Lịch sử
VỐN DÒNG THI LỄ
(Viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
Văn học sử Việt Nam ta có ghi ba nữ sĩ nổi danh: Đoàn Thị Điểm,
Bà huyện Thanh Quan (tương truyền tên là Nguyễn Thị Hính) và Hồ Xuân Hương.
Trong đó Xuân Hương không trội tiếng nhất thì cũng là vị tài nữ dị thường hơn cả.
Dị thường đến độ tác phẩm được cái vinh dự ít có, là bị khai trừ trong hầu hết
các sách giáo khoa! Vì thi văn của nàng, nếu cho là phóng đãng, thì phẩm-từ này
chỉ là lối nói xuôi đỡ đòn mà thôi... Hơn nữa, thời đại nàng sống đâu đã đến đồi
phong bại tục quá cỡ, khiến sui - hay giải thích - sự táo bạo của văn nghệ sĩ!
Tuy không tìm ra được bằng chứng xác thực về năm sinh của nữ
sĩ, song cũng có một vài mốc giúp ta suy luận được: Xuân Hương sống cùng thời với
những người tiếng tăm, như Phạm Đình Hổ, tác giả nhiều sách giá trị và như Nguyễn
Huệ - bậc anh hùng đại thắng quân Tàu năm 1788. Nguyễn Huệ sinh năm 1752. Phạm
Đình Hổ năm 1768.
Nguyễn Huệ nguyên họ Hồ tên tục là Thơm, con của Hồ Phi Phúc,
cùng quê ở Nghệ An với Hồ Phi Diễn, thân phụ Hồ Xuân Hương, Cùng quê, cùng họ,
nếu suy ra là thân thích với nhau, e mang tiếng cho nhà giàu vay thêm! Xem năm
sinh của Phạm Đình Hổ và của Hồ Thơm, chúng ta có thể đoán già là Xuân Hương đã
chào đời trong khoảng 1770 - 1775.
Mấy khoa hương thi không đậu cả, Hồ Phi Diễn đương là nho
sinh, xoay làm thầy đồ dạy trẻ mà cũng thấy khó sống trong đất Nghệ đồng cháy cỏ
khô, nên phải lang thang ra Bắc, để vợ ở quê coi mồ mã gia tiên. Bảo bọc ít lâu
ở tỉnh Hải dương, bấy giờ đã ngoài bốn mươi, ông gá nghĩa với một bà họ Hà cũng
chừng ba chục. Bà này chuộng cai phong độ nhà nho, lại thấy vẻ người hiền lành
nhã nhặn, nên chịu làm vợ lẽ miễn là được sống riêng với chồng.
Ở tỉnh nhỏ nghe cũng khó mưu sinh ông đồ đem vợ mới về Thăng
Long để kiếm chỗ dạy đông trẻ hơn. Ông tìm được ngôi nhà rộng rãi ở phường Khán
Sơn ven Hồ Tây (vùng vườn Bách Thú ngày nay, nơi này hiện còn đài Khán Xuân).
Người lối xóm ai cũng mến ông là người có tác phong đạo đức, lại nghe giọng nói
trọ trẹ nên thường gọi là ông đồ Nghệ chứ không nêu tên. Chính ở khu ngoại
thành "cỏ cây chen đá lá chen hoa" này, Xuân Hương đã chào đời vào một
ngày mùa xuân. Hai chữ tên là cha đặt cho, lấy nghĩa hương mùa xuân và cũng là
hương trên đài Khán xuân.
Ông đồ Nghệ sáu năm sau đó bỗng từ trần vì một cơn bạo bệnh,
để lại vợ con trong hoàn cảnh nghèo nàn. Nhưng bà đồ là người đảm đang, tuy vất
vã về mưu sinh nhưng không ngần ngại cho con gái theo đòí bút nghiên để giữ cốt
cách con nhà: giấy rách còn lề không như thói thường, sợ con gái học chữ dễ hư
thân. Nhờ vậy mà Xuân Hương được góp mặt trong làng văn tự, đem thiên tài tô điểm
cho ngôn ngữ nước ta thêm phần bóng bảy tinh vi, cho tư tưởng dân ta đỡ phần
giáo điều cứng ngắc.
Vốn dòng thi lễ
(Viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
Một thiếu nữ được nhiều nho sĩ đương thời cảm mến, ắt là có
tài lỗi lạc đã đành, nhưng ai cũng nghĩ, và cũng muốn, cô có dung nhan cá lặn
nhạn sa nữa, cho lương toàn hương sắc. Hay đâu tạo hóa thường ghét chư toàn nên
ai được chỗ này lại hỏng chỗ kia!
Theo tục truyền thì Xuân Hương có nước da ngăm ngăm, má điểm
đây đó vài nụ rỗ hoa. Tính nàng ngay thẳng, gặp ai ăn ý thì nói năng duyên dáng
mặn mà, nhưng lại không thể không diễu cợt đôi khi sỗ sàng đối với những anh
hay chữ lỏng mà vênh vang tự đắc.
Thiên tư dĩnh ngộ, học một hiểu mười, nên được thầy yêu bạn nể,
nàng lại rộng xem những sách sử ông đồ Nghệ để lại nên mới 13, 14 tuổi đầu mà vốn
học uẩn súc ít ai bì kịp. Điều làm cho người ta kính dị là nàng xuất khẩu thành
chương, khó có người dám cùng nàng xướng họa.
Một buổi trưa nóng bức nàng ngồi chơi ở hàng hiên trường học,
ngọn gió hiu hiu làm cho thiêm thiếp ngủ quên, khăn áo có hơi xốc xếch. Ba bốn
cậu học sinh xúm lại, chỉ trỏ cười đùa làm nàng chợt tỉnh. Thế là không chút thẹn
thò, cũng không hờn dỗi, nàng
đọc ngay tám câu chỉnh chện luật Đường:
Trưa hè, hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi, giải giấc nồng
Lược trúc biếng cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở, ở không xong...
Mà ở không xong thật, vì Xuân Hương thừa biết mây anh này chỉ
hay quấy phá chứ không có tài họa thơ. Có tài họa thơ là mấy anh học giỏi nói
năng hoạt bát, thường tụ hội với Xuân Hương để bàn luận văn chương ở sân trường,
những khi thầy nghỉ trưa hay đi vắng.
Họ thường kháo nhau các chuyện thời sự ở đó đây để gợi hứng
cùng nhau ngâm vịnh, và đều đồng ý là dùng tiếng nôm trước hết để đỡ mệt óc sau
những giờ nghiền chữ Hán, và để nuôi cái cao vọng phát huy những trạng từ linh
động để tỏ rằng tiếng ta hay hơn chữ tàu.
Vế quan điểm này, một anh phát biểu:
- Nhất định hay hơn. Không phải "dù trong dù đục, ao nhà
vẫn hơn" mà ao nhà nhất định là trong. Tôi thử đọc anh em nghe bài thơ vịnh
cảnh tát nước mà chị Hương làm hôm nọ:
Đang khi nắng cực chửa mưa tè
Rủ chị em ra tát nước khe
Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm
Lênh đênh một ruộng bốn bờ be
Xì xòm đáy nước đầu nghiêng ngửa
Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve
Ham việc làm ăn quên cả nhọc
Dạng hang một lúc đã đầy phè...
Không nói đến nhưng ẩn ý nằm trong các chữ nắng cực, tè, khe,
ba góc, dạng hang, đầy phè thử hỏi có chữ Hán nào dịch nổi lẽo đẽo, lênh đênh,
xì xòm, nhấp nhổm, nghiêng ngửa, vắt ve không nào?
Được anh em tán đồng, Xuân Hương cao hứng nói:
- Các anh quá khen đấy chứ, mấy câu tục tằn ấy có đáng gì!
- Đố tục mà giảng thanh mới thú chứ!
- Em chỉ muốn nói rằng nếu ta định dùng nôm thay chữ, thì ta
phải học hỏi lẫn nhau để dùng tiếng nôm cho đúng cách. Em đọc thử câu này để
phiền các anh họa cho:
Lượng cả xin anh chớ hẹp hòi
Không nói anh cũng rõlà trong câu họa cấm dùng chữ hẹp trước
vần hòi đấy nhé!
Thì làm gì có tiếng nào khác đi với hòi?
Một anh bèn gỡ bí bàng cách nói lái:
Xích lại gần đây tớ thẩm hòi!
Và thách Xuân Hương hạ được trót lọt một cău vần uông.
Lại không có chữ nào đi với uông cho có nghĩa.
Xuân Hương tìm ra lối thoát:
Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông
Nó bảo nhau rằng ấy ái uông!
Kể ra xuôi đấy, nhưng có người chê: đứng trước cái chuông mà
không nói được câu gì hay ho hơn làđấy cái chuông, thì ra đã ngọng còn thêm đần
độn...
Một hôm, trong buổi họp, có anh nhắc lại câu chuyện thầy vừa
mới kể. Khi cụ trạng Mạc Đĩnh Chi sang sứ Trung Hoa, vua Tàu thử tài, cho thị vệ
cầm chiếc quạt giơ lên và đánh một tiếng trống, tức là ra đầu đề vịnh cái quạt.
Cụ trạng viết:chảy vàng nung đá, trời đất như lò lửa, ngươi vào lúc ấy đắc dụng
như Y, Chu; Gió bắc lạnh lùng, mưa tuyết đầy đường, người vào lúc ấy, chết đói
như Di, Tề – Thêm câu trong luận ngữ:ai dùng thì làm, không thì để đó, chỉ
ngươi với ta có như thế ư?
Và phê bình
- Luận về cái quạt như thế thật là thấu đáo: hành tàng là
thái độ quân tử của nhà nho.
- Nhưng đấy là về triết lý. Còn về phần tà thực tưởng cũng
nên nói ra cho rành rẽ, cách vật mà...
- Phần này dành cho chị Hương nhé! Chỉ có chị mới làm được ra
trò...
Xuân Hương mĩm cười:
Ngừng giây tát, nàng nói:
- Cấm cười đấy!
Rồi chậm rãi ngâm:
Một lỗ sâu, xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dán tự ngày xưa
Vành ra ba góc khuôn còn méo
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mắt mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phành phạch đêm ngày đã sướng chưa?
Mấy anh bàn tán:
- Hay, hay quá! Lại đúng nữa! Hai chữ sâu, xâu, thật tuyệt, vừa
là sâu hoắm lại vừa xâu cái nan quạt. Khép lại thì giữa là cái nan hai bên giấy
chả thừa ra là gì! Có điều ê cho mặt anh hùng với đầu quân tử... Nhưng đến lúc
phành phạch thì quên hết!
Xuân Hương cười:
- Để em làm bài khác tạ lỗi với anh hùng quân tử vậy:
Mười bảy hay là mười tám đây?
Cho ta yêu dấu chẳng rời tay
Mỏng dầy chừng ấy trành ba góc
Rộng hẹp nhường nào cắm một cây
Lúc nóng bao nhiêu bù lúc mát
Ban đêm chưa phỉ lại ban ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này...
Mấy anh lại trầm trồ:
- Mỏng, dầy, rộng, hẹp, những ước lượng thật lý thú. Nhưng
hay nhất trong bài là chữ cậy. Vừa là nhựa quả cậy để phất cho giấy dính vào
nan quạt, lại vừa là cậy có cái để vua yêu. Cái quạt của chị ghê gớm thật...
Xuân Hương thường vui vẻ khiêm nhường với những bạn văn thơ,
nhưng lại ghét cay ghét đắng những anh chàng hay chữ lỏng mà hay khoe mã. Mỗi lần
gặp mặt là xỉ vả hết lời:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây cho chị dạy làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa...
Có lần đi dạo cảnh chùa Chấn Quốc ở đường Cổ Ngư ven Hô Tây,
nàng thấy mấy thanh niêm cầm bút viết một bài thơ lên vách chùa, ra bộ ngông
nghênh tự đắc, liền dừng chân, liếc mắt, tủm tỉm cười, rồi ngâm:
Dắt díu nhau lên đến cửa chiền
Cũng đòi học nói, nói không nên
Ai về nhắn bảo phường lòi tói
Muốn sống đem vôi quét trả đền!
Tiếng ngâm vừa dứt, quay lại nhìn, thì mấy ông thi sĩ non đã
biến đâu mất dạng...
Chùa Chấn Quốc là một cảnh chùa ở nơi hẻo lánh xa chốn phồn
hoa, sư cụ với sư thầy đều cao tuổi, có học vấn lại có đạo hạnh, nên Xuân Hương
rất kính trọng, thường lui tới vàng hương. Còn nàng không ưa những vị sư trẻ ở
kinh đô vì phần nhiều thuộc thành phần trốn việc quan đi ở chùa, ít chữ nghĩa
mà nhiều tham vọng, chỉ khéo luồn lọt nơi cửa quyền để chiếm những ngôi chùa đẹp,
đông khách thập phương, cho dễ no cơm ấm áo. Trông bọn họ múa may, nàng có thơ
diễu:
Chẳng phải Ngô mà chẳng phải Ta
Đầu thì trọc lóc, áo không tà
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu tòa sen nọ đó mà!
Diễu cợt, bóng gió, nằm trong bốn câu sau. Rõ rệt nhất là câu
ví: Ngất nghểu không cùng hình dáng với ngất ngưởng và tòa sen nọ khác với tòa
sen kia?
Đầu sư cạo nhẵn mà vô ý bị ong đốt, cũng là đầu đề cho bài
thơ chế nhạo không nề thô tục:
Nào nón tu lờ, nào mũ thâm
Đi đâu chẳng đội, để ong châm
Đầu sư há phải gì bà cốt
Bá ngọ con ong bé cái lầm!
Cái trò no ấm cật dễ khiến một vài vị đeo tiếng hổ mang khiến
Xuân Hương trổ tài nói lái:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Bè từ muốn ghé về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo!
Chùa Quán sứ nguyên là nơi công quán để đón tiếp sứ thần nước
ngoài. Công quán sau thiên đi một nơi đẹp đẽ hơn, ngôi nhà cũ được sửa sang lại
thành chùa trông cũng khang trang, song gặp buổi loạn ly, ít ai săn sóc đến,
nên Xuân Hương có hai bài cảm hoài:
I
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo!
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?
Chày kình, tiểu để xuông không đấm
Tràng hạt, vãi lần, đếm lại đeo
II
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo?
Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo...
Xuân Hương thường ngày, tùy cảnh, tùy người, tùy hứng, xuất
khẩu thành thơ, bài nào cũng một giọng đùa ý nhị, trôi chảy như một lèo mà vẫn
đóng khung trong niêm luật nghiêm chỉnh, là điều khó khăn ít ai vượt được Những
bài đắc ý được các bạn ưa ngâm nga trong lúc quần tam tụ ngũ, người nọ truyền
tai người kia, thành ra chẳng bao lâu nhà quê kẻ chợ, không đâu không thuộc.
Đám trung niên rất tán thưởng lời thơ bóng gió tài tình. Người lớn tuổi ở chỗ
đông thì chê là lẳng lơ, đồi trụy, nhưng khi vắng lại thích thú khen thầm. Dù
sao, khen hay chê cũng gây nên tiếng tăm hay tai tiếng, đi xa về gần, rốt cuộc
rồi đến tai bà đồ. Bà đâm lo ngại, nhất là khi thấy con trong tuổi dậy thì, mỗi
ngày thêm phần duyên dáng nên nghĩ rằng cho theo đòi chữ nghĩa để giữ nếp nhà
thế cũng là đủ và bảo nàng nghỉ học. Nhiều người thấy nàng thướt tha óng ả cũng
muốn tới làm quen nhưng đều ngán cái tính nàng đanh đá và khẩu khí mẫn tiệp.
Thật ra, lời thơ tuy có vẻ buông thả và tỏ ra sự thấy biết
rành rẽ về những oái ăm của tình cảm, song hình như phẩm hạnh giai nhân không
chệch ra ngoài gia huấn, vì nàng giữ giá nên đủng đỉnh làm cao. Thái độ ấy đối
với con nhà văn tự là một khiêu khích đáng yêu, nhưng với kẻ phàm phu lại làm họ
bất mãn rồi hằn học đến nỗi phao vu là ái nam ái nữ, khiến nàng bực mình, thảo
ra bài sau đây:
Tự Tình Ca
Khi canh cửa, lúc ngồi thư thả
Ngẫm sự đời buồn bã gớm ghê
Âm dương lấy đó mà suy
Côn trùng còn thế, huống chi là người
Nghĩ chán thay những lời đặt để
Đặt nên lời nói kể những câu
Nguồn đào khe đỏ có đâu
Khóa bưng lấp cửa công hầu bấy nay
Khi thong thả mặt mày ngắm lại
Lúc buồn tình tay gãi đã quen
Rành rành múi mít hai bên
Lùm lùm trai úp, là miền hạ thôn
Cỏ rêu mọc xanh rờn cửa tía
Lá cờ bay đỏ khé song đào
Môi dầy, miệng rộng trán cao
Đúng trong tướng pháp: anh hào nghi dung.
Ấy rõ thật lá vông dầy đấy
Bằng lương nhân trông thấy cũng ghê
Há như lá trúc lá tre
Mà cười, mà ngắm, mà kề, mà hôn
Của trời cho xinh dòn là thế
Người sao còn bẻ họe rằng không
Nín thì tức, nói thẹn thùng
Phải đô bán chợ mà hòng phô trương
Mà giá thử như phường tơ kén
Vén màn quay bày biện đồ ra
Để cho những khách gần xa
Thử xem cho biết rằng là có không
Nhưng mà thuộc vào dòng quý tướng
Bộ râu xồm quai nón phất phơ
Màn mùng phủ sớm che trưa
Tuyết sương chẳng nhuốm, nắng mưa chưa đành
Hoặc có lúc hớ hênh hôm sớm
Chỉ những người nhìn trộm mới hay
Ví bằng đem để sánh bày
Thất kinh vía quỷ, xa bay hồn phàm
Nay nhân buổi an nhàn thư thái
Chép vài hàng gắm gửi nước non
Cậy ai nhắn nhủ ôn tồn
Hãy tin rằng có, chớ ồn rằng không
Đời đã thiêú anh hùng cát sĩ
Cửa phòng the dễ hé cho ai!
Tự tình ta viết ta chơi
Vốn dòng thi lễ
(Viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
BẼ BÀNG DUYÊN PHẬN
Mẹ con bà đồ hủ hỉ bên nhau, mẹ tất tả ngược xuôi, nay chợ Bưởi
mai chợ Ngọc hà, con thì cặm cụi ngày đêm bên khung cửi. Tuy bận tay chân, Xuân
Hương cũng không ngăn được lòng thơ lai láng, đối cảnh dễ sinh tình, lẩm nhẩm mấy
câu khe khẽ mà tủm tỉm cười thầm:
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống nâng nâng nhấc
Một xuốt đâm ngay thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vừa đúng cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Có thấm vào trong mới dại màu
Bà đồ nghe lõm bõm, bực mình, phàn nàn:
- Thơ với thẩn? Đêm hôm làm đã cực nhọc, còn nâng nâng thích
thích cái gì chỏng lỏn, khó nghe thế! Chả trách họ đồn đại ra ngoài cũng không
oan...
Bà vốn đã phiền lòng về điều kia tiếng nọ, lại gặp lúc phường
xóm không được yên ổn, nhà quê kẻ chợ cướp bóc tứ tung, nên chỉ mong sao con
gái sớm có nơi có chốn cho đỡ lo ngại.
Trong xóm có viên phó tổng tên tục là Cóc, nhà rất giàu có.
Tuy đã lớn tuổi, vợ con đầy đàn, nhưng quen thói ăn chơi, mỗi khi đi qua cửa,
thấy Xuân Hương như quả chanh cốm ngon lành, đâm thèm nên mượn người ướm lời
xin bà đồ cho cưới làm bậc hai. Bà đồ biết tính con gái cứng đầu cứng cổ khi
nào chịu làm thân lẽ mọn, nhưng cũng cứ lựa lời, đêm vắng tỉ tê, nào cảnh nhà
thanh bạch, nào nỗi nước loạn li, mẹ tuổi ngày càng cao, sức ngày càng yếu, mà
thấy con còn lắng đắng chưa yên, lỡ ra có mệnh hệ nào thì nhắm mắt sao đành.
Xuân Hương tự nghĩ: mình như con ngựa bạch mà đem thắng dây cương bằng thừng chả
oan uổng lắm sao! Nhưng mẹ già đã chật vật vì mình quá nhiều rồi, cần phải được
nghỉ ngơi. Thôi thì một hạt mưa dào đã không được vào vườn hoa thì cũng đành sa
xuống giếng chứ sao: một liều ba bẩy cũng liều, miễn được cái vốn cho mẹ dưỡng
già...
Thế là một buổi chiều, mấy người bên nhà ông tổng đến đón
Xuân Hương. Nàng lạy mẹ, rồi rưng rưng nước mắt xách nón quai thao theo sang
nhà chồng. Ở đây sự đối đãi không niềm nở lắm, nhưng cũng không đến nỗi tẻ nhạt...
cho ông Cóc hài lòng. Ông không hài lòng sao được? Ông mở cờ trong bụng! Cho
nên hương cũng đượm lửa cũng nồng... trong buổi ban đầu lưu luyến. Chỉ tiếc rằng
sau đó chừng một tháng sự lưu luyến đó bắt đầu giảm độ rồi dần dần ông vắng
bóng cả tuần trong chốn phòng hương. Lý do một phần là lực bất tòng tâm, phần nữa
ông phải lấy lòng bà cả, nhưng phần lớn là vì ông vốn máu mê cờ bạc, thường mài
miệt ở các sòng thâu đêm suốt sáng, đến khi về nhà là chỉ lăn ra ngáy khò khò,
còn lúc nào đâu để thương ngọc tiếc hương! Cho nên Xuân Hương cảm thấy bẽ bàng,
trong những đêm trăn trọc một mình không tránh được nổi tủi phận hờn duyên.
Mối duyên không đượm này, rồi cũng không bền. Chừng nửa năm
sau, ông tổng thốt nhiên đâm bệnh: cảm mạo thường thôi, ai ngờ trở thành trầm
trọng, thuốc hay thầy giỏi không cải được mệnh trời, một buổi sáng ông trút hơi
thở cuối cùng. Xuân Hương nức nở mấy câu, không tránh được giọng mỉa mai trong
niềm cay đắng phận mình:
Hỡi chàng ơi, ới hỡi chàng ơi,
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi từ đấy nhé!
Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi
Tục truyền khi con cóc chết, lấy vôi đánh dấu vào đầu nó thì
ba năm sau nó sống lại, quay đầu về núi. Xuân Hương sẽ bỏ ngàn vàng không tiếc
để mua lại cái dấu vôi, kẻo Cóc lại trở về...
Chôn cất xong xuôi, nàng lại xách nón trở về nhà với mẹ, tâm
tư như trút được gánh nặng ngàn cân khi tìm lại được niềm an ủi trong tình thâm
mẫu tử. Mẹ con sống êm ả bên nhau, rau dưa đắp đổi, thấm thoát gần một năm
tròn. Bà đồ vì bao năm vất vả, sức vóc suy nhược nên những lúc mưa nắng thất
thường, gió sương trái tiết, lại mệt mỏi, vài ngày không dậy được. Dần dà như
chuối chín cây, tuy Xuân Hương hết lòng nâng giấc chăm nom mà không tránh được
ngày rơi rụng. Cái tang này mới thật là một mất mát to lớn, vô cùng đau đớn cho
Xuân Hương. Một thân vò võ, nước mắt nghẹn ngào, muôn phần cay đắng. Bà con lối
xóm đi lại thăm hỏi, một vài môn sinh của ông đồ Nghệ khi xưa, dăm bẩy bạn đồng
song cũ, nghe tin rủ nhau đến, giúp giập đỡ đần, Xuân Hương cũng khuây khỏa đôi
chút.
(Viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
QUÁN NGỌC HỒ
Tưởng thế thôi, chứ với đời Xuân Hương cũng còn có chỗ bấu
víu: nhóm bạn học cũ vẫn năng tới thăm nom và hết lòng gỡ rối những khó khăn
trong công ăn việc làm hàng ngày.
Một hôm, nghe Xuân Hương phàn nàn về thời buổi gieo neo, dệt
cửi và mua bán sợi vải chăm chỉ hết mình mà cũng không được xởi lởi, một bạn đề
nghị:
- Hay là Hương chịu khó xuống dưới phố thuê cửa hàng, có lẽ đỡ
hơn?
- Trăm tội không gì bằng nghèo, anh ạ! Giá có vốn thì còn nói
gì!
Anh khác gạt đi:
- Cần gì phải đi đâu? Hương cứ nghe tôi: Đây xa nơi thị tứ thật,
nhưng có cảnh hồ Tây, có vườn Ngọc Hà, mùa nực thiếu gì khách thừa lương! Không
những thế, những tài bảy bước thành thơ của Hương, tôi đi chơi trong đất Thăng
Long này, thấy không đâu không có người hâm mộ. Vì thế, tôi tưởng tốt hơn hết
là Hương mở ngay tại nhà một quán trầu nước, không sợ lỗ vốn đâu, sẽ có nhiều bạch
diện thư sinh kéo đến, cho mà xem!
- Nhưng mình con nhà học trò, chưa mở quán bao giờ, thì biết
đường nào mà lần?
- Cái đó không lo, tôi sẽ nhận việc trang hoàng cho ra vẻ một
cái quán thanh lịch thu hút tao nhân mặc khách bằng những thú hấp dẫn như rượu
Võng thị ngâm bồ, như trà đầu xuân ướp kim cúc... Ở vùng này lại có tôm cá Nghi
tàm ngon nổi tiếng. Với lại có Hương nữa, chả tươm là gì. Chỉ cần Hương nhũn nhặn
chiều khách, đừng riễu cợt quá mà người ta giận đấy...
Xuân Hương trầm ngâm một lát, nghĩ bụng: "Anh này bàn
cũng phải, biết đâu cái quán này chẳng trở thành một thứ chợ đời, cho mình chọn
bạn?" Ý đã quyết liền nói:
- Vâng thì mở quán, nhưng cũng phải đặt một cái tên cho văn vẻ,
chứ chả lẽ gọi xuông là quán nước?
- Thì đó ta sẵn có hai thắng cảnh, là hồ Tây và Ngọc Hà, đặt
ngay là quán Ngọc Hồ, chả đẹp chán rồi ư? Chữ hồ ( ) này không những đồng âm với
họ Hồ ( ) lại còn với ( ) trong câu thơ của Vương xương Linh, gợi lên được ý nhất
phiến băng tâm kia đấy...[1]
- Thôi đi, còn băng tâm cái con vồ gì nữa![2]
- Hương ạ, cái gì đã qua thì cho qua luôn, nghĩ đến cái sắp tới
mới là thức thời...
- Cám ơn anh đã vạch cho một lối để đi tới. Vậy chúng ta bắt
tay vào việc ngay nhé: năm sắp hết rồi, nên chuẩn bị để kịp khai trương vào dịp
Tết cho may mắn.
Ngôi nhà tường gạch mái tranh, hai lớp cách nhau một sân khá
rộng. Trông ra đường có mảnh vườn xinh xinh, bên trồng hoa, bên râm bóng cây
mít. Nhà trong là nơi phòng khuê. Nhà ngoài làm quán: ghế tre, bàn gỗ đơn sơ
nhưng xếp đặt ngay ngắn, trang nhã. Hai bên vách, vôi mới trắng tinh, tay phải
bức tranh Hai cô Tố Nữ, với bài thơ này:
Bao nhiêu tuổi thế, hử cô mình?
Chị đã xinh mà em cũng xinh!
Đôi lứa như in tờ giấy trắng
Ngàn năm còn mãi cái xuân xanh
Phiếu mai chi đám tình trăng gió
Bồ liễu thôi đành phận mỏng manh
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ?
Trách người thợ vẽ khéo vô tình...
Tường phía trái, anh bạn vẽ chấm phá cảnh đánh đu ngày Tết,
khoảng trên bài thơ vịnh:
Tám cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai co gối hạc, khom khom cật
Gái uốn lưng ong, ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc ruỗi song song
Chơi xuân, có biết xuân chăng tá?
Cột nhổ di rồi... lỗ bỏ không...
Tối ba mươi khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương
đưa quỷ tới
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước
xuân vào!
Tính rằng sáng mồng một mở toang cho thiếu nữ rước xuân,
nhưng lại e thiên hạ né điềm xông đất mà không dám đến, nên mồng bốn mới thực sự
Ngọc Hồ mở quán. Mới đầu, một vài người rụt rè bước vào, ngày sau đông hơn, sau
lại đông hơn nữa.
Mới biết anh bạn đoán đúng: phàm phu thì ít, phần nhiều là
đám chữ nghĩa vì hiếu kỳ mà đến. Mà kỳ thật: phụ nữ bán quán thì thiếu gì,
nhưng ít người có học, phụ nữ có học thì náu trong khuê các hoặc có sáng tác,
cũng ở trong khuôn khổ cương thường, chứ có ai như Xuân Hương hễ xuất khẩu là
trai lơ bóng gió, nói ra toàn những đìêu kiêng kị! Người ta coi cô nàng như một
thứ yêu tinh thần nữ, nên ai cũng tò mò tới xem cho biết!
Vả lại nghe cô chủ quán đối đáp duyên dáng, ai chẳng nức
lòng?
Một anh khóa xem bức vẽ Đánh Đu, nói nhỏ nhẹ:
- Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không... Thì trồng cột khác khó gì!
- Thế mà khó đấy cậu ạ! Là vì cũng phải cột táu cột lim, chứ
cột tạp thì được mấy nả!
Anh khóa trố mắt, lặng lẽ rút lui...
Anh thư sinh khác đọc bài thơ Hai cô Tố Nữ, thắc mắc:
- Còn thú vui kia sao chẳng vẽ, trách người thợ vẽ khéo vô
tình... Tôi nghĩ người ta hữu tình đấy! Giấu đi để cho phải tìm, mới hay chứ!
- Chắc cậu hay chơi ú tim...
- Chơi ú tim đến lúc òa mới sướng...
- Vâng, cũng có khi ú tim mà tìm chẳng ra?
- Biết đâu chừng, cô nhỉ!
Chiều hè oi ả, Xuân Hương ra hóng gió ngoài cửa quán, một anh
khăn lượt áo the thủng thỉnh đi tới, thấy cây mít rủng rỉnh những quả, tủm tỉm
nói:
- Mít nhà chắc thơm lắm đây, cô quán nhỉ?
Xuân Hương nghĩ bụng: trông cũng sạch nước cản đây[3]liền ứng
khẩu:
Thân em như quả mít trên cây
Da nó sù sì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng nõ
Xin đừng mân mó... nhựa ra tay!
Anh chàng mặt đỏ dừ, giả vờ ấp úng:
- Thưa cô, tôi không am hiểu mấy về cây cối, cô bảo đóng nõ
là thế nào cơ?
Tài trai mà không biết? Muốn đóng nõ, phải hái mít xuống
đã...
- Thế à! Rồi phải làm sao nữa, hử cô?
- Rồi rút cuống mít ra lấy cái nõ là một khúc gỗ dài bằng
gang tay, to bằng ngón chân cái, nong lô cuống cho rộng để nhựa chảy ra, nắng
soi vào thì mít chóng chín. Nhưng nhựa nó ra tay, khó chịu lắm đấy!
- Ồ mít có gai, ai dám mân mó...
- Phải để ý vào chứ!
Có lần đằng ô Yên Phụ đem lại một rổ ốc nhồi, con nào con nấy
tròn ủng. Xuân Hương cho ngâm nước vo gạo một đêm, hôm sau đem luộc chín, rồi
nhân lúc vắng khách, gọi người nhà quây quần lại ngồi ngay nơi nền đất, lấy gai
khều vẩy, vừa ăn vừa xuýt xoa, nước mắt nước mũi ràn rụa.
Vừa hay một ông khách vào quán, thấy thế nói đùa:
- Ốc ngon quá nhỉ! Nào cho tôi ngoáy vài con...
Trông khách có vẻ cục mịch, lại ăn nói sỗ sàng, Xuân Hương
không buồn chào hỏi, thủng thỉnh ngâm:
Bác mẹ sinh ra phận ốc nhồi
Đêm ngày lăn lóc đám bùn hôi
Quân tứ có thương thì bóc yếm
Chứ đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi
Rồi cô đứng lên vào nhà trong, để mặc cho người nhà tiếp
đãi...
Một hôm trời đã nhá nhem, hai người mặc thường phục tới quán,
một trông vạm vỡ, râu ria xồm xoàm, một thì loắt choắt, mày râu nhẵn nhụi. Ông
này ỏn ẻn:
- Chẳng giấu gì cô quán, vị này là quan lãnh trong thành nội,
còn bỉ nhân giữ chức thị vệ ở nội cung, chẳng mấy khi có dịp ra chơi bên ngoài.
Nay nghe tiếng cô là tay tài nữ nên...
Rồi ông ta lắc lư ngâm hai câu:
Rằng nghe nổi tiếng tài danh
Thử xem có được mắt xanh để vào!
Xuân Hương cười nụ, nghĩ thầm: rõ khéo, để vào thì để vào đâu
kia chứ? Nhưng cũng ôn tồn thưa:
- Em thì tài danh gì đâu, chẳng qua chỉ nôm na ít câu tục tĩu
không đáng để vào tai bậc trí thức như các quan...
- Không sao đâu, có tục có thanh mới thành giai cú chứ.
- Vậy em xin phép mừng quan Thị trước một bài:
Mười hai bà mụ ghét chi nhau
Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu?
Rúc rích thây cha con chuột nhắt
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu
Đố ai biết được vông hay tróc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Thôi thế thì thôi, thôi cũng được
Ngàn năm khỏi chịu tiếng trong dâu!
Quan Thị cảm thấy đau hơn hoạn, mặt mày xanh xám, mắc cở với
bạn đồng hành, song cũng cố nén giận để chữa thẹn:
- Thơ cô hay đáo để... Đáo để! Nhưng... nhưng mà... nhưng mà
thôi? Cô hãy tặng quan lãnh đây một bài đi, cho vui?
Bấy giờ, quán mới lên đèn, Xuân Hương tươi cười đáp:
- Vâng, em có mấy câu để tỏ lòng khâm phục tài thao lược của
quan Lãnh:
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Tối tuy không mắt, sáng hơn đèn!
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen...
Vừa dứt câu thì quan Lãnh đẩy ghế đứng phắt dậy, mặt hầm hầm,
kéo tay quan Thị bỏ đi, không một tiếng chào.
Mấy người khách quen, từ nãy giờ nghe thơ chỉ tủm tỉm đưa mắt
nhìn nhau, giờ mới phá ra cười:
- Nữ sĩ sao mà độc miệng thế! Người ta quan cách thế mà nỡ ví
với cái của nợ! Các quan giận là phải...
- Tôi cứ nghĩ lão ta không hiểu kia đấy. Nhưng biết nổi giận
thì cũng là thông minh. Còn hơn nhiều tướng tá?
Quán Ngọc Bô nổi tiếng đến độ người ngoại quốc cũng muốn tham
quan! Một chú Tàu có máu văn nhân, một hôm tìm tới. Chừng mới theo đạo quân Tôn
sĩ Nghị sang, nên chưa nói được tiếng ta, xồ một thôi tiếng Quảng đông, Xuân
Hương không hiểu gì cả, nhưng thấy tia mắt có vẻ sỗ sàng. Liền cầm bút viết:
Chân đi hài Hán,
tay bán bánh Đường,
miệng nói líu lường
Ngây ngô, ngâý ngố
Chú Tàu cầm xem, đọc được mấy chữ Hán, Đường, Lương, Ngô còn
thì chữ nôm rậm rì, chưa từng đọc qua, e rằng công kích sự xâm lược của mình
chăng, nên uống chén trà rồi cười hề hề, đứng lên cáo thoái.
Vào cữ tháng ba, một hôm Xuân Hương đang bận làm bánh trôi nước [4] thì
người nhà vào thưa: Một cậu công tử có tiểu đồng điếu cháp theo sau, ngỏ ý muốn
được gặp chủ quán.
Xuân Hương bảo hỏi xem là ai, thì mới hay là cậu Phạm Đình Hổ.
- À cậu Chiêu đây mà! Cậu là danh gia tử đệ đấy.
Cô giở bận một chút, hãy đưa mấy câu này ra trình trước đã...
Người nhà đem tờ hoa tiên ra, cậu chiêu giơ lên xem thấy bốn
câu:
Quả cau nho nhỏ, lá trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi
Liền gọi tiểu đồng mở cháp lấy giấy bút đáp lời:
Người Cổ lại còn đeo thói Nguyệt
Buồng Xuân chi để lạnh mùi Hương!
Xuân Hương đọc qua, mỉm cười: Cổ ghép Nguyệt là chữ Hồ, gọi hẳn
tên họ mình ra, lại trêu mình trong cảnh quạnh hiu! Vội vấn khăn lại rồi cho mời
khách vào.
Thấy người có vẻ tuấn tú phong cách hào hoa, nàng rất đẹp
lòng, chào mời vồn vã:
- Chả mấy khi rồng đến nhà tôm, xin mời công tử ngồi đây,
dùng chén trà đạm bạc này, may ra hương cúc Thúy sơn sẽ khiến buồng xuân đỡ lạnh
chút nào...
Chiêu Hổ [5] cười nụ:
- Khẩu trầu ngoài kia đưa, tôi chưa dám thử xem "quệt"
ra sao, vì sợ mình yếu bóng vía, chưa gì đã say... đâm ra ngất ngư...
Xuân Hương ửng hồng đôi má, vội nói lảng:
- Thật là quý vật tìm quý nhân đây nhá: chả nhân tết hàn thực,
nhà có làm ít bánh trôi nước, để mời công tử nếm thử vài viên...
Thử vài viên? Quý nương nói đúng quá đi mất thôi? Nhưng tôi
có tật "đưa cay" trước đã...
Xuân Hương vội lấy bình rượn Võng thị rót vào chén sứ, nâng mời.
Chiêu ghé môi, nhấp nhắp, đầu gật gù, mắt liếc ngang, tay cầm thìa vớt viên
bánh, nhấm nhí ra điều tán thưởng, rồi chậm rãi khen:
- Rượn ngon, người đẹp, bánh lại khéo! Áo ngoài mịn màng,
viên đường bên trong lúc cắn vỡ, lại thơm ngát mùi mía Đường Chèo, thật là tuyệt
phẩm...
Xuân Hương nhỏ nhẹ:
Công tử quá khen, chứ viên bánh tầm thường này có đáng gì, chẳng
qua cũng tầm thường như em đấy mà thôi:
Thân em thì trắng, phận chưa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Dản nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son...
- Lòng son thơm ngọt thế này, lo gì phận ấy chẳng tròn!
Thế rồi chuyện nọ dọ chuyện kia, giây cà ra giây muống, văn
thơ đẩy đưa tình tứ, tình tứ bốc ngụt hơi men, công tử với quý nương rồi đổi ra
anh với em, anh lại biến ra ông, em nhảy lên chị, lúc nào không biết, khiến
chiêu ta không ngăn nổi một vài cử chỉ chớt nhả làm cho giai nhân phải ra bộ lập
nghiêm:
Anh đồ tỉnh? Anh đồ say?
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày?
Này này, chị bảo cho mà biết:
Chốn ấy hang hùm, chớ mó tay!
Chiêu thấy hang hùm mà là chốn ấy thì cũng bực lòng cho Hổ,
đâm cù nhầy:
Này ông tỉnh! Này ông say!
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bằng không ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay?
Phải rồi, không thế thì lấy đâu ra con mà bồng trên tay? Nói
với người say như vay không trả, Xuân Hương thôi cũng đành vậy, chứ biết sao
bây giờ...
Từ đấy, hai người sống bên nhau trong cảnh già nhân ngãi non
vợ chồng, khi rượu thơ, khi đàn địch, khi cây cảnh, khi cuộc cờ... Cuộc cờ trên
bàn son rồi gợi hứng cho Xuân Hương miêu tả cuộc cờ người:
Chàng với thiếp canh khuya trằn trọc
Đốt đèn lên, đánh cuộc cờ người
Hẹn rằng đấu trí mà chơi
Cấm ngoại thủy không ai được biết
Nào tướng sĩ giàn ra cho hết
Thiếp cùng chàng hãy quyết một phen
Quân thiếp trắng, quân chàng đen
Hai quân ấy chơi nhau đà phải lứa
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa
Thiếp vội vàng vén phứa tượng lên
Hai xe hà, chàng gác hai bên
Thiếp sợ bí, thiếp liền ghểnh sĩ
Chàng lừa thiếp đương khi bất ý
Đem tốt đầu dú dí vô cung
Thiếp đương mắc nước xe lồng
Nước pháo bỗng nổ đùng ra chiếu
Chàng bảo chịu, thiếp rằng chửa chịu
Thua thì thua, quyết níu lấy con...
Khi vui nước nước non non
Khi buồn, lại giở bàn son quân ngà...
Chú lái kia ơi, biết chú rồi!
Qua sông, đã lại đấm ngay bòi...
Trèo ghe vừa khỏi dòng sông ngược
Đấm cược ngay vào ngấn nước suôi
Mới được lên bờ, đà vỗ đít
Nào khi giữa khúc phải co vòi
Chuyến dò nên nghĩa sao không nhớ?
Sang nữa, hay là một chuyến thôi!
Khốn thay, một chuyến thôi hay là sang nữa, quyền còn đâu ở cậu
chiêu? quyền thuộc... tạo hóa!
Lại có hôm trời nắng, Xuân Hương giặt rũ xong đem phơi la liệt
trên sân rồi ngồi nghỉ nhà trong, thì chiêu Hổ ở ngoài đi vào, đầu vướng phải một
vạt áo dài. Xuân Hương ngó thấy, vừa cười ngặt nghẹo, vừa nói:
- Rõ đẹp chửa, anh đồ ơi!
Tán tía tàn vàng,
che đầu nhau đỡ khi nắng cực.
Chiêu Hổ bực mình, lẩm bẩm:
- Chà, quân này hỗn thật, những của nợ này mà gọi là tàn với
tán, lại còn nói lái nữa chứ!
Rồi cất to tiếng:
- Nghe đối ngay đây:Thuyền rồng mui vẽ, vén buồm lên rồi sẽ lộn
lèo!
Thế là cùng phá lên cười, Xuân Hương chờ chiêu Hổ khép cửa rồi
cùng nhau... tránh nắng!
Nhân ngày Phật đản, một bạn gái hẹn đợi Xuân Hương canh năm
hôm sau đến tìm để cùng đi lễ chùa Diên Hựu (tức chùa Một Cột gần đó). Không ngờ
qua một đêm mưa gió, Xuân Hương đến sáng rõ rồi mới sực tỉnh, tần ngần nói với
chiêu Hổ:
- Lỡ hẹn mất rồi! Lạ quá, mọi khi cứ trống canh năm là dậy rồi,
sao hôm nay chẳng nghe thấy tiếng trống? Hay là trống thủng rồi cũng nên...
Chiêu Hổ đương ngái ngủ, lẩm bẩm:
- Tại mình ngủ say chứ, sao lại đổ cho trống thủng? Nó thủng
như em ấy...
Xuân Hương mỉm cười, khẽ ngâm:
Của em bưng bít những bùi nhùi
Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi
Ngày vắng bập bùng dăm bảy chiếc
Đêm thanh tùng cắc một đôi hồi
Khi dang thẳng cánh bù khi cúi
Lúc đứng chưa xong đã lúc ngồi
Nhắn nhủ ai về thương lấy với:
Thịt da, ai cũng thế mà thôi...
Chiêu Hổ lườm lườm vẻ trìu mến, hỏi:
- Thế sang nữa hay là một chuyến thôi?
Cuộc dan díu này vừa đôi phải lứa, qua mấy tháng hè thật là
khăng khít bên nhau. Đến khi trời đổ sang thu, chiêu Hổ dần dần thưa bóng. Chẳng
phải có thay đổi gì trong lòng chàng, nhưng đã đến lúc nho sĩ phải vùi đầu
trong nghiên bút để kịp dự khóa thi sắp tới. Một buổi, nhân trong quán có việc
phải chi tiêu bất thần mà tiền chưa sẵn, Xuân Hương sai người đưa thư vay chiêu
Hổ 5 quan. Chiêu dúi cho 3 quan cầm về. Nàng liền gửi lại mấy câu trách đùa Chú
Cuội trên cây đa cung trăng:
Đã bảo là năm, lại có ba!
Trách người quân tử hẹn sai ra
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
Nhớ hái cho vài nắm lá đa...
Chiêu ta cãi bứa:
Rằng "gián" thì năm, quý mới ba
Tại người thục nữ tính không ra
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa!
Xuân Hương bật cười, nghĩ bụng: người ta hỏi 5 quan, tuy
không nói rõ, nhưng tất nhiên là 5 quan quý, nay lại vờ tưởng hỏi 6 quan gián,
rồi xì ra 3 quan quý, ra cái điều yêu quý mới làm thế! Anh đồ láu lỉnh, coi vậy
mà cũng... dễ thương...
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt, sự chểnh mảng này không khỏi
làm cho nguyệt nhung nhớ gốc đa, nên gửi lời thăm hỏi:
Đã bấy lâu nay luống nhắn nhe
Nhắn nhe toan những sự gùn ghè
Gùn ghè, nhưng vẫn còn chưa dám
Chưa dám cho nên phải rụt rè...
Anh đồ họa ngay, vẫn cái giọng ỡm ờ:
Hỡi hỡi cô hay tớ bảo nhe
Bảo nhe không được, gậy ông ghè
Ông ghè không được, ông ghè mãi
Ghè mãi rồi lâu cũng phải rè...
Từ khi gặp Chiêu Hổ, Xuân Hương được đáp ứng dồi dào về nhu cầu
thể chất, văn tài lại nẩy nở đến mức tinh vi, nên nàng thấy cuộc đời tràn đầy
sinh thú, không còn ước vọng viển vông gì nữa.
Một hôm rảnh rỗi, nàng thủng thỉnh một mình đi đến Khán xuân
đài. Đài dựng ngay chân núi Nùng, để khách thừa lương vãn cảnh. Đối cảnh sinh
tình, nàng khẽ ngâm:
Êm ả chiều thu đến Khán dài
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai
Ba hồi triêu mộ chuông gầm sóng
Một vũng tang thương nước lộn giời
Bể ai nghìn trùng khôn tát cạn
Nguồn ân muôn trượng vẫn chơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười...
Cực lạc là đây chín rõ mười? Trong lúc sung mãn thì Xuân
Hương nói thế, chứ có ngờ đâu khi lên tột đỉnh rồi ắt phải xuống, chín rõ mười
thì mười rồi xuống chín và còn xuống nữa? Chả là vì hạnh phúc của nàng do chiêu
Hổ đem lại, mà cậu chiêu thì sau buổi đầu bồng bột, lòng mến thương đã lắng,
không còn ăn đêm ở ngày nơi quán Ngọc Hô nữa mà chỉ ừ, rồi thong thả lên chơi
thôi, bởi nhiều lẽ.
Cuộc dan díu này cậu dấu diếm kỹ thế mà sao thiên hạ đồn rầm
lên khiến cha mẹ răn đe, vợ con hờn giận, bạn bè cũng chê cười? Ấy chỉ vì những
bài thơ xướng họa với Xuân Hương không biết do đâu truyền đi mà nhiều người thuộc
thế! Thanh niên thì thích thú ngợi khen, nhưng người đứng tuổi, nhất là trong
làng Nho, ai cũng cho là nhảm nhí. Thơ Xuân Hương lẳng lơ đã đành, thơ chiêu Hổ
thật không ra phẩm hạnh người đọc sách thánh hiền. Thành thử chiêu Hổ cũng ngượng
ngùng, rồi đâm hối hận là có tội với danh giáo. Huống chi, như trên đã nói, gần
đến khóa thi rồi không thể đa mang tình nhi nữ được nữa. Thế là cậu bán sới.
Chừng một tháng sau, Phạm Đình Hổ đi dự thi, đỗ hương cống: cậu
chiêu nay đã lên chân cống sinh, càng cần phải xét nét hạnh kiểm. Gia dĩ thân
phụ đang giữ chức lớn trong triều, cũng muốn dẹp bớt tai tiếng cho con, nên tìm
cách nâng đỡ cho sớm được xuất chính, để xa lánh đất Thăng Long, nhất là xa
quán Ngọc Hồ. Nhân bấy giờ vùng Thanh Nghệ đương có mấy chân khuyết, thày Cống
chỉ đợi có ít ngày là được lệnh bổ đi một huyện nhỏ tỉnh Hà tĩnh. Liền sắm sửa
hành trang rồi dẫn thê tử lên đường nhậm chức. Được tin này, Xuân Hương không
giận mà lại thương cho quan huyện mới đã bị bả vinh hoa nhốt vào vòng cương tỏa,
làm thui chột khí phách của tuổi vàng son...
Nàng lại mừng cho mình may mắn không vướng phải chút hùm con!
Cứ kể có mà bồng trốc tay đôi khi cũng đỡ buồn, nhưng ở buổi nhiễu nhương này,
mẹ con rồi trông cậy vào đâu lúc mai kia mốt nọ? Cho nên Xuân Hương càng ngậm
ngùi thân phận, càng chán chường cho tình người và ngán ngẩm tuồng đời. Nhớ lại
câu mình tự hỏi: nào cực lạc là đâu tá? thêm thẹn thùng chua xót nghĩ tới cái hồi
nào đó tưởng đã tìm ra giải đáp...
Thì bây giờ cực lạc là thế này đây?
Xuân Hương tìm khuây khỏa trong những cuộc nhàn du, gửi tâm hồn
vào gió mây non nước. Có lần vui chân lên huyện Sài sơn, tỉnh Sơn tây, thăm
chùa Phật tích ở xã Thụy khuê, tục gọi là chùa Thày nơi sư Từ Đạo Hạnh xưa, khi
viên tịch thoát xác trong một hang đá mà người sau gọi là hang Thánh hóa. Xuân
Hương tức cảnh:
Hang Thánh Hóa
Khen thay con Tạo khéo khôn phàm
Một đố giương ra biết mấy ngàm
Luồn đá, cỏ leo sờ rậm rạp
Lách khe, nước dỉ, mó lam nham
Một sư đầu trọc ngồi khua mõ
Hai tiểu lưng tròn đứng giữ am
Mới biết đây là Hang Thánh hóa
Chồn chân mỏi gối vẫn còn ham...
Nơi đây, còn một hang nữa mang cái tên éo le: hang Cắc cớ.
Tên này làm nàng thoát ra ngay năm vần:
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phồm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh cho lắm kẻ nhòm...
Tự tình
Chiếc bách buồn vì phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh dênh
Lưng khoang tình nghĩa nhường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh
Cầm lái, mặc ai lăm đỗ bến
Dong lèo, thây kẻ rắp xuôi ghềnh
Ây ai thăm ván cam lòng vậy
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh?
Ngồi nhẩm những đoạn tơ chắp nối, cố quên đi những phen phụ bạc
ơ hờ, để tưởng lại một đôi nơi từng chớm với mình bao xúc cảm đằm thắm êm đềm,
nàng giở lại những vần tình tứ mình gửi cho bạn thơ như Tốn Phong:
I
Chồn bước may đâu khéo hẹn hò
Duyên chi, hay bởi nợ chi, ru?
Sương sa áo lục nhồi hương sạ
Gió lọt cành lê lướt mặt hồ
Muốn chắp chỉ đào thêu trướng gấm
Mà đem lá thắm thả dòng Tô
Trong trần mấy kẻ tinh con mắt
Biết ngọc mà trao, mới kể cho...
II
Kiếp này chẳng gặp nữa thì liều
Những chắc trăm năm, há bấy nhiêu
Nghĩ lại luống đau cho phận bạc
Nói ra thêm nhẹ với thân bèo
Chén thề thủa nọ tay còn dính
Món tóc thời xưa cánh vẫn đeo
Được lứa tài tình cho xứng đáng
Nghìn non muôn nước cũng tìm theo
Hay cho thi hữu Sơn phủ:
Này đoạn chung tình biết với nhau
Tiễn đưa ba bước tới bên câu
Trên tay khép mở tênh chiều nhạn
Trước mặt đi về gấp bóng câu
Nước mắt trên hoa là lối cũ
Mùi hương trong nệm cả đêm thâu
Vắng nhau mới biết tình nhau lắm
Này doạn chung tình biết với nhau...
Bạn thơ của Xuân Hương không những chỉ ở trong đám văn nhân
tài tử như Tốn Phong và Sơn Phủ, mà còn thấp thoáng nơi vai vế trong chính quyền
nữa. Khoảng năm 1810, nàng từng xướng họa với Nguyễn Hầu, Nghi Xuân, Tiên Điền,
tức là tác giả Truyện Kiều, lúc ấy ngồi chức tri phủ Thường Tín (Hà Đông). Rồi
bẵng đi 3 năm, bỗng được tin hầu thăng chức Cần chánh điện học sĩ, bèn gửi mừng
một luật Đường:
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới dâý gửi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút sương đeo mái
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng chong...
Hồi này Tố Như tiên sinh đang ở Thăng Long để sửa soạn sung
chức chánh sứ sangTrung Hoa, không biết hôm sau khi được thơ, có đến thâm tạ
người đẹp, hay bận rộn mà lơ là...
Vốn dòng thi lễ
(Viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
MIẾNG ĐỈNH CHUNG
Cực lạc là thế này đây: nhọc nhằn lận đận, uổng một đời thông
minh? Ngồi một mình trong quán vắng, Xuân Hương đang chán chường cho thân thế,
thì một người nón dứa áo xa bước vào. Trông vẻ chững chạc, tuổi chừng trên dưới
ba mươi, hình như ở xa mới đến, giầy còn đầy bụi.
Khách vội nói ngay:
- May quá được gặp quý nương! Chả là bữa nọ bỉ nhân đã đến mà
chưa được chiêm ngưỡng tư dung, nên chẳng ngại xa xôi, hôm nay phải đến nữa, vì
quý nương đã dành cho một nửa cảm tình rồi...
- Dành cho một nửa cảm tình? Tiên sinh nói thế là sao cơ, tiện
thiếp không hiểu?
- Bỉ nhân có vật này, quý nương trông thấy là hiểu ngay.
Liền rút trong túi ra một phong giấy đặt lên bàn trước mặt
Xuân Hương. Nàng ngập ngừng nói:
- Phong giấy này dán kín, thiếp đâu dám đường đột…
- Không sao đâu. Hay thôi, để bỉ nhân đưa trình cho phải
phép.
Khách cẩn thận bóc theo đường dán, lấy ra một mảnh hoa tiên.
Hai tay nâng trình, Xuân Hương đỡ lấy mở ra xem, giật mình thấy tuồng chữ của
mình viết:
Mảnh tình ví xẻ làm đôi được
Nửa để trong nhà, nửa đệ ra...
Bụng bảo dạ: Rõ nỡm thật! Bữa ấy mắc dở có hùm đây mà... Vội
trấn tĩnh ngay:
- Xin tiên sinh miễn trách. Hôm ấy trong nhà làm bánh, đang
mê man về nhào với nặn, nên mang lỗi thất nghênh.
- Quý nương coi đấy, bỉ nhân nói có sai đâu! Đã được một nửa
đệ ra rồi, nay xin cho nết nửa để trong nhà ...
- Cái đó không khó. Chúng ta là con nhà văn tự mà! Tiên sinh
hạ cố, tất đã xem qua thơ của thiếp: dở hay tùy lượng đại phương, nhưng đó cũng
là một nửa rồi. Còn nửa kia về phần tiên sinh...
- Ấy chết, quý nương tính sai rồi, nửa mà quý nương vừa nói
đó, là nửa đệ ra ngoài, còn nửa để trong nhà đâu đã thấy?
- Thì văn thơ có xướng ắt có họa chứ? Xin được nghe giai cú
đã, đi đâu mà vội?
- Bỉ nhân xin thú thật: về văn nôm thì khả năng không đủ nói
tới, nhất là trước mặt Tạ, Ban... Chỉ xin ra đề để bỉ nhân học đòi làm đôi vần
phú...
- Đã thế, dám xin tiên sinh cho kẻ ngu độn này được lãnh hội
ít vần về Dịch đình Dương xa[6]chẳng hạn...
Xuân Hương bèn mời khách vào nhà trong, xếp chỗ tĩnh mịch, có
đủ văn phòng tứ bảo lại thêm nậm rượu bình trà, để khách ngồi cấu tứ...
Chừng một giờ sau, khách thoát cảo, diện trình giai nhân.
Nàng vừa đọc vừa tấm tắc khen: lời hay, vần chỉnh, ý lại sâu sắc, thật đáng tài
khoa giáp. Kỳ này tiên sinh ứng cử đi, thế nào cũng vượt vũ môn! Bây giờ trời
đã chiều rồi, mời tiên sinh nán lại dùng bữa cơm rau với em nhé!
Khách vui vẻ ở lại, hai người uống rượu ngâm thơ rất là tương
đắc. Dần dà cũng như hồi nọ: tiên sinh với quý nương biến ra anh với em lúc nào
không hay...
Sau đó, một tháng đôi tuần, có khi ba bốn, khách lại tìm đến
uống chén tẩy trần cho quên dọc đường gió bụi. Rồi một hôm, khách ngập ngừng
nói nhỏ:
- Chẳng dấu gì em, anh ở tỉnh nhỏ, không về đây được năng như
ý muốn, vậy em thử tính dùm xem... hay là xuống tỉnh với anh cho vui...
- Nhưng còn bà cả, biết có ưng cho không?
- Không ưng rồi cũng phải ưng, cốt ở anh mà! Cứ tin ở anh là
xong xuôi hết...
Nghe bùi tai Xuân Hương mềm lòng, lại nghĩ từ khi hùm đi,
mình chẳng dòm nom gì đến quán thành ra vắng vẻ buồn tênh. Thôi thì lại làmhai
lần nữa cũng đành, cho đáng cái kiếp dự phần tài sắc!
Thế là nhất quyết dẹp quán, theo chàng xuôi xuống Hưng Yên,
chấp nhận mọi thử thách... Có biết đâu làm lẽ kỳ này khác xa kỳ trước: kỳ trước
tổng Cóc máu mê cờ bạc bỏ mình trỏng trơ, nhưng vợ cả trọng tuổi không hành hạ
mình. Còn kỳ này mình được chồng nặng tình âu yếm thì lại bị cô vợ cả trẻ trung
cứ giữ riết anh chàng không dời nửa bước, đẩy mình vào cái cảnh ăn cơm nguội nằm
nhà ngoài, chịu làm sao cho thấu!
Những đêm một mình một bóng, nàng không ngăn được nỗi hận
lòng, lẩm bẩm rủa thầm:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Mười đêm, chị giữ mười đêm cả
Suốt tháng, em nằm suốt tháng không
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công
Thân này ví biết nhường này nhỉ
Thà trước thôi đành... ở vậy xong!
Nỗi niềm của vợ lẽ không ai thấu triệt bằng chồng. Nhưng chồng
sợ điều tiếng trong gia đạo làm phố xóm chê cười, nên đành ngậm miệng, để hết
tâm trí vào việc dùi mài kinh sử cho quên cay đắng.
Thật may mắn cho hai kẻ đa tình: nỗi đau ngấm ngầm tưởng
không cách nào nguôi được, hay đâu con đường khoa hoạn lại giải thóat dùm cho:
khoa thi vừa mở thì lều chõng mấy kỳ chồng đều trót lọt, đến khi yết bảng, tên
chàng lồ lộ đứng vào số năm. Đúng là cá vượt vũ môn như lời Xuân Hương tiên
đoán! Mừng này chưa hết lại tiếp nỗi mừng hơn: trong có vài tháng, được bổ tri
phủ Vĩnh tường. Vội thu xếp việc nhà: mới đi nhậm chức nơi xa, chưa tiện đem
theo hết gia tiểu, thì vợ cái con cột hãy ở lại phụng dưỡng mẹ già và trông nom
ruộng nương nhà cửa, tạm chỉ một mình cô hai theo hầu cơm nước, yên ổn đâu đấy
rồi sẽ tính sau...
Thế là một sớm Xuân Hương cùng chồng trực chỉ phủ đường. Đến
nơi, nàng thở phào nhẹ nhõm: từ đây,vợ cả vợ hai cũng là vợ cả, câu nói đùa trở
thành sự thật, mình nghiễm nhiên là bà phủ Vĩnh Tường tênh tênh một vai mạnh phụ...
Phủ đường nằm trên bờ sông Hồng, chung quanh cây cối um tùm,
những khi rỗi rảnh vợ chồng đối diện đàm tâm, nàng chuốt nên lời thơ siêu
thoát, không còn cái giọng tinh ranh bóng gió thủa còn non tuổi:
Thánh thót tàu tiêu mấy hạt mưa
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu sơ:
Xanh um cổ thụ tròn xoe tán
Trắng xóa trường giang phẳng lặng tờ.
Bầu rốc giang sơn say chập rượu
Túi lưng phong nguyệt nặng vì thơ
Ô hay, cảnh cũng ưa người nhỉ
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ...
Ông Phủ vốn là cốt cách văn nhược, trong tuổi học trò quá
chuyên cần đèn sách, nên sức vóc mỏi mòn, hôm nào tan buổi hầu sáng cũng phải
nghỉ trưa tĩnh dưỡng. Những lúc này bà phủ được thong thả, hay ra ngồi chơi
ngoài công đường, trò chuyện với những dân đứng chờ nộp đơn buổi chiều. Có khi
xem đơn thấy việc nào không quan trọng thì tự ý giải quyết, cốt nhẹ việc cho chồng.
Một hôm, một ông hương cống xin phép mổ trâu.Ý chừng muốn
tránh tiếng mổ cho là không nhã, nên ông viết: xin làm trâu. Bà phủ không nín được
cười, phê ngay:
Người ta thì chẳng được đâu
Ừ thì ông Cống làm trâu thì làm!
Tha hồ cho ông cống làm thân con trâu!
Lại có lần chị Nguyễn Thị Đào, vợ góa một anh lái đò đầu đơn
xin rút hạn tang chồng để đi tái giá lấy chỗ nương tựa, vì quá nghèo khổ. Bà phủ
cầm bút viết liền trên đơn:
Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo, cắm sào đợi ai?
Chữ rằng: xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút, kẻo mai nữa già...
Những chuyện này khi nàng kể lại cho chồng nghe, ông phủ chỉ
cười, vì yêu cái tính của vợ hồn nhiên, không coi khuôn phép vào đâu cả.
Vợ chồng sống bên nhau thật là xứng ý: khi trà rượu, khi văn
thơ sử sách, cuộc đời ung dung tươi sáng, tưởng còn hạnh phúc nào hơn!
Tiếc thay, cuộc vui nào rồi cũng đến lúc tàn: sức khỏe của
ông phủ mỗi ngày một đuối, đến một hôm đi kinh lý miền xa bị cảm gió sương, lúc
về nằm liệt cả tuần, rồi cứ lả dần, lả dần, đến khi tắt nghỉ trên tay người bạn
chung tình...
Thế là một trời sụp đổ trước mắt Xuân Hương. Nàng oán tạo hóa
bất công, hận cuộc đời nghiệt ngã, lòng thương chồng tưởng hàng trăm năm chưa dứt,
đâu phải chỉ đến mãn tang là thôi! Vì thế nàng nghẹn ngào thổn thức:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Cái nợ trần hoàn có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hóa rơi đâu mất
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bẩy tháng trời là mấy chốc
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Mọi việc tang lễ lo đầy đủ, Xuân Hương trở lại Thăng Long, mướn
một căn nhà nhỏ ở phố Lý Quốc Sư [7] gần ngõ huyện Thọ Xương, để sớm hôm thờ cúng
ông Phủ cho trọn đạo một vị vong nhân.
Một mình vò võ, càng nghĩ càng thấm thía câumá hồng phận bạc,
rồi lại tự bào chữa: mình là con nhà dân dã, giá đừng trèo cao thì đâu đến nỗi
ngã đau thế này.
Giữa lúc ấy, nghe phía huyện có tiếng khóc, hỏi ra mới biết
là bà huyện khóc chồng chẳng may tạ thế hôm trước. Xuân Hương cảm thấy tình cảnh
sao mà y hệt như của mình, vì bà huyện vốn là một cô gái quê, nên lẩm bẩm mấy
câu nhắn người mà cũng là tự nhủ:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng
Nín đi, kẻo thẹn với non sông...
Ai về nhắn nhủ đàn em bé:
Xấu máu, thì khem miếng đỉnh chung!.
Vốn dòng thi lễ
(Viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
"Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!" Lời khóc thê thiết
thốt ra trong lúc đau thương tột độ này, tưởng rồi sẽ nguôi dần theo dòng thời
gian. Ai ngờ không những đã qua hăm bẩy tháng trời tang tóc, mà còn dài, còn
lâu nữa sau đó. Xuân Hương vẫn một niềm chung thủy với chồng.
Tự lòng nàng muốn vẹn nghĩa đã đành, nhưng thời thế cũng giúp
cho quyết tâm ấy không bị lay chuyển. Là vì chưa mãn tang ông phủ, nàng đã thấy
triều Lê sụp đổ. Qua mấy năm Quang Trung, đại cục tuy có vãn hồi, nhưng nhân
dân còn trong cảnh điêu tàn: loạn lạc làm cho nhiều gia đình ly tán, đói kém
gây ra cảnh cướp bóc, ai cũng lo chạy lấy thân, còn bụng nào nghĩ đến những vui
chơi trong buổi thanh bình!
Về phần Xuân Hương, từ khi rời phủ Vĩnh Tường trở về Thăng Long,
ở phố Lý Quốc Sư, cùng với ông bõ già khi trước trông nom quán Ngọc Hồ, và bà
vú nuôi từ hồi măng sữa, ba người ẩn nhẫn sống qua ngày. Khi có giặc thì tạm
lánh về quê bà vú, yên hàn lại trở ra, một mình bà vú buôn quanh bán quẩn cũng
qua ngày. Còn Xuân Hương âm thầm tâm niệm trước bàn thờ chồng, không còn tính
cao ngạo như trước.
Vả lại những bạn bè thân tình khi trước đều lưu lạctha
phương, không gặp ai để vui cười ngâm vịnh nữa. Chỉ có một lần đi rẽ qua một
ngõ nhỏ để ra bờ sông, thấy mấy bà sì sụp lễ bái trước một ngôi đền đặt trên
chòi cao khói hương nghi ngút, nàng ghé vào xem tấm bảng trên cửa ngoài, mới biết
là thờ Sầm Nghi Đống, thái thú bị vùi thây trên gò Đống Đa dạo nào. Liền hỏi mấy
bà đi lễ:
- Đây là nơi thờ của người Tàu, sao các bà lại đến vái lạy
làm gì?
Mới biết là người Tàu sau khi tìm ra được thây họ Sầm còn bọc
trong quần áo tướng võ, đã xây mộ trên gò, rồi lập đền ở đây và loan truyền là
thiêng lắm. Mấy bà kia sở dĩ đến lễ tạ, vì mấy đứa trẻ nhỏ đi chăn trâu trên
gò, đã vô ý bài tiết trên mộ Sầm nên khi về nhà bị sốt mê man...
Nàng bực mình, khẩu chiếm mấy câu:
Ghé mắt trông sang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!
Anh hùng nỗi gì? Bị quân ta giết chết, lại đi trả thù mấy đứa
trẻ nít...
Xuân Hương sống heo hút thế mà thấm thoát đã hơn mười năm
qua. Đến lúc an ninh trở lại thì đà sang mấy năm Gia Long rồi! Sự ổn định không
phải do tài vua mới, mà chỉ là qua bao thời giặc giã, nhân dân chán nản cảnh lục
đục gây gổ, nên nức lòng hòa hoãn để xây dựng lại quê hương.
Nói đến quê hương, nàng sực nghĩ: mình tuy sinh trưởng ở đất
Bắc nhưng mang dòng máu miền Trung, bấy lâu nay lận đận chưa bao giờ thăm được
nơi gốc gác, bây giờ bình yên cũng nên thu xếp về chơi một phen cho biết.
Đường bộ nhọc nhằn, thân gái khó bề kham nổi, nàng liền cùng
bà vú ra bên Nứa hỏi ngày có chuyến vào Nghệ, rồi về sắm sửa hành lý, hai người
dắt nhau đúng hẹn xuống thuyền.
Gần trưa, thuyền gặp nơi khúc sông hẹp lại: hai bờ, hai quả
núi sừng sững châu đầu vào nhau. Xuân Hương thường nghe nói vùng Kẻ Sở có đoạn
sông gọi là Kẽm Trống, liền xướng lên câu hỏi:
Hai bên thì núi, giữa thì sông
Có phải đây là Kẽm Trống không?
Thấy lái thuyền bảo đúng, nàng tiếp:
Gió đập cành cây khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Ở trong hang đá còn hơi hẹp
Ra khỏi đầu non đã rộng thùng
Qua cửa mình ơi, nên ngắm lại
Bác lái trố mắt:
- Ủa, cô làm thơ? Vậy là giỏi thiệt chớ phải chơi!
Nhưng bà vú lẩm bẩm, chỉ đủ Xuân Hương nghe:
- Mười mấy năm rồi, rộng hẹp, cửa mình cửa ta, bưng bồng bưng
bít, chỉ ông phủ biết là đủ rồi, nhắc mãi làm chi?
- U ơi, em nói để những ai hay nghĩ đâu đâu muốn hiểu sao thì
hiểu, cho bõ cái tiếng yêu tinh thần nữ họ đặt cho mình, còn lòng em, bấy lâu
nay thế nào, u đã thừa rõ...
Từ đấy vào Quỳnh Lưu, hai người được lái thuyền ưu đãi, hành
khách nể vì, nên cuộc hành trình chấm dứt trong vui vẻ thoải mái.
Lên bộ, nhìn quanh mình, quang cảnh thật tiêu điều: vết
thương chiến sự chư hàn gắn được hết, ruộng vườn nứt nẻ, nhà cửa đổ nát hãy còn
nhiều, dân chúng lại lưa thưa, hình như số đông đã chạy về tỉnh thành cho dễ sống
hơn.
Dọ dẫm mãi mới tìm ra mấy gia đình họ Hồ, thì những người ít
tuổi không hiểu gì chuyện cũ đã đành, ngay những người năm sáu mươi cũng không
nhớ được gì chính xác.
Lòng buồn rười rượi, Xuân Hương cùng bà vú tản bộ các nơi,
xem phong cảnh cho khuây. Đi qua một nơi gọi là Cửa Đó, nàng mỉm cười:
- Cửa gì là Cửa Đó? Làm cho em nghĩ đến Cửa Đây!
Bà vú lẩm bẩm:
- Em chỉ thế thôi, không lúc nào nghĩ gì cho đứng đắn cả...
Thì u trông đấy: hai quả núi kia giáp nhau, ngọn ngửa ra mà
chân chụm lại, có khác gì cái hom[8]để ngược, từng thu hút vua chúa cùng văn
nhân quân tử không? Cho nên em bảo:
Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, Tra hom ngược để đơm người đế
bá
Gớm con Tạo lừa cơ tem hẻm, Rút nút suôi cho lọt khách cổ kim
Đương dạo chơi, một hôm Xuân Hương chợt nhớ ra hồi trước
chiêu Hổ vào làm quan trong này, bèn tìm đến một hai phủ huyện hỏi thăm đám nha
lại, thì được biết họ Phạm đã thăng thuyên từ lâu, hiện giữ chức lớn ở Phú
Xuân.
Thấy đường xa cũng ngại, vả lại đi thăm cậu chiêu chỉ để biết
hiện tình bạn cũ mà thôi chứ không dự tính gì hết. Nhưng cất công vào đây chẳng
được việc gì thì ra về sao đành? Nghe nói dọc đường non cao biển rộng, nhiều
nơi hùng vĩ, nên lại nức lòng, đi cho biết đó biết đây.
Qua đèo Ba Dội, nàng vừa trèo vừa ngâm:
Một đèo... một đèo... lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét, tùm hum nóc
Sườn đá xanh rì, lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Văn nhân quân tử ai là chẳng
Mỏi gối chồn chân... vẫn muốn trèo!
Tới được Phú Xuân rồi thì thăm tin cũng dễ: họ Phạm đương làm
quan lớn trong viện Hàn Lâm [9] Tìm đến cửa viện, xin vào yết kiến, thì lính canh
quát tháo:
- Các mụ lớn mật thiệt! Cụ lớn đây nghiêm lắm, đã ra lệnh
không bao giờ cho đàn bà vào dinh, thôi lui đi đừng kêu nài vô ích!
Xuân Hương liền viết tên vào tờ hoa tiên, rồi khẩn khoản nói
với tên lính:
- Thôi, chúng tôi cũng chẳng dám vào quấy nhiễu cụ lớn. Chỉ
xin chú làm ơn trình dùm mảnh giấy này.
Nói hai ba lần, tên lính mới bằng lòng cầm giấy đi. Một lát
sau, hắn trở ra, trả lại tờ hoa tiên. Xuân Hương liếc mắt qua, thấy dưới tên
mình có hai dòng rõ là nét của "hùm":
Rày đã làm cha thằng xích tử
Thôi thì đù mẹ cái hồng nhan
Hai câu thật sỗ sàng nhưng nàng không giận, còn mừng rằng cụ
lớn chưa bị chốn quyền môn làm mất bản sắc, vẫn còn lối cù nhầy như trước, liền
mỉm cười lấy giấy viết một vế đối để giỡn lại:
Mặc áo giáp, giải cài chữ đinh, Mậu kỷ canh, khoe mình là quý
Lại nhờ lính đem trình. Khoảnh khắc, lính cầm ra tờ giấy của
mình như trước, thêm có vế đối lại:
Làm đĩ càn, tai đeo hạt khảm, Tốn li đoài, khéo nói rằng khôn
Rõ là nàng dụng ý gọi chàng bằng đinh là đứa thì chàng cũng
chẳng tha gì, không chê nàng là đĩ! Nhưng đều tuyệt diệu lấy trong 12 chi đối lại
chữ trong l0 can, mà hàm được hai câu chửi rủa đối nhau.
Vừa xem qua, lại nghe lính nói:
- Thôi về đi? Cụ lớn truyền không được đưa giấy tờ gì vào nữa!
Xuân Hương giận tím mặt, kéo bà vú ra về, lẩm bẩm:
- Quân này ba que thật, u ạ! Hễ trèo lên được bậc thang danh
vọng là mất hết tình người? Đạo đức của chúng là thế đấy, có khác gì cái áo cà
sa khoác ngoài mà bên trong chỉ là con thú! Chỉ tiếc rằng khi biết mặt thật của
những người mình tin yêu thì mình đã già rồi...
Không có cái buồn nào thấm thía hơn cái buồn của Xuân Hương
trên đường từ giã Phú Xuân lận đận trở về Thăng Long. May được bà vú khuyên giải
vỗ về nên cũng dần dần khuây khỏa.
Từ khi uể oải trở về phố Lý Quốc Sư, những lúc đêm khuya một
mình một bóng trước đĩa đèn dầu leo lét sợi bấc đã gần xơ, mỗi tiếng trống cầm
canh từ bên huyện Thọ Xương vẳng đến lại gieo vào tâm tư một nỗi quạnh hiu chán
chường, khiến Xuân Hương viết ra lời thơ nghẹn ngào chua xót:
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xuyên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con...
Hồi tưởng những gặp gỡ, những chia ly, những mừng giận, yêu
thương, những bồng bột bỏng cháy nhưng vừa bừng đã tắt, đám rêu hòn đá đâm toạc
xuyên ngang cũng chỉ cung ứng cho sự đòi hỏi được một chút con con, nàng càng
ngán cho phận mình, lại càng xót xa cho số kiếp má hồng...
Thế rồi qua những cuộc tỉnh say vội vã, bóng trăng khuyết vẫn
chưa tròn, mà quanh mình lại điều ong tiếng ve mai mỉa là lẳng lơ sa đọa, lòng
nàng cảm thấy tràn đầy oán hận:
Tiếng gà văng vẳng gáy trên hom
Oán hận trông ra khắp mọi chòm
Mõ thảm không khua mà cũng "cốc"
Chuông sầu chẳng đánh cớ sao "om"?
Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ
Sau giận vì duyên để mõm mòm
Tài tử văn nhân ai đó tá
Thân này đâu đã chịu già tom!
Nỗi oán hận của nàng không cách nào giải tỏa vì bị thể chất
chi phối, chỉ thời gian mới dần dần làm phai mờ đi trong sắc thái bi quan, khiến
nàng rồi không tha thiết gì nữa, chỉ còn lạnh lùng chán ghét mọi sự mà thôi.
Câu"thân này đâu đã chịu già tom" có vẻ thách thức
con tạo, thực ra chỉ để tự an ủi mình, vì một khi"bóng đã vân vân xế chiềư'
chỉ ngăn sao được màu thời gian điểm trên mái tóc, nheo vào đuôi mắt, và như
sau này Tản Đà đã mách:Chợ chiều hôm kẻ cắp lảng thưa dần! Bây giờ khách ngưỡng
mộ chỉ tới lui trong địa hạt văn chương, mà ngay trong địa hạt này, khi đề cập
đến "xuân tình" đến"thú vui" cũng không còn hứng thú như thuở
đương hơ hớ!
Cho nên mình "không chịu già tom" mà rồi hoàng hôn đổ
xuống, bóng giai nhân lặng lẽ chìm dần, chìm dần rồi tan biến vào quên lãng...
Đến nỗi sau này không còn ai biết nàng đã lìa trần vào ngày, tháng, năm nào,
bao nhiêu thi phẩm có bản thảo nào lưu lại.
Nhưng bản thảo nào quý bằng sự truyền khẩu đời đời thích thú
của quốc dân!.
VỐN DÒNG THI LỄ
(Viết về nữ sĩ Hồ Xuân Hương)
Đặc tính thơ Hồ Xuân Hương là khêu gợi nhục thể, một sự khêu
gợi không pha màu lý trí hay thần bí như ta từng gặp trong tác phẩm của những
thi nhân được gọi là ướt át. Khêu gợi ở đây là đề cập đến khoái cảm nhục dục một
cách tha thiết, mà nhà phân tâm học có thể cho là một trạng thái thần kinh bị
ám ảnh, hay một sự bất mãn khiến cho thèm khát thỏa mãn. Dùng những hình ảnh
táo bạo, những lời nói bóng gió, nữ sĩ đã không kiêng nể gì các điều cấm kỵ của
Khổng giáo đương được tôn sùng, và như vậy là đã vượt xa ra ngoài khuôn khổ của
thời đại. Nhưng ngùôn cảm hứng, thì lại gần gũi với gốc gác bình dân của nàng.
Những phụ nữ nghèo và cô đơn hay có thái độđánh liều hoặc/àm già nhiều khi đến
trơ trẽn cũng không ngại. Nàng thì hơn các bạn này nhờ thông minh và học thức.
Khiếu làm thơ của nàng vốn đã kiệt xuất lại được hỗ trợ bằng những từ ngữ vừa
giản dị, vừa tự nhiên, vừa có âm điệu êm ái như ca dao, làm cho câu thơ dễ ngâm
nga, dễ nhớ, do đó mà lan rộng mau lẹ ra quảng đại quần chúng. Nói đến âm điệu
thì tiếng Việt ta vốn là do hài âm mà thành nên bằng trắc hòa hợp cốt sao cho
thuận tai, vì thế: thượng bình thanh đi với dấu sắc dấu hỏi, bình thanh với dấu
nặng dấu ngã, thí dụ: đo đó - đo đỏ - đò đõ, đò đọ. Những chữ đôi cũng như hai
chữ đi liền nhau, nếu chữ trên thượng bình thì chữ sau phải dấu sắc dấu hỏi, mà
bình thanh thì dấu nặng dấu ngã. Nhiều bài thơ rất hay và đúng niêm luật nhưng
không đúng với bằng trắc riêng của tiếng ta, thành ra mang bệnh khổ độc, khó
ngâm, thành ra khó nhớ. Luật bằng trắc này sẵn có trong lời nói tự nhiên. Thơ
Xuân Hương phần nhiều ứng khẩu mà ra, nên cũng tự nhiên mà bằng trắc tiếp nhau
đúng điệu.
Bản tính của Xuân Hương là luôn luôn chống đối. Các nhà nho
đương thời động nói hay viết là dùng chữ Hán cho ra vẻ thông thái. Thế là nàng
dùng tiếng ta đối lại để diễn tả những điều tế nhị bóng bảy chẳng kém gì chữ
Hán: do đó nàng đã nâng tiếng nôm nàng của ta lên hàng thể thức văn chương.
Hành động chối bỏ lề lối của phần đông, cũng là một cử chỉ đáng trọng.
Thế thôi, chứ cho Xuân Hương là một nhà cách mạng, e rằng quá
lạm. Vì rằng sống trong buổi loạn ly (cuối Hậu Lê 1786- 1789, Tây Sơn
1778-1801) qua cuộc chiến thắng vĩ đại của Nguyễn Huệ, nàng không một câu về thời
cục, chỉ đả động phớt qua về Sầm Nghi Đống sau khi hắn đã chết.
Suốt đời nàng chỉ loanh quanh trong cuộc nhân sinh tầm thường:
khổ tâm về cảnh lẽ mọn, nàng không chống chế độ đa thê; buộc phải lấy chồng vì
lẽ sống, nàng đành dẹp bỏ sự đòi hỏi của lòng riêng. Trước sau nàng chỉ một chữdành.
Tuy có quẫy mình nhưng không hăng hái, không quyết liệt, nàng phản kháng bằng
nhạo báng, gây tai tiếng bằng những từ ngữ phô bày lấp ló hoặc nói trại nói
lái.
Như vậy, tưởng chẳng nên gán cho nàng những cao vọng mà nàng
không có, mà chỉ coi nàng là một nữ sĩ bất phục tòng, đã trả thù xã hội quanh
mình bằng thứ khí giới văn chương thật đặc sắc. Nàng đã yêu thương, đã đau khổ
như bao người khác, song chỉ riêng nàng để lại cho chúng ta nụ cười chế diễu vừa
ngạo nghễ và thác loạn.
Chỉ bấy nhiêu cũng đủ cho chúng ta cảm mến và tán thưởng.
[1] Nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ: một tấm lòng băng trong
ngọc hồ
[2] Con vồ: mèo hay khỉ hay vồ thức ăn - băng tâm cái con vồ:
không còn băng tâm gì nữa
[3] Sạch nước cản: trong phép đánh cờ thế, mã đi ô chữ nhật,
tượng đi ô chữ điền, xe đi liền, pháo đi cách, không đi được như thế tất là bị
cản. Sạch nước cản là biết những điều chính trong phép đánh cờ, chứ chưa nói đến
cao thấp. Đây có nghĩa là người hiểu biết đại khái, có thể nói chuyện được.
[4] Bánh trôi nước: bột gạo giã thật mịn, bọc viên đường nhỏ,
thả vào nồi nước đun thật sôi cho chín, vớt bày ra đĩa nước lạnh, làm món ăn
ngày Hàn thực.
[5] Chiêu: tiếng tôn xưng con nhà quan.
[6] Dịch đình dương xa: xe dê trong cung vua (xem cung oán: xe
dê lọ rắc lá dâu mới vào!)
[7] Phố Lý Quốc Sư, thời Pháp gọi là đường Lamblol, có đền thờ
Lý Quốc sư tức là Nguyễn Minh Không. 24 - Đền thiết lập ở trong một ngõ, sau
này gọi là Ngõ Sầm Công.
[8] Hom: những thanh tre buộc chụm lại một đầu, đầu kia để lỏng,
tỏa rộng ra để úp xuống nước bắt cá. Nếu để ngược lên thì khó biết là hình
gì... (hình tam giác mà đầu ở dưới)
[9] Phạm Đình Hổ bấy giờ làm chức hành tẩu trong viện Hàn Lâm.
Đến đời Minh Mạng, được vời làm Tế tửu - Quốc tử giám, vì có tác phong đạo đức!.
Lãng Nhân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét