Chương 10
Tính Nhất Thể Của Vạn Sự
Tính Nhất Thể Của Vạn Sự
Mặc dù các truyền thống đạo
học được mô tả trong năm chương trước có khác nhau về chi tiết, nhưng thế giới
quan của họ chủ yếu chỉ là một. Đó là quan niệm xuất phát từ sự chứng thực tâm
linh. Sự chứng thực trực tiếp, phi lý luận này về thực tại có nhiều nét giống
nhau, chúng độc lập với đặc điểm địa lý, lịch sử hay nền tảng văn hóa.
Một nhà Ấn Độ giáo hay Lão
giáo có thể nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau về sự chứng thực; có thể một Phật
tử Nhật Bản biểu hiện kinh nghiệm của mình khác hẳn với Phật tử ấn Độ, thế
nhưng những yếu tố cơ bản của thế giới quan trong mọi truyền thống này là giống
nhau. Những yếu tố này dường như cũng là cơ sở của thế giới quan xuất phát từ vật
lý hiện đại.
Đặc điểm quan trọng nhất của
thế giới quan phương Đông là - ta có thể nói cốt tuỷ của nó - ý thức về tính nhất
thể và mối tương quan của mọi sự vật và mọi biến cố, nhận thức rằng mọi hiện tượng
trong thế giới đều là biểu hiện của một thực thể cơ bản duy nhất. Tất cả mọi sự
vật đều được xem như có liên quan với nhau và là thành phần bất khả phân của một
cái toàn thể trong vũ trụ, là những hiện thân khác nhau của một thực tại cuối
cùng. Các truyền thống phương Đông đều căn cứ trên thực tại cuối cùng này, một
thực tại không thể phân chia, nó xuất hiện trong mọi thứ, và tất cả mọi vật đều
là thành phần của nó. Trong ấn Độ giáo, thực tại đó được gọi là Brahman, trong
Phật giáo là Pháp thân, trong Lão giáo là Đạo. Vì nó đứng ngoài mọi khái niệm
và phân loại nên Phật giáo gọi nó là Chân Như hay Cái là như thế:
Tâm chân như là tâm tánh bất
sinh bất diệt. Thể và tướng của nó to lớn bao trùm tất cả các pháp.
Trong đời sống hàng ngày ta
không thấy tính nhất thể của sự vật mà chia thế giới ra thành vật thể và biến cố
riêng lẻ. Sự chia chẻ này hiển nhiên là có ích và cần thiết để có thể giải quyết
công việc hàng ngày, nhưng nó không đúng với tính chất cơ bản của thực tại. Đó
là một quá trình trừu tượng hóa của đầu óc phân biệt và xếp loại của ta, một ảo
giác. Ấn Độ giáo và Phật giáo cho rằng ảo giác này là do vô minh mà ra, thứ vô
minh làm óc ta bị huyễn thuật chi phối. Do đó, mục đích đầu tiên của truyền thống
đạo học phương Đông là sửa lại đầu óc cho đúng, bằng cách thiền quán và tĩnh lặng.
Từ Sanskrit của thiền quán là Samadhi, có nghĩa sự thăng bằng tâm linh. Nó nói
đến trạng thái, trong đó con người chứng thực được sự nhất thể với vũ trụ:
Khi thể nhập được tâm thanh
tịnh thì Bồ Tát đạt tri kiến viên mãn và chứng được nhất thể của Pháp giới.
Tính nhất thể căn bản này
cũng là một trong những phát hiện quan trọng nhất của nền vật lý hiện đại. Nó
hiện rõ trong lĩnh vực nguyên tử và biểu hiện càng rõ hơn nữa khi ta nghiên cứu
sâu hơn trong lĩnh vực vật chất, đi xuống tầng lớp của hạt hạ nguyên tử. Tính
nhất thể của mọi sự và của mọi biến cố luôn luôn xuất hiện khi ta so sánh vật
lý hiện đại và đạo học phương đông. Khi nghiên cứu những mô hình của vật lý hạ
nguyên tử, ta thấy chúng luôn luôn phát biểu bằng nhiều cách khác nhau, dẫn đến
một kiến giải duy nhất: đó là các thành phần vật chất và những hiện tượng tham
gia, tất cả đều nằm trong một mối liên hệ với nhau và phụ thuộc lẫn nhau; chúng
không thể được xem là đơn vị độc lập, mà là thành phần bất khả phân của một cái
toàn thể.
Trong chương này tôi sẽ dựa
trên phân tích và quan sát thuyết lượng tử để trình bày mối tương quan trong
thiên nhiên.
Trước hết tôi xin trở lại sự
phân biệt giữa cơ cấu toán học của một lý thuyết và cách lý giải bằng ngôn từ của
nó. Cơ cấu toán học của thuyết lượng tử đã được nhiều thí nghiệm khẳng định và
được thừa nhận là nhất quán và chính xác để mô tả tất cả các hiện tượng nguyên
tử. Thế nhưng cách lý giải bằng ngôn từ của nó, tức là ý - nghĩa triết học của
thuyết lượng tử lại chưa có một cơ sở vững chắc. Thực tế là nhà vật lý suốt hơn
bốn mươi năm qua chưa đưa ra được một mô hình triết lý rõ rệt về nó.
Các thảo luận sau đây dựa
trên phép lý giải của trường phái Copenhagen về thuyết lượng tử, trường phái do
Bohr và Heisenberg triển khai trong cuối những năm hai mươi mà vẫn còn được xem
là mô hình được thừa nhận nhất. Sau đây tôi dựa vào báo cáo của Henry Stapp của
đại học California. Báo cáo đã đề cập đến một số khía cạnh của lý thuyết này, đến
một loại thí nghiệm nhất định mà ta thường gặp trong vật lý hạ nguyên tử. Bản
báo cáo của Stapp chỉ rõ, thuyết lượng tử cho thấy một mối liên hệ then chốt
trong thiên nhiên và nó cũng đặt thuyết này vào một khuôn khổ có thể mở rộng
cho mô hình tương đối của hạ nguyên tử mà ta sẽ thảo luận sau.
Điểm xuất phát của trường
phái Copenhagen là sự phân chia thế giới cơ lý ra hai hệ thống: một hệ thống được
quan sát và hệ thống quan sát. Hệ thống được quan sát có thể là một nguyên tử,
một hạt hạ nguyên tử, một quá trình trong thế giới nguyên tử v.v… Hệ thống quan
sát gồm có các máy móc quan sát, gồm một hay nhiều quan sát viên. Điều này dẫn
đến cái khó cơ bản là hai hệ thống này được “đối xử” khác nhau. Hệ thống quan
sát thì được mô tả bằng ngôn từ của vật lý cổ điển, thế nhưng các ngôn từ này lại
không phù hợp để mô tả hệ thống được quan sát. Chúng ta biết rằng khái niệm của
vật lý cổ điển là không đủ nhất quán để mô tả bình diện nguyên tử, thế nhưng ta
phải dùng nó để trình bày thí nghiệm và xử lý kết quả. Mối mâu thuẫn này không
có lời giải. Ngôn ngữ kỹ thuật của vật lý cổ điển chỉ là ngôn ngữ bình thường
có thêm chút tinh tế, và nó là ngôn ngữ duy nhất mà ta có thể dùng để lý giải,
trình bày kết quả thí nghiệm.
Hệ thống được quan sát được
mô tả trong thuyết lượng tử dưới dạng xác suất. Điều đó là có nghĩa là ta không
bao giờ nói được một cách chắc chắn vị trí của một hạt đang ở đâu, cũng không
nói được một tiến trình nguyên tử sẽ xảy ra thế nào. Thí dụ, những hạt hạ
nguyên tử mà ta biết hiện nay, phần lớn chúng không ổn định, có nghĩa là sau một
thời gian chúng sẽ tự phân hủy thành những hạt khác. Thế nhưng ta không tiên
đoán được thời gian này là bao lâu. Ta chỉ có thể nói về xác suất phân hủy sau
một thời gian nhất định, cụ thể hơn, ta chỉ biết được thời gian sống trung bình
của một số lớn hạt đó là bao nhiêu. Tương tự như thế ta chỉ nói về xác suất của
tiến trình phân hủy của chúng. Nhìn chung, một hạt thiếu ổn định có thể phân hủy
biến thành nhiều cách phối hợp khác nhau của những hạt khác, và ta lại không biết
hạt đó sẽ mang hình dáng phối hợp nào. Chúng ta chỉ có thể tiên đoán, trong một
số lượng lớn các hạt thì khoảng 60% của chúng sẽ chuyển ra thế này, 30% sẽ chuyển
ra thế khác và 10% sẽ chuyển theo kiểu thứ ba. Rõ ràng là người ta phải đo lường
rất nhiều mới có một bảng thống kê nhằm xác định kết quả. Và trong các cuộc thí
nghiệm của các hạt va chạm nhau với tốc độ cao, thì thực tế có hàng chục ngàn hạt
va chạm nhau được ghi nhận và phân tích để xác định xác suất của một tiến trình
nhất định.
Thế nhưng điều quan trọng cần
biết là, sự phát biểu có tính thống kê về qui luật của vật lý nguyên tử và hạ
nguyên tử không hề nói lên sự mơ hồ của ta về tiến trình cơ lý này, như sự dự
đoán xác suất của các hãng xưởng chuyên ngành bảo hiểm hay trò chơi may rủi.
Trong thuyết lượng tử, ta đã thừa nhận tính xác suất là tính chất căn bản trong
vật thể của thế giới nguyên tử, nó điều hành mọi tiến trình, thậm chí nó quyết
định vật chất có tồn tại hay không. Trong thế giới nguyên tử, hạt không hiện hữu
một cách chắc chắn nơi một vị rí nhất định, mà nó chỉ có khả năng hiện hữu và
tiến trình nguyên tử cũng không nhất thiết phải xảy ra trong một thời điểm hay
một cách thế nhất định, nó chỉ có khả năng xảy ra.
Thí dụ, không thể nói chắc
chắn rằng liệu một eletron nằm ở đâu trong nguyên tử tại một thời điểm nhất định.
Vị trí của nó tùy thuộc vào lực hút của nhân và vào ảnh hưởng của electron khác
của nguyên tử. Điều kiện này quyết định cấu trúc của xác suất lưu trú của nó
trong những không gian khác nhau của nguyên tử.
Hình trên nói lên vài mô
hình về cơ cấu của xác suất lưu trú electron. Xác suất đó lớn nơi các vùng
sáng, nhỏ nơi các vùng tối. Cần để ý là, toàn bộ hình này diễn tả electron
trong một thời điểm cho sẵn. Trong một hình, ta không chỉ rõ được electron ở
nơi nào, chỉ nói lên khả năng nó có thể ở đâu. Trong dạng toán học của thuyết
lượng tử khả năng hay xác suất đó được trình bày bằng các hàm số xác suất, nó
cho biết khả năng tìm thấy một electron trong một thời điểm hay một chỗ nhất định
là bao nhiêu.
Mối mâu thuẫn giữa hai cách
mô tả - một bên là khái niệm cổ điển về việc xếp đặt máy móc thí nghiệm, bên
kia là hàm số xác suất cho vật muốn quan sát - dẫn đến một vấn đề triết học mà
đến nay cũng chưa giải quyết được.
Trong thực tế để né tránh vấn
đề này khi nói về hệ thống quan sát, người ta cho những chỉ dẫn, giúp nhà khoa
học thiết kế máy móc thí nghiệm khỏi bị mô tả là một đơn vị có tính cô lập.
Để trình bày thêm về việc
quan sát thế giới nguyên tử, ta hãy lấy một thí dụ giản đơn nhất, một đơn vị cơ
lý, là xét một electron. Khi muốn quan sát và đo lường một hạt như thế, chúng
ta phải bằng cách nào đó tìm cách cô lập nó, trong một tiến trình gọi là tiến
trình chuẩn bị. Một khi hạt đã được chuẩn bị để quan sát rồi, ta đo lường tính
chất của nó, đó là tiến trình đo lường. Ta có thể diễn tả tượng trưng tiến
trình này như sau: một hạt được chuẩn bị trong không gian A, nó chuyển động từ
A đến B và được đo trong không gian B. Trong thực tế thì sự chuẩn bị cũng như sự
đo lường thường gồm một loạt tiến trình phức tạp. Thí dụ ở thí nghiệm va chạm
nhau trong vật lý cao năng lượng, các hạt được gia tốc trong những ống tròn, di
chuyển ngày càng nhanh cho đến lúc đầy đủ năng lượng. Tiến trình này xảy ra
trong thiết bị gia tốc hạt. Sau khi đủ năng lượng, nó được rời máy gia tốc (A)
để được chuyển tới không gian đích (B), nơi đó lại va chạm các hạt khác. Sự va
chạm này xảy ra trong phòng đo và các hạt để lại vết của chúng có thể được ghi
lên hình. Sau đó dựa trên sự phân tích toán học các vết đó mà người ta suy ra
tính chất của hạt. Những phép phân tích đó có thể rất phức tạp và thường được
thực hiện bằng máy vi tính. Đó là tiến trình đo lường.
Điều cần ghi nhớ trong phép
phân tích các quan sát này là, hạt là một hệ thống trung gian, nó nối kết hai
tiến trình tại A và B với nhau. Chỉ trong mối liên hệ này nó mới hiện hữu và có
nghĩa; hạt không phải là một đơn vị độc lập mà bản thân nó là mối liên hệ giữa
tiến trình chuẩn bị và đo lường. Tính chất của hạt không thể xem là độc lập khỏi
những tiến trình đó. Nếu sự chuẩn bị hay sự đo lường thay đổi thì tính chất của
hạt cũng thay đổi theo.
Mặt khác một sự thực là, khi
nói về một hạt hay bất cứ một hệ thống nào khác, chúng ta cứ đinh ninh nó là một
đơn vị cơ lý độc lập, nó được chuẩn bị, nó được đo lường. Vấn đề then chốt
trong việc quan sát trong vật lý nguyên tử là - dùng chữ của Henry Stapp - “phải
cô lập hệ thống được quan sát mới định nghĩa được nó; nhưng muốn quan sát được
nó thì nó phải chịu sự tương tác”. Vấn đề này được thuyết lượng tử giải quyết một
cách thực tiễn, đó là sự đòi hỏi hệ thống được quan sát không bị các yếu tố bên
ngoài tác động bởi các yếu tố sinh ra trong lúc quan sát, kéo dài từ lúc chuẩn
bị đến lúc đo lường. Điều kiện này có thể thỏa ứng nếu máy móc chuẩn bị và thiết
bị đo lường đặt xa nhau, để cho vật được quan sát có thể đi từ chỗ chuẩn bị đến
máy đo được.
Như thế thì khoảng cách bao
xa mới được? Theo nguyên tắc thì nó phải xa vô tận. Trong khuôn khổ của thuyết
lượng tử thì khái niệm về một đơn vị cơ lý riêng biệt chỉ thật sự chính xác khi
đơn vị này xa máy đo với khoảng cách vô tận. Trên thực tế thì điều đó dĩ nhiên
không thể có, và cũng không cần thiết. Chúng ta hãy nhớ đến nguyên tắc cơ bản của
khoa học hiện đại là, tất cả khái niệm và lý thuyết đều mang tính gần đúng.
Trong trường hợp này thì đối với khái niệm của một đơn vị riêng biệt, ta cứ lấy
một định nghĩa gần đúng là đủ, một định nghĩa chính xác là không cần thiết. Ta
làm điều đó như sau:
Vật được quan sát là một biểu
hiện của sự tương tác giữa tiến trình chuẩn bị và tiến trình đo lường. Sự tác động
này thường phức tạp và mang nhiều hiệu ứng khác nhau, có khoảng cách khác nhau.
Trong vật lý ta nói chúng có biên độ khác nhau. Nếu thành phần chính của tác động
này có biên độ lớn thì biểu hiện của hiệu ứng theo biên độ của nó mà đi ra xa.
Trong trường hợp này thì sự biểu hiện được xem như độc lập với sự nhiễu loạn
bên ngoài và có thể xem là đơn vị vật lý riêng biệt được. Trong khung cảnh của
thuyết lượng tử thì các đơn vị vật lý riêng biệt chỉ là sự lý tưởng hóa và
chúng chỉ có ý nghĩa khi thành phần chủ yếu của sự tương tác có một biên độ
đáng kể. Người ta có thể dùng biểu thức toán học để định nghĩa chính xác một trạng
thái như vậy được. Về mặt vật lý thì điều này có nghĩa là các máy đo phải nằm
xa nhau để cho tương tác của chúng xảy ra thông qua sự hoán chuyển của một hạt,
hoặc trong trường hợp phức tạp hơn là một nhóm hạt. Luôn luôn ta thấy có thêm
những hiệu ứng phụ, khi nào các máy đo nằm xa nhau thì ta có thể bỏ qua những
hiệu ứng phụ đó. Chỉ khi các máy đo nằm gần nhau quá, những hiệu ứng phụ vốn có
biên độ nhỏ bây giờ mới đáng kể. Trong trường hợp này thì cả hệ thống vĩ mô (đo
và bị đo) trở thành một khối toàn thể và khái niệm của một vật bị quan sát sẽ
không đứng vững nữa.
Thuyết lượng tử đã trình bày
rõ ràng mối liên hệ nội tại chủ yếu của vụ trụ. Nó chỉ ra rằng, chúng ta không
thể chia thế giới ra từng hạt nhỏ độc lập với nhau. Khi nghiên cứu sâu về vật
chất ta thấy chúng do nhiều hạt kết lại, nhưng chúng không phải là những viên
đá cơ bản theo nghĩa của Demokritus và Newton.
Chúng chỉ là sự lý tưởng
hóa; trên thực tiễn thì nó có ích, nhưng không có ý nghĩa đích thực. Niels Bohr
nói: “Các hạt vật chất độc lập chỉ có trong sự trừu tượng, tính chất của chúng
chỉ có thể định nghĩa và quan sát trong tương tác với các hệ thống khác”.
Cách lý giải của trường phái
Copenhagen về thuyết lượng tử không được tất cả mọi người thừa nhận. Có nhiều ý
niệm khác và những vấn đề triết học liên hệ chưa giải quyết được. Thế nhưng mối
tương quan chung giữa mọi sự vật và biến cố dường như là một tính chất căn bản
của thực thể nguyên tử, nó không liên hệ gì với sự giải thích của một mô hình
toán học nhất định. Những câu sau đây của David Bohm, một trong những người chống
lại trường phái Copenhagen, khẳng định hùng hồn thực tế này:
Ta phải tiến đến khái niệm của
một cái toàn thể bất khả phân, nó phủ nhận ý niệm cổ điển chuyên nghiệp phân
tích thế giới ra những thành phần độc lập và cách ly… Ta quá bảo vệ quan điểm
cũ về những hạt cơ bản, cho nó là thực tại đích thực của thế giới, và mọi hệ thống
chỉ là dạng hình khác nhau chứa đựng những hạt đó. Đúng hơn, thực tại cơ bản là
mối liên hệ lượng tử, không cách ly được của một cái toàn thể, và những thành
phần tương đối độc lập chỉ là những dạng đặc biệt nằm trong thể chung đó.
Trên bình diện nguyên tử, vật
thể cứng chắc của vật lý cổ điển đã chuyển thành những cấu trúc có tính xác suất.
Những cơ cấu này không nói lên xác suất hiện hữu của vật chất, mà nó nói lên
xác suất của tương tác. Thuyết lượng tử buộc chúng ta phải nhìn vũ trụ không phải
là một tập hợp của vật thể lý tính mà một tấm lưới phức tạp, chằng chịt những
liên hệ của những thành phần, thống nhất trong một tổng thể. Đó chính là cách
thế mà đạo học phương Đông đã chứng thực về thế giới và vài người trong đó đã
nói về sự chứng thực này hầu như với cùng ngôn từ với nhà vật lý nguyên tử. Sau
đây là vài thí dụ:
Vật thể vật chất… bây giờ đã
khác với những gì chúng ta thấy, không phải là một vật thể độc lập với môi trường
chung quanh của thiên nhiên, mà là một phần không thể tách rời và thậm chí nó
là phát biểu một cách tinh tế của cái nhất thể, cái nhất thể đó bao trùm mọi
cái ta thấy.
S.Aurobindo
Tính chất và sự hữu hiện của
sự vật xuất phát từ những mối tương quan mà ra, tự nó không có gì cả.
Long thụ (Nagarjuna)
Một khi những lời trên có thể
xem là sự mô tả thiên nhiên trong vật lý nguyên tử thì hai phát biểu sau đây của
nhà vật lý nguyên tử lại có thể xem như sự mô tả về chứng thực của đạo học:
Một hạt cơ bản không phải là
một đơn vị tồn tại độc lập, có thể phân tích được. Nó không gì hơn là một loạt
những mối liên hệ, chúng vươn mình ra ngoài, với tới những vật khác.
H.P.Stapp
Theo cách thế này thì thế giới
hiện ra như một mạng lưới gồm toàn những tiến trình, trong đó hiện diện rất nhiều
cách liên hệ kỳ lạ cứ tạo ra nhau, tác động lẫn nhau và với cách đó mà chúng
quyết định cơ cấu của toàn bộ mạng lưới.
W.Heisenberg
Hình ảnh sự móc nối này của
mạng lưới vũ trụ trong vật lý hiện đại đã được phương Đông sử dụng nhiều nhằm
trao truyền kinh nghiệm của họ về thế giới tự nhiên. Trong Ấn Độ giáo thì
Brahman là sợi dây nối kết của tấm lưới vũ trụ, là nguyên nhân cuối cùng của mọi
hữu hiện:
Trên trời dưới đất, trong
khí quyển, tát cả đều dệt, và ngọn gió cũng như hơi thở. Chỉ mình ngươi biết,
cái đó chỉ là một linh hồn duy nhất.
Trong Phật giáo, hình ảnh của
một tấm lưới vũ trụ đóng một vai trò quan trọng hơn nữa. Nội dung trung tâm của
Kinh Hoa Nghiêm, một trong những kinh quan trọng của Phật giáo Đại thừa, xem thế
giới là một tấm lưới toàn hảo về mối tương quan, trong đó mọi sự vật và biến cố
tác động lên nhau, trùng trùng duyên khởi vô tận. Phật giáo Đại thừa đã tìm nhiều
ẩn dụ để diễn bày mối liên hệ nội tại này của vũ trụ, một số đó sẽ được nói đến
sau trong quan điểm tương đối của thuyết dung thông (boot-strap theory) của vật
lý hiện đại. Cuối cùng, quan điểm mạng lưới vũ trụ cũng đóng vai trò trung tâm
trong Phật giáo Tantra (Mật giáo), một nhánh của Đại thừa xuất phát từ Ấn Độ
vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên và ngày nay là trường phái chính của Phật
giáo Tây Tạng. Kinh sách trường phái này được gọi là “Tantra”, một từ gốc
Sanskrit mang nghĩa “lưới dệt” và ám chỉ sự liên hệ và tương tác của mọi sự vật
và biến cố.
Trong đạo học phương Đông
thì mạng lưới vũ trụ đó luôn luôn chứa đựng cả người quan sát và ý thức của nó,
và điều đó cũng đúng trong vật lý nguyên tử. Trong bình diện nguyên tử thì vật
thể chỉ được hiểu trong mối quan hệ giữa tiến trình chuẩn bị và đo lường. Đoạn
cuối của tiến trình này luôn luôn nằm trong ý thức của người quan sát. Sự đo lường
là một tiến trình, nó gây trong ý thức ta sự cảm thọ, thí dụ sự thấy một tia
sáng chớp hay một vệt đen trên chế bản, và qui luật của vật lý nguyên tử cho ta
biết rằng, với một xác suất nào một vật thể hạt nhân sẽ gây nên một cảm thọ nhất
định nếu ta chịu tương tác với nó. Heisenberg viết: Khoa học tự nhiên
không mô tả và lý giải về tự nhiên đúng như nó - là - như - thế. Đúng hơn, khoa
học tự nhiên là một phần của tiến trình tương tác động qua lại giữa tự nhiên và
chính chúng ta”.
Nguyên lý then chốt của vật
lý nguyên tử là người quan sát không chỉ cần thiết để quan sát tính chất sự vật,
mà còn cần thiết để định nghĩa tính chất đó. Trong vật lý nguyên tử, ta không
thể nói tính chất sự vật tự nó được nữa. Chúng chỉ có nghĩa trong mối quan hệ
giữa vật được quan sát và người quan sát.
Heisenberg viết: “Điều
mà ta quan sát được, không phải là thế giới tự nhiên tự nó, mà là thế giới đã bị
câu hỏi của ta tác động lên”. Quan sát viên là người quyết định muốn đo lường
điều gì và chính sự tổ chức đo lường này quyết định một phần tính chất của vật
được quan sát. Khi phép đo bị thay đổi, thì tính chất của vật được quan sát
cũng thay đổi theo.
Điều này có thể giải thích
trong trường hợp đơn giản nhất của một hạt hạ nguyên tử. Khi quan sát một hạt
như thế người ta có thể đo vị trí và xung lực. Trong chương tới chúng ta sẽ thấy
một định luật quan trọng của thuyết lượng tử - định luật bất định của
Heisenberg, nó nói rằng ta không bao giờ cùng lúc đo được chính xác hai đại lượng
này. Hoặc chúng ta có thể xác định được vị trí của hạt và không hề biết gì về
xung lực (tức là về vận tốc), hoặc là ngược lại, hoặc ta chỉ biết không chính
xác về hai trị số đó.
Sự giới hạn này không liên
quan gì với việc máy đo có tốt hay không, nó là một giới hạn có tính nguyên tắc,
có sẵn trong thực thể của thế giới nguyên tử. Nếu ta đo vị trí của hạt thì hạt
không có một xung lực có thể định nghĩa được và khi ta đo chính xác xung lực
thì nó không có vị trí có thể định nghĩa được.
Trong vật lý nguyên tử, nhà
khoa học không thể đóng một vai trò của một quan sát viên khách quan, không
tham dự được, mà anh ta bị lôi vào trong thế giới bị quan sát và gây ảnh hưởng
lên tính chất của vật bị quan sát. Tính chất mà quan sát viên bị đưa vào tiến
trình của thí nghiệm được nhà khoa học Jonhn Wheeler xem là nét quan trọng nhất
của thuyết lượng tử. Do đó ông khuyên ta nên thay chữ quan sát viên bằng từ
tham dự viên. Ông viết:
Về thuyết lượng tử thì không
gì quan trọng hơn điều này, nó phá hủy quan niệm về thế giới “tự nó”, phá hủy một
tấm kính an toàn dày 20 cm cách ly thế giới với quan sát viên. Kể cả việc chỉ
quan sát một vật tí hon như electron, quan sát viên cũng phải đập vớ tấm kính.
Anh ta phải tới với nó, phải đặt để thiết bị quan sát. Tùy nơi anh, muốn đo vị
trí hay xung lực. Khi thiết kế thiết bị nhằm đo cái này thì cái kia không thể
đo được. Hơn thế nữa, duy việc đo lường đã thay đổi trạng thái của electron.
Sau đó thì thế giới không còn như trước nữa. Muốn mô tả điều gì đã xảy ra, người
ta phải gạch bỏ từ cũ “quan sát viên” mà thay vào đó chữ mới “tham dự viên”.
Trong một ý nghĩa kỳ lạ nào đó thì vũ trụ là một vũ trụ đang tham gia.
Ý niệm tham dự thay vì quan
sát này mới được vật lý hiện đại khám phá gần đây, thế nhưng người nào tìm hiểu
đạo học phương Đông đều đã biết tới nó. Tri kiến tâm linh không bao giờ nhờ
quan sát mà đạt được, mà là nhờ sự tham gia toàn vẹn với tất cả tính chất của
mình. Khái niệm tham gia do đó trở thành then chốt trong thế giới quan phương
Đông. Các nhà đạo học phương Đông còn đi xa hơn nhiều so với các nhà vật lý
phương Tây. Trong thiền định thì họ đạt tới một điểm mà sự khác biệt giữa người
quan sát hoàn toàn tiêu tan, nơi đó chủ thể và khách thể thống nhất làm một
trong một toàn thể bất phân chia. Trong Các bài thuyết giảng Upanishad có những
câu:
Nơi có nhị nguyên, là nơi có
một cái thấy một cái khác; một cái ngửi một cái khác, một cái nếm vị một cái
khác… Nhưng nơi mà tất cả đã trở về tự tính của nó, thì cái gì thấy và cái gì bị
thấy? Cái gì ngửi và cái gì bị ngửi? Cái gì nếm và cái gì bị nếm?.
Đó là sự nắm bắt cuối cùng sự
nhất thể mọi sự. Theo trình bày của các nhà đạo học thì ta đạt tới nó trong dạng
một tâm thức, trong đó cá thể con người đã tan vào một nhất thể vô phân biệt, bỏ
lại đằng sau thế giới của cảm thọ và nội dung của “vật thể”. Trang Tử nói:
Mối liên hệ của tôi với thân
và các phần tử của thân đã tan biến. Giác quan của tôi đã bị dẹp bỏ. Tôi cứ để
cho thân tâm đi ngao du, tôi thành một với cái đại khối xuyên suốt. Tôi gọi nó
là an tọa và quên mọi chuyện.
Tất nhiên nền vật lý hiện đại
làm việc trong khuôn khổ hoàn toàn khác và không thể đi xa như thế trong việc
chứng thực tính nhất thể của mọi sự. Nhưng trong vật lý nguyên tử, nó đã đi một
bước dài về hướng của thế giới quan phương Đông. Thuyết lượng tử đã dẹp bỏ khái
niệm của một khách thể độc lập, đưa khái niệm người tham gia vào thay thế người
quan sát và thậm chí thấy cần phải đưa ý thức con người vào trong việc mô tả thế
giới tự nhiên. Nền vật lý này bây giờ đã thấy vũ trụ là một mạng lưới với những
liên quan vật chất và tâm linh chằng chịt, mà các phần tử chỉ được định nghĩa
trong mối tương quan với cái toàn thể. Thế giới quan này của vật lý nguyên tử
được một Phật tử Tantra là Lama Anagarika Govinda tóm tắt rất hay như sau:
Người Phật tử không tin có sẵn
một thế giới bên ngoài độc lập và hiện hữu tách biệt mà anh ta tự gắn mình vào
những năng lực của thế giới đó. Đối với anh ta, thế giới bên ngoài và thế giới
bên trong chỉ là hai mặt của một mạng lưới duy nhất, trong đó những sợi chỉ của
các năng lực, của các biến cố, của các dạng tâm thức, của các dạng vật thể,
chúng được dệt chằng chịt thành một mạng lưới không sao gỡ nổi, gồm vô số những
mối liên hệ tác động lẫn nhau.
Tri kiến về tính phân cực của
mọi đối lập, rằng ánh sáng và bóng tối, được và thua, tốt và xấu chỉ là khía cạnh
khác nhau của một hiện tượng, là một trong những nguyên lý nền tảng của triết
lý sống phương Đông...
Khi nhà đạo học phương Đông
nói họ chứng mọi sự và biến cố là hiện thân của một nhất thể cơ bản, điều đó
không có nghĩa là họ xem mọi sự vật như nhau. Họ thừa nhận tính cá thể của mọi
sự, nhưng đồng thời cũng ý thức rằng, trong tính toàn thể bao trùm thì mọi khác
biệt và đối lập đều tương đối cả. Đối với ý thức thông thường của chúng ta, thật
khó chấp nhận tính thống nhất của mọi khác biệt - nhất là tính thống nhất của mọi
đối lập. Đối với thế giới quan phương Đông, nó là nền tảng, đồng thời nó cũng
là một trong những nét làm ta hoang mang nhất.
Cặp đối lập là những khái niệm
trừu tượng, chúng thuộc về lĩnh vực của tư tưởng và vì thế chúng chỉ là tương đối.
Chỉ việc tập trung chú ý lên bất kỳ một khái niệm nào là chúng ta đã tạo ra cái
đối lập với nó rồi. Lão Tử nói: “Thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi;
đều biết lành là lành, thì đã có cái chẳng lành rồi”. Vì thế mà nhà đạo học vượt
qua lĩnh vực của khái niệm suy luận và nhờ đó mà nhận biết cái tương đối và mối
liên hệ hai cực của mọi đối lập. Họ nhận thức rằng, tốt và xấu, sướng và khổ, sống
và chết không phải là những kinh nghiệm có tính tuyệt đối, thuộc về các loại
hình khác nhau, mà chỉ là hai mặt của một thực tại duy nhất; chúng là hai cực của
một cái toàn thể. Đạt được tâm thức nhận ra rằng mọi đối lập chỉ là hai cực và
tất cả là một thể thống nhất, đạt đến như thế được xem là một trong những mục
đích cao cả nhất của con người trong truyền thống tâm linh phương Đông. “Hãy an
trụ mãi mãi trong thực tại, đứng ngoài mọi mâu thuẫn thế gian!”, đó là lời
khuyên của Krishna trong Chí tôn ca (Bhagavad Gita) và lời khuyên này cũng được
truyền cho Phật tử. D.T.Suzuki viết như sau:
Ý niệm cơ bản của Phật giáo
là, vượt khỏi thế giới của những đối lập, thế giới của sự phân biệt do óc suy
luận dựng lên, thế giới của ô nhiễm do cảm thọ gây ra, và nhận ra thế giới huyền
vi của trí vô phân biệt, thế giới đó chứa đựng sự chứng đạt tri kiến tuyệt đối
2.
Toàn bộ giáo lý Phật giáo,
hay cả toàn thể đạo học phương Đông nói về tri kiến tuyệt đối này, tri kiến chỉ
đạt được trong thế giới vô niệm, trong đó sự thông nhất toàn thể mọi nhị nguyên
đối lập là sự chứng thực sinh động.
Sau đây là lời một thiền sư:
Buổi tối nghe gà gáy
sáng
Nửa đêm thấy mặt trời
soi.
Tri kiến về tính phân cực của
mọi đối lập, rằng ánh sáng và bóng tối, được và thua, tốt và xấu chỉ là khía cạnh
khác nhau của một hiện tượng, là một trong những nguyên lý nền tảng của triết
lý sống phương Đông. Vì mọi mặt đối lập phụ thuộc lẫn nhau, nên mối mâu thuẫn của
chúng không bao giờ được giải quyết bằng sự thắng lợi hoàn toàn của một bên mà
luôn luôn phải là biểu hiện của sự tương tác của hai bên. Do đó, tại phương
Đông, người đúng lý không phải là người làm việc bất khả thi, là chỉ hướng về
cái tốt, trừ diệt cái xấu, mà là người giữ được cân bằng giữa cái xấu và tốt.
Khái niệm về sự cân bằng động
là quan trọng để hiểu được tính thống nhất giữa các mặt đối lập trong đạo học
phương Đông. Tính đó không hề tĩnh tại, nó là một sự tương tác năng động của
hai cực. Khía cạnh này được nhấn mạnh rõ nhất thông qua đồ hình âm - dương của
thánh nhân Trung Quốc. Họ xem cái nhất thể đứng sau âm - dương là Đạo và xem Đạo
là gốc của sự tương tác:
Cái đã sinh ra sáng ra
tối, cái đó là Đạo.
Sự nhất thể năng động của
hai cực nhị nguyên có thể được biểu diẽn bằng một thí dụ đơn giản với một chuyển
động vòng tròn và hình chiếu của nó. Hãy cho một trái bóng quay vòng tròn. Nếu
vận động này được chiếu lên màn thì ta thấy nó như chuyển động tuần hoàn giữa
hai cực. Để làm sáng tỏ sự tương tự với tư tưởng Trung Quốc, tôi gọi vòng tròn là
“Đạo” và hai cực là “Âm” và “Dương”. Trái bóng quay với vận tốc đều, nhưng trên
hình chiếu thì nó đi chậm lại khi đến các biên, quay đầu, đi nhanh hẳn rồi lại
đi chậm lại và cứ thế ở trong một sự tuần hoàn vô tận.
Trong hình chiếu thì vận động
vòng tròn hiện ra như một vận động tuần hoàn giữa hai cực đối lập nhau, nhưng
trong sự vận động thực sự thì chúng thống nhất liên lạc với nhau. Hình ảnh này
của một sự thống nhất động đã được các nhà tư tưởng Trung Quốc nói đến, thí dụ Trang
Tử.
Một trong những cặp đối lập
căn bản trong cuộc sống là dương tính và âm tính của tính chất con người. Như cặp
tốt - xấu và sống - chết chúng ta dễ thiên lệch với cặp đối lập âm - dương
trong chính ta và thường được nghiêng về một trong hai bên.
Xã hội phương Tây có truyền
thống coi trọng dương tính hơn âm tính. Thay vì nhận thức rằng tính cách của mỗi
người đàn ông hay đàn bà là kết quả của sự tương tác của hai yếu tố âm dương
thì xã hội lại đặt ra một quan niệm tĩnh tại là tất cả đàn ông phải là dương
tính và tất cả đàn bà là âm tính và cho người đàn ông một vai trò lãnh đạo cũng
như phần lớn những đặc quyền xã hội. Quan niệm này sinh ra một sự nhấn mạnh quá
mức tất cả khía cạnh dương tính của tính chất con người: chủ động, tư duy lý luận,
đấu tranh sống còn, hiếu chiến v.v… Dạng âm tính của ý thức, xuất hiện trong trực
giác, tôn giáo, huyền bí, tâm linh, tâm lý… luôn luôn bị thua thiệt trong xã hội
thiên về dương tính.
Trong nền đạo học phương
Đông thì mặt âm tính được phát triển hơn và người ta tìm kiếm sự thống nhất giữa
hai khía cạnh của tính chất con người. Một người phát triển toàn diện theo Lão
Tử phải là: “Tri kỳ hùng; Thủ kỳ thư (Biết như con trống; Giữ như con mái)”.
Trong nhiều trường phái đạo học phương Đông, giữ sự cân bằng năng động giữa dạng
âm dương của ý thức là mục đích chính của thiền định và thường được trình bày
trong các tác phẩm nghệ thuật. Một bức tượng tuyệt vời của thần Shiva trong đền
thờ Ấn Độ giáo ở Elephanta cho thấy ba khuôn mặt của đấng sáng tạo: phía mặt diễn
tả khía cạnh dương tính đầy sức mạnh và ý chí, phía trái mặt âm tính mềm dịu, hấp
dẫn, quyến rũ và ở giữa là sự thống nhất hoàn toàn ở hai khía cạnh trong tượng
bán thân của Shiva Mahesvara, vị đại thiên tràn đầy tĩnh lặng và sự cao quí.
Trong đền này người ta cũng thấy Shiva được biểu diễn bằng hai dạng, nửa nam, nửa
nữ, và dáng điệu mềm mại của một thân thể thần tiên và khuôn mặt rực sáng thanh
thoát biểu diễn sự thống nhất năng động của hai yếu tố âm dương.
Trong Phật giáo Tantra, hai
cực âm dương thường được biểu diễn bằng hình tượng nhục tính. Tuệ giác được xem
là yếu tố âm, thụ động của tự tính con người. Từ bi là dương tính và sự thống
nhất hai yếu tố này trên tiến trình giác ngộ được diễn tả bằng sự giao phối nhục
dục của nam thần và nữ thần. Nhà đạo học phương Đông cho rằng sự thống nhất hai
mặt âm dương chỉ được chứng thực trên bình diện ý thức cao cấp, nơi mà lĩnh vực
của ngôn ngữ và tư tưởng được chuyển hóa và trong đó mọi tính chất nhị nguyên đối
lập hiện ra thành nhất thể năng động.
Như đã nói, nền vật lý hiện
đại đã đạt tới một bình diện tương tự. Sự nghiên cứu thế giới hạ nguyên tử đã
phát hiện ra một thực tế, thực tế đó luôn luôn vượt trên ngôn ngữ và lý luận
logic và sự thống nhất những khái niệm vốn từ xưa đến nay đối nghịch nhau, loại
trừ lẫn nhau, sự thống nhất đó đã tự chứng tỏ là một trong những nét xuất sắc
nhất của thực tế mới mẻ này.
Ta có thể tìm thấy nhiều thí
dụ trong vật lý hiện đại về tính nhất thể của những khái niệm đối lập ở bình diện
hạ nguyên tử, trong đó hạt vừa huỷ diệt được vừa không huỷ diệt được, vật chất
vừa liên tục vừa phi liên tục, năng lượng và vật chất chỉ là hai khía cạnh khác
nhau của cùng một hiện tượng. Trong tất cả những thí dụ đó mà về sau ta còn tiếp
tục xét đến, thì khuôn khổ của những khái niệm đối lập, do kinh nghiệm hàng ngày
phát sinh ra, đối diện với bình diện của hạt hạ nguyên tử, khuôn khổ đó quá chật
hẹp. Thuyết tương đối là then chốt để mô tả thế giới đó và trong hệ thống tương
đối thì các khái niệm cổ điển đã bị chuyển hóa, trong đó người ta thêm một chiều
mới, tiến tới một hệ thống bốn chiều không - thời gian. Bản thân không gian -
thời gian tưởng chừng như hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, nhưng trong thuyết
tương đối, chúng đã được thống nhất. Tính nhất thể cơ bản này chính là sự thống
nhất các mặt đối lập đã nói ở trên. Như sự chứng thực của các nhà đạo học về sự
thống nhất tính nhị nguyên, sự nhất thể cũng chỉ xảy ra trên một bình diện cao
hơn, ở đây tức là thêm một chiều mới, và cũng như chứng thực tâm linh, sự nhất
thể cũng có tính động, vì thực tại đã bị tương đối hóa trong không - thời gian
là một thực tại luôn luôn hoạt động, trong đó vật thể bản thân nó là một tiến
trình và tất cả mọi dạng hình đều là cấu trúc động.
Để minh chứng sự nhất thể của
các đại lượng tưởng chừng tách biệt ,ta không cần thuyết tương đối. Người ta
cũng có thể nhận ra nó khi ta đi từ một lên hai chiều, hay từ hai lên ba chiều.
Trong thí dụ kể trên về sự vận động vòng tròn và hình chiếu của nó, ta thấy
chuyển động tuần hoàn với hai cực là chuyển động một chiều (dọc theo hình chiếu)
đã được thống nhất trong chuyển động xoay tròn hai chiều (trong một mặt phẳng).
Hình sau đây đưa ra một thí dụ, đi từ hai chiều lên ba chiều.
Hình vẽ này vẽ một ống tròn
(như ruột bánh xe), được cắt bởi một mặt phẳng nằm ngang. Trong mặt phẳng hai
chiều, hai miếng bị cắt đó xuất hiện như hai đĩa tròn hoàn toàn độc lập, nhưng
trong cơ cấu ba chiều ta thấy chúng là thành phần của một vật thể duy nhất.
Một sự thống nhất tương tự của
những đơn vị tưởng chừng độc lập và không thể phù hợp với nhau cũng đạt được
khi đi từ ba chiều qua bốn chiều trong lý thuyết tương đối. Trong thế giới bốn
chiều của vật lý tương đối thì khối lượng và lực đã được thống nhất, tại đó khối
lượng có thể xuất hiện dưới dạng hạt có tính phi liên tục hay trường có tính
liên tục. Thế nhưng, trong những trường hợp vừa kể thì ta hết tưởng tượng được
tính thống nhất của chúng nữa. Nhà vật lý có thể biết không gian bốn chiều
bằng toán học trừu tượng, nhưng khả năng tưởng tượng ra hình ảnh của họ cũng
như mọi người khác, bị giới hạn trong không gian ba chiều. Ngôn ngữ cũng như cấu
trúc tư duy của chúng ta cũng được phát triển trong thế giới ba chiều này và do
đó ta làm việc với thực tại bốn chiều của nền vật lý tương đối hế sức khó khăn.
Mặt khác, hình như các nhà đạo
học phương Đông có cách chứng đạt một cách cụ thể và trực tiếp một thực tại nhiều
chiều. Trong dạng thiền quán sâu xa, họ có thể vượt qua thế giới hàng ngày ba
chiều và chứng thực tại hoàn toàn khác, trong đó mọi mâu thuẫn nhị nguyên được
thống nhất trong một sinh cơ toàn thể. Khi tìm cách dùng ngôn từ để diễn tả
kinh nghiệm của họ, họ cũng gặp khó khăn y như nhà vật lý tìm cách nói về thực
tại bốn chiều trong vật lý tương đối. Lama Govinda nói:
Nhờ sự tổng hoà các chứng đạt
trong những trung tâm ý thức khác nhau mà một chứng thực của tầng cao hơn được
thực hiện. Do đó không mô tả được chứng thực nhất định của thiền quán trên bình
diện của tư duy ba chiều, trong một logic bị hạn chế vì phải ép mình theo bình diện
đó.
Hình ảnh của một sóng, chúng
lan rộng mãi trong không gian; nó phải khác hẳn với hình ảnh của một hạt có vị
trí chính xác. Nhà vật lý phải cần thời gian dài mới chấp nhận được thực tế là,
vật chất biểu hiện dưới hai cách, dường như loại trừ lẫn nhau, đó là hạt vừa là
sóng và sóng vừa là hạt...
Trong vật lý hiện đại, thế
giới bốn chiều của thuyết tương đối không phải là thí dụ duy nhất, trong đó những
khái niệm mâu thuẫn lẫn nhau, tưởng không thống nhất với nhau, cuối cùng chỉ được
xem là những khía cạnh của một thực thể. Trường hợp tiêu biểu nhất của sự thống
nhất những khái niệm mâu thuẫn có lẽ là khái niệm sóng và hạt trong vật lý hiện
đại.
Trên bình diện nguyên tử thì
vật chất có hai khía cạnh: nó xuất hiện dưới dạng hạt và dạng sóng. Tuỳ theo trạng
thái mà nó cho thấy dạng nào, có khi khía cạnh hạt rõ nét hơn; trong trạng thái
khác, các hạt đó có tính chất như sóng. Tính chất hai mặt đó cũng là tính chất
của ánh sáng và tất cả các tia điện từ khác. Thí dụ ánh sáng được phát ra và hấp
thụ dưới dạng lượng tử (quanta) hay quang tử (photon), nhưng khi những hạt này
di chuyển trong không gian, chúng xuất hiện như những trường điện, trường từ
rung động có tất cả đặc trưng của sóng. Các hạt electron thường được xem là hạt,
thế nhưng cho chúng chạy lọt qua một khe nhỏ thì chúng lại có hiện tượng khúc xạ
ánh sáng, nói cách khác: electron có tính chất sóng.
Tính chất hai mặt lạ lùng
này của vật chất và tia bức xạ làm nảy sinh ra nhiều công án lượng tử, nhờ thế
mà ngành vật lý có được thuyết lượng tử. Hình ảnh của một sóng, chúng lan rộng
mãi trong không gian; nó phải khác hẳn với hình ảnh của một hạt có vị trí chính
xác. Nhà vật lý phải cần thời gian dài mới chấp nhận được thực tế là, vật chất
biểu hiện dưới hai cách, dường như loại trừ lẫn nhau, đó là hạt vừa là sóng và
sóng vừa là hạt.
Khi nhìn hai hình trên, người
ngoài ngành có thể cho rằng, mâu thuẫn này có thể giải quyết được bằng cách nói
rằng hạt đã di chuyển không phải bằng đường thẳng mà bằng đường gợn sóng! Nói
như thế là không hiểu đúng tính chất của sóng. Trong thiên nhiên không có hiện
tượng hạt di chuyển theo hình gợn sóng. Thí dụ trong nước, các hạt nước không
chạy theo sóng, nó chỉ quay tròn khi sóng chạy ngang (xem hình dưới). Tương tự
như thế, trong sóng âm thanh các phần tử không khí chỉ rung động tại chỗ, chứ
không chạy theo sóng âm thanh đi đâu cả. Hiện tượng sóng chỉ tạo nhiễu, sóng
mang nhiễu chứ không mang hạt khối lượng. Do đó trong thuyết lượng tử, khi nói
hạt là sóng, ta không hề ám chỉ đường đi của hạt có dạng sóng. Điều ta muốn nói
là, toàn bộ cơ cấu sóng là một biểu hiện của hạt.
Hình ảnh của một sóng di động
như thế rất khác với một hạt di động, chúng khác nhau như “sóng trên mặt biển với
đàn cá bơi cùng chiều trong dó” (V.Webkopf).
Hiện tượng sóng được tìm thấy
khắp nơi trong vật lý, trong nhiều mối liên hệ khác nhau, nó được mô tả bằng những
công thức toán học như nhau, bất kỳ nó xảy ra ở đâu. Những công thức này được sử
dụng để mô tả sóng ánh sáng, sự rung động của một sợi dây đàn, sóng âm thanh
hay sóng trên nước. Trong thuyết lượng tử, chúng được dùng để mô tả tính chất
sóng của hạt. Thế nhưng ở đây thì sóng trừu tượng hơn nhiều. Chúng liên hệ trực
tiếp với tính chất thống kê của thuyết lượng tử, tức là mọi hiện tượng nguyên tử
chỉ có thể diễn tả bằng xác suất. Những thông tin về xác suất của một hạt được
chứa đựng trong một đại lượng gọi là hàm số xác suất và dạng toán học cho đại
lượng này là dạng của một sóng, tức là nó giống như những dạng dùng để mô tả
các loại sóng khác. Thế nhưng những sóng liên hệ với hạt này không phải là những
sóng “thật” ba chiều như sóng trên nước, sóng âm thanh mà là “sóng xác suất”,
là những đại lượng toán học trừu tượng. Hàm xác suất chỉ ra một hạt tại những vị
trí khác nhau, với những tính chất khác nhau.
Trong một nghĩa nhất định,
việc sử dụng sóng xác suất giải quyết được sự nghịch lý do tính chất của hạt
sinh ra, bằng cách đặt sự mâu thuẫn đó trong một khuôn khổ hoàn toàn mới. Khuôn
khổ này dẫn đến một cặp khái niệm đối lập khác, khái niệm này còn cơ bản hơn nữa,
đó là hiện hữu - phi hiện hữu.
Cặp đối lập này cũng được
chuyển hóa trong thực tại của nguyên tử. Không bao giờ ta có thể nói một hạt cơ
bản hiện hữu tại một chỗ nhất định, ta cũng không thể nói nó không hiện hữu. Vì
là một cấu trúc xác suất, hạt có khả năng hiện hữu tại nhiều nơi, và vì thế nó
biểu hiện một thực tại lý tính kỳ lạ giữa hiện hữu - phi hiện hữu, giữa có -
không. Do đó ta không thể mô tả trạng thái của hạt trong khái niệm dứt khoát có
- không được. Tại một điểm nhất định thì nó vừa không có mặt, vừa không vắng mặt.
Nó không di động, nó cũng không yên nghỉ. Điều thay đổi chỉ là cấu trúc xác suất
và khả năng của hạt có mặt hay không có mặt tại một chỗ nhất định:
Thí dụ khi ta hỏi, liệu
electron vẫn giữ nguyên vị trí hay không, ta phải trả lời “không”, khi ta hỏi,
liệu vị trí electron có thay đổi theo thời gian không, ta phải trả lời “không”;
khi ta hỏi, liệu electron nằm yên, ta phải trả lời “không”, khi ta hỏi, liệu nó
đang vận động, ta phải trả lời “không” (J.R.Oppenheimer).
Thực tại của nhà vật lý cũng
như nhà đạo học phương Đông đã vượt qua khung nhỏ hẹp của những khái niệm đối lập.
Lời của Oppenheimer vang lên như tiếng dội của những dòng Các bài thuyết giảng
(Upanishad):
Nó vận động. Nó không
vận động
Nó ở xa và nó ở gần
Nó nằm trong tất cả những
thứ ấy,
và nằm ngoài tất cả những
thứ ấy.
Vật chất và lực, sóng và hạt,
vận động và tĩnh tại, có và không, đó là vài khái niệm đối lập nhau hay mâu thuẫn
nhau, chúng đã được vật lý hiện đại chuyển hóa. Trong tất cả những cặp đối lập
này thì cặp cuối cùng (có - không) xem ra là cái cơ bản nhất; thế nhưng trong vật
lý nguyên tử, chúng ta còn phải vượt xa lên khái niệm có - không nữa. Trong
thuyết lượng tử thì điều này khó chấp nhận nhất và đó là nguyên nhân tại sao những
thảo luận hiện nay vẫn còn nặng nề về cách lý giải thuyết này. Song song, sự
chuyển hóa khái niệm có - không cũng là một trong những khía cạnh bí ẩn của đạo
học phương Đông. Cũng như nhà vật lý, nhà đạo học tới với một thực tại nằm bên
kia có - không và họ nhấn mạnh đến thực tại quan trọng này. Mã Minh nói:
Chân Nhi phi tướng “có”, phi
tướng “không”; phi tướng “chẳng phải có”, phi tướng “chẳng phải không”; phi tướng
“cũng có và cũng không”.
Trước một thực tại nằm ngoài
những khái niệm đối lập, nhà vật lý và nhà đạo học phải làm quen với một cách
tư duy đặc biệt, trong đó óc suy luận không bị gò bó nguyên tắc trong cơ cấu của
logic cổ điển mà nó phải thay đổi cách nhìn một cách liên tục. Thí dụ, trong vật
lý nguyên tử ta đã làm quen với mô tả vật chất vừa bằng khái niệm hạt, vừa bằng
khái niệm sóng. Chúng ta đã học cách phải chấp nhận cả hai hình ảnh này, chuyển
đổi qua lại để có thể hiểu được thực thể nguyên tử. Đây cũng chính là cách các
nhà đạo học phương Đông nghĩ ra khi họ cố gắng trình bày về một thực tại nằm
bên kia của đối lập. Hãy nghe Lama Govinda nói: “Cách tư duy phương Đông giống
như đi vòng xung quanh sự vật mà nhìn… nó sinh ra một ấn tượng nhiều mặt, nhiều
chiều, nó là sự chồng lên nhau của nhiều ấn tượng do nhiều cách nhìn khác nhau
sinh ra”.
Để thấy người ta chuyển đổi
qua lại hình ảnh của sóng và hạt thế nào trong vật lý nguyên tử, chúng ta hãy
xét kỹ hơn khái niệm sóng và hạt. Sóng là một cấu trúc dao động trong không
gian và thời gian. Trong một thời điểm nhất định, ta có thể xét nó và thấy đó
là một dạng tuần hoàn như hình sau đây.
Cấu trúc này có đặc điểm là
biên độ A, chiều cao của sóng và độ dài sóng L, khoảng cách giữa hai đỉnh sóng.
Trong một cách nhìn khác, ta có thể xét sự vận động của một điểm nhất định của
sóng, ta sẽ thấy một dao động với một tần số nhất định, tần số đó cho biết
trong một giây, điểm đó dao động lui tới bao nhiêu lần. Bây giờ ta hãy xét tới
hạt. Theo hình dung cổ điển thì cứ mỗi thời điểm hạt ở một chỗ nhất định và trạng
thái vận động của nó. Hạt càng có vận tốc cao thì càng chứa nhiều động năng.
Trong thực tế thì nhà vật lý ít dùng vận tốc để diễn tả tình trạng vận động mà
dùng “xung lực”, đó là tích số của khối lượng và vận tốc của hạt.
Thuyết lượng tử nối tính chất
của một sóng xác suất với tính chất của hạt liên hệ bằng cách xem biên độ của một
sóng tại một chỗ nhất định tỉ lệ với xác suất sẽ tìm thấy hạt tại chỗ đó. Biên
độ của sóng càng lớn thì càng dễ thấy hạt tại đó, biên độ càng nhỏ thì càng khó
tìm thấy nó. Thí dụ theo hình trên, biên độ như nhau và do đó xác suất có thể
tìm thấy hạt là bằng nhau suốt trong sóng.
Thông tin về tình trạng vận
động của một hạt được chứa trong độ dài sóng và tần số. Độ dài sóng tỉ lệ nghịch
với xung lượng của một hạt, tức là, một sóng có độ dài sóng ngắn (tức là tần số
cao) ứng với một hạt có xung lượng lớn (tức vận tốc lớn). Như thế, tần số sóng
tỉ lệ thuận với năng lượng của hạt, một sóng có tần số cao có nghĩa là hạt liên
hệ có năng lượng lớn. Thí dụ tia cực tím có tần số cao, độ dài sóng ngắn và do
đó chứa những photon có năng lượng cao, xung lượng lớn; ngược lại photon của
ánh sáng đỏ với tần số thấp và độ dài sóng lớn chỉ chứa năng lượng ít, xung lượng
thấp.
Trong thí dụ này, một sóng
khi truyền đi không cho ta biết rõ về vị trí của hạt. Dọc theo sóng với xác suất
bằng nhau thì ở đâu cũng có khả năng như nhau để tìm thấy nó. Thế nhưng chúng
ta hay gặp tình trạng có những hạt mà ta biết khá rõ chúng ở đâu, thí dụ khi mô
tả electron trong một nguyên tử. Trong trường hợp đó thì xác suất tìm ra một hạt
một chỗ nào đó chỉ giới hạn trong một không gian nhất định. Ngoài không gian
này thì xác suất của nó phải bằng không. Trường hợp này xảy ra, như hình sau
đây mô tả, đó là dạng sóng chỉ nằm trong một khoảng X. Dạng này được gọi là bó
sóng. Bó sóng bao gồm nhiều sóng khác nhau với độ dài sóng cũng khác nhau,
chúng giao thoa và triệt tiêu lẫn nhau bên ngoài X, tức là tổng số biên độ của
chúng - chính là độ xác suất tìm ra hạt - triệt tiêu bằng không, trong lúc
trong X thì có dạng sóng. Dạng này chứng tỏ rằng, hạt nằm đâu đó trong X, thế
thôi, không cho biết rõ thêm. Đối với những điểm trong X ta chỉ có thể nói lên
độ xác suất của sự hiện diện của hạt (hạt có lẽ hiện diện ở trung tâm, nơi đó
xác suất cao nhất, đó là nơi biên độ lớn nhất, càng ra xa càng nhỏ). Do đó, độ
dài X của bó sóng chỉ độ bất định của vị trí hạt.
Tính chất quan trọng của một
bó sóng là độ dài sóng của nó không được định nghĩa rõ, tức là khoảng cách giữa
hai đỉnh sóng không bằng nhau trong toàn bộ cấu trúc. Độ dài sóng tại hai biên
(của X) lớn hơn độ dài sóng ở giữa, sự khác biệt đó phụ thuộc vào X, sự khác biệt
càng lớn nếu X càng nhỏ. Điều này chưa lên hệ gì tới thuyết lượng tử, nó chỉ là
tính chất của sóng nói chung. Thuyết lượng tử chỉ nhập cuộc khi người ta xem độ
dài sóng và xung lượng (hay vận tốc) của hạt đó có liên hệ mật thiết với nhau.
Cụ thể là khi không định nghĩa được độ dài sóng, người ta cũng không định nghĩa
được xung lượng của hạt. Điều đó có nghĩa là không những chỉ có một sự bất định
về vị trí của hạt, như độ dài X của bó sóng nói rõ, mà còn có một sự bất định của
xung lượng gây ra từ sự khác biệt độ dài sóng ở giữa và hai biên của bó sóng.
Hai sự bất định này phụ thuộc lẫn nhau, vì X càng nhỏ (bất định vị trí) thì sự
khác biệt của độ dài sóng (bất định vận tốc) càng lớn. Nếu ta ép hạt vào một vị
trí thật chính xác, tức là bó sóng sẽ rất ngắn thì độ dài sóng rất khác nhau giữa
trung tâm và biên độ, thì ta có sự bất định về xung lượng (hay vận tốc) của hạt.
Định luật toán học về mối
liên hệ giữa hai sự bất định về vị trí và xung lượng chính là định luật bất định
của Heisenberg, hay nguyên lý bất định. Điều đó có nghĩa là trong vật lý hạ
nguyên tử không bao giờ ta biết được vị trí và xung lượng của một hạt, với độ
chính xác cao.
Vị trí của hạt càng rõ thì
ta càng mơ hồ về xung lượng của nó, và ngược lại. Ta có thể quyết định đo lường
chính xác trị số nào trong hai, nhưng trị số kia sẽ bị che kín. Sự hạn chế này,
như đã nói trong chương trước, không phải do máy móc đo lường kém hiện đại, mà
đó là một sự hạn chế có tính nguyên tắc. Nếu ta muốn đo lường chính xác vị trí
của hạt thì nó không có một cái gọi là xung lượng chính xác để đo, và ngược lại.
Mối liên hệ giữa sự bất định
vị trí và xung lượng của hạt không phải là dạng duy nhất của nguyên lý bất định.
Có những liên hệ tương tự giữa các trị số khác, thí dụ giữa thời gian mà một tiến
trình nguyên tử cần đến và năng lượng. Điều này cũng dễ hiểu nếu ta xem bó sóng
bây giờ không phải là dao động trong không gian nữa mà theo thời gian, khoảng
cách X bây giờ trở thành thời gian T. Khi một hạt đi ngang qua một điểm đo lường
nhất định, thì cơ cấu sóng bắt đầu dao động (tại T=0) với biên độ nhỏ, sau đó
biên độ lớn dần và cuối cùng giảm lại và chấm dứt (T=T). Thời gian T mà hạt cần
để thực hiện xong tiến trình này là thời gian nó đi ngang qua điểm đo của chúng
ta. Chúng ta có thể nói quá trình đó xảy ra trong khoảng thời gian T đó, nhưng
ta không thể nói chính xác lúc nào. Khoảng thời gian T là sự bất định về thời
gia của tiến trình này.
Cũng như trong sự dao động
không gian, ở đây ta cũng không định nghĩa được độ dài sóng, mà vì độ dài sóng
trong thời gian nói lên tần số, tức là không định nghĩa được tần số. Thuyết lượng
tử liên kết tần số của sóng với năng lượng của hạt, nên không định nghĩa được tần
số có nghĩa là ta có bất định về năng lượng. Như thế mối liên hệ giữa sự bất định
về thời điểm và sự bất định về năng lượng cũng tương tự như sự bất định giữa vị
trí và xung lượng như ở trên. Điều đó có nghĩa là không bao giờ cùng lúc ta khẳng
định được thời gian T của một tiến trình và năng lượng tương quan với nó. Một
tiến trình mà chỉ cần một khoảng thời gian rất ngắn có nghĩa cho một sự bất định
lớn về năng lượng: tiến trình cần một năng lượng chính xác thì chỉ có thể xác định
trong một thời gian dài hơn.
Ý nghĩa then chốt của nguyên
lý bất định là nó cho thấy những hạn chế của khái niệm cổ điển của chúng ta,
cho thấy bằng công thức chính xác của toán học. Như trước đây đã mô tả, thế giới
hạ nguyên tử hiện ra như một mạng lưới đầy các mối liên hệ giữa những thành phần
khác nhau của một cái toàn thể.
Những khái niệm cổ điển của
chúng ta, xuất phát từ những khái niệm thông thường vĩ mô, chúng không phù hợp
để mô tả thế giới. Trước hết là khái niệm của một đơn vị lý tính riêng biệt,
khi áp dụng lên một hạt thì đó chỉ là sự lý tưởng hóa, không có ý nghĩa đích thực.
Hạt chỉ có thể định nghĩa trong mối quan hệ với cái toàn thể và những quan hệ
này đều có tính chất xác suất, có tính khả năng nhiều hơn là khẳng định. Khi ta
mô tả những chất của một đơn vị đó bằng những khái niệm cổ điển như vị trí,
năng lượng, xung lượng v.v… ta thấy xuất hiện ra nhiều cặp khái niệm, chúng
liên hệ với nhau và không thể định nghĩa một cách chính xác cùng một lúc được.
Khi ta càng coi trọng một khái niệm của một vật thể thì khái niệm kia sẽ càng bất
định và nguyên lý bất định chỉ rõ mối liên hệ chính xác giữa chúng với nhau.
Nhằm làm sáng tỏ mối liên hệ
của những khái niệm cổ điển, Niels Bohr đã đưa ra khái niệm bổ sung. Ông xem
hình ảnh hạt và hình ảnh sóng là hai dạng bổ sung lẫn nhau để mô tả một thực thể,
mỗi hình ảnh đều chỉ đúng một phần và chỉ có khả năng ứng dụng hạn chế. Để mô tả
hoàn toàn thực thể nguyên tử, cả hai hình ảnh này đều cần thiết và cả hai đều
được sử dụng trong giới hạn mà định luật bất định đã xác định.
Khái niệm bổ sung này đã
giúp nhà vật lý một phần quan trọng trong cái nhìn về thế giới tự nhiên và Bohs
cũng thường nói rằng, nó có thể hữu ích cho cả ngoài môn vật lý. Thực tế là
khái niệm bổ sung đã đóng một vai trò cự kỳ quan trọng cách đây hai ngàn năm
trăm năm trong thế tư tưởng cổ đại Trung Quốc, trong đó người ta đã biết rằng
những khái niệm đối lập và phân cực - hay bổ túc - thật ra chúng liên hệ với
nhau. Các vị hiền triết Trung Quốc diễn tả sự bổ túc lẫn nhau của các mặt đối lập
bằng hình tượng Âm - Dương và thấy mối liên hệ động của chúng nằm ngay trong mọi
hiện tượng thiên nhiên và mọi tình huống của con người.
Chắc chắn Niels Bohs cũng đã
thấy sự tương đồng giữa khái niệm bổ sung của ông với tư tưởng Trung Quốc. Năm
1937 khi viếng Trung Quốc, lúc đã hình thành lý thuyết lượng tử, khái niệm về đối
cực của Trung Quốc tác động mạnh lên ông và cũng kể từ đó ông bắt đầu quan tâm
đến văn hóa phương Đông. Mười năm sau, Bohs được phong tước, thành tựu khoa học
phi thường cũng như sự đóng góp vào nền văn hóa Đan Mạch của ông được thừa nhận.
Khi tìm một biểu hiện phù hợp cho mình, Bohs đã lấy đồ hình Thái cực, đồ hình
diễn tả tính chất bổ túc của hai đối cực Âm - Dương. Với sự lựa chọn biểu tượng
này với dòng chữ “Contraria sunt complementa” (Đối cực chính là bổ sung) Bohs
đã nhận ra sự hòa điệu sâu sắc giữa nền đạo học phương Đông và nền khoa học
phương Tây hiện đại.
Vật lý hiện đại đã thừa nhận
một trong những ý niệm cơ bản của đạo học phương Đông; đó là tất cả khái niệm của
ta về tự nhiên đều hạn chế, chúng không phải là thực tại đích thực như ta thường
tưởng, mà chỉ là sáng tạo của tâm; thành phần của bản đồ, không phải đất thật.
Cứ mỗi lần ta mở rộng lĩnh vực của mình là mỗi lần hạn chế của óc tư duy lại hiện
rõ và ta phải điều chỉnh, thậm chí từ bỏ khái niệm cũ.
Trên bản đồ chỉ về thực tại
thì khái niệm của chúng ta về không gian và thời gian chiếm vị trí quan trọng
nhất. Chúng giúp chúng ta nhìn sự vật và tiến trình chung quanh có thứ tự và do
đó chúng hết sức quan trọng không những trong đời sống hàng ngày, mà còn nhờ nó
để tìm hiểu thế giới tự nhiên thông qua triết học và khoa học. Không có định luật
nào của vật lý mà không có khái niệm của không gian - thời gian. Vì thế sự điều
chỉnh sâu sắc khái niệm này qua thuyết tương đối là một trong những cuộc cách mạng
lớn nhất của lịch sử khoa học.
Vật lý cổ điển đặt nền tảng
trên một không gian ba chiều, tuyệt đối, nó độc lập với những vật thể nằm trong
nó và những định luật hình học tuân thủ hình học Euclid, và thời gian cũng là một
chiều kích thước độc lập, nó trôi chảy tuyệt đối điều hòa, độc lập với thế giới
của vật chất. Tại phương Tây, những khái niệm này về không gian và thời gian đã
bắt rễ từ lâu trong trí não của triết gia và khoa học gia, đến nỗi chúng được
xem tính chất thật sự của thiên nhiên là như thế, không thể chối cãi.
Niềm tin rằng bản chất hình
học nằm ngay trong tự nhiên chứ không phải là một phần của cơ cấu do ta sử dụng
để mô tả thiên nhiên, niềm tin đó xuất phát từ tư tưởng Hy Lạp. Hình học họa
hình là trung tâm của nền toán học Hy Lạp và có ảnh hưởng sâu đậm lên triết lý
Hy Lạp. Phương pháp của nó là xuất phát từ những định đề và từ đó rút ra những
lý thuyết bằng cách suy luận từng bước, phương pháp đó là đặc trưng tư tưởng Hy
Lạp; vì thế mà hình học trở thành trung tâm của mọi hoạt động tư duy và làm nền
tảng cho triết học. Trên cổng vào của Viện Hàn lâm của Plato tại Athen ta thấy
mang hàng chữ: “Cổng này chỉ dành cho những ai nắm vững hình học”. Người Hy Lạp
tin rằng, lý thuyết toán học của họ là sự phát biểu của sự thật chính xác và
ngàn đời về thế giới thực và những định luật hình học là sự biểu lộ của thiện mỹ
tuyệt đối. Hình học đã trở thành sự phối hợp hoàn hảo của logic và thiện mỹ, và
người ta cho rằng nguồn gốc của nó là Thượng đế. Do đó mà có câu nói của Plato:
“Thượng đế là một nhà hình học”.
Vì môn hình học được xem là
khải thị của Thượng đế cho nên điều hiển nhiên đối với người Hy Lạp là bầu trời
phải tỏ rõ những dạng hình học toàn hảo. Điều đó có nghĩa là thiên thể phải
quay trong vòng tròn. Để hình ảnh này thêm tính hình học, họ còn cho rằng chúng
được gắn chặt vào một loạt những hình cầu trong như pha lê, chúng cũng quay
tròn và lấy trái đất làm tâm điểm.
Trong những thế kỷ sau, nhà
hình học Hy Lạp vẫn còn gây một ảnh hưởng mạnh lên nhà triết học và khoa học
phương tây. Những yếu tố của Euclid, cho đến đầu thế kỷ này, vẫn là một cuốn
sách chuẩn mực cho các trường phái phương Tây và hình học Euclid đã được xem là
tính chất đích thực của không gian suốt hai ngàn năm nay. Nó chỉ hết là chuẩn mực,
cho đến khi Einstein chứng minh rằng, hình học không hề nằm trong thiên nhiên
mà là một cơ cấu do đầu óc con người nghĩ ra. Henry Margenau nói:
Nhận thức trung tâm của thuyết
tương đối là hình học… chỉ là một cấu trúc của óc suy luận. Chỉ khi nào ta thừa
nhận điều này thì tâm ta mới có chỗ cho khái niêm mới của không gian - thời
gian, để nẵm được những khả năng định nghĩa chúng và để lựa ra cách phát biểu
chúng phù hợp với quan sát.
Ngược lại với người Hy Lạp,
triết gia phương Đông đã biết rằng không gian và thời gian là do óc suy luận của
con người xây dựng nên. Các nhà đạo học phương Đông xem chúng như những khái niệm
suy luận khác, tức là tương đối, hạn chế và có tính ảo giác. Trong một kinh
sách Phật giáo ta thấy những câu:
Đức Phật dạy, hỡi các tì
kheo, rằng… quá khứ, vị lai, không gian… và cá thể không gì khác hơn là danh sắc,
ngôn từ sử dụng một cách bình thường, chúng chỉ là những thực tại nông cạn.
Thế nên tại Viễn Đông, môn
hình học không bao giờ lên tới địa vị của thời Hy Lạp cổ, mặc dù điều này cũng
không có nghĩa là người Ấn Độ và Trung Quốc không biết đến nó. Họ đã sử dụng nó
để xây dựng những đền thờ với dạng hình học chính xác, đo đạc đất đai hay xác định
bản đồ của trời sao, nhưng không bao giờ để dùng nó xác định về một thực tại trừu
tượng và vĩnh viễn. Thái độ triết học này cũng hiện rõ ở chỗ, khoa học cổ đại của
phương Đông cũng không thấy thiên nhiên phải nằm trong một cơ cấu gồm toàn đường
thẳng và đường tròn. Ở đây, Joseph Needham có nêu lên một điều rất thú vị về
ngành thiên văn Trung Quốc:
Các nhà thiên văn Trung Quốc
không cần những dạng hình học để lý giải - những thành phần của vũ trụ sinh cơ
tuân thủ đúng tính chất của chúng trong đạo và sự vận động của chúng được diễn
tả chủ yếu bằng số học, phi hình tướng. Do đó mà người Trung Quốc thoát khỏi sự
mê say của thiên văn phương Tây với cách nhìn cho vòng tròn là hình tượng hoàn
hảo nhất…họ cũng không phải sống trong tù ngục của hình cầu pha lê thời Trung
cổ.
Như thế, triết gia và khoa học
cổ đại tại phương Đông đã có một cái nhìn cơ bản về thuyết tương đối, cho rằng
hình học không hề là phản ánh tính chất của thiên nhiên mà chỉ là sản phẩm của
tư duy.
Mã Minh nói:
Cần hiểu rõ không gian không
gì hơn là một dạng đặc biệt, nó không có tự tính. Không gian chỉ có trong mối
liên hệ với dạng ý thức đặc biệt của ta.
Điều này cũng đúng cho khái
niệm thời gian. Nhà đạo học phương Đông xem khái niệm không gian và thời gian
liên hệ với những dạng ý thức nhất định, những dạng đó có thể được vượt qua bằng
phép thiền định. Những chứng thực tâm linh cho họ những khái niệm tinh tế hơn về
không gian - thời gian, trong nhiều mặt chúng rất gần với khái niệm của vật lý
hiện đại, thí dụ với thuyết tương đối.
Quan điểm mới về không gian
và thời gian xuất phát từ thuyết tương đối, chúng gồm những gì? Chúng xuất phát
từ sự phát hiện rằng, tất cả mọi đo lường về không gian và thời gian đều tương
đối cả. Tính tương đối trong không gian thực ra không có gì mới. Trước
Einstein, người ta đã biết rằng vị trí một vật trong không gian chỉ có thể dựa
trên một vật khác đã được xác định. Thường thường vật này là một hệ thống ba trục
và gốc của ba trục đó được xem là “vị trí của người quan sát”. Người ta gọi đó
là trục tọa độ.
Để làm sáng tỏ tính tương đối
của các trục đó, ta hãy tưởng tượng có hai người lơ lửng trong không gian, quan
sát một cây dù (xem hình trang 195). Người A thấy cây dù bên trái của mình
nghiêng chút ít, đầu dù hướng về mình. Người B thấy cây dù bên phải của mình, đầu
dù xa hơn.
Mở rộng thí dụ này lên ba
chiều ta thấy rõ những xác định không gian như trái, mặt, trên, dưới, nghiêng
v.v… đều phụ thuộc vào vị trí của quan sát viên và như thế chúng chỉ là tương đối.
Điều này ta đã biết từ lâu trước thuyết tương đối. Thế nhưng khi nói về thời
gian trong vật lý cổ điển, tình hình hoàn toàn khác. Trật tự thời gian của hai
tiến trình khác nhau được xem là độc lập với mọi quan sát viên. Khi ta nói “trước
đó”, “sau đó” hay “đồng thời” thì chúng có tính tuyệt đối, chúng độc lập với một
hệ thống trục qui chiếu.
Einstein đã nhận ra rằng, trật
tự thời gian cũng tương đối và tùy thuộc nơi quan sát viên. Trong đời sống hàng
ngày, khi ta thấy một trật tự thời gian trong những tiến trình xảy ra quanh ta,
những tiến trình này đạt một vận tốc rất nhỏ so với vận tốc ánh sáng (300.000
km/giây), nên ta có cảm giác rằng chúng xảy ra thì ta nhận thấy tức khắc. Thế
nhưng điều này không đúng. Ánh sáng cần một thời gian nhất định để đi từ sự việc
đến quan sát viên. Thường thì thời gian đó quá nhỏ nên ánh sáng có thể xem như
đến với ta tức thì. Nhưng khi quan sát viên di chuyển với vận tốc nhanh (so với
hiện tượng đang được qua sát) thì khoảng thời gian từ lúc xảy ra cho đến lúc
ghi nhận một biến cố bắt đầu đóng một vai trò quan trọng khi nói về thứ tự của
những biến cố khác nhau. Einstein nhận ra rằng nhiều quan sát viên di chuyển với
vận tốc khác nhau sẽ thấy những biến cố có thú tự thời gian khác nhau. Hai biến
cố đối với quan sát viên này là đồng thời thì đối với quan sát viên khác có thể
cái trước cái sau.
Đối với vận tốc di chuyển bình thường thì sự khác nhau giữa chúng quá nhỏ đến nỗi không thể ghi nhận được, thế nhưng khi chúng tiến gần đến vận tốc ánh sáng, chúng gây ra những hiệu ứng có thể đo lường được. Với vật lý cao năng lượng, trong đó toàn là biến cố do sự tương tác giữa các hạt di chuyển với vận tốc gần như của ánh sáng, thì tính tương đối của thời gian đã được xác định và đã được vô số cuộc thí nghiệm thừa nhận.
Đối với vận tốc di chuyển bình thường thì sự khác nhau giữa chúng quá nhỏ đến nỗi không thể ghi nhận được, thế nhưng khi chúng tiến gần đến vận tốc ánh sáng, chúng gây ra những hiệu ứng có thể đo lường được. Với vật lý cao năng lượng, trong đó toàn là biến cố do sự tương tác giữa các hạt di chuyển với vận tốc gần như của ánh sáng, thì tính tương đối của thời gian đã được xác định và đã được vô số cuộc thí nghiệm thừa nhận.
Tính tương đối của thời gian
cũng buộc ta phải từ bỏ khái niệm của một không gian tuyệt đối của Newton.
Không gian Newton được xem là thuộc mỗi thời điểm nhất định có một trật tự vật
chất nhất định, nhưng bây giờ, tính đồng thời đã trở thành một khái niệm tương
đối, nó tùy thuộc vào tình hình vận động của quan sát viên, thì người ta không
còn xác định được một thời điểm nhất định của vũ trụ là thời điểm nào nữa. Một
biến cố ở rất xa, đối với người này là xảy ra một thời điểm nhất định, nhưng đối
với người khác là trước đó hay sau đó. Vì vậy không thể nói vũ trụ tại một thời
điểm nhất định. Không có một không gian tuyệt đối, độc lập với người quan sát.
Thuyết tương đối như thế đã
chứng tỏ tất cả mọi đo lường về không gian và thời gian đã mất tính chất tuyệt
đối và đòi ta phải từ bỏ khái niệm cổ điển về không gian và thời gian tuyệt đối.
Sự quan trọng của phát hiện này được Mendel Sachs nói như sau:
Cuộc cách mạng đích thực tới
với thuyết của Einstein…, đó là từ bỏ ý niệm xem hệ thống không gian - thời
gian là khách quan và là một thực tại riêng biệt. Thay vào đó, thuyết này cho
thấy trục của không gian- thời gian chỉ là yếu tố của một ngôn ngữ để quan sát
viên mô tả môi trường của mình.
Câu nói này của một nhà vật
lý đương thời cho thấy tính chất thật của khái niệm không gian - thời gian của
vật lý hiện đại, và cũng là khái niệm của đạo học phương Đông khi nói, không
gian - thời gian không gì khác hơn là danh sắc, ngôn từ để sử dụng chung.
Vì không gian - thời gian
bây giờ đã trở thành tên gọi có tính chủ quan, mà một quan sát viên dùng để mô
tả hiện tượng thiên nhiên, cho nên mỗi người sẽ mô tả hiện tượng để mình quan
sát một cách khác nhau.
Nếu ta muốn xuất phát từ sự
mô tả hiện tượng mà rút ra những định luật chung về tự nhiên, thì những định luật
này phải được phát biểu sao cho chúng đều có dạng giống nhau trong tất cả hệ thống
qui chiếu, có nghĩa là phải thích hợp cho mọi quan sát viên bất kỳ đang ở đâu,
đang di chuyển với vận tốc nào. Đòi hỏi này được gọi là nguyên lý tương đối và
cũng là bước khởi thủy của thuyết này. Điều thú vị này là mầm mống của thuyết
tương đối nằm trong một sự mâu thuẫn mà chàng trai trẻ tuổi Einstein đã nhận thấy,
lúc chàng mới lên mười sáu. Chàng cố tưởng tượng một tia sáng, hình dáng sẽ như
thế nào đối với một quan sát viên di chuyển cũng với vận tốc ánh sáng bên cạnh
tia đó. Chàng đi tới kết luận là quan sát viên sẽ thấy tia đó là một điện trường
dao động lui tới nhưng không di chuyển, tức là không tạo sóng. Hiện tượng như
thế chưa hề biết đến trong ngành vật lý. Chàng trai Einstein cảm thấy rằng, như
vậy cái mà người này thấy là hiện tượng điện từ trường đã biết, tức là sóng ánh
sáng, thì đối với người khác là một hiện tượng ngược lại với các định luật
trong vật lý và chàng không thể chấp nhận sự mâu thuẫn đó. Trong những năm sau,
Einstein nhận ra rằng nguyên lý tương đối có thể dùng để mô tả hiện tượng điện
từ nếu tất cả các trị số về không gian và thời gian đều tương đối cả. Sau đó
thì định luật cơ học chuyên mô tả vận động của khối lượng và định luật của điện
động học về lý thuyết của điện và từ được phát biểu chung trong một cấu trúc
tương đối, cấu trúc đó bao gồm ngoài ba chiều không gian thêm chiều thời gian
là trục thứ tư, tương đối so với quan sát viên.
Nhằm xác định nguyên lý
tương đối, tức là xem liệu các đẳng thức của lý thuyết đều có như nhau trong mọi
hệ thống qui chiếu, tất nhiên người ta phải có thể chuyển đổi mọi kích thước
không gian và thời gian của một hệ thống qui chiếu hay hệ cơ bản lên một hệ thống
khác. Việc chuyển đổi hệ thống đã được biết đến trong vật lý cổ điển và được sử
dụng thường xuyên. Sự chuyển đổi của hai hệ qui chiếu trong hình (trang 195)
cho thấy hai toạ độ của người A (trục tọa độ được vẽ trong hình) là một sự phối
hợp của hai tọa độ của người B và ngược lại. Những công thức này có thể dùng
hình học giản đơn để tính ra được.
Trong vật lý tương đối nảy
sinh một tình hình mới là thời gian được gắn thêm vào, là chiều thứ tư bên cạnh
ba chiều không gian. Khi chuyển đổi từ hệ này qua hệ qui chiếu khác, như trên
đã nói, tọa độ của hệ thống này là một sự phối hợp các tọa độ của hệ thống kia,
do đó mà một tọa độ không gian của hệ thống sau lại là một sự hỗn hợp không
gian - thời gian của hệ trước. Đây thực sự là một tình hình hoàn toàn mới. Mỗi
lần đổi thay hệ qui chiếu là thời gian và không gian trộn lẫn với nhau, với sự
chính xác của toán học. Hai cái này không thể tách rời ra được nữa, vì cái mà đối
với quan sát viên này chỉ là không gian đơn thuần thì nó đối với quan sát viên
kia là một sự trộn chung không gian - thời gian. Thuyết tương đối chỉ ra rằng,
không gian không phải ba chiều nữa và thời gian không phải là một kích thước độc
lập. Cả hai liên quan mật thiết với nhau, không tách rời và tạo nên một thể
liên tục bốn chiều, được gọi là “không gian - thời gian”. Khái niệm “không gian
- thời gian” này được Herman Minkowski giới thiệu trong bài giảng nổi tiếng năm
1908 với những câu sau đây:
Những quan điểm về không
gian và thời gian mà tôi xin giới thiệu cùng quí vị, nó xuất phát từ nền tảng của
vật lý thực nghiệm, đó chính là ưu thế của chúng. Những quan điểm đó thật là
triệt để. Kể từ nay thì khái niệm không gian tự nó và thời gian tự nó đã mờ nhạt,
không có thực chất; và sự thống nhất của hai cái đã thành một thực thể độc lập
Khái niệm về không gian và
thời gian là then chốt trong việc mô tả hiện tượng tự nhiên tới mức mà, sự thay
đổi của chúng dẫn theo sự thay đổi của cả cơ cấu dùng để mô tả thiên nhiên.
Trong cấu trúc mới này thì không gian và thời gian được xem như bình đẳng như nhau,
và chúng không được tách lìa nhau. Trong vật lý tương đối không thể nói thời
gian mà bỏ qua không gian và ngược lại. Cấu trúc này luôn luôn phải được sử dụng
khi có vận tốc lớn xảy ra.
Mối liên hệ mật thiết giữa
không gian và thời gian thật ra cũng được biết đến trong thiên văn học, trong một
quan hệ khác, trước xa thuyết tương đối. Các nhà thiên văn và thiên thể học phải
làm việc với những khoảng cách cực lớn và ở đây ta đã rõ, ánh sáng phải cần thời
gian để đi từ vật bị quan sát đến người quan sát. Vì ánh sáng có vận tốc giới hạn
như thế mà các nhà thiên văn không bao giờ thấy vũ trụ đúng như hiện tại mà
luôn luôn chỉ nhìn thấy quá khứ của nó. Ánh sáng cần tám phút để đi từ mặt trời
đến trái đất và vì thế mà ta luôn luôn thấy mặt trời cách đó tám phút trước.
Cũng thế ta thấy ngôi sao gần nhất nó như thế nào cách đây bốn năm và với viễn
vọng kính rất mạnh, ta có thể thấy các ngân hà như thế nào cách đây hàng triệu
năm.
Vận tốc có hạn của ánh sáng
đối với các nhà thiên văn không hề là trở ngại mà là một thuận lợi lớn. Nó cho
phép họ có thể quan sát sự hình thành của các vì sao, chùm sao và ngân hà trong
mọi giai đoạn chỉ bằng cách nhìn lên không gian và nhìn lui quá khứ. Tất cả mọi
loại hiện tượng đã xảy ra trong những triệu năm qua quả nhiên có thể thấy được
đâu đó trong bầu trời. Vì thế nhà thiên văn biết rõ mối quan hệ giữa không gian
và thời gian quan trọng như thế nào. Thuyết tương đối nói rằng mối quan hệ này
phải được lưu tâm đến, không phải chỉ khi đến các khoảng cách xa, mà trong trường
hợp có vận tốc lớn. Ngay trên trái đất này, sự đo lường khoảng cách cũng không
thể độc lập với thời gian vì người ta phải quan tâm đến vận tốc của người quan
sát, tức là phải qui về thời gian.
Như trong chương trước đã nhắc
đến, sự thống nhất giữa không gian - thời gian cũng mang lại sự thống nhất nhiều
khái niệm khác và khía cạnh hợp nhất này là đặc trưng lớn nhất của cấu trúc
tương đối. Những khái niệm mà trong vật lý phi tương đối xem ra hoàn toàn độc lập,
thì ở đây ta có thể xem chúng là những khía cạnh khác nhau của một khái niệm
duy nhất. Tính cách này làm cho cấu trúc tương đối có một vẻ đẹp toán học rất
trang nhã. Sau khi làm việc nhiều năm với thuyết tương đối, ta biết quý trọng sự
thanh nhã này và nắm vững dạng toán học của nó. Tuy thế dạng toán học lại không
giúp ta bao nhiêu về phương diện trực giác. chúng ta không thể hình dung cụ thể
gì về một không-thời gian bốn chiều hay về những khái niệm tương đối khác với
giác quan của ta. Khi ngiên cứu các hiện tượng tự nhiên có vận tốc cao, chúng
ta sẽ thấy những khái niệm này rất khó hiểu trên bình diện trực giác lẫn ngôn
ngữ bình thường.
Thí dụ trong vật lý cổ điển,
người ta cho rằng các vật thể hình thanh dài lúc ở trạng thái tĩnh hay lúc vận
động, chúng đều dài như nhau. Thuyết tương đối cho thấy rằng không phải như thế.
Độ dài của một vật phụ thuộc nơi sự vận động của nó với người quan sát và bản
thân nó cũng thay đổi với vận tốc của sự vận động đó. Vật thể ngắn lại trong
chiều mà nó vận động. Một vật thể có kích thước dài nhất trong hệ qui chiếu,
trong đó nó ở trạng thái tĩnh và ngắn đi với người quan sát thấy hệ đó di động.
Ở những thí nghiêm của vật lý cao năng lượng, trong đó các hạt di chuyển với vận
tốc hết sức cao thì sự bẹp lại do tính tương đối đã lên tới mức mà những hạt
hình cầu trở thành những chiếc bánh kẹp.
Vì thế thật vô nghĩa nếu hỏi
độ dài thực sự của một vật, hỏi như thế cũng vô nghĩa như hỏi độ dài thực sự của
cái bóng một người. Cái bóng là hình chiếu của những điểm trong không gian ba
chiều lên một mặt phẳng hai chiều và chiều dài của nó tuỳ theo góc chiếu mà ra
dài ngắn. Tương tự như thế thì độ dài của một vật thể di động là hình chiếu của
những điểm trong không gian bốn chiều không - thời gian lên không gian ba chiều
và độ dài của nó khác nhau trong hệ qui chiếu khác nhau.
Điều có giá trị đối với độ
dài thì cũng có giá trị đối với khoảng cách thời gian. Chúng cũng phụ thuộc vào
hệ qui chiếu, nhưng khác với đo lường không gian, thời gian lại dài ra đối với
quan sát viên di chuyển với vận tốc cao. Tức là, đồng hồ trong hệ thống đang vận
động chạy chậm hơn, thời gian đi chậm hơn. Đồng hồ có thể có nhiều kiểu khác
nhau: đồng hồ cơ khí, đồng hồ nguyên tử hay cả trái tim con người. Nếu một
trong hai đứa trẻ sinh đôi du hành nhanh chóng trong vũ trụ thì khi trở về nó sẽ
trẻ hơn đứa ở nhà, vì tất cả đồng hồ của nó - nhịp tim, tuần hoàn, sóng thần
kinh v.v…đều chậm đi trong thời gian du hành, nếu lấy đứa trẻ ở nhà làm căn bản.
Đứa đi du hành tất nhiên sẽ không nhận biết điều gì khác lạ cả, chỉ khi về nhà
nó mới thấy người anh em mình già hơn mình nhiều. Sự nghịch lý của trẻ sinh đôi
này có lẽ là cái nghịch lý nổi tiếng nhất trong nền vật lý hiện đại. Nó gây ra
nhiều cuộc tranh cãi nóng bỏng trên các tạp chí khoa học mà ngày nay còn kéo
dài, đó là một chứng minh cho một thực tại mà thuyết tương đối mô tả, không dễ
dàng được lĩnh hội với tư duy bình thường của ta.
Việc đồng hồ đi chậm lại
trong khi vận động, dù nghe qua khó tin đến mấy, cũng đã được vật lý hạt kiểm
tra cặn kẽ. Phần lớn các hạt hạ nguyên tử đều bất ổn định, tức là sau một thời
gian chúng tự huỷ để biến thành hạt khác. Nhiều thí nghiệm cho thấy rằng thời
gian sống của những hạt bất ổn định đó tùy thuộc vào trạng thái vận động của
chúng. Chúng càng vận động nhanh, thời gian sống chúng càng tăng. Những hạt vận
động với vận tốc khoảng 80% vận tốc ánh sáng, chúng sống khoảng 1,7 lần lâu hơn
các hạt anh em sinh đôi và với 99% vận tốc ánh sáng, chúng sống lâu hơn 7 lần.
Thế nhưng diều đó không có nghĩa là thời gian sống nội tại chúng thay đổi. Xét
về vị trí của từng hạt thì thời gian sống của chúng luôn luôn bằng nhau, nhưng
từ thế đứng của quan sát viên trong phòng thí nghiệm thì đồng hồ nội tại của hạt
đi chậm hơn, vì thế chúng sống lâu hơn.
Tất cả những hiệu ứng tương
đối đó xem ra kỳ lạ, vì chúng ta không chứng thực thế giới bốn chiều không - thời
gian được bằng những giác quan của ta, mà chỉ quan sát hình ảnh phản chiếu của
chúng trong không gian ba chiều. Những hình ảnh này có nhiều khía cạnh khác
nhau trong những hệ qui chiếu khác nhau: vật thể đang vận động khác với vật thể
đang đứng yên, và những đồng hồ chạy khác nhau. Những hiệu ứng này là nghịch
lý, mâu thuẫn nếu ta quên rằng chúng chỉ là những hình phản chiếu của hiện tượng
bốn chiều, như những cái bóng chỉ là phản chiếu của vật thể ba chiều. Giá như
ta thấy được thực tại không - thời gian bốn chiều thì chúng không còn nghịch
lý, mâu thuẫn nữa.
Như trên đã nói, dường như
các nhà đạo học phương Đông đã đạt được một dạng ý thức phi thường, trong đó họ
chuyển hóa được thế giới ba chiều và chứng thực được một thực tại bốn chiều,
cao hơn. Thế nên Sri Aurobindo mới nói về một “thay đổi tinh tế, nó cho phép thấy
bộ mặt trong dạng thức của một chiều thứ tư”. Có thể các chiều của dạng ý thức
này không hẳn là những chiều trong thuyết tương đối, nhưng điều nổi bật là
chúng đưa các nhà đạo học đến một khái niệm về không gian và thời gian rất giống
với những khái niệm của thuyết tương đối.
Các nhà đạo học phương Đông
có một nhận thức trực giác về tính cách không gian - thời gian của thực tại. Có
lẽ sự nhận thức được trình bày rõ rệt nhất và triệt để nhất trong Phật giáo, đặc
biệt trong Hoa Nghiêm tông của Phật giáo Đại thừa. Kinh Hoa Nghiêm là kinh làm
nền tảng cho tông này, cho ta một sự mô tả sinh động, trong tình trạng của giác
ngộ thì ta chứng thế giới như thế nào. Đó là ý thức về một sự dung thông vô ngại
của không gian và thời gian - đây là cách phát biểu toàn hảo về không gian và
thời gian - được kinh nhắc tới nhiều lần và nó được xem là đặc trưng của tâm
giác ngộ. D.T.Suzuki viết:
Ý nghĩa của kinh Hoa Nghiêm
và tư tưởng của nó sẽ khó hiểu nếu ta chưa bao giờ chứng một tình trạng của một
sự tan biến hoàn toàn, trong đó không còn có sự phân biệt thân và tâm, giữa chủ
thể và khách thể… Ta nhìn quanh và nhận thấy mỗi sự vật đều liên hệ với mọi sự
vật khác… không những trong không gian, mà trong thời gian. Thực tế là trong sự
chứng thực thanh tịnh không có không gian phi thời gian, không có thời gian phi
không gian, chúng dung thông nhau.
Nếu so sánh câu nói này của
Suzuki với những lời đã dẫn của Minkowski, ta thấy ngay cả nhà vật lý lẫn nhà
Phật học đều xây dựng khái niệm không gian - thời gian của họ dựa trên thực
nghiệm; một bên dựa trên thí nghiệm khoa học, bên kia thì nhờ chứng thực tâm
linh.
Theo tôi thấy thì nhận thức
trực giác về thời gian của đạo học phương Đông là một lý do giải thích tại sao
cái nhìn của họ về thế giới tự nhiên nói chung phù hợp với khoa học hiện đại
hơn cái nhìn của phần lớn các triết gia Hy Lạp. Nền triết lý về tự nhiên của Hy
Lạp chủ yếu là tĩnh tại và hầu như đặt nền tảng trên suy tư về hình học. Có thể
nói hết sức phi tương đối và ảnh hưởng mạnh mẽ của nó trên tư duy phương Tây rõ
là một trong những lý do làm chúng ta có khó khăn lớn thế nào với những mô hình
tương đối của vật lý hiện đại. Các nhà triết học phương Đông, ngược lại, là những
triết gia không gian - thời gian và tri kiến trực giác của họ thường rất gần với
thuyết tương đối hiện đại của chúng ta.
Vì ý thức không gian - thời
gian liên hệ mật thiết và dung thông với nhau, cả hai dều là những thế giới
quan động, chúng lấy thời gian và sự biến dịch làm những yếu tố cơ bản. Khi học
tập những mô hình tương đối của vật lý hiện đại, ta sẽ thấy chúng là những minh
họa đầy sức thuyết phục của hai yếu tố của thế giới quan phương Đông; đó là
tính nhất thể cơ bản của vũ trụ và tính năng động nội tại của nó.
Đến đây, chúng ta nói về
thuyết tương đối đặc biệt. Nó cho ta một khung cảnh chung để mô tả hiện tượng của
vật thể vận động, điện và từ. Cơ sở của nó là tính tương đối của không gian -
thời gian và sự thống nhất của chúng trong một thể bốn chiều không gian - thời
gian.
Khuôn khổ của thuyết tương đối
tổng quát bao gồm cả trọng lực. Theo thuyết tương đối tổng quát thì trọng lực
làm cong không gian - thời gian. Tưởng tượng ra được điều đó là một việc hết sức
khó khăn. Chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra một bề mặt cong hai chiều, thí
dụ bề mặt của một quả trứng, vì chúng ta thấy bề mặt này nằm trong không gian
ba chiều. Ý nghĩa của từ cong của một mặt cong hai chiều như thế là hoàn toàn
rõ, nhưng khi ta tới không gian ba chiều - chứ chưa nói gì tới không - thời
gian bốn chiều - thì sức tưởng tượng bỏ rơi chúng ta. Vì chúng ta không thể
nhìn không gian ba chiều từ bên ngoài nhìn vào (như trường hợp của mặt cong hai
chiều), nên ta không thể tưởng tượng được nó có thể bị bẻ cong theo một chiều
nào khác được.
Để hiểu ý nghĩa của không
gian - thời gian cong, chúng ta phải dùng mặt cong hai chiều, lấy nó làm sự
tương tự. Hãy tưởng tượng bề mặt của một quả cầu. Thực tế quyết định nhất cho
ta thấy sự tương tự với không - thời gian là, độ cong là một tính chất nội tại
của mặt cong đó và có thể đo lường được, chứ không cần phải đi vào một không
gian ba chiều nào cả. Một con kiến xem như một sinh vật hai chiều sống trên mặt
cong, tuy nó không thể nhận biết được chiều thứ ba, nhưng nó có thể phát hiện bề
mặt mà nó đang sống là cong, với điều kiện là nó biết các phép đo lường hình học.
Muốn biết thế ta hãy so sánh hình học mặt cong của con kiến với một mặt phẳng
khác nhau ra sao.
Giả sử hai con kiến bắt đầu
nghiên cứu hình học của chúng bằng cách vẽ một đường thẳng, tức là đường ngắn
nhất nối hai điểm. Kết quả như sau: Ta thấy con kiến trên mặt phảng sẽ vẽ một
đường thẳng, nhưng con kiến trên mặt cong thì sao? Đường nối hai điểm A và B quả
thật là ngắn nhất so với mọi đường khác mà nó có thể chọn, thế nhưng từ cách
nhìn của ta thì nó là một đường cong. Bây giờ ta giả định hai con kiến nghiên cứu
hình tam giác . Con kiến trên mặt phẳng xác định rằng tổng số ba góc của tam
giác là bằng hai góc vuông, tức là 180 0, còn con kiến trên mặt cong thấy rằng
tổng số ba góc của hình tam giác luôn luôn lớn hơn 1800. Đối với những tam giác
nhỏ thì phần lớn hơn đó không nhiều, nhưng tam giác càng lớn thì phần lớn hơn
đó càng lớn theo; trong trường hợp cực điểm thì con kiến của chúng ta có thể vẽ
một tam giác với ba góc vuông.
Cuối cùng hai con kiến vẽ
vòng tròn và đo chu vi của nó. Kiến mặt phẳng sẽ thấy rằng chu vi vòng trong bằng
2p nhân với bán kính, độc lập với vòng tròn to nhỏ. Còn kiến trên mặt cong sẽ
thấy chu vi vòng tròn luôn luôn nhỏ hơn 2p nhân với bán kính.
Như hình sau đây cho thấy,
nhờ cách nhìn ba chiều của ta mà ta nhận ra rằng, bán kính của kiến trên mặt cầu
không hề là đường thẳng, nó là một đường cong, đường cong đó luôn luôn dài hơn
bán kính thật của vòng tròn.
Khi hai con kiến trực tiếp
nghiên cứu hình học thì con kiến trên mặt phẳng sẽ phát hiện ra định đề Euclid
và các định luật khác, nhưng con kiến trên mặt cong sẽ tới với những nhận thức
khác. Sự khác biệt giữa hai nhận thức đó thì nhỏ đối với các hình nhỏ nhưng nó
sẽ lớn hơn đối với các hình thể lớn. Thí dụ của hai con kiến cho ta thấy rằng,
ta luôn luôn có thể phán quyết, liệu một mặt là cong hay không, cứ đơn giản dựa
vào đo lường trên mặt đó rồi so sánh kết quả đo lường với kết quả của hình học
Euclid. Nếu có sự khác nhau giữa hai kết quả thì mặt đó là cong, và nếu sự khác
nhau càng cao độ thì cong càng lớn.
Với cách thế đó mà ta định
nghĩa không gian ba chiều cong là một không gian mà trong đó hình học Euclid
không còn đúng nữa. Những định luật trong không gian đó là thuộc về một loại
khác, phi Euclid. Hình học phi Euclid đó được nhà toán học Bernhard Riemann giới
thiệu vào thế kỷ thứ mười chín, như một ý niệm toán học hoàn toàn trừu tượng và
cũng chỉ được xem như thế, cho đến ngày Einstein nêu ra giả thuyết cách mạng
là, không gian ta đang sống ba chiều này quả thật là cong. Theo Einstein thì độ
cong của không gian bị trường trọng lực của các vật thể mang khối lượng gây ra.
Không gian xung quanh vật thể bị cong và độ cong đó, cũng là độ khác biệt với
hình học Euclid, tỉ lệ với khối lượng của vật thể.
Phương trình nói lên độ cong
không gian liên hệ thế nào với sự phân bố vật thể không gian được gọi là thuyết
trường Einstein. Chúng không những được sử dụng để xác định mức biến thiên của
độ cong tại mỗi chỗ gần các thiên thể hay hành tinh, mà với chúng, người ta có
thể biết được độ cong tổng quát của không gian. Nói cách khác, những đẳng thức
trường Einstein có thể dùng để xác định cấu trúc của vũ trụ. Tiếc thay chúng
không cho lời giải rõ rệt. Có nhiều lời giải toán học khả dĩ cho những phương
trình đó, và mỗi lời giải lại cho những mô hình khác nhau về vũ trụ. Mục đích
chính của ngành vũ trụ học hiện nay là xác định lời giải nào đúng với cơ cấu vũ
trụ của chúng ta.
Vì trong thuyết tương đối,
không gian không bao giờ tách ly khỏi thời gian nên độ cong do trọng lực gây ra
cũng không chỉ hạn chế trong không gian ba chiều, mà người ta phải mở rộng lên
không gian - thời gian bốn chiều. Đó chính là điều mà thuyết tương đối tổn quát
đã tiên đoán. Trong một không - thời gian cong thì sự méo mó được sinh ra không
những chỉ tác động lên không gian - là những mối liên hệ có thể mô tả bằng hình
học - mà còn trên độ dài của những khoảng thời gian. Thời gian trôi sẽ không với
một vận tốc đều, như trong một không gian - thời gian phẳng; dòng chảy sẽ không
đều, vì sự phân bố vật chất có chỗ cong nhiều cong ít. Thế nhưng chúng ta phải
nói rõ là, sự biến đổi này của thời gian được thấy bởi một quan sát viên, người
đó đứng khác chỗ của đồng hồ đang đo lường thời gian. Nếu thí dụ quan sát viên
cũng đứng ngay chỗ đó, ngay nơi mà thời gian chạy chậm đi, thì mọi đồng hồ cũng
chậm theo và người ta sẽ không có cách nào để đo hiệu ứng chậm đi đó nữa.
Trong môi trường địa cầu này
thì tác động của trọng lực lên không gian thời gian qúa nhỏ nên ta có thể bỏ
qua, thế nhưng trong ngành thiên văn học, khi người ta làm việc với những khối
lượng lớn như hành tinh, thiên thể và ngân hà thì độ cong của không gian là một
hiện tượng quan trọng. Tới nay thì tất cả mọi quan sát viên đều thừa nhận thuyết
của Einstein là đúng và buộc chúng ta phải tin rằng không - thời gian quả thật
là cong. Hiệu ứng cùng cực nhất của nó là sự sụp đổ trọng trường của một thiên
thể đặc cứng. Theo hình dung của thiên văn học ngày nay thì mỗi thiên thể trong
quá trình phát triển sẽ đạt tới một giai đoạn, trong đó nó bị co rút lại vì lực
hút lẫn nhau giữa các hạt cấu tạo nên nó. Khi khoảng cách giữa các hạt nhỏ dần
thì sức hút giữa chúng tăng nhanh, quá trình sụp đổ càng gia tốc, và khi thiên
thể có đủ tỉ trọng rồi, tức là khoảng gấp đôi tỉ trọng của mặt trời thì không
còn tiến trình nào có thể cứu vãn sự sụp đổ.
Khi thiên thể co rút lại và
ngày càng đặng của không - thời gian quanh nó sẽ tăng lên. Vì sức hút quá mạnh,
không có vật gì có thể rời thiên thể được, và tới mức mà ngay cả ánh sáng cũng
bị hút, không chạy thoát nổi bề mặt của thiên thể. Tới mức này thì xung quanh
thiên thể sinh ra một tầm chân trời biến cố, tức là không còn dấu hiệu gì của
thiên thể đi ra ngoài được với thế giới còn lại. Không gian xung quanh thiên thể
bị cong tới mức ánh sáng cũng bị nhốt lại, không chạy thoát được. Ta không thể
thấy một thiên thể như vậy vì ánh sáng của nó không thể đến với chúng ta và do
đó ta gọi nó là một lỗ đen. Sự hiện hữu của những lỗ đen đã được tiên đoán từ
năm 1916 trên cơ sở thuyết tương đối. Trong thời gian gần đây, nó gây ra nhiều
chú ý vì một hiện tượng của thiên thể cho thấy có sự hiện hữu của một vì sao nặng,
vì sao đó quay chung quanh một đối tượng vô hình, đối tượng đó có thể là một lỗ
đen.
Lỗ đen là những vật thể bí ẩn
và đáng kinh ngạc nhất mà nền thiên văn hiện đại đang nghiên cứu, và chúng minh
họa hiệu ứng của thuyết tương đối một cách lạ lùng nhất. Độ cong của không
- thời gian quanh chúng không những ngăn trở ánh sáng đến với chúng ta mà còn
gây ảnh hưởng đáng kể lên thời gian. Nếu đem một cái đồng hồ gắn trên bề mặt của
một thiên thể đang co rút, tức là gắn một thiết bị gửi tín hiệu về phía chúng
ta thì ta sẽ thấy rằng những tín hiệu đó chậm dần khi thiên thể càng tiến gần đến
tầm chân trời biến cố; và khi nó trở thành lỗ đen thì không còn tín hiệu nào đến
với ta nữa. Đối với một quan sát viên ở bên ngoài thì thời gian đi chậm dần khi
thiên thể co rút và khi nó đến tầm chân trời biến cố thì thời gian ngưng hẳn lại.
Do đó mà sự sụp đổ hoàn toàn một vì sao cần một thời gian vô tận. Còn bản thân
thiên thể đó thì không có gì đặc biệt xảy ra cả khi nó vượt qua tầm chân trời
biến cố. Thời gian sẽ trôi bình thường và sự sụp đổ sẽ hoàn tất sao một thời
gian có hạn, khi thiên thể biến thành một điểm với một tỉ trọng vô cùng lớn. Thế
thì sự sụp đổ thật sự kéo dài bao lâu, đó là một khoảng thời gian vô hạn hay hữu
hạn? Trong thế giới của thuyết tương đối, một câu hỏi như thế là vô nghĩa. Thời
gian sống của một vì sao co giãn cũng như mọi khoảng thời gian khác, nó là
tương đối và tùy thuộc nơi hệ qui chiếu của quan sát viên.
Thuyết tương đối tổng quát
đã từ bỏ những khái niệm cổ điển xem không gian và thời gian là tuyệt đối và độc
lập. Không những mọi đo lường trong không gian và thời gian là tương đối và phụ
thuộc vào tình trạng vận động của quan sát viên, mà toàn bộ cấu trúc của không
- thời gian lại phụ thuộc vào sự phân bố của vật chất. Không gian mỗi nơi có độ
cong khác nhau và thời gian trôi chảy tại nhiều nơi trong vũ trụ với vận tốc
khác nhau. Khái niệm của chúng ta về không gian ba chiều Euclid và thời gian
trôi chảy tuyến tính chỉ được giới hạn trong đời sống hàng ngày, và ta phải từ
bỏ chúng khi muốn đi ra khỏi đó.
Các bậc hiền nhân phương
Đông cũng đã nói đến sự mở rộng của kinh nghiệm về thế giới trong những tình trạng
ý thức cao cấp và họ đoán chắc rằng những tình trạng này chứa đựng một sự chứng
thực hoàn toàn khác về không gian và thời gian. Họ nhấn mạnh rằng, khi ở trong
thiền định, họ không những ra khỏi một không gian ba chiều bình thường - mà còn
mạnh hơn - họ còn vượt qua sự cảm nhận thời gian thông thường. Thay vì tiếp nối
của những khoảng thời gian tuyến tính họ chứng một thực tại vô tận, phi thời
gian mà lại năng động. Trông ba đoạn văn sau đây ta sẽ nghe ba nhà đạo học nói
về chứng thực của họ về cái thực tại vô cùng: Trang Tử nhà hiền nhân Lão giáo;
Huệ năng Lục tổ Thiền tông; và D.T.Suzuki, thiền sư Phật giáo của thời đại
chúng ta:
Hãy quên thời gian đang trôi
chảy; hãy quên mọi mâu thuẫn của tư duy. Hãy nghe cái vô cùng réo gọi và hãy đứng
tại đó.
Trang Tử
Cái giây phút hiện tại này
là sự tĩnh lặng vô cùng. Mặc dù nó chỉ hiện hữu trong phút giây này, nó không
có biên độ và cũng trong đó mà hiện ra cái miên viễn tuyệt diệu.
Huệ Năng
Trong thế giới tâm linh này
không có phân chia thời gian cũng như quá khứ, hiện tại và tương lai, vì các thứ
này đã rút lại trong một cái chớp mắt của hiện tại, trong đó đời sống rung động
trong ý nghĩa đích thực của nó… Quá khứ và tương lai đã cuốn tròn trong giây
phút hiện tại của giác ngộ và cái chớp mắt hiện tại này không hề đứng yên với
những gì nó dung chứa, mà vận động tiếp tục không ngừng nghỉ.
D.T.Suzuki
Thật hầu như không thể nói về
sự chứng thực của một hiện tại phi thời gian, vì những từ phi thời gian, hiện tại,
quá khứ, phút giây v.v…đều dựa trên khái niệm thông thường về thời gian mà
thành. Vì thế thật vô cùng khó mà hiểu các nhà đạo học đó muốn nói gì với những
câu trên. Tuy thế, ở đây nền vật lý hiện đại có thể giúp ta dễ hiểu hơn, vì người
ta có thể dùng hình vẽ để biểu diễn các lý thuyết vật lý đã chuyển hóa khái niệm
thời gian thông thường như thế nào.
Trong nền vật lý tương đối
thì lịch sử của một vật thể, thí dụ một hạt, được biểu diễn trong biểu đồ không
- thời gian. Trong biểu đồ này thì trục hoành biểu diễn không gian (ở đây chỉ
có một chiều), trục tung biểu diễn thời gian. Đường đi của hạt trong không - thời
gian được gọi là vạch vũ trụ. Nếu hạt nằm yên thì thật ra nó cũng đã vận động
trong thời gian; trong trường hợp này thì vạch vũ trụ của nó là một đường dọc.
Nếu hạt cũng vận động trong không gian thì vạch vũ trụ là một đường xéo, vạch
càng xéo thì hạt vận động càng nhanh. Ta để ý rằng, trong trục thời gian, hạt
chỉ hướng lên, nhưng trong trục không gian nó có thể đi tới hay đi lui. Vạch vũ
trụ có thể nghiêng nhiều góc khác nhau so với trục ngang, nhưng nó không bao giờ
nằm ngang thực sự, vì nếu thế thì có nghĩa hạt không cần thời gian nào mà vận động
được từ nơi này qua nơi khác.
Biểu đồ không - thời gian được
sử dụng trong vật lý tương đối để minh họa sự tác động lẫn nhau giữa các hạt.
Ta có thể vẽ một biểu đồ cho mỗi tiến trình và khi sự xuất hiện của mỗi tiến
trình đó có một xác suất thì ta có thể cho nó một phát biểu toán học nhất định.
Thí dụ sự va chạm nhau giữa một electron và photon có thể được biểu diễn trong
hình sau đây. Ta đọc biểu đồ này như sau (từ dưới lên trên, theo chiều thời
gian): một electron (được biểu thị bằng e-) va chạm một photon (biểu thị bằng
g, gamma);electron hấp thụ photon và vận động tiếp với một vận tốc khác (vạch
vũ trụ có độ nghiêng khác); sau một thời gian electron nhả photon ra và quay
lui.
Lý thuyết xây dựng nên khuôn
khổ của biểu đồ không - thời gian và cho nó những phát biểu toán học liên hệ được
gọi là thuyết trường lượng tử. Nó là một trong những thuyết thuộc phép tương đối
quan trọng nhất của ngành vật lý hiện đại mà ta sẽ bàn đến sau. Để thảo luận về
biểu đồ không - thời gian, chúng ta chỉ cần nắm vững hai tính chất quan trọng
nhất của thuyết này. Một là, đừng quên mọi tương tác dẫn đến sự phát sinh và huỷ
diệt của các hạt, như sự hấp thụ và nhả ra của photon trong biểu đồ trên; và
hai là sự đối xứng căn bản giữa hạt và đối hạt. Cứ mỗi hạt lại có một đối hạt
có khối lượng như nhau và điện tích ngược nhau. Thí dụ đối hạt của electron là
positron và thường được biểu diễn bằng e+. Đối với photon vô điện tích thì đối
hạt của nó chính là bản thân nó. Một cặp được phát sinh chớp nhoáng từ photon
và trong tiến trình ngược lại chúng hợp nhau thành photon.
Nhờ áp dụng thuật sau đây mà
biểu đồ không - thời gian trở nên đơn giản: mũi tên của vạch vũ trụ không còn
dùng để chỉ hướng đi nữa(trước sau thì nó cũng vô ích vì tất cả các hạt đều vận
động theo chiều thời gian, trong biểu đồ là chỉ lên). Thay vào đó mũi tên dùng
để phân biệt hạt và đối hạt: nếu nó chỉ lên thì đó là một hạt (thí dụ một
electron). Còn photon, bản thân nó cũng là đối hạt nên được biểu diễn không có
mũi tên. Với sự điều chỉnh này ta có thể giữ nguyên mọi trình bày trong biểu đồ
mà không gây xáo trộn gì cả: vạch với mũi tên là electron, vạch không có mũi
tên là photon. Ta còn có thể đơn giản hoá biểu đồ bằng cách bỏ luôn trục không
gian và thời gian, và chỉ nhớ trong đầu trục thời gian từ dưới hướng lên và trục
đi tới của không gian từ trái qua phải. Như biểu đồ của quá trình va chạm
electron - photon như sau:
Vậy muốn vẽ biểu đồ va chạm
của positron - photon, ta chỉ cần dùng biểu đồ trên nhưng quay chiều mũi tên là
được.
Tới bây giờ thì chưa xảy ra
điều gì lạ lùng trong cuộc thảo luận của ta về biểu đồ không - thời gian cả.
Chúng ta đọc nó từ dưới lên, đúng như qui ước của ta về dòng chảy của thời gian
tuyến tính. Tuy thế, khía cạnh đặc biệt hiện ra trong biểu đồ với đường đi của
positron. Dạng toán học của lý thuyết trường cho phép ta lý giải đường này bằng
hai cách: một là, xem nó là positron, vận động theo chiều thời gian; hai là,
xem nó là eletron và vận động ngược chiều thời gian! Hai cách diễn giải đều giống
nhau về mặt toán học. Tức là sự phát biểu đó áp dụng cho một đối hạt chạy từ
quá khứ đến tương lai hay một hạt chạy từ tương lai về quá khứ.
Thế nên ta có thể xem hai biểu
đồ này biểu thị một tiến trình duy nhất, tiến trình đó chỉ diễn ra trong hai
chiều thời gian khác nhau. Cả hai đều có thể xem là sự va chạm giữa electron và
photon, nhưng trong tiến trình này thì các hạt đi theo chiều thời gian; trong
tiến trình kia thì chúng đi ngược lại (đường có vạch đứt biểu thị photon, dù nó
chạy cùng chiều hay ngược chiều thời gian, vì hạt hay đối hạt của photon chỉ là
một). Như thế thuyết tương đối của tương tác giữa các hạt cho thấy một sự đối xứng
hoàn toàn, trên trục của thời gian. Tất cả mọi biểu đồ không - thời gian đều có
thể được đọc hai chiều như vậy. Điều đó có nghĩa là mỗi một tiến trình đều có một
tiến trình ngược lại trong thời gian, trong đó ta thay thế các hạt bằng những đối
hạt của chúng.
Để biết tính chất bất ngờ
này của thế giới hạ nguyên tử ảnh hưởng lên quan điểm không gian - thời gian của
ta như thế nào, hãy xem tiến trình sau đây trong biểu đồ sau:
Chúng ta hãy đọc biểu đồ
theo cách qui ước từ dưới lên trên, ta sẽ thấy như sau: một electron (được biểu
diễn bằng vạch liền) và một photon (vạch đứt) tiến gần với nhau; tại A photon
phân hủy thành một cặp electron - positron, electron vận động về phía phải,
positron về phía trái; positron va chạm với electron đầu tiên tại B, chúng tiêu
hủy lẫn nhau và tạo thành photon, chuyển về phía trái.
Mặt khác ta có thể quan niệm
biểu đồ này như sự tác động giữa hai photon và một electron, trong đó electron
mới đầu di chuyển theo chiều thời gian, sau đó đi ngược thời gian, rồi lại vận
động theo chiều thời gian. Muốn quan niệm như thế ta hãy theo chiều mũi tên của
electron mà nhìn. Trước hết electron vận động đến B, nơi đó nó nhả một photon
(biến thành đối hạt), đổi chiều thời gian đi lui về điểm A; tại A nó hấp thụ
photon đầu tiên, lại đổi chiều và vận động theo thời gian. Trong mức độ nào đó
thì cách lý giải thứ hai dễ hơn cách thứ nhất vì ta chỉ việc đi theo vạch vũ trụ
của một hạt. Thế nhưng ta thấy ngay mình gặp khó khăn về ngôn ngữ. Electron mới
đầu đến B trước, sau đó lui về A, mà như thế thì sự hấp thụ photon tại A xảy ra
trước khi nhả photon ở B.
Người ta có thể né tránh sự
khó khăn này bằng cách xem biểu đồ không - thời gian như trên không phải là sự
ghi nhận đường đi của hạt trong quá trình thời gian, mà chỉ là cấu trúc bốn chiều
trong không - thời gian, cấu trúc đó diễn tả một mạng lưới toàn những biến cố
liên hệ với nhau, mạng lưới đó không có chiều nào là dứt khoát của thời gian cả.
Vì tất cả các hạt đều có thể vận động cùng chiều thời gian hay ngược chiều thời
gian, cũng như trong không gian có trái có phải, cho nên vô nghĩa khi chỉ có một
chiều của thời gian trong biểu đồ. Nó chỉ là một tấm bản đồ bốn chiều, đặt
trong không - thời gian, trong đó ta không thể nói về một thứ tự thời gian.
Louis de Broglie nói :
Trong không - thời gian , tất
cả những gì mà mỗi người chúng ta gọi là quá khứ, hiện tại, tương lai, chúng hiện
hữu một lúc (enbloc). Có thể nói mỗi quan sát viên, khi thời gian của họ trôi
qua thì họ phát hiện ra những mặt cắt với cái không - thời gian đó, những mặt cắt
đó hiện ra với họ như những khía cạnh khác nhau của thế giới vật chất, cả trước
cả sau, mặc dù trong thực tại thì tổng thể của những biến cố đã hiện hữu trước
khi họ biết tới, xây dựng nên tổng thể không - thời gian.
Đây là toàn bộ ý nghĩa của
không gian - thời gian trong vật lý tương đối. Không gian - thời gian là hoàn
toàn bình đẳng. Chúng được thống nhất trong một thể liên tục bốn chiều, trong
đó sự tương tác giữa các hạt có thể diễn ra trong mọi hướng. Muốn tưởng tượng cụ
thể sự tương tác này, ta phải thu một tấm hình bốn chiều, tấm hình đó bao trọn
cả toàn bộ thời gian lẫn toàn bộ không gian. Muốn có một cảm giác về thế giới
tương đối của các hạt, chúng ta phải “quên thời gian đang trôi”, nói như Trang
Tử và do đó mà biểu đồ không - thời gian của đạo học phương Đông? Nghĩa của sự
tương đồng đó được Lama Govinda nói như sau về phép thiền định Phật giáo:
Và khi nói tới cảm giác về
không gian trong thiền định thì ở đây ta có một kích thước hoàn toàn khác về
không gian. Trong sự chứng thực về không gian này, cái trước cái sau trở thành
những cái đồng thời, những cái cạnh nhau trong không gian. Rồi cái đó cũng
không tĩnh tại mà thành một thể liên tục sinh động, trong đó bao gồm cả không
gian và thời gian…
Mặc dù các nhà vật lý sử dụng
ngôn ngữ toán học hình thức và các biểu đồ để diễn tả sự tương tác cùng một lúc
trong không - thời gian bốn chiều, họ giải thích thêm rằng trong thế giới thực
sự một quan sát viên chỉ nhận biết những hiện tượng đó trong từng lớp giai đoạn
của không - thời gian, tức là có thứ tự thời gian. Ngược lại các nhà đạo học quả
quyết họ thực sự có thể chứng thực qui mô toàn thể của không - thời gian, trong
đó thời gian không còn trôi chảy. Thiền sư Đạo Nguyên nói:
Phần lớn đều nói rằng thời
gian trôi qua. Thực tế thì nó đứng một chỗ. Hình dung về một sự trôi chảy, người
ta có thể gọi nó là thời gian, nhưng đó là một hình dung sai lầm, vì ta chỉ thấy
thời gian trôi chảy, ta không thể nhận rằng nó đang đứng tại chỗ.
Nhiều bậc đạo sư phương Đông
nhấn mạnh rằng, tư duy phải sinh ra trong thời gian, nhưng linh ảnh có thể vượt
thời gian. Govinda nói: “Linh ảnh nằm trong một không gian nhiều chiều hơn và
vì thế nó phi thời gian”. Không - thời gian của vật lý tương đối cúng là một
không gian phi thời gian, có chiều cao hơn, trong đó mọi biến cố đều liên hệ với
nhau, nhưng mối liên hệ không có tính nhân quả. Sự tương tác các hạt chỉ có thể
lý giải trong khái niệm nguyên nhân- kết quả khi biểu đồ không - thời gian được
đọc trong một hướng nhất
định, thí dụ từ dưới lên
trên. Một khi chúng được quan niệm trong một cấu trúc bốn chiều, không có một
hướng thời gian nhất định, thì không có cái trước, cái sau và vì thể không có
nguyên nhân và hậu quả.
Các nhà đạo học phương Đông
cũng quả quyết tương tự như thế, rằng khi họ vượt qua thời gian thì họ cũng vượt
lên nhân quả. Cũng như khái niệm cổ điển của ta về không - thời gian, thì hình
dung về nhân quả cũng bị giới hạn với một kinh nghiệm nhất định về thế giới và
nó phải bị từ bỏ khi kinh nghệm này được mở rộng. Swami Vivekanada nói:
Thời gian, không gian và mối
liên hệ nhân quả giống như tấm kính ta nhìn xuyên qua nó để thấy cái tuyệt đối…
Trong tuyệt đối thì không có thời gian, lẫn không gian, lẫn liên hệ nhân quả.
Chúng đưa ta vượt lên kih
nghiệm về thời gian và giải thoát ra khỏi những mắt xích của nhân quả - thoát
khỏi sự trói buộc của nghiệp, nói như Ấn Độ giáo và Phật giáo. Nền đạo học
phương Đông do đó là một sự giải thoát khỏi thời gian và trong chừng mực nhất định,
điều đó cũng có giá trị cho nền vật lý tương đối.
Chương 13:
VŨ TRỤ ĐỘNG
VŨ TRỤ ĐỘNG
Trong nền đạo học phương
Đông, có một thực tại được xem là thực thể của vũ trụ, nó là nguồn gốc của muôn
hình vạn trạng sự vật và biến cố. Ấn Độ giáo gọi nó là “Brahman”, Phật giáo gọi
là “Pháp thân” (thân của mọi hiện hữu) hay “Chân Như” (Cái - như - thế) và Lão
giáo gọi là “Đạo”. Tất cả đều quả quyết thực tại cao nhất đó vượt trên những
khái niệm suy luận của chúng ta và không thể mô tả được. Thế nhưng thực tại đó
lại không tách rời khỏi những biến hiện vô cùng của nó. Tự tính của nó là luôn
luôn hiện thành hàng tỉ sắc hình, chúng sinh thành và biến hoại, chúng chuyển
hóa từ cái này qua cái khác một cách vô tận. Trong khía cạnh hiện tượng thì nhất
thể vũ trụ đó tự nó là động, và tiếp cận với tự tính đó là cơ sở của mọi nền đạo
học phương Đông. D.T.Suzuki viết về tông Hoa Nghiêm của Đại thừa Phật giáo như
sau:
Ý niệm cơ bản của Hoa Nghiêm
là nắm bắt về trụ động mà tính chất của nó là luôn luôn biến hoại, trong dòng của
vận động, đó là đời sống.
Sự nhấn mạnh vận động, dòng
chảy và thay đổi không phải chỉ có nơi đạo học phương Đông mà cũng là khía cạnh
chủ yếu của mọi thế giới quan tâm linh trong các thời đại. Trong thời cổ đại Hy
Lạp, Heraclitus đã chỉ rằng mọi sự đều trôi chảy và so sánh thế giới như một ngọn
lửa bất diệt. Tại Mexico nhà đạo học Yaqui Don Juan cũng nói về một thế giới
thoáng hiện và xác nhận muốn thành minh triết tự thân là ánh sáng hay dòng chảy.
Những khái niệm then chốt của
Ấn Độ giáo và Phật giáo lấy từ triết học Ấn Độ tính vận động. Từ “Brahman” xuất
phát từ gốc Sanskrit Brih và nói về một thực tại sinh động, luôn luôn vận động.
Theo S.Radhakrishnan, từ Brahman có nghĩa là lớn mạnh và đầu mối của đời sống,
vận hành và tiến triển. Các bài thuyết giảng (Upanishad) gọi Brahman là vô sắc,
bất tử,vận hành và gắn cho nó một sự vận động tự thân, mặc dù nó đứng trên mọi
sắc thể.
Lê - câu Vệ - đà diễn tả
tính vận động của thế giới với một khái niệm khác, khái niệm “Rita”. Từ này xuất
phát từ gốc ri (tự thân vận động). Nghĩa của nó là sự vận hành của mọi sự hay
trật tự của tự nhiên. Từ này đóng một vai trò quan trọng trong mọi huyền thoại
của Vệ - đà và liên hệ với mọi thần thánh của Vệ - đà. Các nhà đạo sĩ Vệ - đà
không xem trật tự của tự nhiên là một qui luật tĩnh tại của Thượng đế bày ra mà
là một nguyên lý động nằm sẵn trong vũ trụ. Ý niệm này cũng là khái niệm đạo của
Trung Quốc, xem nó là các thể vận hành của vũ trụ, là trật tự của vũ trụ. Như
các nhà thấu hiểu Vệ - đà, các chân nhân Trung quốc xem thế giới là dòng chảy
và sự biến dịch và vì vậy mà gẵn cho hình dung về vũ trụ một khái niệm động.
Hai khái niệm Rita và Đạo về sau được mang từ bình diện vũ trụ đưa xuống cho
con người và sau đó mang một khái niệm đạo lý; Rita là qui luật vũ trụ mà trời,
người đều phải tuân thủ, và Đạo là đường đi đúng đắn phải theo.
Khái niệm Vệ - đà Rita dung
chứa luôn Karma (Nghiệp), về sau nghiệp mới trở thành ý niệm để bày tỏ tính tác
động qua lại giữa sự vật và biến cố. Từ Nghiệp có nghĩa là hành động và diễn tả
sự quan hệ động giữa các hiện tượng. Trong chí tôn ca (Bhagavad-Gita) ta đọc: tất
cả hành động xảy ra trong thời gian thông qua sự nối kết lẫn nhau của các năng
lực tự nhiên. Đức Phật là từ bỏ khái niệm truyền thống của nghiệp và cho nó một
ý nghĩa mới, trong đó Ngài mở rộng ra xem nó là mối liên hệ động lực trong bình
diện con người. Do đó mà về sau nghiệp là chuỗi xích vô tận giữa nguyên nhân và
kết quả trong đời con người, và cùng chuỗi xích đó bị Phật phá vỡ bằng cách đạt
tới tình trạng của sự giác ngộ.
Ấn Độ giáo cũng tìm ra nhiều
cách để trình bày tính chất động của vũ trụ trong ngôn ngữ huyền thoại. Trong
Chí tôn ca, Krishna, hiện thân của thần Vishnu, nói: Nếu ta không hành động,
thì những thế giới này sẽ suy tận, và Shiva, vũ công vũ trụ có lẽ là sự hiện
thân hoàn toàn nhất của vũ trụ đang vận hành. Nhờ sự nhảy múa của mình mà Shiva
giữ được tính muôn vẻ của hiện tượng trong thế gian, Ngài thống nhất mọi sự bằng
cách đưa chúng vào nhịp điệu của mình và cho chúng cùng nhảy múa - một hình ảnh
vĩ đại về tính nhất thể đầy động lực của vũ trụ.
Ấn Độ giáo nhìn vũ trụ như một
sinh cơ, đang lớn dần và vận hành tuần hoàn có nhịp điệu, trong đó mọi thứ đều
trôi chảy và tất cả những dạng hình tĩnh tại đều là Maya (ảo giác), có nghĩa là
chúng chỉ tồn tại trong cái nhìn huyễn giác. Ý niệm cuối cùng này - tính vô thường
của mọi sự - cũng là điểm xuất phát của đạo Phật. Đức Phật cho rằng mọi pháp hữu
vi đều vô thường và mọi Khổ trên thế gian đều xuất phát từ sự bám giữ nơi sắc
thể - nơi sự vật, con người hay ý niệm - thay vì chấp nhận một thế giới đang vận
hành và thay đổi. Thế nên thế giới động cũng là gốc rễ của giáo pháp Phật giáo.
Sau đây là lời của Radhakrishnan:
Một triết lý động tuyệt diệu
được Phật phát biểu cách đây 2500 năm… Cảm xúc trước sự vật đang chuyển hóa, biến
đổi và phối hợp không lúc nào dừng, Phật nói về một triết íy vô thường. Ngài
xem vật thể, âm thanh, hạt, chất liệu trở thành lực, vận hành, hệ quả và tiến
trình và thừa nhận một thực tại động.
Phật giáo gọi thế giới của sự
đổi thay liên tục này là Ta - bà, nguyên nghĩa lang thang, trôi nổi và nói rõ rằng
trong đó không có gì đáng để bám giữ cả. Đối với người theo Phật giáo thì người
đạt đạo là người không chống lại dòng chảy của cuộc sống mà cùng vận động theo
nó. Khi thiền sư Vân Môn được hỏi: Đạo là gì, ông đáp Cứ đi. Cũng thế mà Phật tử
gọi đức Phật là Như Lai, có nghĩa là người đã đến như thế. Trong triết học
Trung quốc, thực tại cứ đổi thay liên tục này được gọi là Đạo và là tiến trình
của vũ trụ, trong đó mọi vật đều tham gia. Cũng như Phật giáo, Lão giáo cho rằng
ta không nên cưỡng lại dòng chảy mà cần phải thích nghi với nó. Lại một lần nữa
đây là đặc trưng của thánh nhân, của người giác ngộ. Nếu Phật là người đến như
thế thì thánh nhân đạo Lão là người thuận lẽ trời và nói như Hoài Nam Tử
là theo dòng đạo.
Càng học hỏi kinh sách tôn
giáo và triết lý của Ấn Độ giáo, Phật giáo và Lão giáo, người ta càng rõ họ nhận
thức tự thân thế giới là vận động, trôi chảy và biến dịch. Tấm lưới vũ trụ đang
sống, đang vận hành, đang lớn lên, đang thay đổi.
Cũng thế, nền vật lý hiện đại
cũng nhìn vũ trụ như một tấm lưới đầy mối liên hệ và nhận thức cũng như đạo học
phương Đông, rằng thể nội tại của nó là động. Thuyết lượng tử cho thấy khía cạnh
động của vật chất trong thể tính sóng của các hạt hạ nguyên tử. Khía cạnh này,
như ta sẽ thấy, sẽ trở nên quan trọng hơn trong thuyết tương đối, trong đó sự
thống nhất không gian và thời gian chứng minh sự hiện hữu của vật chất không thể
tách rời ra khỏi hoạt động của nó.
Theo thuyết lượng tử thì hạt
cũng vừa là sóng và từ đó mà có nó một tính chất kỳ lạ. Khi một hạt bị giam giữ
trong một không gian nhỏ thì nó phản ứng lại sự hạn chế này bằng sự vận động.
Không gian càng nhỏ thì hạt càng quay nhanh. Tính chất này là một hiệu ứng lượng
tử đặc biệt và không hề có sự tương tự trong vũ trụ vĩ mô. Muốn hiểu rõ hơn hiệu
ứng này, ta hãy nhớ rằng, trong thuyết lượng tử, hạt được biểu thị bởi một bó
sóng, độ dài của bó sóng đó là độ bất định vị trí của hạt. Như hình dưới đây
cho thấy, hạt nằm đâu đó trong khoảng X, ta không biết chắc chắn. Nếu muốn siết
hạt này, ta ép X phải nhỏ hơn. Thế nhưng điều này sẽ làm độ dài sóng ngắn lại
và vận tốc hạt tăng lên. Ta có thể hình dung khá rõ, hạt càng bị giam giữ, nó
càng vận động mãnh liệt.
Khuynh hướng dùng vận động để
phản ứng lại sự hạn chế làm ta nghĩ đến vật chất hẳn phải có một sự bất an cơ bản,
nó là đặc trưng trong thế giới hạ nguyên tử. Trong thế giới này thì phần lớn
các hạt vật chất đều mang cơ cấu phân tử, nguyên tử hay hạt và vì thế mà không
đứng yên, mà theo tính chất nội tại của nó là vận động không ngừng.
Theo thuyết lượng tử, vật chất
luôn luôn ở dạng vận động. Trong thế giới vĩ mô, sự vật xung quanh chúng ta xuất
hiện một cách thụ động và vắng mặt sự sống, nhưng nếu chúng ta phóng lớn lên một
hòn đá hay miếng kim loại chết đó thì ta sẽ thấy trong đó đầy những hoạt động.
Càng nhìn sát nó, nó xuất hiện càng sống động. Tất cả mọi vật xung quanh ta đều
gồm những nguyên tử, chúng liên hệ với nhau bằng nhiều cách khác nhau và tạo thành
muôn ngàn dạng khác nhau của phân tử, chúng rung động theo nhiệt độ của chúng,
cùng hoà nhịp với nhiệt độ xung quanh. Trong những nguyên tử đang rung động đó
thì các electron bị điện lực trì kéo vào nhân và chúng phản ứng chống lại sự tù
hãm đó bằng cách quay tròn thật nhanh.
Sau đó trong bản thân các nhân, các proton và neutron bị trói chặt trong một không gian cực nhỏ, chúng đua nhau chạy với một vận tốc không tưởng tượng nổi.
Sau đó trong bản thân các nhân, các proton và neutron bị trói chặt trong một không gian cực nhỏ, chúng đua nhau chạy với một vận tốc không tưởng tượng nổi.
Một đoạn văn của Lão giáo
nói lên sự thăng bằng trong vận động này như sau:
An bằng trong tĩnh tại không
phải là sự an bằng đích thực. Chỉ khi có sự an bằng trong vận động thì nhịp điệu
tâm linh mới sinh thành, nhịp điệu đó thâm nhập cả trời đất.
Trong vật lý, ta nhận thức
tính động của vũ trụ không những trong kích thước vĩ mô-thế giới của nguyên tử
và nhân nguyên tử-mà trong kích thước lớn, của thiên thể và thiên hà. Nhờ những
viễn vọng kính lớn ta quan sát được một vũ trụ đang vận hành không nghỉ. Những
đám mây khinh khí quay vòng, kéo lại với nhau và hình thành thiên thể. Qua đó
chúng nóng lên và biến thành lửa cháy rực trong bầu trời. Khi đã đạt giai đoạn
này rồi, chúng vẫn còn quay và có thiên thể bắn tạt các khối lượng vật chất ra
ngoài. Những khối này bị bắn ra xa, mới đầu quay theo dạng trôn ốc và cứng dần
thành các hành tinh chạy vòng theo các vì sao. Sau hàng triệu năm khi phần lớn
khí đốt đã hết, các thiên thể phình ra và cuối cùng co lại trong sự sụp đổ trọng
trường. Sự sụp đổ này có thể kéo theo nhiều vụ nổ khủng khiếp và có thể biến
thiên thể thành lỗ đen. Tất cả những biến cố này-sự hình thành các vì sao từ những
đám mây, sự co lại, sự phình ra và cuối cùng là sự sụp đổ-tất cả đều có thể
quan sát được thật sự trong bầu trời.
Những vì sao quay vòng, co lại,
phình ra và bùng nổ đó biến thành thiên hà với những dạng khác nhau, dạng đĩa mỏng,
dạng hình cầu, hình xoáy trôn ốc v.v… Rồi bản thân chúng cũng không phải bất động,
mà lại quay tròn. Thiên hà của chúng ta, dãy Ngân hà, là một đĩa vĩ đại gồm
thiên thể và khí, nó quay trong không gian như một bánh xe khổng lồ; thế nên tất
cả những vì sao của nó-kể cả mặt trời và hành tinh-quay quanh trung tâm của
ngân hà. Vũ trụ gồm toàn cả những ngân hà, chúng nằm rải rác trong không gian
thấy được và cũng quay vòng như ngân hà của chúng ta. Khi tìm hiểu vũ trụ với
hàng triệu ngân hà như toàn thể cấu trúc của nó, chúng ta đã đạt đến mức xa nhất
của không gian và thời gian. Và cả trên bình diện này của vũ trụ, ta phát hiện
rằng vũ trụ không hề tĩnh tại, nó đang giãn nở ! Đó là một trong những khám phá
quan trọng nhất của ngành thiên văn hiện đại. Một sự phân tích chi tiết ánh
sáng mà ta nhận được từ những thiên hà xa cho thấy rằng toàn bộ những thiên hà
đang bành trướng. Vận tốc mà một thiên hà rời xa chúng ta là tỉ lệ với khoảng
cách của chúng đến chúng ta. Chúng càng xa ta thì chúng càng chạy nhanh. Khoảng
cách gấp đôi thì vận tốc cũng gấp đôi. Điều này không những chỉ có giá trị khi
lấy thiên hà của ta làm gốc, mà cũng như thế với bất cứ điểm gốc nào. Nghĩa là
dù đang ở bất kỳ trong thiên hà nào, chúng ta sẽ thấy các thiên hà khác ngày
càng đi xa, các thiên hà gần thì với vận tốc vài ngàn ki - lô - mét mỗi giây;
các nhóm xa hơn thì vận tốc lớn hơn và vận tốc của các thiên hà xa nhất tiến gần
tới vận tốc ánh sáng. ánh sáng của các thiên hà xa nữa thì không bao giờ tới với
ta vì chúng bỏ đi xa nhanh hơn cả vận tốc ánh sáng. Anh sáng của chúng, nói như
Sir Arthur Stanley Eddington, như một lực sĩ chạy trên một đường băng ngày
càng dài ra, điểm đích chạy xa ra, nhanh hơn cả vận tốc của anh ta.
Khi nói về một vũ trụ giãn nở
trong khung cảnh của thuyết tương đối tổng quát, ta phải nói sự giãn nở trong một
kích thước cao hơn. Ta chỉ có thể hình dung một khái niệm như thế, như khi nói
về không gian cong với sự tương tự hai chiều.
Muốn thế ta hãy tưởng tượng
một quả bóng với nhiều chấm trên bề mặt. Quả bóng là tượng trưng cho vũ trụ, mặt
cong hai chiều của nó giả dụ cho không gian cong ba chiều và những chấm đen là
các thiên hà trong không gian đó. Khi quả bóng bị bơm phình ra thì những khoảng
cách giữa các chấm cũng lớn hơn. Dù ta lấy chấm nào làm chỗ đứng, ta cũng thấy
mọi chấm khác đều xa dần mình. Vũ trụ cũng giãn nở theo cách đó, dù quan sát
viên có mặt trên bất kỳ thiên hà nào, tất cả những thiên hà còn lại đều xa dần
người đó.
Câu hỏi dễ đặt ra về việc vũ
trụ giãn nở là tất cả mọi sự đó bắt đầu như thế nào? Từ mối liên hệ giữa khoảng
cách của một thiên hà với ta và tốc độ đi xa của nó (định luật Hubble) ta có thể
tính thời điểm lúc bắt đầu bùng nổ, nói cách khác tính được tuổi thọ của vũ trụ.
Cứ thừa nhận rằng vận tốc bùng nổ đó không thay đổi (đó là điều không hề chắc
chắn) thì người ta tính ra một số tuổi vũ trụ khoảng chừng 10.000 triệu năm. Phần
lớn các nhà vũ trụ học ngày nay tin rằng, vũ trụ phát sinh cách đây khoảng
10.000 triệu năm thông qua một biến cố vĩ đại, khi toàn bộ khối lượng của nó
phát nổ từ một trái cầu lửa nguyên thủy. Sự giãn nở ngày nay của vũ trụ được
xem là sức đẩy còn sót lại của một vụ nổ ban đầu. Theo mô hình vụ nổ ban đầu
này thì thời điểm phát nổ là ngày sinh của vũ trụ và của không gian thời gian.
Nếu muốn biết trước đó là gì, ta sẽ va vào ngay cái khó khăn về tư duy và ngôn
ngữ. Sir Bernard Lowell nói:
Đó là nơi mà ta sẽ gặp giới
hạn về tư tưởng, vì ta cứ tiếp tục sử dụng các khái niệm không gian-thời gian,
tại lúc chúng chưa xuất hiện trong đời sống hàng ngày. Đối với tôi, hầu như tôi
lạc vào một vùng đầy sương mù, thế giới quen thuộc đã biến mất.
Về tương lai của vũ trụ giãn
nở, những phương trình của Einstein cũng không cho lời giải rõ ràng. Chúng chấp
nhận nhiều lời giải khác nhau, tùy theo những mô hình khác nhau về vũ trụ. Vài
mô hình tiên đoán rằng, vũ trụ cứ giãn nở mãi, theo mô hình khác thì nó cứ chậm
lại và sẽ quay ngược, co rút lại. Những mô hình này xem vũ trụ có tính chu kỳ,
cứ trương nở vài tỉ năm, rồi co lại cho đến khi toàn bộ khối lượng chỉ còn một
khối vật chất nhỏ rồi sau đó lại giãn nở, cứ thế bất tận.
Hình dung về một vũ trụ giãn
nở và co rút tuần hoàn trong một tầm cỡ không gian và thời gian khủng khiếp
không chỉ có trong vũ trụ hiện đại, mà còn hiện diện trong huyền thoại cổ Ấn Độ.
Với sự chứng nghiệm vũ trụ như một thể sinh cơ và vận động tuần hoàn, trong Ấn
Độ giáo phát sinh một quan niệm vũ trụ sống, nó rất gần với các mô hình khoa học
hiện đại. Một trong những vũ trụ luận này đặt nền tảng trên huyền thoại “Lila”,
trò chơi của thiên nhân, trong đó Brahman tự biến mình thành thế giới. Lila là
một trò chơi có nhịp điệu kéo dài tuần hoàn vô tận, cái Một biến thành cái Nhiều
và cái Nhiều trở thành cái Một. Trong Chí tôn ca (Bhagavad Gita) thần Krishna
mô tả trò chơi sáng tạo tuần hoàn này bằng những lời:
Cuối thời kỳ tăm tối thì mọi
sự lại trở về với tự tính của ta; và khi thời kỳ mới bắt đầu, ta đem chúng ra
ánh sáng.
Thế nên ta dùng tự tính của
mình mà sáng tạo ra mọi thứ và những thứ này lăn theo bánh xe của thời gian. Thế
nhưng ta không bị ràng buộc vào công trình sáng tạo to lớn này. Ta là ta và ta
nhìn tác phẩm vui buồn diễn ra.
Ta ngắm nhìn và tromg tác phẩm
sáng tạo đó, tự tính sản sinh tất cả, những gì vận động, những gì nằm yên; và cứ
thế mà thế giới vận động tuần hoàn.
Ấn Độ giáo nhận trò chơi tuần
hoàn thần thánh này là sự phát triển của toàn vũ trụ. Họ xem vũ trụ giãn nở và
co rút tuần hoàn và đặt tên cho thời gian không tưởng tượng nổi giữa lúc bắt đầu
và chấm dứt một sự sáng tạo là thời kiếp. Kích thước huyền thoại cổ xưa thật
đáng kinh ngạc, còn tư duy con người cần hơn hai ngàn năm để tới với một tư tưởng
tương tự như huyền thoại đó.
Từ thế giới cực lớn, từ vũ
trụ đang giãn nở, hãy trở lại thế giới cực nhỏ. Đặc trưng của vật lý thế kỷ 20
là đi ngày càng sâu vào một thế giới của kính hiển vi, của nguyên tử, của hạt
nhân và các hạt tạo thành nhân. Sự tìm hiểu thế giới vi mô này được thúc đẩy bởi
một câu hỏi căn bản đã làm loài người trăn trở từ xưa: vật chất được cấu tạo
như thế nào? Kể từ ngày đầu của triết lý về tự nhiên, con người đã nghĩ ngợi về
câu hỏi này và cố tìm ra một chất liệu căn bản, chất liệu xây dựng mọi vật chất,
nhưng chỉ trong thế kỷ này ta mới có thể đi tìm câu trả lời bằng phương pháp thực
nghiệm. Nhờ kỹ thuật phức tạp mà nhà vật lý bước đầu tìm hiểu được cấu trúc của
nguyên tử và nhận ra rằng, nó gồm có nhân và electron. Sau đó người ta ghi nhận
nhân gồm có những hạt nucleon, đó là proton và neutron. Trong hai thập niên vừa
qua người ta đi thêm một bước và bắt đầu tìm hiểu cấu trúc của nucleon, thành
phần của nhân nguyên tử, chúng xem ra không phải là nững hạt cuối cùng mà lại
là từ những đơn vị khác cấu thành.
Bước đầu tìm hiểu nguyên tử
đã dẫn đến những thay đổi căn bản về cách nhìn của ta về vật chất, chúng đã được
nói trong chương trước. Bước thứ hai, bước đi sâu vào nhân nguyên tử và thành
phần của nó, kéo theo một sự thay đổi không kém phần quan trọng. Trong thế giới
hạt nhân này ta phải đo lường những loại kích thước nguyên tử và những hạt
trong nhân này, vì bị giam trong không gian quá bé, cũng vận động với vận tốc
nhanh đến nỗi chỉ có thể dùng thuyết tương đối đặc biệt để mô tả chúng. Tính chất
và tương tác của hạt hạ nguyên tử chỉ có thể dùng thuyết lượng tử và thuyết
tương đối mà nắm được chúng, và những điều này buộc chúng ta có một sự thay đổi
về quan niệm vật chất là gì.
Điều đặc trưng của thuyết
tương đối là nó thống nhất những khái niệm căn bản mà ngày trước chúng hoàn
toàn độc lập với nhau. Một trong những thí dụ quan trọng nhất là coi khối lượng
và năng lượng như nhau, điều này được phát biểu bằng công thức toán học nổi tiếng
của Einstein E=mc2. Và muốn hiểu ý nghĩa sâu sắc của mối liên hệ này, trước hết
chúng ta phải xét ý nghĩa của năng lượng và khối lượng.
Năng lượng là một trong những
khái niệm quan trọng nhất để mô tả các hiện tượng tự nhiên. Như trong đời sống
hàng ngày ta nói, một vật thể chứa năng lượng khi nó có thể thực hiện một công.
Năng lượng này có thể xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Nó có thể là động năng, nhiệt
năng, thế năng, điện năng, năng lượng hóa học v.v…Mỗi dạng đó đều có thể dùng để
sinh công. Thí dụ người ta cho một viên đá có thế năng bằng cách nâng nó lên
cao. Khi thả nó từ trên cao xuống thì thế năng của nó biến thành động năng và
khi viên đá đến đất thì nó sinh công, thí dụ đập vỡ một vật gì đó. Một thí dụ
khác: điện năng và hóa năng có thể biến thành nhiệt năng để phục vụ đời sống
trong gia đình. Trong vật lý thì năng lượng luôn luôn được gắn liền với một tiến
trình nhất định, một dạng hoạt động nào đó và sự quan trọng căn bản là tổng số
năng lượng tham gia vào trong một tiến trình luôn luôn không đổi. Sự bảo toàn
năng lượng là một trong những qui luật căn bản quan trọng nhất của vật lý. Nó
có giá trị cho tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên được biết tới nay, người ta
chưa thấy qui luật này bị vi phạm bao giờ.
Khối lượng của một vật lại
là một thuộc tính để đo lường trọng lượng của nó, tức là sức hút của trọng lực
lên vật thể đó. Ngoài ra khối lượng cũng là quán tính của một vật, tức là sức đề
kháng của nó chống lại gia tốc. Vật thể càng nặng thì càng khó gia tốc nó hơn một
vật nhẹ, điều này ai cũng biết khi phải đẩy một chiếc xe. Trong vật lý cổ điển
thì khối lượng luôn luôn được gắn liền với một dạng vật chất không thể phá hủy,
tức là từ chất liệu mà người ta cho là nguồn gốc của mọi vật. Cũng như với năng
lượng, người ta cho rằng chất liệu này cũng được bảo toàn, một khối lượng không
bao giờ bị hủy diệt.
Bây giờ thuyết tương đối đã
chứng minh rằng, khối lượng không gì khác hơn là một dạng của năng lượng. Năng
lượng không những có thể mang nhiều dạng khác nhau như trong vật lý cổ điển đã
biết, mà còn được chứa trong khối lượng của một vật. Năng lượng chứa trong một
hạt, tích số của khối lượng hạt đó với bình phương vận tốc ánh sáng, tức là:
E=mc2
Nếu khối lượng được xem là dạng
năng lượng thì không những nó không thể phân hủy mà còn có thể được chuyển hóa
qua những dạng năng lượng khác. Điều này xảy ra khi các hạt hạ nguyên tử va chạm
nhau. Trong quá trình va chạm đó thì các hạt có thể bị tiêu hủy và năng lượng
chứa trong chúng sẽ biến thành động năng, động năng đó sẽ phân bố lên các hạt
khác tham dự trong cuộc va chạm. Ngược lại thì động năng của hạt di chuyển với
những vận tốc rất cao cũng có thể được dùng để hình thành khối lượng của những
hạt mới. Hình sau đây cho thấy một thí dụ rất lạ của một sự va chạm như vậy: một
photon (từ bên trái) đi vào một phòng quang phổ, bắn một electron ra khỏi một
nguyên tử (vết hình xoắn), va vào một photon khác và sinh ra mười sáu hạt mới
trong cuộc va chạm này.
Sự hình thành và phá hủy hạt
vật chất là một trong những hệ quả ấn tượng nhất của đẳng thức giữa khối lượng
và năng lượng. Trong các cuộc va chạm trong vật lý cao năng lượng thì khối lượng
không còn được bảo toàn. Các hạt va chạm nhau bị phá hủy, khối lượng của chúng
một phần biến thành khối lượng, phần khác biến thành động năng của các khối lượng
mới sinh ra. Chỉ tổng số tất cả năng lượng tham dự trong tiến trình đó, tức là
tổng số động năng cộng với năng lượng nằm trong dạng khối lượng, tổng số đó phải
được bảo toàn. Tiến trình va chạm các hạt hạ nguyên tử là công cụ quan trọng nhất
của ta để nghiên cứu tính chất của chúng, và mối liên hệ giữa khối lượng và
năng lượng là chủ yếu nhằm mô tả chúng. Mối liên hệ này đã được xác minh vô số
lần và nhà vật lý hạt nhân đã làm quen với tính tương đương giữa khối lượng -
năng lượng, đến nỗi họ đo khối lượng hạt nhân bằng đơn vị tương ứng của năng lượng.
Trong vật lý hiện đại, khối
lượng không còn có một chất liệu vật chất nữa và do đó mà người ta không còn
nghĩ hạt phải có một chất liệu căn bản nữa, mà nó là một chùm năng lượng. Thế
nhưng vì năng lượng luôn luôn liên hệ với hoạt động, với tiến trình nên hạt hạ
nguyên tử phải có một thuộc tính động. Như đã thấy, chúng không thể xem là những
vật thể ba chiều tĩnh như trái banh bi-da hay một hạt cát, mà chúng là một cấu
trúc bốn chiều không- thời gian. Dạng của chúng phải hiểu là động trong không
gian - thời gian. Hạt hạ nguyên tử là những cấu trúc động, nó có khía cạnh
không gian và khía cạnh thời gian. Khía cạnh không gian cho phép nó xuất hiện
như vật thể có khối lượng, khía cạnh thời gian của nó là tiến trình với năng lượng
tương ứng.
Cấu trúc động hay bó năng lượng
này tạo nên cơ cấu nhân, nguyên tử và phân tử ổn định, chúng xây dựng nên vật
chất và làm cho vật chất có dạng tưởng như nó gồm những chất liệu chắc thật.
Trên bình diện vĩ mô, khái niệm chắc thật đó là một sự gần đúng có ích, còn
trên bình diện nguyên tử thì nó hết giá trị. Nguyên tử gồm các hạt và những hạt
đó không được cấu thành từ một chất liệu vật chất nào cả. khi quan sát chúng,
ta không hề thấy chất liệu nào cả, điều mà ta thấy là những cấu trúc động,
chúng liên tục chuyển hóa lẫn nhau - một vũ điệu triền miên của vũ trụ.
Thuyết lượng tử cho thấy, hạt
không phải là những đơn vị độc lập mà là những cấu trúc xác suất liền lạc trong
một tấm lưới bất phân của vũ trụ. Còn thuyết tương đối phải nói là đã cho cấu
trúc đó sự sống, bằng cách vén màn cho thấy tính chất động của nó. Nó chứng tỏ
rằng chính hoạt động của vật chất là cái tự tính đích thực của sự hiện hữu của
nó. Các hạt của thế giới hạ nguyên tử không những là năng động vì chúng vận
hành nhanh chóng, mà cong vì bản thân chúng là những tiến trình! Sự hiện hữu của
vật chất và hoạt động của chúng không thể tách rời lẫn nhau. Chúng đều chỉ là
hai khía cạnh của một thể thực tại không gian - thời gian.
Trong những chương trước ta
đã nói, nhận thức về sự dung thông giữa không gian - thời gian đã đưa nền đạo học
phương Đông tới một thế giới quan động. Nghiên cứu kinh sách của họ, ta sẽ thấy
không những họ xem thế giới trong khái niệm động,của sự trôi chảy và biến dịch,
mà họ có một tri kiến trực giác về tính chất của không gian - thời gian của vật
thể vật chất; tri kiến đó cũng là đặc trưng của vật lý tương đối. Khi nghiên cứu
thế giới hạ nguyên tử, nhà vật lý phải thống nhất không gian - thời gian và từ
đó mà họ thấy vật thể của thế giới này, hạt không phải tĩnh tại mà năng động,
xem chúng là năng lượng, hoạt động và tiến trình. Các nhà đạo học phương Đông,
trong tình trạng ý thức phi thường của họ, đã biết về sự dung thông không gian
- thời gian trên một bình diện vĩ mô cũng như nhà vật lý nhìn hạt hạ nguyên tử.
Một trong những lời dạy chính yếu của Đức Phật là mọi pháp hữu vi đều vô thường.
Pháp là từ chỉ biến cố, hành động và sau đó mới nói sự thật. Qua đó ta thấy
thêm Phật giáo xem tiến trình vận động là chủ yếu của thế giới. Hãy nghe lời của
D.T.Suzuki:
Người theo Phật giáo quan niệm
sự vật là tiến trình, không phải là vật thể hay chất liệu…Khái niệm Phật giáo về
“sự vật” là samskara (hành), có nghĩa là “tạo tác” hay “tiên trình”, điều đó
nói rõ, Phật giáo hiểu kinh nghiệm của chúng ta chính là thời gian và sự vận
hành.
Cũng như nhà vật lý hiện đại,
Phật giáo xem mọi vật thể là những tiến trình trong một dòng chảy rộng khắp và
từ chối sự hiện hữu của một chất liệu vật chất. Điều đó ta cũng tìm thấy trong
tư tưởng Trung quốc, trong đó có một thế giới quan tương tự, xem sự vật là giai
đoạn quá độ trong sự trôi chảy miên viễn của đạo và họ quan tâm đến mối liên hệ
lẫn nhau giữa chúng hơn là tìm trong chúng một chất liệu cơ bản. Joseph Needham
viết: “Triết học phương Tây tìm thực tại nơi chất liệu, triết học phương Đông
tìm thực tại nơi mối liên hệ”.
Yếu tố cơ bản của vũ trụ
trong quan điểm vật lý hiện đại cũng như trong đạo học phương Đông là cấu trúc
động; là giai đoạn quá độ trong dòng chảy vĩnh viễn của thay đổi và biến dịch (Trang
Tử).
Theo mức hiểu biết hiện nay
thì cơ cấu cơ bản của vật chất là những hạt hạ nguyên tử và tìm hiểu tính chất
cũng như tương tác của chúng là mục đích chính yếu của ngành vật lý cơ bản.
Ngày nay chúng ta biết đến hơn hai trăm hạt cơ bản, phần lớn chúng là những hạt
được hình thành trong các cuộc thí nghiệm va chạm và chỉ có một thời gian sống
vô cùng ngắn, ít hơn cả một phần triệu giây đồng hồ! Rõ ràng là những hạt sống
hết sức non tuổi này chỉ nói lên cấu trúc chuyển tiếp của những tiến trình động.
Vì thế xuất hiện câu hỏi cơ bản sau đây về cấu trúc của những hạt đó: Đặc tính
của chúng là gì để có thể phân biệt hạt này hạt kia? Phải chăng chúng có những
thành phần nhỏ hơn, chúng bao gồm những cấu trúc gì? Chúng tác động lên nhau
như thế nào, có năng lực nào tác động giữa chúng? Và cuối cùng, nếu bản thân
chúng chỉ là tiến trình thì đó là tiến trình gì?
Chúng ta biết rõ tất cả những
câu hỏi trên nối kết với nhau không tách rời được trong nền vật lý hạt nhân. Vì
tính tương đối của các hạt hạ nguyên tử, chúng ta sẽ không hiểu tính chất của
chúng nếu không để ý tới mối liên hệ giữa chúng, và vì mối liên hệ cơ bản của
chúng, ta sẽ không hiểu một hạt nào nếu không hiểu những hạt khác. Những chương
sau đây sẽ chỉ rõ chúng ta đã hiểu hạt và mối liên hệ giữa các hạt tới đâu. Mặc
dù ta chưa có một lý thuyết hoàn chỉnh lượng tử - tương đối, thế nhưng vẫn có
nhiều lý thuyết và mô hình từng phần được đề ra, mô tả thành công vài khía cạnh
của thế giới này. Sự giải thích về những lý thuyết và mô hình này sẽ dẫn đến những
khái niệm triết học, chúng đặc biệt phù hợp với khái niệm của đạo học phương Đông.
Chương 14
KHÔNG VÀ SẮC
KHÔNG VÀ SẮC
Thế giới quan cơ giới cổ điển
đặt cơ sở trên khái niệm của những hạt cứng chắc, không thể vận động hoặc chỉ
có thể vận động trong chân không. Vật lý hiện đại đã mang lại cho hình ảnh này
một sự điều chỉnh triệt để. Không những nó nêu ra một khái niệm mới về hạt mà
nó còn chuyển hóa khái niệm cổ điển “ không” trống rỗng một cách sâu sắc. Sự biến
đổi này bắt đầu từ lý thuyết trường. Nó bắt đầu khi Einstein thiết lập mối quan
hệ giữa trường trọng lực và hình học không gian, và trở nên rõ nét khi người ta
phối hợp thuyết lượng tử với thuyết tương đối để mô tả các lực trường nằm quanh
các hạt hạ nguyên tử. Trong thuyết trường lượng tử này thì biên giới giữa hạt
và không gian bao quanh nó đã mất sự rõ nét ban đầu và không gian trống rỗng được
thừa nhận như một đại lượng động có vai trò vượt trội.
Khái niệm trường được
Faraday và Maxwell đề xuất vào thế kỷ 19 để mô tả các lực giữa các điện tích và
dòng điện. Một điện trường là một điều kiện của không gian xung quanh một vật
thể mang điện tích, điều kiện đó tạo ra một lực trong một vật thể có điện khác.
Như thế điện trường là được vật thể mang điện tích sản sinh và tác dụng của nó
chỉ được một vật mang điện khác nhận ra. Từ trường được sinh ra bởi sự vận động
của vật thể mang điện, tức là bởi dòng điện và lực từ tính của nó cũng chỉ được
nhận ra bởi các vật mang điện đang vận động. Trong khoa học điện từ cổ điển của
Faraday và Maxwell thì các trường là các đại lượng lý tính tự nó, nó có thể được
nghiên cứu mà không cần phải qui kết lên vật thể vật chất. Những trường điện và
từ rung động có thể chuyển động trong không gian dưới dạng sóng radio, sóng ánh
sáng và những tia bức xạ điện từ khác.
Thuyết tương đối ra đời và
cho ngành điện động một nét đẹp quí phái, bằng cách thống nhất các khái niệm điện
tích, dòng điện, điện trường và từ trường thành một mối. Vì tất cả vận động đều
tương đối, nên mỗi điện tích cũng là dòng điện- trong một hệ qui chiếu mà nó vận
động so với quan sát viên - và cũng thế mà điện trường của nó cũng là từ trường.
Trong sự phát biểu có tính tương đối của điện động thì hai trường này được thống
nhất vào một điện trường duy nhất.
Khái niệm trường không phải
chỉ áp dụng cho các lực điện từ mà còn trong trọng lực. Trường trọng lực được tất
cả các vật thể có khối lượng sinh ra và ghi nhận, và lực tương ứng luôn luôn là
lực hút; ngược lại với trường điện từ, tùy theo điện tích của vật thể mà sinh
ra lực hút hay đẩy. Lý thuyết đúng đắn về trường đối với các trường trọng lực
là thuyết tương đối tổng quát và trong lý thuyết này thì ảnh hưởng của một vật
thể mang khối lượng lan tỏa trong không gian, xa hơn ảnh hưởng của một vật thể
mang điện tích trong điện từ. Lại một lần nữa, không gian xung quanh một vật thể
bị điều kiện hóa, trong đó một vật thể bị một lực tác dụng, nhưng lần này thì
điều kiện đó ảnh hưởng lên hình học và cấu trúc của không gian.
Vật chất và không gian trống
rỗng - cái đầy và cái không - là hai khái niệm căn bản khác nhau, trên đó quan
niệm nguyên tử của Demokritus và Newton được xây dựng. Trong thuyết tương đối tổng
quát, hai khái niệm này không thể tách rời được nữa. Chỗ nào có khối lượng, chỗ
đó có trọng trường, và trường này biểu hiện ra bằng cách làm cong không gian bọc
quanh vật thể đó. Thế nhưng cần hiểu rõ rằng, không phải trường xâm nhập vào
không gian và làm cong nó, mà là hai cái chính là một, có nghĩa trường chính là
không gian cong. Trong thuyết tương đối tổng quát thì trọng trường và cấu trúc
hay hình thể không gian chính là một với nhau. Chúng được diễn tả trong phương
trình trường của Einstein bằng một biểu thức toán học duy nhất. Theo thuyết của
Einstein thì không thể tách rời vật chất ra khỏi trọng trường, trọng trường ra
khỏi không gian cong. Vật chất và không gian như vậy là thành phần liên hệ với
nhau, không tách rời được của một cái nhất thể duy nhất.
Vật thể vật chất không những
xác định cấu trúc của không gian xung quanh, ngược lại nó cũng bị môi trường
quanh nó ảnh hưởng đáng kể. Theo nhà vật lý và triết gia Ernst Mach thì khối lượng,
quán tính của một vật thể không phải là tính chất tự thân của vật chất mà là đại
lượng biểu thị mối tương quan giữa nó và vũ trụ ngoài nó. Theo quan điểm của
Mach thì vật chất sở dĩ có quán tính chỉ vì trong vũ trụ có vật chất khác. Khi
một vật quay tròn thì quán tính của nó tạo ra một lực ly tâm (thí dụ máy giặt
quay tròn để vắt nước ra khỏi áo quần), nhưng lực này sinh ra, chỉ vì vật thể
vây quanh tương đối với các định tính. Giả định các vì sao này thình lình biến
mất thì lực quán tính lẫn lực ly tâm cũng mất theo.
Quan điểm này về lực quán
tính của vật thể mà ta gọi là nguyên lý Mach có một ảnh hưởng mạnh mẽ lên
Albert Einstein và đó là động lực đầu tiên làm ông xây dựng thuyết tương đối tổng
quát. Vì về mặt toán học, lý thuyết của Einstein hết sức phức tạp nên các nhà vật
lý đến nay vẫn chưa nhất trí được liệu nó thực sự bao gồm luôn cả nguyên lý
Mach hay không. Tuy thế, phần lớn các nhà vật lý cho rằng nguyên lý Mach phải
được chứa đựng trong một lý thuyết hoàn chỉnh về trọng trường.
Như thế nền vật lý hiện đại
lại cho ta thấy một lần nữa, và trong trường hợp này trên bình diện vĩ mô, rằng
vật thể vật thể vật chất không phải là một đơn vị độc lập, mà nó kết nối một
cách bất khả phân với vật thể xung quanh của nó; rằng tính chất của chúng chỉ
được hiểu trong mối liên hệ giữa nó và thế giới còn lại. Theo nguyên lý Mach
thì mối liên hệ này vươn xa trong vũ trụ, cho đến những vì sao xa xôi, những
đám mây quay hình trôn ốc. Tính chất nhất thể cơ bản của vũ trụ hiện hình không
những trong thế giới cực tiểu mà cả trong thế giới cực đại. Thực tế này luôn
luôn được thừa nhận trong ngành thiên văn và vũ trụ hiện đại, mà nhà thiên văn
Fred Hoyle xác nhận:
Ngày nay sự phát triển trong
vũ trụ học đã chứng tỏ một cách sắt đá rằng, những điều kiện hàng ngày không thể
tiếp tục tồn tại nếu không có những thành phần xa xôi của vũ trụ, rằng hình
dung của ta về không gian và hình thể sẽ không còn chút giá trị nào, nếu những
thành phần xa xôi của vũ trụ biến mất. Những kinh nghiệm hàng ngày của chúng
ta, cho đến những chi tiết nhỏ nhặt nhất, dường như chúng tổng hòa trong vũ trụ
một cách chặt chẽ hầu như tới mức không thể xét chúng một cách riêng lẻ được.
Sự thống nhất và mối quan hệ
giữa vật thể và môi trường quanh nó, đều đã hiện rõ trong kích thước vĩ mô
trong thuyết tương đối tổng quát, điều đó còn nổi bật hơn nữa trong phạm vi hạ
nguyên tử.
Nơi đây người ta phối hợp
hai hình dung của lý thuyết trường cổ điển và của thuyết lượng tử để mô tả sự
tương tác giữa các hạt. Vì dạng toán học phức tạp của thuyết trọng trường của
Einstein, người ta chưa phối hợp được tác động của trọng lực, nhưng các lý thuyết
trường cổ điển khác, động điện học, đã được hòa lẫn với thuyết lượng tử để sinh
ra động điện lượng tử, nó mô tả mọi tác động điện từ qua lại của hạt hạ nguyên
tử. Lý thuyết này bao gồm cả thuyết lượng tử và thuyết tương đối. Đó là mô hình
đầu tiên của lượng tử-tương đối của ngành vật lý hiện đại và cũng là mô hình
thành công nhất.
Tính chất nổi bật của ngành
động điện lượng tử được sinh ra từ sự phối hợp của hai khái niệm: khái niệm của
điện từ trường và khái niệm photon, xem như khía cạnh hạt của sóng điện từ.Vì
photon cũng là sóng điện từ và sóng này là trường đang rung động, nên photon là
hiện thân của trường điện từ. Vì thế mà sinh ra khái niệm truờng lượng tử, tức
là một trường mà ở đó, nó có thể xuất hiện ở dạng của lượng tử hay hạt. Đây quả
thật là một khái niệm hoàn toàn mới, nó được mở rộng để mô tả mọi hạt hạ nguyên
tử và tương tác của chúng. Cứ mỗi hạt ta có một trường riêng. Trong lý thuyết
trường lượng tử này thì có mối đối nghịch cổ điển giữa hạt cứng chắc và không
gian xung quanh nó, mối đối nghịch này hoàn toàn đã bị vượt qua. Trường lượng tử
được xem chính là đơn vị vật lý cơ bản, đó là một thể liên tục, hiện khắp nơi
trong không gian; hạt chỉ là chỗ tập trung địa phương của trường, một nơi hội tụ
của năng lượng, năng lượng đến rồi đi, vì thế mà hạt không mang đặc tính riêng
biệt nào, và hòa vào trường cơ bản của mình. Albert Einstein nói:
Vì thế ta có thể xem vật chất
là khu vực của không gian, nơi đó hết sức dày khít lại với nhau… trong nền vật
lý này thì không có chỗ cho cả hai, trương và vật chất, vì chỉ trường mới là thực
tại duy nhất .
Hình dung này về vật chất và
hiện tượng, xem chúng là hiện thân vô thường của một đơn vị cơ bản, cũng là thế
giới quan phương Đông. Cũng như Einstein, các nhà đạo học phương Đông xem đơn vị
cơ bản đó là thực tại duy nhất; trong lúc tất cả mọi dạng xuất hiện của nó đều
tạm thời và là ảo ảnh. Thực tại này của đạo học phương Đông không thể xem là một
với trường lượng tử của nhà vật lý được, vì họ xem nó là thể tính của tất cả mọi
hiện tượng thế giới và vì vậy nằm ngoài mọi khái niệm và hình dung. Ngược lại
trường lượng tử là một khái niệm có thể định nghĩa, nó chỉ sản sinh một phần của
hiện tượng vật lý thôi. Tuy thế trực giác của nhà đạo học phương Đông, người
cũng lý giải mọi hiện tượng của thế giới giác quan xuất phát từ một thực tại cuối
cùng, cũng cho thấy lý giải của nhà vật lý về thế giới hạ nguyên tử trên cơ sở
trường lượng tử, hai nhận định đó rất gần nhau. Sau khi khái niệm trường được
sinh ra, các nhà vật lý cố công tìm cách thống nhất mọi trường khác nhau vào
trong một trường cơ bản duy nhất, trường đó bao gồm tất cả mọi hiện tượng vật
lý. Đặc biệt trong những năm cuối cùng của đời mình, Einstein đã ra sức đi tìm
một trường thống nhất đó. Cái Brahman của Ấn Độ giáo, cũng như Pháp thân trong
Phật giáo hay Đạo trong Lão giáo có lẽ được xem là trường thống nhất, chung quyết,
trong đó không chỉ các hiện tượng vật lý được sản sinh mà tất cả các hiện tượng
khác cũng thế.
Theo quan điểm phương Đông
thì thực tại làm nền tảng cho mọi hiện tượng nằm ngoài mọi sắc hình, không thể
mô tả hay định nghĩa. Thường người ta nói nó vô sắc hay trống rỗng. Nhưng sự trống
rỗng này không được hiểu là không có gì. Ngược lại nó là tự tính của tất cả mọi
sắc hình và suối nguồn tất cả đời sống, như các bài thuyết giảng
Với từ không chỉ thực tại
cao nhất, Phật giáo cũng có hình dung như vậy và nói về một tính không sinh động,
từ đó mà phát sinh mọi hiện tượng thế gian. Lão giáo cũng thấy trong Đạo một sự
sáng tạo vô tận như thế cũng gọi nó là trống không. Tuân Tử nói “Đạo của trời
là trống rỗng và vô sắc”, và Lão Tử dùng nhiều hình tượng để giảng giải cái trống
không đó. Ngài thường ví Đạo như hang sâu, như bình trống, nhờ thế mà dung chứa
vô tận sự vật.
Mặc dù dùng từ “Không”, các
nhà đạo học phương Đông chỉ rõ, khi nói Brahman, Không hay Đạo, họ không hề nói
đến cái “không” thông thường, mà ngược lại, tính Không với khả năng sáng tạo vô
tận. Thế nên Không của đạo học phương Đông dễ dàng được so sánh với trường lượng
tử của vật lý hạ nguyên tử. Cũng như trường lượng tử, Không có thể sản sinh
thiên hình vạn trạng sắc thể, Không giữ vững chúng và có khi thu hồi chúng lại.
Trong các bài thuyết giảng (Upanishad) ta nghe:
Trong tĩnh lặng, hãy cầu
khẩn Nó,
Nó là tất cả, suối nguồn
xuất phát,
Nó là tất cả, nơi chốn
trở về,
Nó là tất cả, trong đó
ta thở.
Mọi dạng hình của tính Không
huyền bí đó cũng như các hạt nhân, chúng không tĩnh lặng và bền vững, mà luôn
luôn động và biến dịch; chúng sinh thành và hoại diệt trong một trò nhảy múa
không nghỉ của vận hành và năng lượng. Cũng như thế giới hạ nguyên tử của nhà vật
lý, thế giới sắc thể của đạo học phương Đông là một thế giới của lang thang
luân hồi, gồm liên tục những sống chết nối tiếp nhau. Là sắc thể vô thường của
Không, sự vật của thế gian này không hề có tự tính căn bản gì cả. Điều này được
nêu rõ đặc biệt trong triết lý Phật giáo, lý thuyết này phủ nhận sự hiện hữu của
một chất liệu vật chất; và nhấn mạnh rằng, hình dung về một cái Ta (ngã) bất biến,
cái ta đó là kẻ thu lượm những kinh nghiệm khác nhau, hình dung đó chỉ là ảo
giác. Phật giáo hay so sánh ảo giác về một tự thể vật chất và một cái ngã cá thể
như những đợt sóng, trong dó sự vận động lên xuống của những hạt nước làm ta
nghĩ rằng có một khối nước di chuyển trên bề mặt, đi từ chỗ này đến chỗ kia. Thật
thú vị khi thấy rằng nhà vật lý cũng dùng ẩn dụ tương tự để nói về ảo giác tưởng
rằng có một chất liệu do hạt di chuyển sinh ra. Hermann Weyl viết như sau:
Theo lý thuyết trường của vật
chất thì một hạt khối lượng - như một electron chẳng hạn - chỉ là một phạm vi
nhỏ của điện trường, trong đó đại lượng trường mang một trị số cực cao, xem như
năng lượng rất lớn của trường tập trung vào một không gian rất nhỏ. Một điểm
nút năng luợng như thế, nó không hề tách biệt với trường bọc xung quanh, lan rộng
ra ngoài xuyên qua không gian trống rỗng cũng như một đợt sóng lan ra trên mặt
hồ. Cho nên cái tưởng như là chất liệu duy nhất mà electron luôn luôn được cấu
tạo nên, cái đó không hề có.
Trong triết học Trung quốc,
ý niệm về trường không những được hàm chứa trong Không và vô sắc mà cả trong
khái niệm Khí . Khái niệm này đóng một vai trò quan trọng trong từng trường
phái của khoa học tự nhiên Trung quốc và trong trường phái Tân Khổng
giáo.
Khí có nguyên nghĩa là hơi
hay ête, vào thời cổ đại Trung quốc nó có nghĩa là hơi thở hay năng lực sống động
của vũ trụ. Trong thân người, khí mạch là cơ sở của nền y học Trung quốc. Mục
đích của phép châm cứu là k?ch th?ch dòng chảy của khí thông qua những huyệt đạo
đó. Dòng chảy của khí cũng là cơ sở của phép vận động Thái cực quyền, của phép
múa quyền đạo sĩ.
Phái Tân Khổng giáo phát triển
một hình dung về Khí, hình dung đó có một sự tương tự nổi bật với khái niệm trường
lượng tử, khí được xem như một thể mỏng nhẹ, không nhận biết được, nó tràn ngập
khắp không gian và kết tụ lại với nhau thành vật thể vật chất. Trương Tái viết
như sau:
Khi khí ngưng tụ thì nó thấy
được, khi đó nó có dạng hình của vật thể riêng lẻ. Khi nó loãng đi, mắt không
thấy được nó , và nó không có hình dạng. Khi nó ngưng tụ lại, người ta còn có
thể nói gì khác ngoài việc cho đó chỉ là sự tạm thời? Và khi nó tan rã, liệu ta
có thể vội nói rằng, nó không có?
Khí ngưng tụ và loãng ra như
thế một cách tuần hoàn và hình thành ở tất cả các trạng thái, trạng thái đó có
khi lại tan biến trong Không. Trương Tái viết tiếp:
Không to lớn chỉ có thể do
khí mà thành; khí này phải tụ lại để sinh thành vật thể; và vật thể này lại hoại
diệt để sinh thành không to lớn.
Như trong lý thuyết trường
lượng tử thì trường - hay Khí - không phải chỉ là tự tính của mọi vật thể vật
chất, mà trường cũng là nơi mang truyền mọi liên hệ hỗ tương, thông qua dạng
sóng. Sự mô tả sau đây về khái niệm trường của vật lý hiện đại của Walter
Thirring và quan điểm Trung quốc về thế giới vật lý của Joseph Needham cho thấy
sự giống nhau rõ rệt:
Nền vật lý lý thuyết hiện đại…đã
hướng suy nghĩ của ta về tự tính của vật chất theo một hướng khác. Nó đã đưa
cái nhìn từ vật thấy được - các hạt - đến với cái nằm đằng sau, đến trường. Sự
hiện hữu của hạt chỉ là một sự nhiễu loạn tình trạng hoàn toàn cân bằng của trường
tại chỗ đó, một thứ ngẫu hứng, thậm chí ta có thể gọi nó là một “ ô nhiễm”. Thế
nên không thể có những qui luật đơn giản để mô tả các lực giữa các hạt… Điều cần
tìm là trật tự và đối xứng trong trường làm cơ sở cho chúng.
Trong thời Cổ đại và thời
Trung cổ thì vũ trụ vật lý Trung quốc là một thể thống nhất, toàn hảo, liên tục.
Lúc đó thì Khí ngưng tụ thành vật chất sờ được vẫn chưa mang ý nghĩa nào về hạt,
thế nhưng các vật thể riêng lẻ tác động và phản ứng với mọi vật thể khác trong
thế giới thông qua dạng sóng hay dao động, dạng đó đều phụ thuộc vào sự biến
dích tuần hoàn của hai lực cơ bản âm dương trên mọi mức độ. Thế nên các vật
riêng lẻ hòa nhập trong sự hòa điệu chung của thế giới.
Với khái niệm trường lượng tử,
nên vật lý hiện đại tìm ra được một câu trả lời bất ngờ cho câu hỏi xưa nay là,
liệu vật chất do những hạt nguyên tử bất phân cấu thành hay từ một thể lên tục
sinh ra. Trường là một thể có mặt cùng lúc khắp nơi trong không gian, thế nhưng
ở khía cạnh hạt của nó có một cơ cấu hạt phi liên tục. Hai khái niệm tưởng chừng
như mâu thuẫn đó được thống nhất với nhau và được xem như hai khía cạnh của một
thực tại duy nhất. Như mọi lần khác trong thuyết tương đối, sự thống nhất này
cũng thực hiện theo cách động: hai khía này của vật chất chuyển hóa lẫn nhau
liên tục không nghỉ. Nhà đạo học phương Đông nhấn mạnh đến tính nhất thể động
giữa Không và Sắc, Sắc do Không tạo ra. Lama Govinda nói:
Mối liên hệ giữa Sắc và
Không không thể được xem là hai tình trạng loại bỏ lẫn nhau, mà chỉ là hai khía
cạnh của một thực tại duy nhất, nó cùng hiện hữu và liên tục kết nối với nhau.
Sự trộn lẫn những khái niệm
đối nghịch này trong một cái nhất thể được một kinh sách Phật giáo diễn tả
trong những câu nổi tiếng:
Sắc chính là Không, Không
chính là Sắc. Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc. Cái gì là Sắc, cái đó
là Không. Cái gì là Không, cái đó là Sắc.
Lý thuyết trường của vật lý
hiện đại không những đem lại một cách nhìn mới về hạt hạ nguyên tử, nó còn thay
đổi một cách quyết định hình dung của chúng ta về các lực giữa các hạt đó. Khái
niệm trường vốn liên hệ với khái niệm lực và cả trong thuyết trường lượng tử
thì khái niệm đó vẫn còn liên quan đến lực giữa các hạt. Thí dụ trường điện từ
có thể xem như trường tự do, chứa sóng hay photon đang di động hay nó cũng có
thể được quan niệm như một trường đầy những lực giữa các hạt mang điện tích.
Trong cách nhìn thứ hai thì lực hiện thân thành những hạt photon chạy giữa hạt
mang điện tích. Thí dụ sự đẩy nhau giữa electron cũng có thể xem được gây ra bởi
sự trao đổi photon.
Quan niệm mới mẻ này về lực
xem ra khó hiểu, nhưng nó sẽ rõ hơn nếu sự trao đổi một photon được trình bày
trong biểu đồ không gian -thời gian. Biểu đồ trang sau vẽ hai electron đang tiến
gần nhau. Một trong hai điện tử đó phóng thích tại A một photon (mang biểu tượng
g), electron kia hấp thụ photon tại B. Khi phóng thích photon thì electron đầu
tiên đổi hướng đi và thay đổi vận tốc(xem hướng và độ nghiêng của vạch vũ trụ
trong biểu đồ), electron thứ hai cũng phản ứng tương tự khi hấp thụ. Cuối cùng
hai electron bay ra xa, chúng đã thông qua sự trao đổi photon mà đẩy lẫn nhau.
Sự tương tác trọn vẹn giữa
electron gồm một loạt những trao đổi giữa các photon và do đó mà ta thấy dường
như chúng tránh nhau qua một đường cong linh động.
Trong vật lý cổ điển người
ta sẽ nói các electron đã sinh ra một lực đẩy lẫn nhau. Bây giờ, ta thấy rằng
cách nói đó chỉ là một sự mô tả mơ hồ. Không electron nào cảm thấy một lực đẩy
mình đi cả, khi chúng tiến gần với nhau.
Chúng chỉ tác động thông qua
sự trao đổi photon. Lực không khác gì hơn là tổng số của những tác dụng trao đổi
photon này trên mặt vĩ mô. Vì thế mà khái niệm lực không còn được sử dụng trong
vật lý hạ nguyên tử nữa. Đó là một khái niệm cổ điển mà ta ( dù có khi vô thức)
luôn liên hệ với hình dung của Newton về lực, thứ lực tác động xuyên qua một
khoảng cách xa. Trong thế giới hạ nguyên tử không có thứ lực đó mà chỉ là tương
tác giữa các hạt, sinh ra bởi trường, tức là thông qua những hạt khác. Do đó mà
nhà vật lý hay nói tương tác, chứ không nói lực.
Theo lý thuyết trường lượng
tử thì tất cả tương tác được sinh ra vì có sự trao đổi hạt. Trong trường hợp
trường điện tử thì hạt đó là photon; còn các nucleon thì tác động thông qua một
lực mạnh hơn nhiều, lực hạt nhân hay tương tác mạnh nó được sinh ra bởi sự trao
đổi của một hạt loại mới, có tên là menson. Có nhiều loại menson khác nhau,
chúng được trao đổi giữa proton và neutron. Các nucleon càng tiến gần nhau thì
menson càng xuất hiện nhiều, càng nặng, vì thế dễ trao đổi. Như thế, sự tương tác
giữa nucleon được gắn chặt với sự trao đổi menson,và bản thân menson có bị trao
đổi cũng thông qua việc trao đổi với những hạt khác. Vì lý do đó mà ta sẽ không
hiểu gì về lực hạt nhân nếu không hiểu toàn bộ các hạt hạ nguyên tử.
Trong lý thuyết trường lượng
tử thì tất cả tương tác giữa hạt được biểu diễn trong biểu đồ không gian - thời
gian và mỗi biểu đồ được gắn liền với một công thức toán học, công thức đó phát
biểu độ xác suất xảy ra của một tiến trình. Mối liên hệ chính xác giữa biểu đồ
và công thức toán học được Richard Feyman đề xuất năm 1949 và kể từ đó ta gọi
những biểu đồ này là biểu đồ Feyman. Một tính chất then chốt của thuyết này là
sự tạo thành và phân hủy của hạt. Thí dụ photon trong trường hợp trên được
phóng thích ra tại A (tạo thành) và bị hấp thụ tại B (phân hủy). Một tiến trình
như thế chỉ được hiểu trong thuyết tương đối, nơi đó hạt không còn la vật thể
không thể phân hủy nữa mà là được quan niệm như một cấu trúc động chứa năng luợng,
năng lượng đó có thể phân bố cách khác khi cấu trúc mới xuất hiện.
Sự sinh ra một hạt khối lượng
chỉ có thể xảy ra khi năng lượng liên quan với nó được sẵn sàng và đầy đủ, thí
dụ như trong một tiến trình va chạm. Trong trường hợp của tương tác mạnh, thí dụ
hai nucleon tác động lên nhau trong nhân nguyên tử, thì năng lượng này thường
không sẵn có. Do đó, trường hợp này thì lẽ ra sự trao đổi giữa các menson mang
khối lượng (vì khối lượng cần mang năng lượng cao) không thể xảy ra. Thế nhưng
nó lại xảy ra. Thí dụ hai proton có thể trao đổi nhau một pi-menson (hay pion),
mà khối lượng của pion bằng khoảng một phần bảy của khối lượng proton.
Tại sao tiến trình vẫn có thể
xảy ra mặc dù năng lượng để sinh ra một menson rõ ràng không đủ? Đó là nhờ hiệu
ứng lượng tủ, hiệu ứng này liên hệ chặt chẽ với nguyên lý bất định. Các tiến
trình hạt vốn diễn ra ngắn ngủi, nhanh chóng, chúng có một tính chất bất định về
năng lượng. Sự trao đổi menson, tức là hình thành và tiêu hủy menson, là một tiến
trình của loại bất định này. Chúng diễn ra quá ngắn ngủi và nhờ sự bất định này
mà năng lượng lại trở nên đầy đủ để sinh sản menson. Những menson này được gọi
là hạt giả. Nó khác với những menson thật (real) được sinh ra trong quá trình
va chạm, vì những hạt giả này chỉ hiện hữu trong khoảng thời gian mà nguyên lý
bất định cho phép. Menson càng nặng (tức càng cần nhiều năng lượng để sinh ra)
thì càng ít thời gian được dành cho chúng để trao đổi. Đó là lý do tại sao các
nucleon chỉ có thể trao đổi các menson nặng khi chúng thật sát gần nhau. Ngược
lại, sự trao đổi các photon giả có thể thực hiện trong khoảng cách bất kỳ vì những
photon phi khối lượng có thể tạo thành từ những đại lượng có năng lượng nhỏ mấy
cũng được. Phép phân tích này về các lực điện từ và lực hạt nhân đã giúp Hideki
Yukawa năm 1935, không những tiên đoán sự hiện hữu của các pion mười hai năm
trước khi người ta phát hiện ra chúng, mà còn dự đoán cả khối lượng của chúng
chỉ nhờ vào biên độ của các lực trong nhân.
Thế nên, trong lý thuyết trường
lượng tử, tất cả các tương tác đều được lý giải bằng sự trao đổi của các hạt giả.
Tương tác càng lớn, tức là lực giữa các hạt càng lớn, thì xác suất của một tiến
trình trao đổi đó càng lớn, tức là các hạt giả trao đổi với nhau càng nhiều.
Hơn thế nữa, vai trò của các hạt giả không chỉ dừng lại ở tương tác. Thí dụ, một
nucleon tự nó một mình có thể phóng thích một hạt giả ra rồi sau đó hấp thụ lại.
Giả định rằng một menson được hình thành rồi được phân hủy trong khoảng thời
gian mà nguyên lý ats định cho phép thì không có gì ngăn cấm một tiến trình như
vậy xảy ra. Trong trường hợp đó thì biểu đồ Feyman của neutron, nó phóng thích
ra pion rồi lại hấp thụ nó, được vẽ như dưới đây.
Xác suất của một tương
tác tự thân như thế là rất lớn đối với các nucleon, vì tầm tương tác mạnh
của chúng. Điều đó có nghĩa là trong thực tế các nucleon luôn luôn phun hạt giả
ra và nuốt chúng trở lại. Theo lý thuyết trường, người ta phải xem nó như tâm
điểm của một hoạt động liên tục, được bọc xung quanh bởi một đám mây chỉ toàn hạt
giả. Các hạt menson giả phải biến mất rất sớm sau khi được tạo thành, vì thế
chúng không thể rời nucleon đi đâu xa được. Thế nên đám mây menson cũng phải rất
nhỏ. Vùng biên của chúng chứa đầy menson hạng nhẹ (thường là pion), các menson
hạng nặng nằm ở phần trong của đám mây, vì chúng lại bị hấp thụ sau một thời
gian ngắn hơn.
Mỗi nucleon được một đám mây
của menson giả bọc quanh, các menson giả đó có đời sống hết sức ngắn ngủi.
Trong một số điều kiện đặc biệt thì menson giả có thể biến thành menson thật.
Khi nucleon bị một hạt khác có vận tốc cao va chạm thì một phần của động năng hạt
đó có thể truyền lên một menson giả và giải thoát nó ra khỏi đám mây. Với cách
thế này mà menson được sinh ra thật trong các va chạm cao năng lượng. Mặt khác
khi hai nucleon tiến gần nhau đến mức mà đám mây của chúng hoà lên nhau thì có
thể vài hạt giả, thay vì trở về nơi sinh của chúng là nucleon mẹ, nhảy qua
nucleon kia và bị cái kia hấp thụ. Đó chính là tiến trình trao đổi, chúng diễn
tả tương tác mạnh.
Hình ảnh này chỉ rõ, tương
tác giữa các hạt, tức các lực giữa chúng, như thế đã được qui định bởi thành phần
của các đám mây giả. Cự ly của tương tác, tức là khoảng cách giữa hai hạt mà
tác động đó bắt đầu có hiệu quả, tùy thuộc vào kích thước của đám mây giả và dạng
cụ thể của sự tác động cũng dựa trên tính chất của các hạt trong đám mây. Thế
nên các lực điện từ là do sự hiện diện của các photon giả trong hạt có điện
tích mà thành, trong lúc sự tương tác mạnh của các nucleon là do sự hiện diện của
các pion và các menson khác trong các nucleon mà thành. Trong lý thuyết trường
thì lực giữa các hạt trở thành tính chất nội tại của các hạt. Lực và vật chất,
hai khái niệm mà trong quan điểm nguyên tử của Hy Lạp và của Newton bị tách rời
nghiêm nhặt, theo cách nhìn ngày nay, chúng có một nguồn gốc chung trong những
cấu trúc động mà ta gọi là hạt.
Cách nhìn đó về lực cũng là
đặc trưng của đạo học phương Đông, họ nhìn vận hành và biến dịch là tự tính nội
tại của mọi vật. Trương Tái nói về trời “Tất cả vật quay tròn, chúng đều có lực
tự nhiên nội tại, sự vận hành của chúng không phải từ bên ngoài tác động vào”
và trong Kinh Dịch ta đọc thấy “Nguyên lý của tự nhiên không xem lực nằm ngoài
vật, mà chúng biểu hiện sự hòa hợp của sự vận động nội tại của chúng”.
Cách mô tả cổ đại này của
Trung quốc, xem lực là đại biểu cho sự hòa hợp của vận hành nội tại trong sự vật
hiện ra dưới ánh sáng của lý thuyết trường lượng tử rất phù hợp, trong đó lực
giữa các hạt được xem là sự phát biểu của những cơ cấu động (đám mây giả), những
đám mây này là tính chất nội tại của hạt.
Lý thuyết trường của vật lý
hiện đại đòi hỏi ta phải từ bỏ sự phân biệt cổ điển giữa hạt mang khối lượng và
không gian trống rỗng. Thuyết trọng trường của Einstein và thuyết lượng tử cả
hai đều cho thấy, hạt không thể tách rời khỏi không gian chung quanh. Một mặt
chính nó quyết định cấu trúc của không gian đó, mặt khác không thể xem nó là một
đơn vị độc lập, mà là sự kết tụ của một trường liên tục, hiện diện khắp nơi
trong không gian. Trong thuyết trường lượng tử thì trường này là nguồn gốc của
mọi hạt và tương tác giữa các hạt với nhau.
Trường luôn luôn hiện diện,
cùng khắp; không có gì hủy diệt được nó, nó là chất liệu của mọi tiến trình vật
chất. Nó là cái “không”, từ đó mà photon đã sản sinh ra những p-menson (pion).
Hạt sinh ra hay phân hủy chỉ là những dạng vận động của trường.
Cuối cùng sự phân biệt giữa
vật chất và không gian trống rỗng phải hoàn toàn được từ bỏ, khi ta phát hiện rằng
những hạt giả có thể từ Không tự nhiên sinh ra và lại hoại diệt trong. Không mà
không hề cần có sự hiện diện của bất kỳ một nucleon nào hay một loại hạt nào của
tương tác mạnh. Biểu đồ chân không sau đây trình bày một tiến trình như thế: ba
hạt - một proton (p), một đối hạt antiproton (`p) và một pion (p) - được sinh
ra từ chân không và phân hủy lại trong chân không. Theo thuyết trường lượng tử
thì tiến trình như thế xảy ra liên tục. Chân không không hề trống rỗng. Ngược lại
nó chứa vô lượng các hạt, chúng sinh thành và phân huỷ vô tận.
Ở đây, vật lý hiện đại có sự
tương đồng sát sao nhất với khái niệm Không của đạo học phương Đông. Như Tính
Không của phương Đông, chân không vật lý - được gọi như thế trong lý thuyết trường
- không phải là một tình trạng không có gì mà hàm chứa khả năng của tất cả mọi
dạng hình của thế giơí hạt. Những dạng này không phải là những đơn vị vật lý độc
lập, mà là những dạng xuất hiện tạm thời của cái Không cơ bản đó. Như Kinh nói:
“Sắc chính là Không, Không chính là Sắc”.
Mối liên hệ giữa các hạt giả
và chân không tự nó cũng là một mối liên hệ động. Chân không thực tế là một
“Không sinh động”, nó cũng thở trong một nhịp điệu vô tận của sinh thành và
phân hủy. Nhiều nhà vật lý cho rằng sự phát hiện tính động của chân không là một
trong những khám phá quan trọng nhất của vật lý hiện đại. Từ vai trò chỉ là cái
bình trống rỗng của các hiện tượng vật lý, chân không đã trở nên một đại lượng
động với ý nghĩa quan trọng nhất. Kết quả của vật lý hiện đại dường như đã xác
định lời nói của nhà đạo học Trung quốc Trương Tái:
Khi đã rõ, cái Không to lớn
chứa đầy Khí,
Thì ai nấy đều biết, không
có cái “không có gì”.
Fritjof Capra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét