi xuống giấy một vòng chữ tròn, như hình vòng khuyên và đáp
rằng con không biết cô này họ gì.
Tôi nói thêm, lúc xướng họ tên
cô ta, thầy chỉ cần gõ một một tiếng chuông nhỏ là đủ. Vị sư già mỉm cười. Bời
vì cầu siêu thiếu tên họ là bình thường, vì đất nước đã trải qua quá nhiều cuộc
chiến tranh.
Khi tôi bước ra cổng chùa, mùi
hương lạ kia lại thoang thoảng. Nhưng tôi biết rồi, là hoàn toàn không có ai
đuổi bắt mùi hương cả, và cũng không thực sự có mùi hương nào để được đuổi bắt
hay chạy trốn cả. Và các pháp tự thân đã là vắng lặng, dù mùi hương có đến hay
đi. Lúc đó, tôi chợt nhớ đôi mắt lấp lánh của cô nàng.
Tiếng tụng kinh từ chùa vọng
ra, sắc bất dị không, không bất dị sắc...
Phan Tấn Hải
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét