Mấy cảm nghĩ về "Một thời đại trong thi ca"
của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam
Hoài Thanh (1909 - 1982) tên thật là Nguyễn Đức Nguyên, xuất
thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ
An. Hoài Thanh viết văn từ những năm 30 của thế kỉ XX, khi mới ngoài hai mươi
tuổi. Với những cống hiến đáng kể cho nền văn học Việt Nam hiện đại, ông được
đánh giá là nhà nghiên cứu, phê bình văn học xuất sắc nhất. Năm 2000, Hoài
Thanh đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi
nhân Việt Nam – công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của Hoài
Thanh. Nội dung cuốn sách này đề cập đến nhiều vấn đề : Nguồn gốc Thơ mới; cuộc
tranh luận giữa Thơ mới – Thơ cũ ; vài nét về con đường mười năm phát triển của
Thơ mới; đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới;
tinh thần cốt lõi của Thơ mới và tấn bi kịch của cái tôi… Ở mỗi vấn đề, Hoài
Thanh đều có những ý kiến, những nhận định sắc sảo, tinh tế.
Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận, có giá trị như một
nhận xét khái quát về đặc trưng của phong trào Thơ mới. Với lập luận chặt chẽ,
khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, giàu cảm xúc, tác giả đã nêu rõ
đặc trưng tinh thần của Thơ mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của
nó.
Đoạn trích gồm ba phần:
Phần 1: Từ đầu đến… phải nhìn vào đại thể: Tác giả giới hạn
tiêu chí xác định tinh thần cùng giá trị của thơ cũ và Thơ mới là phải căn cứ
vào đại thể và cái hay của thơ mỗi thời.
Phần 2: Từ Cứ đại thể… đến… không bao giờ cá nhân lại bị rẻ
rúng đến thế: Khẳng định tinh thần Thơ mới là nằm ở chữ tôi, tinh thần thơ cũ
là nằm ở chữ ta.
Phần 3: Còn lại: Phân tích sự vận động và phát triển của Thơ
mới xung quanh cái tôi cùng bi kịch của nó.
Để nêu bật tinh thần Thơ mới, trong đoạn trích này Hoài Thanh
đã sử dụng các bước lập luận như sau:
Bước 1: Tác giả nêu lên nguyên tắc chung của việc đánh giá
Thơ mới là chỉ căn cứ vào cái hay, không căn cứ vào cái dở. Chỉ căn cứ vào đại
thể, không căn cứ vào tiểu tiết Cái dở và tiểu tiết không đủ tư cách để đại diện
cho nghệ thuật và cho những thời đại lớn của nghệ thuật.
Ngay trong phần mở đầu, lập luận của tác giả đã tỏ ra chặt chẽ
và mạch lạc. Khi nêu vấn đề đi tìm đặc trưng của Thơ mới, tác giả đã nói đến
cái khó trong việc tìm hiểu tinh thần Thơ mới là do ranh giới giữa thơ cũ và
Thơ mới không rạch ròi. Các nhà Thơ mới không chỉ viết ra những câu thơ hoàn
toàn cách tân, hiện đại mà vẫn gợi lại những hình ảnh thân thuộc muôn thuở
trong thơ ca truyền thống. Ví dụ như hai câu thơ sau đây của Xuân Diệu:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già,
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.
Trong khi đó, các nhà thơ cũ lại có những câu thơ “nhí nhảnh
và lả lơi”:
Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ!
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?
Theo Hoài Thanh thì thời đại nào cũng có những tác phẩm hay
và Thơ mới hoặc thơ cũ cũng đều có những cái tầm thường, cái lố lăng không
tránh khỏi. Bởi vậy, tác giả đề xuất cách đánh giá thơ cũ và Thơ mới là: Muốn
tìm hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy.
Cái khó thứ hai là giữa thơ cũ và Thơ mới vẫn có sự giao
thoa, ảnh hưởng lẫn nhau: Âu là ta đành phải nhận rằng trời đất không phải dựng
lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong
cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ. Chính vì vậy, ông đi tới kết luận: Các
thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại
thể.
Dựa trên tinh thần chung mà xét, lấy những tác phẩm hay mà so
sánh, đó là cách để vượt qua những khó khăn nhằm tìm ra đặc trưng của Thơ mới.
Cách nhìn nhận của tác giả như vậy là khách quan, khoa học và biện chứng.
Bước 2: Hoài Thanh nêu ra đặc trưng tinh thần của Thơ mới bằng
cách đối sánh: Tinh thần thơ cũ gồm trong chữ ta. Tinh thần Thơ mới gồm trong
chữ tôi.
Theo Hoài Thanh, điều cốt lõi mà Thơ mới mang đến cho thi đàn
Việt Nam lúc bấy giờ chính là ở chữ tôi: Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời
xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới có thể gồm lại trong hai chữ tôi
và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi.
Khi tìm tòi đặc điểm của Thơ mới, tác giả luôn phân tích cái
tôi trong nhiều mối quan hệ để làm nổi rõ bản chất của nó. Đặt cái tôi trong
quan hệ với cái ta để tìm ra những chỗ giống nhau và khác nhau. Tác giả cho rằng
trước đây, ranh giới giữa chữ tôi và chữ ta không rạch ròi:
Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn
thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm
trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cũng có những bậc
kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ. Và
thảng hoặc trong văn thơ họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác.
Song dẫu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện
với mình, hay – thì cũng thế – với tất cả mọi người. Mỗi khi nhìn vào tâm hồn họ
hay đứng trước loài người mênh mông, hoặc họ không tự xưng, hoặc họ ẩn mình sau
chữ ta, một chữ có thể chỉ chung nhiều người. Họ phải cầu cứu đoàn thể để trốn
cô đơn. Chẳng trách gì tác phẩm họ vừa ra đời đoàn thể đã dành làm của chung, lắm
khi cũng chẳng thèm ghi tên của họ.
Bước 3: Tác giả luận giải về nội đung và biểu hiện của hai chữ
ta và chữ tôi trong thơ ca.
Qua đoạn văn trên, ta thấy nội dung của chữ tôi chính là phần
ý thức cá nhân. Nội dung của chữ ta là phần ý thức cộng đồng, tức là đoàn thể
như cách gọi của Hoài Thanh. Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại song song
trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Thời trước, cái ta lấn át hoàn toàn
nên cái tôi không có cơ hội để nảy nở, bày tỏ. Còn ở thời đại này, cái tôi trỗi
dậy giành quyền sống tự do. Phong trào Thơ mới nảy sinh chính từ sự trỗi dậy mạnh
mẽ của cái tôi đó.
Chữ ta và chữ tôi trong thơ cũ và Thơ mới có gì khác nhau ?
Chữ ta trong thơ cũ gắn liền với các mối quan hệ gia đình, quốc gia; giống như
giọt nước trong biển cả, không có bản sắc riêng. Điểm khác biệt của chữ tôi với
chữ ta là ở bản sắc cá nhân, quan niệm cá nhân.
Như vậy, ba bước lập luận trên được sắp xếp theo trật tự từ
xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo đến quá
trình phát triển. Trật tự mạch lạc đảm bảo tính lôgích của tư duy, vì vậy mà khả
năng thuyết phục của bài văn rất lớn. Đây là ưu thế, là sở trường của Hoài
Thanh trong khi viết nghị luận văn học.
Sau khi điểm qua về sự xuất hiện của chữ tôi, tác giả đề cập
đến phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó: Khi chữ tôi, với cái
nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn
nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông
đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!
Chữ tôi xuất hiện trên thi đàn một cách bất ngờ trước thái độ
xa lạ, khó chịu của mọi người. Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ
ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội
nghiệp quá!
Hoài Thanh nhận xét cái tôi thật đáng thương, thật tội nghiệp
bởi: Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Họ không
còn khí phách ngang tàng của thi hào Lí Thái Bạch đời xưa. Đến chút lòng tự trọng
cần để khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ họ cũng không có nữa.
Cái tôi yếu đuối, rên rĩ, khóc than khiến người nào muốn khám
phá nó thì càng đi sâu càng lạnh. Nó tìm đủ mọi cách để trốn tránh hiện thực
như thoát lên tiên, phiêu lưu trong trường tình, điên cuồng, đắm say,…Khổ nỗi,
càng lúc càng bế tắc: Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi
tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ, đành ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận. Cái tôi
không thể nương tựa vào một cái gì bất di bất dịch. Nó bàng hoàng vì thiếu một
lòng tin đầy đủ. Cái tôi ấy thể hiện bi kịch đương diễn ngấm ngầm, dưới những
phù hiệu dễ dãi, trong hồn người thanh niên thời ấy.
Chữ tôi cùng với những biểu hiện và số phận đầy bi kịch của
nó trong thời đại Thơ mới được Hoài Thanh phân tích, nhận xét bằng ngòi bút tài
hoa.
Khi phân tích đặc điểm của Thơ mới, tác giả đã liên hệ với
tâm lí của lớp người trẻ tuổi và liên hệ tới cái nền tâm li chung của xã hội
đương thời:
Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn của họ chi vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Đừng có tìm ở họ cái khí phách ngang tàng của mỗi thi hào đời xưa như Lí Thái Bạch, trong trời đất chi biết có thơ. Đến chút lòng tự trọng cần để khinh cảnh cơ hàn, họ cũng không có nữa:
Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn của họ chi vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Đừng có tìm ở họ cái khí phách ngang tàng của mỗi thi hào đời xưa như Lí Thái Bạch, trong trời đất chi biết có thơ. Đến chút lòng tự trọng cần để khinh cảnh cơ hàn, họ cũng không có nữa:
Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ.
Cơm áo không đùa với khách thơ.
Không biết trong khi rên rĩ như thế Xuân Diệu có nghĩ đến
Nguyễn Công Trứ, một người đồng quận, chẳng những đã đùa cảnh nghèo mà còn lấy
cảnh nghèo làm vui.
Nhưng ta trách gì Xuân Diệu! Xuân Diệu, nhà thơ đại biểu đầy
đủ nhất cho thời đại, chi nói cái khổ sở, cái thảm hại của hết thảy chúng ta.
Nhạc điệu trắm bổng, dù dương của đoạn văn sau đây giống như một bài thơ trữ tình lãng mạn làm xúc động hồn người. Có thể coi đây là đoạn hay nhất trong bài văn:
Nhạc điệu trắm bổng, dù dương của đoạn văn sau đây giống như một bài thơ trữ tình lãng mạn làm xúc động hồn người. Có thể coi đây là đoạn hay nhất trong bài văn:
Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm
bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu
lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan
Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền,
điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy
Cận.
Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.
Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế.
Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước.
Nghệ thuật trong đoạn văn này khá phong phú và linh hoạt:
Thứ nhất là độ dài ngắn của ba câu đầu gần bằng nhau: Đời
chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi
sâu càng lạnh. Các câu tiếp theo là câu ghép, nếu tách ra ta sẽ được các câu
đơn tương đương với độ dài của ba câu trước: Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta
phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu.
Nhờ thế khi đọc lên, âm điệu của đoạn văn cân đối, nhịp nhàng. Bất ngờ, nhịp diệu trở nên gấp gáp bỡi cách ngắt trong câu: Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ có thành phần các câu được rút ngắn lại. Hai câu tiếp theo lại trải dài ra với nhịp điệu chậm rãi khiến mạch văn chùng xuống, tạo nên một cảm giác ngơ ngẩn, xôn xao và một chút bâng khuâng, man mác: cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.
Nhờ thế khi đọc lên, âm điệu của đoạn văn cân đối, nhịp nhàng. Bất ngờ, nhịp diệu trở nên gấp gáp bỡi cách ngắt trong câu: Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ có thành phần các câu được rút ngắn lại. Hai câu tiếp theo lại trải dài ra với nhịp điệu chậm rãi khiến mạch văn chùng xuống, tạo nên một cảm giác ngơ ngẩn, xôn xao và một chút bâng khuâng, man mác: cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.
Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế.
Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước. Sự nối tiếp ý giữa
các câu văn làm cho hơi văn chuyển từ sôi nổi gấp gáp đến trầm lắng, thiết tha.
Đây là một đoạn văn mà nhạc điệu rất gần với nhạc diệu của thơ.
Thứ hai, trong đoạn văn, tác giả sử dụng rất nhiều tính từ, động
từ chi trạng thái tâm lí giàu sức biểu cảm rộng, sâu, lạnh, thoát, điên cuồng,
đàm say, bơ vơ, ngơ ngẩn buồn, nao nao… kết hợp với nhạc điệu tạo nên chất trữ
tình đậm đà.
Thứ ba, tác giả dã diễn tả rất tinh tế về sự bế tắc của cái
tôi, đồng thời khái quát bản sắc, phong cách riêng, thế giới riêng của từng nhà
thơ. Chỉ bằng một vài từ mà nhận ra thần thái, hồn vía riêng của mỗi thi sĩ của
trào lưu Thơ mới. Thế Lữ với lên tiên, Lưu Trọng Lư trong trường tình, Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên thì điên cuồng, Xuân Diệu thì đắm say,… Cách viết linh hoạt,
uyển chuyền, giàu hình ảnh làm cho văn nghị luận mà giàu chất thơ, gợi cảm xúc
và hứng thú của người dọc. Đó là văn nghị luận của một nhà phê bình mang tâm hồn
thi sĩ. Đọc văn Hoài Thanh, ta bắt gặp một tấm lòng chân thành rất đáng trân trọng
và học hỏi.
Để giải toả tình trạng bế tắc và bi kịch của đời mình, các
nhà thơ lãng mạn đã tìm đến tiếng Việt. Hoài Thanh đã viết những dòng cảm động
về lòng yêu quý tiếng mẹ đẻ của các thi sĩ Thơ mới: Bi kịch ấy họ gùi cả vào tiếng
Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với
cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ
nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn
mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.
Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng.
Chưa bao giờ như bây giờ họ hiểu câu nói can đảm của ông chủ
báo Nạm phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”.
Chưa bao giờ như bây giờ họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng
như các thể thơ xưa chi biến thiên chứ không sao tiêu diệt.
Chưa bao giờ như bây giờ họ cảm thấy cần phải tìm về dĩ vãng
để vịn vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.
Tiếng Việt quả là điểm tựa tinh thần để các thi sĩ Thơ mới
phát triển tài năng trong tương lai.
Giọng văn của Hoài Thanh khi nói về các thi sĩ của trào lưu
Thơ mới là giọng của người trong cuộc mong muốn dược giãi bày, đồng cảm và chia
sẻ. Đọc văn, người đọc cảm nhận được tấm lòng liên tài của người viết. Đúng như
câu: Lấy hồn ta để hiểu hồn người. Chữ ta được lặp lại nhiều lần, tác giả hay
dùng chữ ta dể nói về cái chung, trong đó có mình. Ở phần cuối, khi nói đến
tình yêu tiếng Việt của các nhà Thơ mới, Hoài Thanh đã dùng những từ, những
hình ảnh thấm đượm cảm xúc chân thành và tha thiết như: gửi cả, yêu vô cùng,
chia sẻ buồn vui với cha ông, dồn tình yêu quê hương…
Lòng yêu Tổ quốc của con người có những biểu hiện vô cùng
phong phú. Có lòng yêu nước gắn liền với đấu tranh. Có lòng yêu nước gắn liền với
lao động sản xuất. Lại có lòng yêu nước biểu hiện ở sự thiết tha với những giá
trị văn hóa, ở nỗ lực sáng tạo ra những giá trị văn hóa.
Lòng yêu nước của các nhà Thơ mới thể hiện tập trung nhất ở tình yêu tiếng Việt và nền thơ ca dân tộc, ở niềm say mê sáng tạo ra những giá trị văn hóa, trước hết là thơ ca. Họ muốn làm cho tiếng nói của nói giống đẹp hơn, giàu hơn, ngày càng trường tồn, bất diệt. Đó cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước rất đáng ghi nhận và trân trọng.
Lòng yêu nước của các nhà Thơ mới thể hiện tập trung nhất ở tình yêu tiếng Việt và nền thơ ca dân tộc, ở niềm say mê sáng tạo ra những giá trị văn hóa, trước hết là thơ ca. Họ muốn làm cho tiếng nói của nói giống đẹp hơn, giàu hơn, ngày càng trường tồn, bất diệt. Đó cũng là một biểu hiện của lòng yêu nước rất đáng ghi nhận và trân trọng.
Bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca hấp dẫn, lôi cuốn và
làm rung động tâm hồn bao thế hệ người đọc bởi phương pháp lập luận khoa học,
chặt chẽ và văn phong tài hoa, tinh tế, giàu cảm xúc của tác giả. Hoài Thanh đã
giúp chúng ta thêm hiểu biết và trân trọng những sáng tạo và có cách đánh giá
thấu tình đạt lí đối với trào lưu Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Điểm thành công nữa của bài văn là cách dẫn dắt vấn đề rất tự nhiên, linh hoạt.
Hoài Thanh dẫn dắt ý văn chủ yếu bằng ngôn ngữ đời sống, nương theo mạch liên kết
của cảm xúc thẩm mĩ. Đoạn trích được diễn đạt bằng cảm xúc, bằng hình ảnh và bằng
ngôn ngữ thơ ca tinh tế, uyển chuyển, du dương. Hoài Thanh xứng đáng là “Nhà
phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại”. Tác dụng của cuốn
Thi nhân Việt Nam đối với đời sống văn học trong nhiều thập kỉ qua là rất lớn.
Bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca của ông được mọi người thưởng thức, học
tập và coi đó là một mẫu mực về nghị luận văn chương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét