Thứ Sáu, 20 tháng 11, 2015

Lưu Trọng Lư - Dưới trăng mờ thổn thức

Lưu Trng Lư - Dưới trăng m thn thc

Lưu Trng Lư 
Sinh ngày: 19 tháng 6 năm 1912 
Mt ngày: 10 tháng 8 năm 1991 

 nhà th
ơ, nhà văn, nhà son kch. 
Lưu Trng Lư quê 
làng Cao Lao H, xã H Trch, huyn B Trch, tnh Qung Bình trong mt gia đình quan li xut thân nho hc. Ông hc đến năm th ba ti trường Quc hc Huế thì ra Hà Ni làm văn, làm báo đ kiếm sng. 
Ông là mt trong nhng nhà thơ khi xướng Phong trào Thơ mi và rt tích cc din thuyết bênh vc "Thơ mi", đ kích các nhà thơ "cũ". 

Sau Cách mng tháng Tám, ông tham gia Văn hoá cu quc Huế. Trong kháng chiến chng Pháp, ông hot đng tuyên truyn, văn ngh Bình Tr Thiên và Liên khu IV. Sau năm 1954, ông tiếp tc hot đng văn hc, ngh thut: hi viên Hi nhà văn Vit Nam t năm 1957, đã tng làm Tng thư ký Hi ngh s sân khu Vit Nam. 

Ông đã được tng Gii thưởng H Chí Minh v Văn hc ngh thut năm 2000. 

Tác ph
m tiêu biu 
Th
ơ 
* Tiếng thu (1939) 

* Ta sáng đôi b (1959) 

* Người con gái sông Gianh (1966) 

* T đt này (197l) 

Sân kh
u 
* N din viên min Nam (ci lương) 

* Cây thanh trà (ci lương) 

* Xuân V D (kch nói) 

* Anh Tri (kch nói) 

* Hng Gm, tui hai mươi (kch thơ,1973) 

Văn xuôi 
* Người sơn nhân (truyn, 1933) 

* Chiếc cáng xanh (truyn, 1941) 

* Khói lam chiu (truyn, 194l) 

* Mùa thu ln (tuỳ bút, hi ký, 1978) 

* Na dêm sc tnh (hi ký, 1989) 

(Theo wikipedia ti
ếng Vit)
Tiếng thu là mt trong "nhiu bài thc không phi là thơ, nghĩa là nhng công trình ngh thut". Bài thơ đã vượt qua thi gian đ mi dp thu v li làm người ta nh đến - nhng hình nh "chính là tiếng lòng thn thc cùng hòa theo tiếng thn thc ca lòng ta". 
Tiếng thu 
Em không nghe mùa thu

Tiếng trăng m thn thc?
Em không nghe ro rc
Hình nh k chinh phu
Trong lòng người cô ph?
Em không nghe rng thu,
Lá thu kêu xào xc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đp lên lá vàng khô?

Nng mi 
 (Tng hương hn thy me) 

Mỗi ln nng mi ht bên song. 
Xao xác gà trưa gáy não nùng; 
Lòng rượi bun theo thi dĩ vãng, 
Chp chn sng li nhng ngày không. 
Tôi nh Me tôi thu thiếu thi, 
Lúc Người còn sng, tôi lên mười; 
Mi ln nng mi reo ngoài ni, 
Áo đ Người đưa trước giu phơi. 
Hình dáng Me tôi cha xoá m 
Hãy còn mường tượng lúc vào ra 
Nét cười đen nhánh sau tay áo 
Trong ánh trưa hè, trước giu thưa.

KHI LÁ THU RNG
Em có khi nào nói vi anh 

Nhng câu tình t thu ngày xanh, 
Khi lá thu rng bên hè vng 
Tiếng pháo ngàn xa vng trước mành 
Em có khi nào nghĩ ti anh 
Khi tay vn rũ lá trên cành, 
Cười chim ct sáo nào ai biết 
Chua xót lòng anh biết my tình 
Lòng anh như nước h thu lnh 
Qunh qu đêm soi bóng nguyt tà, 
Ngày tháng em mong chm chm li 
Hng h em mc tháng ngày qua 
Mùa đông đến đón bên sông 
Vi vã cô em đi ly chng 
Em có nh chăng ngày h thm 
Tình em lưu luyến mt bến lòng...

Em Mai
Cây bàng trước sân đ gãy. 

Bng đen ch phn toác làm đôi 
Tht ri! Em Mai nm đy: 
Mu bút chì nm cht trong tay. 
Qu táo bm lăn bên túi vi, 
Mng tường đ, nng chiu in bóng chân em va chy 
Gia bom gm còn vng li 
Hai tiếng :"Thy ơi!"

Tình điên 
(Tặng các bn cũ và nhng ngày qua)

Mười by xuân em cha biết su
Mi tình đưa li t đâu đâu...
Em xinh em đp, lòng anh tr,
Dan díu cùng nhau gic mng đu.
Tình trong như nước bin trong xanh
Huyn o như trăng lt k mành;
Phơi phi như hoa đùa nng sm,
Rt rào như sóng v đêm thanh...
Hôm y trăng thu rng dưới cu,
Em cười, em nói sut trăng thâu;
Yêu nhau nhng tưởng yêu nhau mãi,
Tình đến muôn năm cha bc đu...
Ngày tháng trôi xuôi vi ái ân...
Bên cu lá rng đã bao ln!...
Tình ái hay đâu mng cui tri
Nhm nhau giây lát hn muôn đi
K ra non nước, người thành th,
Đôi ng tình đi, người mi nơi.
Hôm nay ngi ngóng bên song,
Ta được tin ai mi ly chng;
Cười cha dt câu, tình đã vi...
Nàng điên trên "gi mng" người thương.
Ta mơ trong đi hay trong mng?
Vùng cúc bên ngoài, đng dưới sương
Ta dí đôi tay vào miếng kính,
Git mình quên hết ni đau thương...
Ta hát dăm câu vô nghĩa lí;
Lá vàng bay l vào bung ta.
Ta viết dăm câu vô nghĩa lí;
Người điên xem đến hiu lòng ta.
(Tiếng thu - 1939)

Lưu Trọng Lư trong Chân dung và 

đối thoại của Trần Đăng Khoa
Lưu Trọng Lư là nhà thơ tiên phong của phong trào Thơ mới. Nhận định về nghệ thuật thơ ông, nhà phê bình thiên tài Hoài Thanh đã có những nhận xét thật chuẩn xác: Tôi biết có kẻ trách Lư cẩu thả, lười biếng, không biết chọn chữ, không chịu khó gọt giũa câu thơ. Nhưng Lư có làm thơ đâu Lư chỉ để lòng mình tràn lan trên mặt giấy.
Nhận định này dường như đã thành nỗi ám ảnh, và rồi suốt đời, Lưu Trọng Lư cứ loạng choạng, cứ bập bõm bước trong cái vòng kim cô mà Hoài Thanh đã tiên đoán và vạch ra ngay từ khi ông mới xuất hiện trên thi đàn,
Còn về con người Lưu Trọng Lư, thiết tưởng cũng chẳng có ai hiểu ông hơn Hoài Thanh: Cả đời Lư cũng là một bài thơ, nếu quả như người ta vẫn nói, thi sĩ là một kẻ ngơ ngơ ngác ngác, chân bước chập chững trên đường đời thì có lẽ Lư thi sĩ hơn ai hết.
Quả đúng vậy, và nếu chọn một bài thơ thơ nhất của Việt Nam, nghĩa là ngoài thơ ra, nó không có gì bấu víu, thì đó chính là Tiếng thu. Đây là bài hay nhất trong đời thơ Lưu Trọng Lư, cũng là bài thơ thơ nhất của thi ca Việt Nam hiện đại:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp trên lá vàng khô...

Bài thơ vẻn vẹn có 9 câu, chia làm ba đoạn, mỗi đoạn lại so le, các ý trong bài thơ rời rạc, khấp khểnh, chẳng ý nào ăn nhập với ý nào. Nếu cứ theo cách hiểu máy móc của những nhà phê bình quen thói bắt bẻ, cứ đè thơ ra mà tìm tư tưởng, tìm ý nghĩa thì đây là bài thơ đầu Ngô mình Sở. Đã thế, tác giả còn tỏ ra vụng về, tỳ vết của sự thô vụng ấy nằm trong hai câu chẳng thơ tí nào, nó như câu văn xuôi bình giảng văn học của học sinh phổ thông:
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ

Ấy vậy mà khi gộp tất cả lại, nằm trong một tổng thể, bài thơ hay đến lạ lùng, người ta không còn thấy dấu vết thô vụng đâu nữa. Đây là điều duy nhất xảy ra ở văn học Việt Nam và chỉ xảy ra có một lần. Cái hay của bài thơ này không nằm ở câu chữ. Nó hoàn toàn siêu thoát, là cái hồn phảng phất đâu đó đằng sau những con chữ rất sáng tỏ mà lại vời vợi mông lung kia. Người ta chỉ cảm thấy được, chứ không thể nói ra được một cách rạch ròi. Đây là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng hồn, bằng cả điệu nhạc rất riêng của tâm hồn thi sĩ. Bởi thế, người đọc cũng phải dùng hồn để chiêm ngưỡng nó, chứ không thể ngắm nó bằng lý trí tỉnh táo. Đã không ít nhà phê bình nghiên cứu mang lý trí ra để làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất ngơ ngác này. Có người còn viện đến cả thi pháp học để cố hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi pháp làm chìa khoá mở cánh cửa thực dụng, đi vào cõi mù mờ tâm linh này. Bằng cách vận dụng thi pháp, có người cho đây là bài thơ nói về nỗi cô đơn không có sự chia sẻ. Không phải ngẫu nhiên bài thơ có 9 câu mà đã có đến ba câu điệp Em không nghe:

Em không nghe mùa thu
Em không nghe rạo rực
Em không nghe rừng thu...

Em không nghe, còn anh thì nghe thấy hết. Nghe thấy hết mà không nói ra được. Đây là cuộc đối thoại mà kẻ đối thoại lại ẩn sau sự câm lặng. Hoặc giả em cũng đã nghe thấy, nhưng anh vẫn hỏi như vậy, nghĩa là anh không hiểu em. Đằng nào thì cũng vẫn cứ là thiếu niềm đồng cảm. Một bên thì thổn thức, rạo rực, kêu xào xạc, một bên thì không nghe, không nghe, không nghe, cả con nai ngơ ngác, đạp trên lá vàng khô, nghĩa là nó cũng không nghe nốt. Hiểu một cách sống sít như thế thì thật thô thiển. Nhà phê bình đã kéo những đám mây ngũ sắc đang bay bảng lảng trong không trung, rồi rải xuống đường làm rơm rạ lót chân, và như thế còn đâu cánh rừng thu, tâm hồn thu cho con nai vàng trú ngụ. Mấy câu điệp khúc ấy thực chất chỉ để tạo giai điệu rất đặc biệt cho bài thơ này. Ở đây, nhạc điệu cũng là một phần nội dung chính làm nên hồn vía bài thơ. Còn ở góc độ khác, cũng nhìn bằng con mắt lý trí, có người còn cho rằng đây là bài thơ Lưu Trọng Lư thâu cóp của nước ngoài. Thực tế trong bếp núc sáng tác, có thể có sự trùng hợp ngẫu nhiên. Người bình luận còn viện cớ rằng: Thực tế Việt Nam làm gì có khu rừng vàng. Đấy là rừng châu Âu. Rừng Việt Nam là rừng luốm nhuốm. Mùa thu Việt Nam đúng như Nguyễn Du mô tả trong Kiều: Rừng thu rừng biếc chen hồng? Và con nai Việt Nam cũng nhanh nhẹn lắm, tinh ranh lắm, nó đâu có ngơ ngác? Ơ hay, Lưu Trọng Lư có nhìn thiên nhiên bằng con mắt thịt đâu! Lại phải mời Hoài Thanh về làm luật sư bào chữa cho ông thôi: Trong thơ Lư, nếu có cả chim kêu, hoa nở, ta cũng chớ tin. Hay ta hãy tin rằng tiếng ấy, màu kia chỉ có ở trong mộng. Mộng! Đó mới là quê hương của Lư. Thế giới thực của ta với bao nhiêu thanh sắc huy hoàng. Lư không nghe thấy gì đâu. Sống ở thế kỷ 20, ngày ngày nện gót trên các con đường Hà Nội mà người cứ mơ màng thấy mìn gò ngựa ở những chốn xa xăm nào
Tương truyền khi viết bài thơ này, Lưu Trọng Lư đến thăm nhà một người bạn. Rồi nhân cớ thấy cái bình gốm cổ có vẽ con nai đứng giữa núi non. Lưu Trọng Lư bèn vịnh ngay bài thơ này. Thực chất, nếu chuyện đó là thật, thì con nai trên bình gốm chỉ là cái cớ rất nhỏ, là tiếng động rất nhỏ đánh thức con nai vàng và khu rừng vàng trong tâm hồn Lưu Trọng Lư thức dậy và toả hương. Nhờ thế, thi ca Việt Nam đã có một kiệt tác thật hiếm có, ngỡ như đó là khúc nhạc huyền bí của thần linh, chứ quyết không phải là tiếng ca phàm tục của người đời...
 Theo http://forum.quangbinhonline.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...