Anh đã có lần viết: Sống trong đời sống cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết
không?… Để gió cuốn đi. Và người nghệ sĩ ấy đã hết một lòng sống đúng như cái
châm ngôn của mình đã đặt ra, bởi lẽ trong tất cả các bản nhạc của anh- từ những
bản tình ca, đến những bài ca về thân phận quê hương cũng như về thân phận con
người (Người Già Em Bé, Cát Bụi, Một Cõi Đi Về…) ta luôn luôn cảm nhận được
lòng thiết tha yêu quê hương và yêu cuộc sống của anh. Thế nhưng Trịnh Công Sơn
không chỉ yêu con người Việt Nam mà anh thương yêu thân phận con người nói
chung. Và hạnh phúc thay cho chúng ta, vì anh đã làm giầu hơn biết bao cho kho
tàng văn hóa của quê hương, cho ngôn ngữ của thơ nhạc, của tình thương yêu con
người.
Trả lời một câu hỏi của nhà báo Lý Quý Chung vào khoảng giữa thập niên 90 là anh có bao giờ nghĩ đến chuyện viết di chúc, anh nói: “ Một cô ca sĩ đã hỏi mình câu đó. Mình có tài sản chi đâu? Với mình cái hiện tại là cái có thật, cùng sống với nó. Còn cái sau đó…” Câu trả lời thật hồn nhiên và khiêm nhường biết bao. Tất nhiên, những người yêu nhạc Trịnh Công Sơn đều biết là cái kho tàng ca khúc của anh cũng như các đóng góp của anh trong việc thay đổi ngôn ngữ của âm nhạc Việt Nam trong các thập niên 60-70 không nhỏ chút nào bởi âm nhạc và cách nhìn của ta về nó đã hoàn toàn thay đổi sau khi giòng nhạc của anh đã trổi lên.
Trả lời một câu hỏi khác: “Người ta ví von rất hay về Tagore (Văn hào Ấn Độ) ông là một người tình của cuộc đời, người lính canh của cuộc sống, có thể gọi anh là người tình của người tình không?” Anh cười và nói: “Nếu cần một cái tên gọi cho vui thì tôi nghĩ rằng mình có lẽ là người tình của cuộc sống.” Đúng như thế. Người tình của cuộc sống ấy đã quá khiêm nhường khi tự cho là mình không có tài sản gì. Ngay trong phút này, mỗi chúng ta đều mang trong mình một chút Trịnh Công Sơn: một câu nhạc bất hủ nào đó của Diễm Xưa, Hạ Trắng, Như Cánh Vạc Bay, Nối Vòng Tay Lớn… một chút ưu tư về cuộc sống nay còn mai mất khi nghe Một Cõi Đi Về. Ai trong chúng ta lại không thấy yêu quê hương hơn khi nghe anh hát
Huế, Sàigòn, Hà Nội
Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
Huế, Sàigòn, Hà Nội
Trong ta đau trái tim Việt Nam
(Huế, Sàigòn, Hà Nội)
Gan cùng mình! Trong khi guồng máy chiến tranh đang kêu gào thêm xương máu , người thanh niên mới ngoài hai mươi với dáng dấp thư sinh mảnh khảnh ấy đã có đủ can trường và đảm lược để nói lên điều mà mọi người đang mơ ước nhưng đã không thể nói. Anh kêu gọi chúng ta hãy Bừng cơn mơ. Cho mắt nhìn sạch tan căm thù và nhìn tới một viễn ảnh mà trong những năm chinh chiến ấy tưởng chừng như sẽ không bao giờ xẩy ra
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm một phố đầy hầm
Đi thăm một con đường nhiều hố
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm cầu gẫy vì mìn
Đi thăm hầm chông và mã tấu …
Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ.
(Tôi Sẽ Đi Thăm)
“Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ ” Tám chữ thật giản dị mà tóm gọn cái mất mát đau thương và xót xa của dân tộc. Anh cho chúng ta biết sự lựa chọn để ở lại với quê hương của anh là dễ hiểu, vì
Mỗi ngày, tôi chọn một lần thôi
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời
Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới
Để lúa reo mừng tựa vẫy tay
Mỗi ngày, tôi chọn ngồi thật yên
Nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim
Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi …
(Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui)
“Vì đất nước cần một trái tim” Còn lời nào thiết tha và đầy thơ tính hơn! Từ tiếng ru con nhẹ bước vào đời đến nắng đầy hay lúa reo mừng tựa vẫy tay… tất cả nói lên một tấm lòng tha thiết yêu quê hương, yêu cuộc đời. Vẻ đẹp trong nhạc của anh nằm ở chỗ, nó bình dị, không chải chuốt mà lại đẹp tuyệt vời và đi ngay vào lòng người nghe. Bởi vì sao? Vì điều anh nói là những gì rất bình thường: một ước vọng hòa bình mà bất cứ người Việt nào dù ở đâu, ở thời nào vẫn hằng mơ ước.
Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã có lần nói: “Trịnh Công Sơn viết dễ như người ta lấy đồ trong túi.” Nếu ý nhạc và lời thơ có đến với anh dễ dàng cũng chỉ vì đó là những tình cảm chân thật xuất phát từ trái tim mẫn cảm của anh. Trái tim yêu thương ấy đã rung lên một nhịp điệu mà người nghe đã bắt được ngay tức khắc vì như anh bộc lộ: “… trong nghệ thuật, điều quan trọng nhất là mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần cắt nghĩa gì hơn.” Trong Người Con Gái Việt Nam Da Vàng lời ca của anh ngọt ngào nhưng không kém phần chua xót và không cần cắt nghĩa gì hơn
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nước mắt lưng dòng
Em chưa biết quê hương thanh bình
Em chưa thấy xưa kia Việt Nam
Em chưa hát ca dao một lần
Em chỉ có con tim căm hờn. …
Còn gì đáng sợ hơn viễn ảnh của một xứ sở mà ở đó thế hệ những người trẻ lớn lên không biết gì đến cội nguồn yêu thương, vì “em chưa biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam, em chưa hát ca dao một lần” mà “em chỉ có con tim căm hờn.” May thay, kẻ sĩ Trịnh Công Sơn đã đánh thức chúng ta, những “người nô lệ da vàng, ngủ quên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì mờ” của những năm chinh chiến ấy.
Không những anh đã thay đổi cách ta nói và nghĩ về tình yêu, Trịnh Công Sơn còn cho chúng ta thấy cái thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người qua những lời ca của anh rải rác trong nhiều ca khúc khác nhau. Khi Phạm Duy viết Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc, dù rằng đây là một bản nhạc rất hay, nó chỉ nói cho ta biết về người chiến sĩ phi công ấy. Trái lại, khi Trịnh Công Sơn viết Cho Một Người Vừa Nằm Xuống anh không chỉ xót xa cho một người bạn vừa ra đi mà nghe như anh đang nói với mỗi chúng ta về thân phận của chính mình.
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn
Rồi từ đó trong trời rộng đã vắng anh
Như cánh chim bỏ rừng
Như trái tim bỏ tình...
Và
Anh nằm xuống
Như một lần vào viễn du
Đứa con thơ đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hò...
Trịnh Công Sơn viết nhạc cũng như làm thơ vì anh gần gũi với cả hai lãnh vực của nghệ thuật này. Với anh, không có sự phân chia ranh giới giữa hai bộ môn nghệ thuật ấy “có lẽ đã lâu lắm rồi tôi hoàn toàn quên lãng cái biên giới giữa các bộ môn nghệ thuật và văn học ” và bằng một sự pha trộn tuyệt vời của nhạc và thơ, Trịnh Công Sơn đang nhắc cho anh và cho mỗi chúng ta là, dù có muốn chối bỏ đến đâu, ta cũng sẽ có một lần là “đứa con thơ đã tìm về nhà ” đó.
Lớn lên trong một gia đình thấm nhuần đạo Phật, anh hiểu rõ cái vô thường của cuộc sống. Thân phụ của Trịnh Công Sơn mất năm anh mới 15 tuổi. Đó là một cái chết đột ngột và là một mất mát vô cùng lớn cho gia đình anh. Trịnh Công Sơn đã có ít nhất là vài năm gần gũi với kinh kệ ở cái tuổi rất trẻ ấy vì anh đã quy y và sống gần gũi với cửa thiền. Hiển nhiên là những năm đó đã để lại trong anh nhiều ảnh hưởng sâu đậm. Anh viết “Những ai đã đi đến với đời thì có lúc phải lìa xa nó. Một cõi đi về...Trong Phật giáo một trong những hạnh cao nhất là hạnh bố thí. Cho kẻ này nhưng sẽ nhận lại ở kẻ khác...Chết là sự tan biến của thể xác. Nhưng sống không chỉ là sự tồn tại của thân xác. Nhiều người còn sống mà tưởng chừng như đã chết. Nhiều người đã chết mà vẫn còn sống trong trí nhớ mọi người... Trong câu chuyện đời chung, kẻ này quên thì người kia phải nhớ. Một ý tưởng chợt tắt để làm mầm chuyển hóa cho một ý tưởng khác nẩy sinh. Cái mất không bao giờ mất hẳn. Cái còn không hẳn là mãi còn...” Điều anh nói đến là những triết lý rất căn bản của đạo Phật là duyên khởi và vô sinh vô diệt. Những ý này được Trịnh Công Sơn diễn đạt rất tài tình trong nhiều ca khúc khác nhau
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đi mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về ...
Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà
Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tụy
Một bờ cỏ non, một bờ mộng mị
Ngày xưa...
Từng lời tà dương, là lời mộ địa
Từng lời bờ sông nghe ra từ độ
Suối khe...
(Một Cõi Đi Về) ..
Đời sống mỗi khi người đưa tiễn người
Là tôi lắng nghe, lòng tôi rã rời
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Trong xuân thì thấy bóng trăm năm ...
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Sông bao lần sông đã ra đi
Những ngàn xưa trôi đến bây giờ
Sông ra đi hay mới bước về.
(Gần Như Niềm Tuyệt Vọng)
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời ...
(Ở Trọ) Những ý tưởng bàng bạc thiền tính như “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, Rọi suốt trăm năm một cõi đi về” “Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ, Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà ” “Trong xuân thì thấy bóng trăm năm” “Tôi nay ở trọ trần gian, Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời” cho ta thấy anh nắm vững tư tưởng triết lý Phật giáo, y như là nó ở trong huyết mạch của anh để bộc lộ một cách hết sức tự nhiên qua lời thơ, ý nhạc. Anh giải thích “Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có những năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một Thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản văn hóa Đông Tây góp nhặt được còn có những lời kệ vô tình nằm ở đấy.”
Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du ta luôn gặp những hình ảnh của triết lý Phật giáo, những câu thơ về duyên và nghiệp, đề cao tình người mà điển hình là “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” và “Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần.”. Ta không ngạc nhiên chút nào khi được biết rằng khi viết Đoạn Trường Tân Thanh, Tố Như tiên sinh đã đọc và thấm nhuần kinh Kim Cương khi ông đi sứ bên Tầu trước đó. Thế nên, đây chẳng phải là một ngẫu nhiên khi văn hóa Việt Nam lại thêm một lần khởi sắc vì người nghệ sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã có cơ duyên đi qua cổng Phật để đem tiếng hát nhân bản đến với muôn người.
Ta hãy nghe anh nói tiếp “Phải biết sống hết mình trong mỗi sát na của thực tại. Từ mỗi cái ăn, cái uống, cái đi đứng, nằm, ngồi. Không làm công việc này mà nghĩ đến công việc khác. Với tôi, đó cũng là thiền, là một cách sống đích thực. Tôi vẫn tích cực thực tập cách sống như thế hằng ngàỵ Tôi đang cố gắng quên đi Phật giáo như một thứ tôn giáo. Tôi muốn đó là một thứ triết học siêu thoát mà ai cũng cần phải học, ngay cả những người thuộc tôn giáo khác. Mỗi người phải nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một tượng đài vững chắc. Nó giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc sống khác đi ...Cuối năm 1995, tôi có viết một bài hát mà tôi rất thích và bạn bè ai cũng thích. Đó là bài “Sóng Về Đâu”. Bài này lấy cảm hứng từ câu kệ Gaté, Gaté. Paragaté. Parasamgaté. Bodhisvaha”.
Nói về Trịnh Công Sơn mà không kể đến những mất mát và phấn đấu của anh để vượt qua những mất mát ấy thì quả là một thiếu xót lớn. Như đã kể trên, thân phụ anh qua đời sau một tai nạn lúc anh mới 15 tuổi. Người cha đã từ trần thuở anh còn thơ ấu tưởng chừng như đã không để lại gì, nhưng gương hy sinh của ông trong những năm kháng chiến chống Pháp và lao tù chắc chắn đã có động tác hun đúc tình yêu đồng bào, yêu quê hương của anh. Mất cha, anh may mắn có được một người mẹ hết sức đảm đang và thương con, như anh nói : “Mẹ tôi về lòng dũng cảm và thương con thì duy nhất trong cuộc đời này.” Anh học được ở mẹ nhiều đức tính, nhưng đáng kể nhất là lòng nhân từ và vị tha. Khi có người hỏi: “Nếu có một đóa hồng quý giá, nhạc sĩ sẽ tặng cho ai? Đức tính nào của con người khiến nhạc sĩ cúi đầu kính phục? ” Anh đáp “Tôi sẽ tặng cho mẹ tôi. Rất tiếc mẹ tôi không còn nữa. Đức tính của con người khiến tôi cúi đầu kính phục là lòng vị tha.”
Sống vị tha và sống với một tấm lòng, đó là phương châm của anh. Được hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” Đó có phải là quan niệm sống và sáng tác của nhạc sĩ không? Theo nhạc sĩ, quan niệm đó có còn đúng trong thời buổi có quá nhiều thay đổi như hiện nay? ” Anh đáp “Thời buổi nào cũng cần phải có một quan niệm sống như thế, con người và động vật chỉ có khác nhau từng ấy thôi. ” Anh yêu người thì nhiều song phần lớn đó là những cuộc tình không đoạn kết, nhưng Trịnh Công Sơn không hề oán trách, anh nói:
Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người
Tạ ơn ai đã cho tôi những ngày quên kiếp sống lẻ loi
(Tạ Ơn)
và Hai mươi năm xin trả nợ đời
Trả nợ một đời em đã phụ tôi …
Em phụ tôi một thời bé dại
Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi
Thơ dại ra đi quên hết tình tôi.
nhưng anh vẫn tha thứ và nói lời yêu thương
Bao nhiêu năm lại vẫn nhiệm mầu
Trả nợ một lần quên hết tình đau
Hai mươi năm vẫn là thuở nào
Nợ lại lần này trong cõi đời nhau
(Xin Trả Nợ Người)
Anh không hề chua chát khi nói: “Nếu vì lý do nào đó mà tôi mất hẳn chức năng biết yêu thì có lẽ bây giờ tôi đã không trở thành người viết tình ca. Cái may ở đời là bị phụ tình. Với tôi, trong tình yêu không có sự bất tử. Người ta chỉ muốn lãng mạn hóa nó đó mà thôi…Tình yêu cho phép những khúc ca ra đời. Nỗi đau và niềm hân hoan làm thành bào thai nở ra âm nhạc. Âm nhạc như thế là trong bản thân nó đó hàm chứa một cõi nhân sinh bề bộn những khổ đau và hoan lạc. Không có bất hạnh và nụ cười có lẽ âm nhạc cũng không có cơ duyên ra đời. ”
Hiểu rõ như thế, anh không oán trách sự mất mát mà trái lại còn yêu đời tha thiết hơn, vì: “Cái Tôi đáng ghét (Le moi est haisable) nhưng cái Tôi cũng có lúc đáng yêu vì cái Tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Đó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống nàỵ. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi lòng oán hận đối với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời lớn rộng quá và mỗi chúng ta chỉ là hạt bụi nhỏ trong trần gian mà thôi. Giận hờn trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xóa hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn. Ai cũng biết cuộc đời là quý vì vậy ai cũng muốn ôm lấy mãi cuộc đời. Như đôi tình nhân. Nhưng mà nợ trần không dễ, không dài. Rồi sẽ có phút chia lìa”.
Như bất cứ một ai, Trịnh Công Sơn cũng có cái mâu thuẫn của anh. Hiểu rõ tư tưởng Phật giáo nhưng anh vẫn lo sợ phút chia lìa ấy. Anh tâm sự: “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ, cho đến sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và sự chết trở thành vấn đề lớn trong đi sống tinh thần của tôi. Có lẽ, suy cho cùng, từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cuộc sống, sợ mất nó. Mất mát một cái gì đó mà mình đã từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng tìm thấy như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất mát và cái chết là nỗi ám ảnh lớn nhất trong đời tôi.” Nỗi ám ảnh và sự mất mát đôi lúc đẩy anh đến gần niềm tuyệt vọng, và lúc đó thì anh tự nhủ
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông
Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn khi dấu lệ
Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi là ai là ai...mà yêu quá đời này.
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Nắng vàng phai, như một nỗi đời riêng
Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng
Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh
Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ
Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên.
(Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng) Tôi là ai mà còn trần gian thế. Tôi là ai là ai...mà yêu quá đời này. Hai câu này nói lên được hết cái sức sống của Trịnh Công Sơn. Anh sống trọn vẹn cho cuộc đời và gắn bó với quê hương Việt Nam vì như anh nói “Mỗi thế hệ đều mang đến cho tôi nguồn mạch cảm hứng. Tôi đã cố gắng sống hòa hợp và biểu hiện những suy nghĩ của mình bằng mạch nguồn cảm hứng ấỵ Người sáng tác thì không thể sống tách rời với thời đại mình đang sống...” Trả lời câu “ở xa đất nước, anh có nghĩ rằng anh sẽ viết khác không ?” anh nói “Không những sẽ viết khác đi mà thậm chí là không thể viết nữa. Tiếng Pháp có chữ “culture” vừa có ý nghĩa là văn hóa, vừa có ý nghĩa là trồng trọt. Một nền văn hóa này lại trồng trên một mảnh đất khác thì e rằng không thể phát triển bình thường được”.
Có một mối liên hệ rất thân thương và thiêng liêng giữa người sáng tạo và người thưởng thức vì Bá Nha đâu là gì nếu không có Chung Tử Kỳ. Người nghệ sĩ ở đâu và bất cứ thời nào cũng không thể tách rời ra khỏi môi trường xã hội của mình. Văn hào Nguyễn Du đã chẳng có lần hỏi “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”- không biết rồi ba trăm năm nữa, thiên hạ ai người khóc Tố Như, đó sao? Vậy thì, chúng ta hãy hãnh diện và vui sướng đi. Hãnh diện bởi vì bằng những sợi dây liên lạc vô hình mà cũng rất thật, mỗi người trong thời đại của chúng ta đã góp phần nào đó để tạo nên con người Trịnh Công Sơn. Vui sướng vì ta đã được sống cùng thời với một trái tim lớn nhất của thế kỷ và bởi vì qua dòng nhạc nhân bản và tiếng nói thương yêu ấy, cuộc sống của mỗi chúng ta, gia tài văn hóa của quê hương đã giầu có lên biết bao nhiêu.
Trả lời một câu hỏi của nhà báo Lý Quý Chung vào khoảng giữa thập niên 90 là anh có bao giờ nghĩ đến chuyện viết di chúc, anh nói: “ Một cô ca sĩ đã hỏi mình câu đó. Mình có tài sản chi đâu? Với mình cái hiện tại là cái có thật, cùng sống với nó. Còn cái sau đó…” Câu trả lời thật hồn nhiên và khiêm nhường biết bao. Tất nhiên, những người yêu nhạc Trịnh Công Sơn đều biết là cái kho tàng ca khúc của anh cũng như các đóng góp của anh trong việc thay đổi ngôn ngữ của âm nhạc Việt Nam trong các thập niên 60-70 không nhỏ chút nào bởi âm nhạc và cách nhìn của ta về nó đã hoàn toàn thay đổi sau khi giòng nhạc của anh đã trổi lên.
Trả lời một câu hỏi khác: “Người ta ví von rất hay về Tagore (Văn hào Ấn Độ) ông là một người tình của cuộc đời, người lính canh của cuộc sống, có thể gọi anh là người tình của người tình không?” Anh cười và nói: “Nếu cần một cái tên gọi cho vui thì tôi nghĩ rằng mình có lẽ là người tình của cuộc sống.” Đúng như thế. Người tình của cuộc sống ấy đã quá khiêm nhường khi tự cho là mình không có tài sản gì. Ngay trong phút này, mỗi chúng ta đều mang trong mình một chút Trịnh Công Sơn: một câu nhạc bất hủ nào đó của Diễm Xưa, Hạ Trắng, Như Cánh Vạc Bay, Nối Vòng Tay Lớn… một chút ưu tư về cuộc sống nay còn mai mất khi nghe Một Cõi Đi Về. Ai trong chúng ta lại không thấy yêu quê hương hơn khi nghe anh hát
Huế, Sàigòn, Hà Nội
Hai mươi năm tiếng khóc lầm than
Huế, Sàigòn, Hà Nội
Trong ta đau trái tim Việt Nam
(Huế, Sàigòn, Hà Nội)
Gan cùng mình! Trong khi guồng máy chiến tranh đang kêu gào thêm xương máu , người thanh niên mới ngoài hai mươi với dáng dấp thư sinh mảnh khảnh ấy đã có đủ can trường và đảm lược để nói lên điều mà mọi người đang mơ ước nhưng đã không thể nói. Anh kêu gọi chúng ta hãy Bừng cơn mơ. Cho mắt nhìn sạch tan căm thù và nhìn tới một viễn ảnh mà trong những năm chinh chiến ấy tưởng chừng như sẽ không bao giờ xẩy ra
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm một phố đầy hầm
Đi thăm một con đường nhiều hố
Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm
Tôi sẽ đi thăm cầu gẫy vì mìn
Đi thăm hầm chông và mã tấu …
Khi đất nước tôi không còn chiến tranh
Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ.
(Tôi Sẽ Đi Thăm)
“Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ ” Tám chữ thật giản dị mà tóm gọn cái mất mát đau thương và xót xa của dân tộc. Anh cho chúng ta biết sự lựa chọn để ở lại với quê hương của anh là dễ hiểu, vì
Mỗi ngày, tôi chọn một lần thôi
Chọn tiếng ru con nhẹ bước vào đời
Tôi chọn nắng đầy, chọn cơn mưa tới
Để lúa reo mừng tựa vẫy tay
Mỗi ngày, tôi chọn ngồi thật yên
Nhìn rõ quê hương, ngồi nghĩ lại mình
Tôi chợt biết rằng vì sao tôi sống
Vì đất nước cần một trái tim
Và như thế tôi sống vui từng ngày
Và như thế tôi đến trong cuộc đời
Đã yêu cuộc đời này bằng trái tim của tôi …
(Mỗi Ngày Tôi Chọn Một Niềm Vui)
“Vì đất nước cần một trái tim” Còn lời nào thiết tha và đầy thơ tính hơn! Từ tiếng ru con nhẹ bước vào đời đến nắng đầy hay lúa reo mừng tựa vẫy tay… tất cả nói lên một tấm lòng tha thiết yêu quê hương, yêu cuộc đời. Vẻ đẹp trong nhạc của anh nằm ở chỗ, nó bình dị, không chải chuốt mà lại đẹp tuyệt vời và đi ngay vào lòng người nghe. Bởi vì sao? Vì điều anh nói là những gì rất bình thường: một ước vọng hòa bình mà bất cứ người Việt nào dù ở đâu, ở thời nào vẫn hằng mơ ước.
Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đã có lần nói: “Trịnh Công Sơn viết dễ như người ta lấy đồ trong túi.” Nếu ý nhạc và lời thơ có đến với anh dễ dàng cũng chỉ vì đó là những tình cảm chân thật xuất phát từ trái tim mẫn cảm của anh. Trái tim yêu thương ấy đã rung lên một nhịp điệu mà người nghe đã bắt được ngay tức khắc vì như anh bộc lộ: “… trong nghệ thuật, điều quan trọng nhất là mở ra một con đường ngắn nhất đi từ trái tim của mình đến trái tim của người mà không cần cắt nghĩa gì hơn.” Trong Người Con Gái Việt Nam Da Vàng lời ca của anh ngọt ngào nhưng không kém phần chua xót và không cần cắt nghĩa gì hơn
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín
Người con gái Việt Nam da vàng
Yêu quê hương nước mắt lưng dòng
Em chưa biết quê hương thanh bình
Em chưa thấy xưa kia Việt Nam
Em chưa hát ca dao một lần
Em chỉ có con tim căm hờn. …
Còn gì đáng sợ hơn viễn ảnh của một xứ sở mà ở đó thế hệ những người trẻ lớn lên không biết gì đến cội nguồn yêu thương, vì “em chưa biết quê hương thanh bình, em chưa thấy xưa kia Việt Nam, em chưa hát ca dao một lần” mà “em chỉ có con tim căm hờn.” May thay, kẻ sĩ Trịnh Công Sơn đã đánh thức chúng ta, những “người nô lệ da vàng, ngủ quên trong căn nhà nhỏ đèn thắp thì mờ” của những năm chinh chiến ấy.
Không những anh đã thay đổi cách ta nói và nghĩ về tình yêu, Trịnh Công Sơn còn cho chúng ta thấy cái thân phận nhỏ bé, bọt bèo của kiếp người qua những lời ca của anh rải rác trong nhiều ca khúc khác nhau. Khi Phạm Duy viết Huyền Sử Ca Một Người Mang Tên Quốc, dù rằng đây là một bản nhạc rất hay, nó chỉ nói cho ta biết về người chiến sĩ phi công ấy. Trái lại, khi Trịnh Công Sơn viết Cho Một Người Vừa Nằm Xuống anh không chỉ xót xa cho một người bạn vừa ra đi mà nghe như anh đang nói với mỗi chúng ta về thân phận của chính mình.
Anh nằm xuống cho hận thù vào lãng quên
Tiễn đưa nhau trong một ngày buồn
Đất ôm anh đưa về cội nguồn
Rồi từ đó trong trời rộng đã vắng anh
Như cánh chim bỏ rừng
Như trái tim bỏ tình...
Và
Anh nằm xuống
Như một lần vào viễn du
Đứa con thơ đã tìm về nhà
Đất hoang vu khép lại hẹn hò...
Trịnh Công Sơn viết nhạc cũng như làm thơ vì anh gần gũi với cả hai lãnh vực của nghệ thuật này. Với anh, không có sự phân chia ranh giới giữa hai bộ môn nghệ thuật ấy “có lẽ đã lâu lắm rồi tôi hoàn toàn quên lãng cái biên giới giữa các bộ môn nghệ thuật và văn học ” và bằng một sự pha trộn tuyệt vời của nhạc và thơ, Trịnh Công Sơn đang nhắc cho anh và cho mỗi chúng ta là, dù có muốn chối bỏ đến đâu, ta cũng sẽ có một lần là “đứa con thơ đã tìm về nhà ” đó.
Lớn lên trong một gia đình thấm nhuần đạo Phật, anh hiểu rõ cái vô thường của cuộc sống. Thân phụ của Trịnh Công Sơn mất năm anh mới 15 tuổi. Đó là một cái chết đột ngột và là một mất mát vô cùng lớn cho gia đình anh. Trịnh Công Sơn đã có ít nhất là vài năm gần gũi với kinh kệ ở cái tuổi rất trẻ ấy vì anh đã quy y và sống gần gũi với cửa thiền. Hiển nhiên là những năm đó đã để lại trong anh nhiều ảnh hưởng sâu đậm. Anh viết “Những ai đã đi đến với đời thì có lúc phải lìa xa nó. Một cõi đi về...Trong Phật giáo một trong những hạnh cao nhất là hạnh bố thí. Cho kẻ này nhưng sẽ nhận lại ở kẻ khác...Chết là sự tan biến của thể xác. Nhưng sống không chỉ là sự tồn tại của thân xác. Nhiều người còn sống mà tưởng chừng như đã chết. Nhiều người đã chết mà vẫn còn sống trong trí nhớ mọi người... Trong câu chuyện đời chung, kẻ này quên thì người kia phải nhớ. Một ý tưởng chợt tắt để làm mầm chuyển hóa cho một ý tưởng khác nẩy sinh. Cái mất không bao giờ mất hẳn. Cái còn không hẳn là mãi còn...” Điều anh nói đến là những triết lý rất căn bản của đạo Phật là duyên khởi và vô sinh vô diệt. Những ý này được Trịnh Công Sơn diễn đạt rất tài tình trong nhiều ca khúc khác nhau
Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đi mỏi mệt
Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về ...
Nghe mưa nơi này lại nhớ mưa xa
Mưa bay trong ta bay từng hạt nhỏ
Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ
Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà
Đường chạy vòng quanh, một vòng tiều tụy
Một bờ cỏ non, một bờ mộng mị
Ngày xưa...
Từng lời tà dương, là lời mộ địa
Từng lời bờ sông nghe ra từ độ
Suối khe...
(Một Cõi Đi Về) ..
Đời sống mỗi khi người đưa tiễn người
Là tôi lắng nghe, lòng tôi rã rời
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Trong xuân thì thấy bóng trăm năm ...
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng
Sông bao lần sông đã ra đi
Những ngàn xưa trôi đến bây giờ
Sông ra đi hay mới bước về.
(Gần Như Niềm Tuyệt Vọng)
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời ...
(Ở Trọ) Những ý tưởng bàng bạc thiền tính như “Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, Rọi suốt trăm năm một cõi đi về” “Trăm năm vô biên chưa từng hội ngộ, Chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà ” “Trong xuân thì thấy bóng trăm năm” “Tôi nay ở trọ trần gian, Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời” cho ta thấy anh nắm vững tư tưởng triết lý Phật giáo, y như là nó ở trong huyết mạch của anh để bộc lộ một cách hết sức tự nhiên qua lời thơ, ý nhạc. Anh giải thích “Tôi là một Phật tử ở trong một gia đình có tôn giáo chính là Phật giáo. Từ những ngày còn trẻ, tôi đã học kinh và thuộc kinh Phật. Thuở bé tôi hay đến chùa vì thích sự yên tĩnh. Có những năm tháng nằm bệnh, đêm nào mẹ tôi cũng nhờ một Thầy đến nhà tụng kinh cầu an và tôi thường đi vào giấc ngủ êm đềm giữa những câu kinh đó. Có thể vì một tuổi trẻ đã có cơ duyên đi qua những cổng nhà Phật nên trong vô thức, bên cạnh những di sản văn hóa Đông Tây góp nhặt được còn có những lời kệ vô tình nằm ở đấy.”
Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du ta luôn gặp những hình ảnh của triết lý Phật giáo, những câu thơ về duyên và nghiệp, đề cao tình người mà điển hình là “Đã mang lấy nghiệp vào thân, Cũng đừng trách lẫn trời gần, trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” và “Có tài mà cậy chi tài, chữ tài liền với chữ tai một vần.”. Ta không ngạc nhiên chút nào khi được biết rằng khi viết Đoạn Trường Tân Thanh, Tố Như tiên sinh đã đọc và thấm nhuần kinh Kim Cương khi ông đi sứ bên Tầu trước đó. Thế nên, đây chẳng phải là một ngẫu nhiên khi văn hóa Việt Nam lại thêm một lần khởi sắc vì người nghệ sĩ tài hoa Trịnh Công Sơn đã có cơ duyên đi qua cổng Phật để đem tiếng hát nhân bản đến với muôn người.
Ta hãy nghe anh nói tiếp “Phải biết sống hết mình trong mỗi sát na của thực tại. Từ mỗi cái ăn, cái uống, cái đi đứng, nằm, ngồi. Không làm công việc này mà nghĩ đến công việc khác. Với tôi, đó cũng là thiền, là một cách sống đích thực. Tôi vẫn tích cực thực tập cách sống như thế hằng ngàỵ Tôi đang cố gắng quên đi Phật giáo như một thứ tôn giáo. Tôi muốn đó là một thứ triết học siêu thoát mà ai cũng cần phải học, ngay cả những người thuộc tôn giáo khác. Mỗi người phải nỗ lực để xây dựng cho bằng được một ngôi chùa tĩnh lặng trong lòng mình và nuôi lớn Phật tính trong chính bản thân thành một tượng đài vững chắc. Nó giúp ta nhìn thế giới khác đi, nhìn cuộc sống khác đi ...Cuối năm 1995, tôi có viết một bài hát mà tôi rất thích và bạn bè ai cũng thích. Đó là bài “Sóng Về Đâu”. Bài này lấy cảm hứng từ câu kệ Gaté, Gaté. Paragaté. Parasamgaté. Bodhisvaha”.
Nói về Trịnh Công Sơn mà không kể đến những mất mát và phấn đấu của anh để vượt qua những mất mát ấy thì quả là một thiếu xót lớn. Như đã kể trên, thân phụ anh qua đời sau một tai nạn lúc anh mới 15 tuổi. Người cha đã từ trần thuở anh còn thơ ấu tưởng chừng như đã không để lại gì, nhưng gương hy sinh của ông trong những năm kháng chiến chống Pháp và lao tù chắc chắn đã có động tác hun đúc tình yêu đồng bào, yêu quê hương của anh. Mất cha, anh may mắn có được một người mẹ hết sức đảm đang và thương con, như anh nói : “Mẹ tôi về lòng dũng cảm và thương con thì duy nhất trong cuộc đời này.” Anh học được ở mẹ nhiều đức tính, nhưng đáng kể nhất là lòng nhân từ và vị tha. Khi có người hỏi: “Nếu có một đóa hồng quý giá, nhạc sĩ sẽ tặng cho ai? Đức tính nào của con người khiến nhạc sĩ cúi đầu kính phục? ” Anh đáp “Tôi sẽ tặng cho mẹ tôi. Rất tiếc mẹ tôi không còn nữa. Đức tính của con người khiến tôi cúi đầu kính phục là lòng vị tha.”
Sống vị tha và sống với một tấm lòng, đó là phương châm của anh. Được hỏi: “Sống trong đời sống cần có một tấm lòng” Đó có phải là quan niệm sống và sáng tác của nhạc sĩ không? Theo nhạc sĩ, quan niệm đó có còn đúng trong thời buổi có quá nhiều thay đổi như hiện nay? ” Anh đáp “Thời buổi nào cũng cần phải có một quan niệm sống như thế, con người và động vật chỉ có khác nhau từng ấy thôi. ” Anh yêu người thì nhiều song phần lớn đó là những cuộc tình không đoạn kết, nhưng Trịnh Công Sơn không hề oán trách, anh nói:
Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người
Tạ ơn ai đã cho tôi những ngày quên kiếp sống lẻ loi
(Tạ Ơn)
và Hai mươi năm xin trả nợ đời
Trả nợ một đời em đã phụ tôi …
Em phụ tôi một thời bé dại
Thơ dại ra đi không nhớ gì tôi
Thơ dại ra đi quên hết tình tôi.
nhưng anh vẫn tha thứ và nói lời yêu thương
Bao nhiêu năm lại vẫn nhiệm mầu
Trả nợ một lần quên hết tình đau
Hai mươi năm vẫn là thuở nào
Nợ lại lần này trong cõi đời nhau
(Xin Trả Nợ Người)
Anh không hề chua chát khi nói: “Nếu vì lý do nào đó mà tôi mất hẳn chức năng biết yêu thì có lẽ bây giờ tôi đã không trở thành người viết tình ca. Cái may ở đời là bị phụ tình. Với tôi, trong tình yêu không có sự bất tử. Người ta chỉ muốn lãng mạn hóa nó đó mà thôi…Tình yêu cho phép những khúc ca ra đời. Nỗi đau và niềm hân hoan làm thành bào thai nở ra âm nhạc. Âm nhạc như thế là trong bản thân nó đó hàm chứa một cõi nhân sinh bề bộn những khổ đau và hoan lạc. Không có bất hạnh và nụ cười có lẽ âm nhạc cũng không có cơ duyên ra đời. ”
Hiểu rõ như thế, anh không oán trách sự mất mát mà trái lại còn yêu đời tha thiết hơn, vì: “Cái Tôi đáng ghét (Le moi est haisable) nhưng cái Tôi cũng có lúc đáng yêu vì cái Tôi đó biết mình và cuộc đời là một. Tôi yêu cuộc đời và cuộc đời cũng đã yêu tôi. Đó là niềm an ủi lớn trong cuộc sống nàỵ. Vì thế trong lòng tôi không có một giây phút nào nuôi lòng oán hận đối với cuộc đời. Dù có đôi khi nhân gian bạc đãi mình, và con người phụ rẫy mình nhưng cuộc đời lớn rộng quá và mỗi chúng ta chỉ là hạt bụi nhỏ trong trần gian mà thôi. Giận hờn trách móc mà làm gì bởi vì cuộc đời sẽ xóa hết những vết bầm trong tâm hồn chúng ta nếu lòng ta biết độ lượng. Ta biết tha thứ những điều nhỏ thì cuộc đời sẽ tha thứ cho ta những điều lớn hơn. Ai cũng biết cuộc đời là quý vì vậy ai cũng muốn ôm lấy mãi cuộc đời. Như đôi tình nhân. Nhưng mà nợ trần không dễ, không dài. Rồi sẽ có phút chia lìa”.
Như bất cứ một ai, Trịnh Công Sơn cũng có cái mâu thuẫn của anh. Hiểu rõ tư tưởng Phật giáo nhưng anh vẫn lo sợ phút chia lìa ấy. Anh tâm sự: “Nỗi ám ảnh lớn nhất, đeo đẳng tôi từ thuở còn nhỏ, cho đến sau này vẫn luôn luôn bị ám ảnh là cái chết. Sự sống và sự chết trở thành vấn đề lớn trong đi sống tinh thần của tôi. Có lẽ, suy cho cùng, từ đâu mà ra cái suy nghĩ đó là do tôi quá yêu cuộc sống, sợ mất nó. Mất mát một cái gì đó mà mình đã từng có trong cuộc đời, đã từng đi qua và đã từng tìm thấy như tình yêu, như cái gì đẹp nhất của cuộc sống sợ ngày nào sẽ mất đi. Sự mất mát và cái chết là nỗi ám ảnh lớn nhất trong đời tôi.” Nỗi ám ảnh và sự mất mát đôi lúc đẩy anh đến gần niềm tuyệt vọng, và lúc đó thì anh tự nhủ
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Lá mùa thu rơi rụng giữa mùa đông
Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng
Em là tôi và tôi cũng là em
Con diều bay mà linh hồn lạnh lẽo
Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo
Tôi là ai mà còn khi dấu lệ
Tôi là ai mà còn trần gian thế
Tôi là ai là ai...mà yêu quá đời này.
Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng
Nắng vàng phai, như một nỗi đời riêng
Đừng tuyệt vọng em ơi đừng tuyệt vọng
Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh
Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ
Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu lên.
(Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng) Tôi là ai mà còn trần gian thế. Tôi là ai là ai...mà yêu quá đời này. Hai câu này nói lên được hết cái sức sống của Trịnh Công Sơn. Anh sống trọn vẹn cho cuộc đời và gắn bó với quê hương Việt Nam vì như anh nói “Mỗi thế hệ đều mang đến cho tôi nguồn mạch cảm hứng. Tôi đã cố gắng sống hòa hợp và biểu hiện những suy nghĩ của mình bằng mạch nguồn cảm hứng ấỵ Người sáng tác thì không thể sống tách rời với thời đại mình đang sống...” Trả lời câu “ở xa đất nước, anh có nghĩ rằng anh sẽ viết khác không ?” anh nói “Không những sẽ viết khác đi mà thậm chí là không thể viết nữa. Tiếng Pháp có chữ “culture” vừa có ý nghĩa là văn hóa, vừa có ý nghĩa là trồng trọt. Một nền văn hóa này lại trồng trên một mảnh đất khác thì e rằng không thể phát triển bình thường được”.
Có một mối liên hệ rất thân thương và thiêng liêng giữa người sáng tạo và người thưởng thức vì Bá Nha đâu là gì nếu không có Chung Tử Kỳ. Người nghệ sĩ ở đâu và bất cứ thời nào cũng không thể tách rời ra khỏi môi trường xã hội của mình. Văn hào Nguyễn Du đã chẳng có lần hỏi “Bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”- không biết rồi ba trăm năm nữa, thiên hạ ai người khóc Tố Như, đó sao? Vậy thì, chúng ta hãy hãnh diện và vui sướng đi. Hãnh diện bởi vì bằng những sợi dây liên lạc vô hình mà cũng rất thật, mỗi người trong thời đại của chúng ta đã góp phần nào đó để tạo nên con người Trịnh Công Sơn. Vui sướng vì ta đã được sống cùng thời với một trái tim lớn nhất của thế kỷ và bởi vì qua dòng nhạc nhân bản và tiếng nói thương yêu ấy, cuộc sống của mỗi chúng ta, gia tài văn hóa của quê hương đã giầu có lên biết bao nhiêu.
{Trích - Nghiêm Xuân Cường (Ann Arbor, Đầu Xuân 2004 ). Theo Trinhcongson.com
Nhạc Trịnh Công Sơn
“Tôi luôn luôn nhớ thương tuổi trẻ, tuổi của tình yêu nồng
nàn. Khi tôi yêu thương cái tuổi đời ngào ngạt hương hoa này thì đồng thời tôi
cũng yêu một cõi đời tôi đã mất”.
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 tại Lạc Giao (Daklak - cao nguyên miền Trung Việt Nam). Ông mất vào 12g45 trưa ngày 1 tháng 4, 2001, tại Sài Gòn. Ông an nghỉ tại nghĩa trang Gò Dưa, chùa Quảng Bình, tỉnh Bình Dương, bên cạnh mộ của thân mẫu Ông.
Ông lớn lên ở Huế (làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên), tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup Laubat, Sài Gòn.
Năm 1943 từ Daklak ông theo gia đình chuyển về Huế. Ông học trường tiểu học Nam Giao (nay là Trường An), vào trường Pellerin, theo học trường Thiên Hựu (Providence). Ông tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup Laubat, Sài Gòn. Học trường Sư Phạm Quy Nhơn khoá I (1962-1964). Sau khi tốt nghiệp ông lên dạy học và làm Hiệu trưởng một trường Tiểu học ở Bảo Lộc (Lâm Đồng). Sau 1965, ông bỏ hẳn nghề dạy học, về sống và sáng tác tại Saigon. Sau 1975 ông sống ở Huế một thời gian dài và sau đó vào ở hẳn tại Saigon.
Trịnh Công Sơn tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ướt Mi (NXB An Phú in năm 1959). Cho đến nay, nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 tác phẩm, có thể được phân loại dưới 3 đề mục lớn: Tình Yêu -- Quê Hương -- Thân Phận.
Ngoài Âm nhạc, tác phẩm của ông còn gồm nhiều thể loại thuộc các lãnh vực như: Thơ, Văn và Hội Họa.
Năm 1972, ông đoạt giải thưởng Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài "Ngủ Đi Con" (trong Ca Khúc Da Vàng) qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly phát hành trên 2 triệu bản. Giải thưởng cho Bài hát hay nhất trong phim "Tội Lỗi Cuối Cùng”. Giải Nhất của cuộc thi "Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh" với bài "Em Ở Nông Trường, Em Ra Biên Giới". Giải Nhất cuộc thi "Hai mươi năm sau" với bài "Hai Mươi Mùa Nắng Lạ”. Năm 1997, ông đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhạc Sĩ cho một chuỗi bài hát: "Xin Trả Nợ Người", "Sóng Về Đâu", "Em Đi Bỏ Lại Con Đường".
Trịnh Công Sơn có tên trong tự điển Bách Khoa Pháp "Encyclopédie de tous les pays du monde" (Coll. Les Millions)...
Quan niệm sáng tác: "Tôi chỉ là một tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo..."
Như nhận xét của nhạc sĩ Văn Cao: "Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra”. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra. Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ là ở chính ở chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả ngoài biên giới nữa..."
Quan niệm sống: "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, dù không để làm gì cả, dù chỉ để gió cuốn đi!
Các tuyển tập ca khúc nổi tiếng: Ca Khúc Trịnh Công Sơn,Tình Khúc Trịnh Công Sơn, Tuổi Đá Buồn, Khói Trời Mênh Mông, Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt Trời, Phụ Khúc Da Vàng, Như Cánh Vạc Bay, Tự Tình Khúc, Lời Đất Đá Cũ,Thần Thoại Quê Hương Tình Yêu và Thân Phận, Một Cõi Đi Về, Huyền Thoại Mẹ, Cỏ Xót Xa Đưa, Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, Những Bài Ca Không Năm Tháng.
Khi nghe tin ông mất ca sĩ Khánh Ly đã phát biểu: "Ông Trịnh Công Sơn không của riêng ai. Ông là của tất cả mọi người. Ông yêu dân tộc và quê hương. Việc ông ở lại và nằm xuống trên quê hương là điều đúng. Từ ông, tôi đã thành danh, và quan trọng hơn là thành nhân. Sống cùng với tên tuổi của ông gần 40 năm với những lời ông dặn bảo phải sống giữa đời với một tấm lòng, và sống với người bằng sự tử tế. Ông là một nửa đời sống của tôi.".
Trịnh Công Sơn sinh ngày 28 tháng 2 năm 1939 tại Lạc Giao (Daklak - cao nguyên miền Trung Việt Nam). Ông mất vào 12g45 trưa ngày 1 tháng 4, 2001, tại Sài Gòn. Ông an nghỉ tại nghĩa trang Gò Dưa, chùa Quảng Bình, tỉnh Bình Dương, bên cạnh mộ của thân mẫu Ông.
Ông lớn lên ở Huế (làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên), tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup Laubat, Sài Gòn.
Năm 1943 từ Daklak ông theo gia đình chuyển về Huế. Ông học trường tiểu học Nam Giao (nay là Trường An), vào trường Pellerin, theo học trường Thiên Hựu (Providence). Ông tốt nghiệp tú tài ban Triết tại Chasseloup Laubat, Sài Gòn. Học trường Sư Phạm Quy Nhơn khoá I (1962-1964). Sau khi tốt nghiệp ông lên dạy học và làm Hiệu trưởng một trường Tiểu học ở Bảo Lộc (Lâm Đồng). Sau 1965, ông bỏ hẳn nghề dạy học, về sống và sáng tác tại Saigon. Sau 1975 ông sống ở Huế một thời gian dài và sau đó vào ở hẳn tại Saigon.
Trịnh Công Sơn tự học nhạc, bắt đầu sáng tác năm 1958 với tác phẩm đầu tay Ướt Mi (NXB An Phú in năm 1959). Cho đến nay, nhạc sĩ đã sáng tác hơn 600 tác phẩm, có thể được phân loại dưới 3 đề mục lớn: Tình Yêu -- Quê Hương -- Thân Phận.
Ngoài Âm nhạc, tác phẩm của ông còn gồm nhiều thể loại thuộc các lãnh vực như: Thơ, Văn và Hội Họa.
Năm 1972, ông đoạt giải thưởng Đĩa Vàng ở Nhật Bản với bài "Ngủ Đi Con" (trong Ca Khúc Da Vàng) qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly phát hành trên 2 triệu bản. Giải thưởng cho Bài hát hay nhất trong phim "Tội Lỗi Cuối Cùng”. Giải Nhất của cuộc thi "Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh" với bài "Em Ở Nông Trường, Em Ra Biên Giới". Giải Nhất cuộc thi "Hai mươi năm sau" với bài "Hai Mươi Mùa Nắng Lạ”. Năm 1997, ông đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhạc Sĩ cho một chuỗi bài hát: "Xin Trả Nợ Người", "Sóng Về Đâu", "Em Đi Bỏ Lại Con Đường".
Trịnh Công Sơn có tên trong tự điển Bách Khoa Pháp "Encyclopédie de tous les pays du monde" (Coll. Les Millions)...
Quan niệm sáng tác: "Tôi chỉ là một tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo..."
Như nhận xét của nhạc sĩ Văn Cao: "Trong âm nhạc của Sơn, ta không thấy dấu vết của âm nhạc cổ điển theo cấu trúc bác học phương Tây. Sơn viết hồn nhiên như thể cảm xúc nhạc thơ tự nó trào ra”. Nói như nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, người bạn già của tôi, "Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra. Cái quyến rũ của nhạc Trịnh Công Sơn có lẽ là ở chính ở chỗ đó, ở chỗ không định tạo ra một trường phái nào, một triết học nào, mà vẫn thấm vào lòng người như suối tưới. Với những lời, ý đẹp và độc đáo đến bất ngờ hôn phối cùng một kết cấu đặc biệt như một hình thức của dân ca hầu như không thay đổi, Trịnh Công Sơn đã chinh phục hàng triệu con tim, không chỉ ở trong nước, mà ở cả ngoài biên giới nữa..."
Quan niệm sống: "Sống trong đời sống cần có một tấm lòng, dù không để làm gì cả, dù chỉ để gió cuốn đi!
Các tuyển tập ca khúc nổi tiếng: Ca Khúc Trịnh Công Sơn,Tình Khúc Trịnh Công Sơn, Tuổi Đá Buồn, Khói Trời Mênh Mông, Ca Khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam, Ta Phải Thấy Mặt Trời, Phụ Khúc Da Vàng, Như Cánh Vạc Bay, Tự Tình Khúc, Lời Đất Đá Cũ,Thần Thoại Quê Hương Tình Yêu và Thân Phận, Một Cõi Đi Về, Huyền Thoại Mẹ, Cỏ Xót Xa Đưa, Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên, Những Bài Ca Không Năm Tháng.
Khi nghe tin ông mất ca sĩ Khánh Ly đã phát biểu: "Ông Trịnh Công Sơn không của riêng ai. Ông là của tất cả mọi người. Ông yêu dân tộc và quê hương. Việc ông ở lại và nằm xuống trên quê hương là điều đúng. Từ ông, tôi đã thành danh, và quan trọng hơn là thành nhân. Sống cùng với tên tuổi của ông gần 40 năm với những lời ông dặn bảo phải sống giữa đời với một tấm lòng, và sống với người bằng sự tử tế. Ông là một nửa đời sống của tôi.".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét