Thơ
Lưu Trọng Lư và âm nhạc
của tôi - Phạm Duy
Tôi yêu thơ của thi sĩ Lưu Trọng Lư từ hồi nào không biết, nhưng
tôi chọn một bài thơ tiêu biểu nhất của anh là Tiếng thu để phổ thành
ca khúc ngay từ năm 1945, bài này coi như là một bài hát đầu tay, vì nó mới chỉ
là bài ca thứ 5 trong đời âm nhạc của tôi.
Hành nghề tại phòng trà, tôi cần có bài hát để mời khán giả hát theo, tôi bèn phổ bài thơ "Vần thơ sầu rụng", bài này có những đoạn hát:
"Quay đều, quay đều, quay đều", hát sau câu "Năm năm tiếng lụa xe đều, trong cây gió lạnh đưa vèo"... gợi được hành động của một cô gái quay tơ, quay đều, quay đều... và như thế là tôi làm tăng tính chất lãng mạn của thơ Lưu Trọng Lư.
Hai "ca khúc nhịp ba" (Tiếng thu, Vần thơ sầu rụng) cũng giống như những bài hát đương thời Thu cô liêu, Cung đàn xưa của Văn Cao... đã tạo ra một lối phổ thơ, nói cho đúng hơn là đã tạo ra những "giai điệu" Việt Nam mới, hát trên"tiết điệu - prosodie lục bát hay song thất-lục bát".
Tính chất chung của những ca khúc này chắc chắn phải là "lãng mạn tính" rồi, nhất là nếu "ca từ" lại là thơ của Lưu Trọng Lư!
...Sau đó, tôi lại ôm lấy thơ lãng mạn của Lưu Trọng Lư để phổ nhạc, tôi ôm lấy "Thú đau thương" mà tôi chưa biết:Tình đã len trong màu nắng mới/Lòng anh buồn vời vợi em ơi!
Tôi chú trọng tới từng nốt nhạc trong giai điệu, ví dụ: Lòng anh buồn, vời vợi em ơi = fa la fa, fa mib sol sol... người yêu nhạc phải thấy khi nốt mi "bị giáng xuống" thành mib, nó làm cho giai điệu buồn hơn, rung động hơn... Rượu ái ân rung động trên môi.
Câu tiếp cũng thế: Tình đâu khôn lựa : la do do lab nên lời thắm tươi, nghe buồn hơn. Câu vừa rồi là đoạn A với nhạc đề chính. Tôi chuyển qua đoạn B với giai điệu mi mineur (mi thứ - BT): Đã héo lắm nụ cười trong mộng/ Đã mờ dần hình bóng thân yêu.
Rồi vì nhu cầu chuyển cung (modulation) trong đoạn B này, tôi có nét nhạc chạy nhanh trong các giọng re, sol, la mineur... để trở về giọng do7: Đã lam tím cả cảnh chiều/ Trong hồn lặng, đã hiu hiu mộng tàn...
Đoạn C sẽ là đoạn A" (nghĩa là đoạn A có thay đổi chút xíu) trở về leif-motif (giọng fa) với sự giáng xuống của một nốt nhạc ở âm vực cao để làm cho ca khúc sầu bi hơn lên: Để gối chăn nằm yên chốn cũ/ Hãy lịm người trong thú đau thương!
Những bài thơ Lưu Trọng Lư mà tôi phổ nhạc cho thấy vào lúc còn trẻ, tôi đã cố gắng làm cho nhạc của tôi phải hợp lý (logic), có câu cú đàng hoàng và nhất là dễ làm người nghe cảm động. Đó cũng nhờ ở "lãng mạn tính" tuyệt vời của lời thơ nơi thi sĩ.
Tôi biết ơn anh Lưu Trọng Lư đã là người sớm cho tôi chất liệu để trở thành người nhạc sĩ của tình yêu lãng mạn.
Hành nghề tại phòng trà, tôi cần có bài hát để mời khán giả hát theo, tôi bèn phổ bài thơ "Vần thơ sầu rụng", bài này có những đoạn hát:
"Quay đều, quay đều, quay đều", hát sau câu "Năm năm tiếng lụa xe đều, trong cây gió lạnh đưa vèo"... gợi được hành động của một cô gái quay tơ, quay đều, quay đều... và như thế là tôi làm tăng tính chất lãng mạn của thơ Lưu Trọng Lư.
Hai "ca khúc nhịp ba" (Tiếng thu, Vần thơ sầu rụng) cũng giống như những bài hát đương thời Thu cô liêu, Cung đàn xưa của Văn Cao... đã tạo ra một lối phổ thơ, nói cho đúng hơn là đã tạo ra những "giai điệu" Việt Nam mới, hát trên"tiết điệu - prosodie lục bát hay song thất-lục bát".
Tính chất chung của những ca khúc này chắc chắn phải là "lãng mạn tính" rồi, nhất là nếu "ca từ" lại là thơ của Lưu Trọng Lư!
...Sau đó, tôi lại ôm lấy thơ lãng mạn của Lưu Trọng Lư để phổ nhạc, tôi ôm lấy "Thú đau thương" mà tôi chưa biết:Tình đã len trong màu nắng mới/Lòng anh buồn vời vợi em ơi!
Tôi chú trọng tới từng nốt nhạc trong giai điệu, ví dụ: Lòng anh buồn, vời vợi em ơi = fa la fa, fa mib sol sol... người yêu nhạc phải thấy khi nốt mi "bị giáng xuống" thành mib, nó làm cho giai điệu buồn hơn, rung động hơn... Rượu ái ân rung động trên môi.
Câu tiếp cũng thế: Tình đâu khôn lựa : la do do lab nên lời thắm tươi, nghe buồn hơn. Câu vừa rồi là đoạn A với nhạc đề chính. Tôi chuyển qua đoạn B với giai điệu mi mineur (mi thứ - BT): Đã héo lắm nụ cười trong mộng/ Đã mờ dần hình bóng thân yêu.
Rồi vì nhu cầu chuyển cung (modulation) trong đoạn B này, tôi có nét nhạc chạy nhanh trong các giọng re, sol, la mineur... để trở về giọng do7: Đã lam tím cả cảnh chiều/ Trong hồn lặng, đã hiu hiu mộng tàn...
Đoạn C sẽ là đoạn A" (nghĩa là đoạn A có thay đổi chút xíu) trở về leif-motif (giọng fa) với sự giáng xuống của một nốt nhạc ở âm vực cao để làm cho ca khúc sầu bi hơn lên: Để gối chăn nằm yên chốn cũ/ Hãy lịm người trong thú đau thương!
Những bài thơ Lưu Trọng Lư mà tôi phổ nhạc cho thấy vào lúc còn trẻ, tôi đã cố gắng làm cho nhạc của tôi phải hợp lý (logic), có câu cú đàng hoàng và nhất là dễ làm người nghe cảm động. Đó cũng nhờ ở "lãng mạn tính" tuyệt vời của lời thơ nơi thi sĩ.
Tôi biết ơn anh Lưu Trọng Lư đã là người sớm cho tôi chất liệu để trở thành người nhạc sĩ của tình yêu lãng mạn.
Phạm Duy
Theo Lao động
Nhà thơ Lưu Trọng Lư với tình yêu và mộng đẹp
Lưu Trọng Lư là kiện tướng trong phong trào thơ mới. Người ta gọi ông là
nghệ sĩ đa tài. Ông làm thơ, viết văn, viết kịch. Còn nữa, phải nói ông là người
có phong cách nghệ thuật đa dạng, một người đa tình, đa duyên nợ với đời và văn
nghiệp.
Tôi nhớ lần gặp Lưu Trọng Lư năm ông 78 tuổi, khi vừa cho xuất bản tập hồi ký Nửa
đêm sực tỉnh. Trong câu chuyện khi nói về Thơ mới, Lưu Trọng Lư như khởi sắc và
nói to: "Phong trào Thơ mới mở đầu là tôi chứ không phải Phan Khôi.
Thực ra phải xét cái mới của tình cảm và điệu thức thơ. Lúc này cũng nhiều người
viết thơ theo dạng từ khúc. Tôi làm Thơ mới từ năm 1931. Tôi và Nguyễn Thị Manh
Manh là hai người chủ chốt. Bà ở Paris về và tham gia vào cuộc tranh luận bảo vệ
cho thơ mới. Tôi đăng một số thơ ở Phụ nữ tân văn. Khi ra Hà Nội gặp Nguyễn Tường
Tam, Tam mời tôi đến tòa báo ở đường D"ordéans (số 1 Lý Nam Đế ngày nay).
Tam bảo: "Mấy bài thơ của ông đăng trên Phụ nữ tân văn tôi thích, đấy mới
là thơ, là thơ mới".
Nhà phê bình Hoài Thanh tâm sự: "Hồi năm 1937, vì vô ý dự vào một
cuộc bàn cãi về văn chương, tôi đã bị một ông tiến sĩ nói thẳng vào mặt:
"Khoa học xin nhường các người, nhưng thơ văn các người phải để cho chúng
tôi", chính ông nghè ấy đã có lần lên án chém Lưu Trọng Lư. Cũng may, ông
nghè chúng ta không làm tể tướng nên họ Lưu vẫn làm thơ mới như thường".…Tự
lực văn đoàn dần làm chủ văn đàn. Lưu Trọng Lư đánh giá đúng mức những đóng góp
của văn đoàn. Lưu Trọng Lư cũng viết văn xuôi với những trang văn đẹp, nhiều cảm
xúc. Tuy nhiên, ông cũng rất khiêm tốn: "Tôi thích một số tiểu thuyết của
Tự lực văn đoàn như Đôi bạn, Đời mưa gió, Nửa chừng xuân hơn là những cuốn tiểu
thuyết của tôi. Tâm trạng của tôi có lúc rất chán nản trong tiểu thuyết, thơ lại
cứu tôi".
Quả là Lưu Trọng Lư nổi bật lên ở thời kỳ đầu và chỉ một tập Tiếng thu, Lưu
Trọng Lư đã ghi lại dấu ấn không phai mờ trong phong trào Thơ mới. Bài thơ Tiếng
thu là những tiếng thơ của sự lắng nghe "Em không nghe mùa thu" và
trong âm thanh là tiếng thầm, là những rạo rực hình ảnh kẻ chinh phu/
Trong lòng người cô phụ? Vẫn là câu hỏi từ sự lắng nghe để mở ra những
hình ảnh đẹp đến nao lòng của mùa thu qua bước nhỏ của con nai vàng trên lá
vàng khô.
Thơ tình của Lưu Trọng Lư có nhiều dư vị của đời thi nhân. Niềm vui, nỗi buồn,
niềm mong ước và sự thất vọng đều như chất chứa từ bên trong và trôi chảy theo
dòng thời gian, theo năm tháng, bốn mùa. Một mùa đông bên nhau đã đi qua "Qua
rồi mùa ân ái - Đàn sếu đã sang sông". Mùa xuân về lại cảm nhận "Rồi
ngày lại ngày. Sắc màu phai. Lá cành rụng. Ba gian trống. Xuân đi. Chàng cũng
đi". Cũng vì thế mà thơ Lưu Trọng Lư đượm buồn, buồn vì sự trôi chảy, vì sự
tiếc nuối. Gặp nhà thơ ngoài đời cũng như trong thơ, luôn thể hiện sự nuối tiếc:
Mưa chi mưa mãi
Buồn hết nửa đời xuân
Mộng vàng không kịp hái.
Và cuối đời khi mái tóc đã điểm bạc, ông cầu viện đến "em thời gian"
và mong được sự thông cảm. Tuổi càng cao Lưu Trọng Lư càng thấy cái đẹp của đời,
lại càng tiếc nuối như đi ngược với dòng thời gian. Trong văn chương và đặc biệt
là thi ca, Lưu Trọng Lư có nhiều duyên nợ với người con gái.
Ông từng tâm sự: "Trong những tác phẩm của tôi, tôi chỉ có một sự cộng
tác rất tầm thường, rất dung dị, rất lương thiện... ấy là sự cộng tác của những
người đàn bà. Đôi mắt họ vẫn trong trẻo hiền lành như một bến thu. Tiếng nói của
họ vẫn là nhạc điệu của những nhạc điệu. Những con vật xinh xinh ấy biết tỉa
lông mày, đánh móng tay nhưng cũng biết nuôi tằm quay tơ và dệt những tấm áo
cho thể chất và cho linh hồn của nhân loại". Trong tập Tiếng thu nổi
lên vẫn là hình ảnh và tiếng lòng của người con gái đang yêu thương, chờ đợi,
nhớ mong.
Ngoài hình ảnh người mẹ kính yêu là những cô gái đang ở tuổi yêu đương dệt mộng
tình trong đời và trong thơ. Lưu Trọng Lư hay nhắc đến những người con gái
trong mộng, trong khung cửi, bên guồng sợi xe, cô em nhí nhảnh bên giậu mồng tơi,
rồi cô gái giang hồ... Và sau cách mạng cũng vẫn là hình ảnh những người con
gái trong cuộc đời mới, gánh vác việc chung không kém sức trai như cô gái ở hậu
phương bên Ngò cải đơm hoa, O tiếp tế, rồi Người con gái sông Gianh, Em thời
gian. Họ rất khác nhau nhưng có một điểm chung là giàu nữ tính và tình cảm yêu
thích cái đẹp.
... Tôi còn nhớ sau khi đất nước thống nhất, Bắc Nam sum họp, Lưu Trọng Lư đón
nhà thơ Hoàng Trọng Miên, bạn thơ cũ đến thăm. Ông nói với chị Lê Minh mời tôi
đến chơi và nghe ông đọc thơ vừa sáng tác. Tôi nhớ buổi gặp chỉ có ba người và
khoảng một tiếng sau có thêm nhà sử học Lê Văn Lan. Lưu Trọng Lư nói: "Tôi
muốn viết về người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh như kiểu khúc ngâm chinh
phụ. Người phụ nữ không chỉ buồn và thụ động như cô chinh phụ xưa mà năng động,
hiện đại nhưng vẫn nặng tâm tư đợi chờ trong xa cách".
Trăng xoan - cái tên đó được ông tâm đắc. Tôi nhớ ông say sưa đọc thơ còn
mọi người vừa nghe vừa uống rượu và nhấm nháp món thịt gà xé trộn với dưa chuột
và hành tây, tác phẩm của chị Lê Minh. Anh Lư say mê nói, thỉnh thoảng lại ngâm
và quên cả chuyện ăn. Cầm đũa lệch, nâng bát lên lại hạ xuống, với anh, thơ là
linh hồn của cuộc gặp gỡ. Thỉnh thoảng anh lại hỏi từng người: Ý anh Lan thế
nào, ý anh Đức thế nào?
Thơ Lưu Trọng Lư như ru trong mộng và mộng chính là một phẩm chất của thơ, nhất
là thơ xưa. Lê Tràng Kiều nhận xét: "Thi sĩ bao giờ cũng như sống trong một
thế giới mông lung huyền ảo... Thi sĩ là một luồng khói lam ẻo lả giữa cảnh chiều
thu". Nhà thơ Hoàng Trung Thông cũng viết: "Những bài thơ của anh
không sầu thì mộng, không mộng thì say và đã say thì Giang hồ cõi ấy trọn đời
phiêu linh". Trần Thanh Mại cũng gọi Lưu Trọng Lư là thi sĩ giang hồ. Sự
phiêu bạt trong những cảnh đời xa lạ trong thiên nhiên đẹp đã tạo cho thơ của Lưu
Trọng Lư chất phiêu lãng và thơ mộng. Nói như tác giả "Mộng và đời là hai
sợi chỉ ngang dọc trên khung cửi. Đời đẻ ra mộng và mộng dệt nên đời".
Cách mạng Tháng Tám đã tạo nên những đổi thay cơ bản. Lưu Trọng Lư đã từ mộng ảo
trở về với cuộc đời thực rất đẹp, hào hùng. Cuộc đời mới, mùa thu lớn của cách
mạng đã lôi cuốn ông, nhất là thời kỳ ở chiến khu Thừa Thiên vào năm 1948. Lưu
Trọng Lư tâm sự: "Tôi đã bắt đầu làm nhiều thơ. Thơ tôi phần lớn là những
bài thiết thực và kịp thời nhưng rất thật, rất sống. O tiếp tế chẳng hạn".
Khi viết Ngò cải đơm hoa, Lưu Trọng Lư đã nói về tâm trạng đẹp của người
con gái hậu phương chăm lo sản xuất và chờ đợi người thân chiến đấu trở về
"chờ chi anh về đây giữa đoàn quân chiến thắng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét