Không-thời gian 4 chiều, một sáng tạo văn học kỳ diệu
Rõ ràng bất kỳ vật thể nào trong thực tế cũng phải
có 4 chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao, và chiều thời gian.
Nhưng do những hạn chế tự nhiên về mặt tâm lý của con người, chúng ta
thường không nhận ra điều đó. Thực ra có 4 chiều, trong đó 3 chiều
ứng với 3 mặt phẳng không gian, và chiều thứ tư là thời gian. Tuy
nhiên, người ta thường có xu hướng phân biệt một cách phi thực tế 3
chiều không gian với chiều thời gian, ấy là vì ý thức của chúng ta
di chuyển theo một chiều nhất định dọc theo trục thời gian, bắt đầu
từ lúc sinh ra đến lúc từ giã cõi đời này.
Ngày 20-7-1969, ngay sau khi rời con tầu Apollo 11 để đặt
bước chân đầu tiên lên mặt trăng, Neil Amstrong đã gửi một bản thông điệp
bất hủ về trái đất: “Đây là bước đi ngắn của một con người, nhưng là
bước đi dài của nhân loại”.
Trong tâm trạng xốn xang khó tả khi được nghe tin thời sự
đó, tôi, khi ấy đang là giảng viên tại một trường cao đẳng, có cảm tưởng như
con tầu Apollo 11 chính là viên đạn lớn mang theo người bay tới mặt
trăng, được bắn ra từ chiếc nòng dài ngoẵng của khẩu đại bác khổng
lồ trong tác phẩm “Từ trái đất lên mặt trăng” của Jules Verne hơn 100
năm trước. Tôi lẩm bẩm: “Phải chăng văn học nghệ thuật, với đôi cánh
kỳ diệu của trí tưởng tượng lãng mạn, đã đi trước khoa học một bước,
và trong nhiều trường hợp có thể đã là nguồn gợi ý bất tận cho các
phát minh của khoa học?”.
Ba chục năm sau, trong một dịp tình cờ chuyện trò tào
lao với một người bạn Úc gốc Ý, một người rất háo chuyện phiêu lưu, ông
Sergio Severino, tôi đã đem ý nghĩ của vài chục năm trước ra dàn trải với
ông. Không ngờ ông hưởng ứng mạnh mẽ, và ngay hôm sau mang tặng tôi cuốn
tiểu thuyết khoa học viễn tưởng “The Time Machine” (Chiếc máy thời gian)
của Herbert George Wells, xuất bản năm 1895, kể lại cuộc phiêu lưu tới
một tương lai “xa tít mù tắp” – năm 802701 – của một nhân vật được gọi
là Lữ khách xuyên Thời gian (The Time Traveller)!.
Cuốn sách rất mỏng, nhưng chỉ mới đọc lướt qua vài trang
là tôi đã bị choáng ngay tức khắc. Đó không chỉ là một câu chuyện
phiêu lưu ly kỳ hấp dẫn đầy chất nhân văn, mà còn là một bằng chứng
hết sức bất ngờ của một sáng tạo văn học kỳ diệu: Không-thời gian 4
chiều!
Vâng, đúng như thế đấy. Từ xưa đến nay chúng ta thường
nghĩ rằng không-thời gian 4 chiều là sản phẩm độc đáo của một bộ óc
thiên tài duy nhất: Albert Einstein [1]. Đó là cơ sở của Thuyết Tương Đối Tổng Quát, một
trong các phát minh vĩ đại nhất của loài người. Nhưng “Chiếc máy thời
gian” là bằng chứng khẳng định chính H.G.Wells mới là người đầu tiên
nêu lên tư tưởng kỳ lạ đó – tư tưởng về không-thời-gian 4 chiều! Nhận định
này có thể quá lạ lẫm và “nghịch nhĩ” đối với nhiều người, nhưng đó là một nhận
định nghiêm túc dựa trên giấy trắng mực đen – những gì chúng ta có thể đọc được
trong tác phẩm “Chiếc máy thời gian” của George Wells, xuất bản từ năm 1895!
Gấp cuốn sách lại, tôi có cảm giác bất mãn : Tại
sao trong tất cả các sách báo nói về Einstein và Thuyết Tương Đối
không hề thấy ai nhắc đến Wells? Đó là điều bất công! Cần phải “trả
lại Cesear cái của Cesear”! Đó không chỉ là một mong muốn làm vinh
danh cá nhân Wells, một vinh danh xứng đáng, mà là để vinh danh trí tưởng
tượng lãng mạn – ngọn nguồn của mọi sáng tạo, từ sáng tạo văn học
nghệ thuật đến sáng tạo khoa học!
1. Không-thời gian 4 chiều Einstein:
Trong hàng nghìn lời ca ngợi Einstein, có lẽ lời ngợi ca
của Charlie Chaplin là thú vị nhất. Chuyện kể rằng một hôm Einstein xem
phim Charlot, ông cảm động đến nỗi sau đó viết thư ngay cho Chaplin: “Ông
là một người vĩ đại vì đã làm cho mọi người hiểu rõ thân phận con
người qua những trận cười rơi nước mắt”. Chaplin cũng viết ngay thư trả
lời: “Ông cũng là một người vĩ đại vì đã sáng tạo ra những điều
không ai hiểu nổi”. Thật tuyệt vời chuyện của những người vĩ đại.
Chỉ trong một câu ngắn ngủi, Chaplin đã dựng nên một bức chân dung
Einstein cực kỳ chính xác, hơn bất kỳ bức chân dung nào do các hoạ sĩ dựng nên.
Nói gì đến thời đại của Chaplin, ngay hiện nay cũng vẫn có nhiều người lấy
làm khó hiểu, thậm chí không sao hiểu được, trước những hệ luận của Thuyết tương
đối. Chẳng hạn, giáo sư toán học kiêm thiên văn học John Barrow tại Đại học
Sussex ở Anh phải kêu lên trong cuốn “Bất khả” (Impossibility) của ông rằng
khái niệm “thời gian cong” (một hệ quả của Thuyết tương đối tổng quát) là một
khái niệm không thể nào hình dung bằng trực giác được. Quả thật, làm thế
nào để cảm thụ khái niệm thời gian cong? Chắc chắn điều đó không thể có trong
trực giác của bất kỳ ai, mà chỉ có thể nẩy sinh trong tư duy của các nhà thông
thái như một hệ luận suy diễn.
Hệ luận ấy xuất phát từ Thuyết Tương đối Tổng quát của
Einstein, công bố năm 1916, trong đó lần đầu tiên khoa học coi thời gian cũng
như không gian đều là những biểu lộ của vật chất! Không có không gian trống
rỗng, và cũng không có thời gian hư vô. Không gian và thời gian là những
đặc trưng không thể tách rời của vật chất, chúng là những biểu lộ
của một thể thống nhất được gọi là không-thời gian 4 chiều, trong đó
có 3 chiều không gian và 1 chiều thời gian. Mặc dù tên gọi 3 chiều đầu
tiên và chiều thứ tư khác nhau, nhưng tư cách toán học của chúng hoàn
toàn bình đẳng. Việc gọi tên khác nhau thực ra chỉ là sản phẩm của tâm lý
con người. Thời gian cũng như mỗi chiều không gian đều là một chiều của không
gian toán học 4 chiều. Do đó hệ quả tất yếu là điều gì có thể xẩy ra
với 3 chiều không gian thì cũng có thể xẩy ra với chiều thời gian. Theo
Thuyết Tương đối Tổng quát, không gian bị cong dưới tác dụng của lực hấp
dẫn tại những vùng có mật độ vật chất lớn, chẳng hạn tại khu vực
gần mặt trời hay các ngôi sao. Nếu vậy thời gian cũng sẽ bị cong! Đến
đây có thể thấy khái niệm không-thời gian 4 chiều đóng vai trò nền tảng
như thế nào. Nếu không coi không gian và thời gian là vật chất và bình
đẳng trong việc tuân thủ các quy luật tương tác vật chất thì làm sao
có thể nói chúng sẽ bị cong dưới tác dụng của lực? Nhưng liệu
không-thời gian có bị cong thật sự hay không?
Thí nghiệm nổi tiếng của Arthur Eddington năm 1919 đo độ
lệch của ánh sáng một ngôi sao khi nó đi ngang qua gần mặt trời đã xác
nhận hoàn toàn tiên đoán của Einstein. Từ đó đến nay người ta đã làm
lại thí nghiệm này nhiều lần với những dụng cụ ngày càng tinh vi hơn,
kết quả càng về sau càng gần với tính toán lý thuyết của Einstein hơn,
đến nỗi người ta cho rằng kết quả tính toán lý thuyết của Einstein mới là chính
xác. Thật là phi thường!
Lịch sử viết rằng Einstein đã thừa hưởng không gian
toán học đa tạp phi-Euclid nhiều chiều của Bernhard Riemann để áp dụng
vào không gian vật lý của ông. Nói cách khác, Einstein sử dụng cấu
trúc toán học của Riemann, còn nội dung vật lý là hoàn toàn của bản
thân ông: Không gian vật lý 4 chiều là sản phẩm sáng tạo vĩ đại của
riêng bộ óc Einstein chứ không thể là của ai khác, vì thế không-thời
gian 4 chiều còn được gọi là không gian Einstein. Sáng tạo này là một
cuộc cách mạng vĩ đại của nhận thức, lật nhào quan điểm của vật lý
cổ điển Newton cho rằng không gian là một “cái túi trống rỗng” chứa đựng
vật chất trong đó, và thời gian là một “dòng chảy” vô hình, phi vật chất,
độc lập với vật chất, khách quan vô tư với vật chất, trôi đều đặn từ
quá khứ đến tương lai. Điều khác biệt làm cho Einstein trở nên bất tử
không phải là ở trình độ toán học cao cấp hoặc các tính toán thiên
tài (như thí nghiệm trên đã mô tả), mà là ở những tư tưởng mới lạ
chưa từng có của ông dựa trên cái khung không-thời gian 4 chiều. Nhưng
thực ra…
2- Wells đã đi trước Einstein 21 năm:
Thưa bạn đọc, các bạn có thể sẽ bị choáng giống như
tôi khi được biết rằng hầu như nguyên văn tư tưởng không-thời gian 4 chiều
của Einstein đã được Wells đề cập đến một cách rõ ràng từ 21 năm trước!
Đây, hãy xem anh chàng Lữ khách xuyên Thời gian hùng hồn thuyết giảng với
bạn bè để giải thích vì sao anh ta ham mê nghiên cứu chế tạo chiếc máy
thời gian [2]:
– Xin quý vị chú ý lắng nghe. Tôi sẽ xét lại
một hoặc hai quan điểm đã được mọi người thừa nhận. Chẳng hạn môn
hình học mà người ta đã dạy cho quý vị ở nhà trường, thật ra đã
dựa trên một nền tảng sai lầm. Có phải người ta đã dạy quý vị rằng
một đường thẳng toán học là một đường chỉ có chiều dài mà không
có chiều rộng, chiều dầy? Vậy làm gì có một đường như thế trong
thực tế. Cả mặt phẳng toán học nữa cũng làm gì có. Tất cả những
khái niệm này đều chỉ là sự trừu tượng hoá mà thôi. Vậy xin hỏi:
Liệu có thể có một hình khối chỉ có chiều dài, chiều rộng và
chiều cao được không? Liệu có thể có một hình khối chỉ tồn tại
trong một khoảnh khắc tức thời được không? Liệu có thể có một hình
khối không tồn tại trong bất kỳ khoảnh khắc nào hay không?
Có nghĩa là không thể có một sự vật nào tồn tại độc lập với
thời gian –thời gian phải gắn liền với sự vật, thời gian là một đặc trưng không
thể tách rời sự vật! Lập luận thật tuyệt vời ! Có lẽ các nhà toán học
và vật lý ngày nay đọc đoạn này cũng phải giật mình vì mức độ sâu
sắc của Wells. Đó là sự phê phán môn toán học siêu hình tách rời các
đối tượng hình học ra khỏi thực tế và tách rời các vật thể ra khỏi
thời gian, để khẳng định rằng trong thực tế mọi vật thể luôn luôn tồn
tại cùng với thời gian. Nói cách khác, hình học và thời gian gắn
chặt với vật chất và là những đặc trưng không thể tách rời khỏi vật
chất. Hình học + Thời gian = Vật chất. Đó chính là nền tảng tư tưởng
của Thuyết Tương đối Tổng quát.
Tiếp theo, diễn thuyết của chàng Lữ khách có thể làm cho
chúng ta kinh ngạc vì tưởng như chính Einstein đang nói :
– Rõ ràng bất kỳ vật thể nào trong thực tế
cũng phải có 4 chiều: chiều dài, chiều rộng, chiều cao, và chiều
thời gian (duration – sự trôi của thời gian). Nhưng do những hạn chế tự
nhiên về mặt tâm lý của con người, điều mà lát nữa tôi sẽ giải
thích với quý vị, chúng ta thường không nhận ra điều đó. Thực ra có
4 chiều, trong đó 3 chiều ứng với 3 mặt phẳng không gian, và chiều
thứ tư là thời gian. Tuy nhiên, người ta thường có xu hướng phân biệt
một cách phi thực tế 3 chiều không gian với chiều thời gian, ấy là
vì ý thức của chúng ta di chuyển theo một chiều nhất định dọc theo
trục thời gian bắt đầu từ lúc sinh ra đến lúc từ giã cõi đời này.
Vào thời điểm cuối thế kỷ 19, tư tưởng nói trên của Wells có
lẽ đã đi trước thời đại quá xa! Bản thân Wells dường như đã ý thức được sự
cô đơn của mình (tâm trạng thường gặp ở các nhà văn, nghệ sĩ, nhà tư
tưởng khám phá ra những điều không biết chia sẻ cùng ai). Thật vậy,
chàng Lữ khách tỏ ra ngạc nhiên không hiểu vì sao “thiên hạ” không ai
nhận ra cái không-thời gian 4 chiều đó, trong khi đối với chàng thì điều
đó có vẻ như hiển nhiên rõ ràng như ban ngày:
– Thật là hết sức kỳ lạ rằng tại sao mọi người
lại bỏ qua không để ý đến điều đó. Thực sự đây chính là cái mà tôi
ngụ ý là chiều thứ tư, mặc dù một số người khác cũng nói đến
chiều thứ tư nhưng họ lại chẳng biết rằng đang nói về cái gì [3]. Thật ra đó chỉ là một cách khác để xem xét thời
gian mà thôi. Chẳng hề có sự khác biệt nào giữa thời gian với bất
cứ một chiều nào của không gian, ngoại trừ ý thức của chúng ta cũng
di chuyển dọc theo nó…
Với tuyên bố nói trên, lẽ ra ngay từ năm 1895 Sở cấp bằng
sáng chế phát minh ở Anh hay ở đâu đó trên thế giới đã phải cấp cho George
Wells “bản quyền sáng tác” ra tư tưởng “ảo ảnh thời gian” (time illusion) – tư
tưởng cho rằng chẳng hề có cái gọi là quá khứ và tương lai, những khái niệm này
chỉ là ảo ảnh tâm lý, vì tâm lý bị trói buộc và di chuyển theo chiều thứ tư của
Không-thời gian 4 chiều!
Sau George Wells, các nhà khoa học sâu sắc nhất cũng thể hiện
những quan điểm tương tự. Albert Einstein nói: “Những người như chúng tôi, những
người tin vào vật lý, biết rằng sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai chỉ là một ảo ảnh dai dẳng không thể thay đổi được”[4]. Stephen Hawking, trong cuốn “Lược sử Thời gian”[5] , cũng đề cập tới sự di chuyển của ý thức dọc theo
trục thời gian khi ông nói về thời gian tâm lý, thời gian nhiệt động
học. Julian Barbour, trong cuốn “Sự cáo chung của Thời gian”[6], nói: “Thời gian thật ra chỉ là một ảo ảnh. Thời gian
không tồn tại. Vũ trụ là phi thời gian (universe is timeless)”. Vật
lý hiện đại có niềm tin mạnh mẽ vào tư tưởng ảo ảnh thời gian đến mức đã và
đang nghĩ đến khả năng thiết kế những cỗ máy du lịch xuyên thời gian (time
travel), đúng như “Chiếc máy thời gian” mà Wells đã tưởng tượng.
Một mô hình của Chiếc máy thời gian
Đến đây không thể không thừa nhận rằng văn học đã đi trước
khoa học: Wells đã đi trước Einstein và hậu thế của Einstein. Tuy nhiên, nếu
nhìn ngược lịch sử về thời đại 2500 năm trước, ta không thể không kinh ngạc khi
thấy Phật giáo từ lâu đã nói với các đệ tử của mình rằng thời gian thực ra chỉ
là một ảo ảnh. Nhưng chúng ta không có tài liệu nào để biết liệu Wells có chịu ảnh
hưởng của Phật giáo hay không, và các nhà khoa học sau này có chịu ảnh hưởng của
Wells hay không. Vậy hãy đặt ra một số câu hỏi nghi vấn.
3- Vài nghi vấn:
Một: Phải chăng đã có một sự trùng lặp ngẫu
nhiên trong tư tưởng của Wells và Einstein ? Thiết nghĩ xác xuất để điều
này xẩy ra rất thấp. Thật vậy, Einstein một lần tâm sự: “Sau khi tôi
phát minh ra Thuyết Tương đối Hẹp, tôi có cảm giác nếu tôi không nghĩ
ra thì có lẽ vài năm sau sẽ có một người khác nghĩ ra, như Poincaré
hoặc Lorentz chẳng hạn [7]. Nhưng sau khi tôi phát minh ra Thuyết Tương đối Tổng
quát, nhiều lần tôi băn khoăn tự hỏi nếu tôi không nghĩ ra thì không
biết đến lúc nào loài người mới nghĩ ra”. Vì thế khả năng để hai bộ
óc có suy nghĩ trùng lặp về một phát kiến quá khác thường như
không-thời gian 4 chiều là điều hầu như không thể có.
Hai: Vậy phải chăng Einstein đã có lần đọc “Chiếc
máy thời gian” và chịu ảnh hưởng tư tưởng không-thời gian 4 chiều từ
đó ? Rất tiếc chúng ta không có bằng chứng cụ thể nào để khẳng định
điều này. Nhưng xin lưu ý rằng cuốn tiểu thuyết này khá nổi tiếng, nó
đã từng được xuất bản từng kỳ trên tạp chí New Review trước khi được
in thành sách năm 1895. Một người mê đọc sách báo và có óc tò mò
cao độ như Einstein khó có thể bỏ qua một cuốn tiểu thuyết như thế.
Ba: Liệu Wells có nghĩ rằng tư tưởng không-thời
gian 4 chiều trong Thuyết Tương đối Tổng quát chính là tư tưởng của
ông hay không? Nếu có, tại sao ông không lên tiếng? (Thuyết Tương đối Tổng
quát ra đời năm 1916, Wells mất năm 1946).
Ba nghi vấn trên là một khoảng tối trong lịch sử rất
đáng để cho các nhà nghiên cứu lịch sử danh nhân và lịch sử tư tưởng
khoa học làm sáng rõ. Nhưng dù sự thật ra sao đi chăng nữa, Wells vẫn xứng
đáng là đồng tác giả của không-thời gian 4 chiều! Phải chăng vì tác phẩm
của Wells chỉ là truyện khoa học viễn tưởng nên tư tưởng khoa học của ông trong
đó chưa thể coi là một tư tưởng khoa học được khẳng định nghiêm túc, và do đó
Wells không được đội lên đầu vòng nguyệt quế của nhà phát minh? Điều đó liệu có
công bằng không?
4- Kết:
Werner Heisenberg, tác giả của Nguyên Lý Bất Định nổi
tiếng, sau này kể lại rằng thời sinh viên, ông từng coi toán học là
cây gậy thần để mở tung mọi cánh cửa bí mật của thế giới. Nhưng chỉ
sau một lần gặp gỡ Niels Bohr, nhà vật lý Đan Mạch khổng lồ lúc đó,
chàng sinh viên trẻ mới vỡ nhẽ ra rằng không phải toán học, mà chính
tư tưởng mới là ánh sáng dẫn đường đi tới phát minh. Nhà toán học
và triết học Pháp Henri Bergson, cũng nói điều tương tự: “Chính trực
giác có sẵn ở nơi lương tri của bạn giúp bạn nhận thức được sự
thật chứ không phải hệ thống các lý thuyết uyên bác”.
Với cách nhìn đó, phải thấy Herbert George Wells là con người
có một trực giác thiên tài, một trí tưởng tượng siêu phàm, để nhận
ra thế giới vật chất là một thể thống nhất trong không-thời gian 4
chiều, điều mà 21 năm sau Albert Einstein mới chính thức biến thành một
lý thuyết cơ bản của khoa học.
Trí tưởng tượng của Wells không chịu dừng lại ở đó,
mà còn đi xa đến những “thế giới kỳ quái” hơn rất nhiều – thế giới được
mô tả trong “Nghịch lý Ông nội”[8], một nghịch lý nói lên cái phi lý của tư tưởng du hành xuyên
thời gian. Nhưng cái phi lý ấy lại trở thành hữu lý, nếu Lý thuyết vũ trụ quay
tròn (theory of rotating universe) của nhà toán học trứ danh Kurt Godel là
đúng đắn. Đến nay, vũ trụ của Godel vẫn được coi là một vũ trụ lý thuyết, vũ trụ
giả định (hypothetical universe), vì nó là một sản phẩm suy diễn thuần tuý lý
thuyết từ Thuyết Tương đối Tổng quát của Einstein. Mặc dù vậy, chưa ai dám bác
bỏ vũ trụ giả định này, vì nó hoàn toàn đúng về mặt toán học. Bản thân Einstein
thì cho rằng đó là một công trình có ý nghĩa nhất trong những công trình phát
triển Thuyết Tương đối Tổng quát của ông.
Câu hỏi về tính hiện thực của vũ trụ Godel vẫn đang còn treo
lơ lửng trong khoa học, nhưng câu hỏi về “bản quyền sáng tác” ra không thời
gian 4 chiều thì có thể có câu trả lời ngay bây giờ:
(PVHg, đã đăng trên Văn Nghệ Trẻ 12-09-2002, viết lại ngày
23.05.2012)
[1] Cơ sở toán học của không-thời-gian 4 chiều được Herman
Minkowski (một thầy cũ của Einstein tại Đại học Bách khoa Zurich, Thụy Sĩ) đề
xuất vào khoảng năm 1908
[2] Ý kiến của Lữ khách gồm nhiều câu đối thoại xen
kẽ với ý kiến người nghe. Bài này bỏ qua ý kiến người nghe,
và gộp các ý kiến của Lữ khách làm một cho gọn. Về cách dịch,
bài này chú ý Việt Nam hoá cách diễn đạt sao cho dễ hiểu. Vì thế
có thay đổi không đáng kể thứ tự câu cú, thêm bớt vài từ ngữ không
quan trọng, miễn lột tả chính xác tư tưởng của Lữ khách.
[3] Các nhà toán học đương thời đã nói tới không gian
nhiều chiều, nhưng đó chỉ là những không gian thuần tuý toán học,
không gian tưởng tượng, thay vì một không gian vật chất hoặc không gian vật
lý có thật như chàng Lữ khách diễn tả.
[4] People like us, who believe in physics, know that the
distinction between past, present, and future is only a stubbornly persistent
illusion.
[5] A Brief History of Time, Stephen Hawking, Bantam Press, bản
dịch tiếng Việt của Cao Chi và Phạm Văn Thiều, NXB Văn hoá Thông tin, 2000.
[6] The End of Time, Julian Barbour, Weidenfeld &
Nicolson 1999, Phoenix 2000.
[7] Henri Poincaré, nhà toán học Pháp, và Hendrik
Lorentz, nhà vật lý Hà Lan. Theo nhiều tài liệu đã được công bố chính thức
hiện nay, Lorentz, Poincaré, Einstein được coi là ba đồng tác giả của Thuyết
Tương đối Hẹp.
[8] Xem “Ảo ảnh thời gian” của Phạm Việt Hưng trên Văn Nghệ
Trẻ ngày 24.10.2002 và trên PhamVietHung’s Home: http://viethungpham.wordpress.com/2012/05/18/ao-anh-thoi-gian/.
PVHg, đã đăng trên Văn Nghệ Trẻ 12-09-2002,
viết lại ngày 23.05.2012.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét