Nhân bàn về những ý kiến
tranh luận xoay quanh ý nghĩa đích thực của hai chữ “Chín móng” trong
bài thơ “Hư vô” của Xuân Diệu, Trần Đăng Khoa có đưa ra một số nhận
xét đáng phải suy nghĩ: “Khổ! Chỉ có một chữ, cũng chẳng phải chữ Xuân Diệu,
mà rồi cũng bàn ra tán vào đến mấy số báo! Chẳng lẽ các bác phê bình không
còn chuyện gì để nói nữa ư? Phê bình mà cứ lủn mà lủn mủn, trong khi văn học
có bao điều lớn lao đang đặt ra kia thì chẳng bàn” (Văn nghệ, số
42, 16/10/1999). Một trong những vấn đề lý luận cốt lõi, “lớn lao” (theo
ý của Trần Đăng Khoa) cần bàn bạc, tháo gỡ giữa lúc này theo tôi là đặc trưng
thể loại của thể trường ca vì nhân loại đang đứng ở điểm giao của thiên niên
kỷ mới, rất cần một thể tài văn chương có sức dung chứa lớn.
Cũng trên “Văn nghệ” (Số
40 - 2/10/1999) có đăng bài “Mặt đường khát vọng và nghệ thuật trường
ca” của Phạm Khánh Cao rất đáng được trao đổi. Bài báo chia trường ca ra làm
ba thể mà người viết gọi là “loại hình”(ở đây nên gọi “thể” mới
xác đáng): Trường ca chức năng; trường ca tự sự; và trường ca trữ
tình. Một quan niệm chưa mang sức thuyết phục bởi hai lẽ:
1. Tác giả chưa xác lập được
một tiêu chí phân loại nhất quán.
2. Tác giả chưa chỉ ra đặc
điểm chung của ba thể nói trên khiến chúng đều được gọi là “trường ca”.
Nhân đọc trường ca “Người
cùng thời” của Mai Văn Phấn, tôi xin được làm sáng tỏ tính sử thi -
một trong những đặc trưng nổi trội của thể trường ca. Người ta thường đề cao
ý nghĩa lịch sử - xã hội - nhân văn rộng lớn của trường ca- ý nghĩa này có được
là nhờ gắn liền với tính sử thi của nó.
Suy từ nghĩa Hán - Việt,
có người giải thích “Trường ca” là “Thơ dài”.“Trông mặt mà bắt
hình dong“ kiểu ấy thật không phải. Cái quyết định ở chất chứ đâu phải ở
lượng. Tuy nhiên, để triển khai ý đồ nghệ thuật sâu rộng của một bản trường
ca, người viết buộc phải huy động một dung lượng tương thích. “Người
cùng thời” có cả thẩy 10 chương, không theo cấu trúc tự sự quen thuộc mà
theo mạch suy tưởng. Điều này giúp Mai Văn Phấn cảm nhận mọi chuyện mọi sự từ
một tầm nhìn có sức bao quát: “Đầy ắp những râm ran cộng hưởng trong các
chiều không gian, thời gian”. Kể ra, khi có ý định viết về và viết cho
những “người cùng thời” thì dường như tác giả không thể có cách chọn lựa
nào khác thế.
Ta đang sống trong những
ngày tháng ít ỏi còn lại của thế kỷ 20. Thời đại cho phép ta đủ điều kiện về
nhiều mặt để nhìn nhận 100 năm vừa trôi qua. Biết bao sự kiện chấn động cả địa
cầu! Biết bao nhân vật làm lay chuyển cả lịch sử! Trong thời gian ấy, những
gì được gìn giữ và tiếp nối, và những gì được phát triển và sáng tạo? Rồi nhân
loại phải đi về hướng nào? Đâu là cơ hội cần nương theo, còn đâu là thách thức
phải vượt qua?... Toàn những vấn đề hệ trọng liên quan đến sinh mệnh, đến lẽ
sống của hàng triệu, hàng triệu con người. Nhân loại muốn tiến nhanh về phía
trước buộc lòng phải trả lời. Mà nhân loại là ai? Là tập hợp mỗi người chúng
ta - những người tự ý thức về bản thân trong tiến trình lịch sử -“Không là ai
hết - Khi chưa là mình”.
Là một nhà thơ đầy trách
nhiệm xã hội, Mai Văn Phấn đã can đảm cất lên tiếng nói. Xác đáng hay không?
Xác đáng ở mức nào? Điều đó tùy thuộc ở sức vóc trí lự từng người. Nhưng cái
đáng quý, không ai có thể bác bỏ được, là tâm huyết của người viết. Và cả tài
năng nữa! Vì chỉ nội việc dám đặt ra những câu hỏi lớn lao dường ấy cũng đã
chứng tỏ trí não của anh dồi dào sức nghĩ đến mức nào! Anh phán xét nền văn
minh nguyên thủy; cật vấn nền văn minh cơ học; và khát khao về nền văn minh
tâm học của tương lai:
Bàn chân tương lai rồi sẽ
đi qua
Bông hoa hiện thời dâng
hương ngợi ca nhân tính
Ánh mắt tỏa vào không gian
muôn hạt mưa dịu mát
Tiếng nói cười thơm trong
lòng trái cây
Anh lên án Thế chiến I, Thế
chiến II, đồng thời đặt ra câu hỏi: “Có thể lọc từ ngân nga ra một nỗi
lo âu, ai nấy cố che đi câu hỏi kiêng không nói mà cũng kiêng không viết: Có
hay không Cuộc Đại chiến Thế giới III?” Anh hình dung ra trong tâm tưởng
hình hài đất nước luôn đổi mới và tái sinh:“Hiện dần lên từng mạch sông
Mêkông, sông Mã, sông Hồng... Những dòng chảy nghìn xưa đang âm thầm cuộn
trong lõi chì, ruột bút. Bàn tay ngỡ ngàng trên trang giấy trắng tinh” Anh
bàn đến sự chuyển giao thế hệ theo quan điểm biện chứng kế thừa, và theo ý
nghĩa nhân văn cao cả:“Cứ thầm mong sao mỗi trái tim/ Có một ngọn đèn/
Trong buổi giao ca thế hệ”. Anh cũng không ngại ngùng đụng tới những vấn
đề vốn rất nhạy cảm bằng thiện tâm có thể có của người nghệ sĩ: “Có cái
chết không tên/ Trồng khoai... cuốc sân gạch/ Nơi cha mẹ đã quỳ/ Vết thâm
còn trên đất”. Và người đọc cũng được soi sáng và thức tỉnh như anh trước bao
vấn đề tưởng không thể xảy ra lại cứ xảy ra như một tất yếu lịch sử: “Khi
phá bỏ bức tường Berlin/ Khi Xô viết Liên bang tan rã/ Nắng đã gắt gay rồi
/ Lại càng gay gắt quá / Nhân loại đi chuếnh choáng dưới mặt trời”...
Biết bao vấn đề thiết cốt
dồn nén trong một bản trường ca. Người ta có thể băn khoăn rằng ý đồ sáng tạo
của “Người cùng thời” chưa phải đã thật chín, rằng sự thể hiện ý đồ
của tác giả chưa phải đã thật nhuyễn, nghĩa là bản trường ca chưa hoàn toàn tới
được cái điểm mà nghệ thuật tầm cao cần tới, nhưng rõ ràng không một ai không
cảm phục cái ý muốn của Mai Văn Phấn nhằm chiếm lĩnh bề rộng và bề sâu của thực
tại bằng nghệ thuật. Theo chỗ tôi được biết thì dường như chưa một ai, ngay cả
những nhà thơ giàu tiềm lực sáng tạo, lại dám đặt ra trước ngòi bút mình một
thách thức tương tự. Tôi trân trọng trường ca “Người cùng thời” trước
hết vì lẽ đó.
Mai Văn Phấn luôn nghĩ con
người ta sống không thể tách rời quá khứ -“Dĩ vãng quanh ta rưng rưng sương
khói”. Với dân tộc cũng vậy - “Lịch sử cùng cuộn chảy với bao mạch ngầm
tha thiết ngàn sau”... Cho nên, muốn có khả năng đi tới không thể không
trang bị cho mình khả năng nhìn lại. Trong thần thoại Trung Quốc có tám vị
tiên, duy chỉ có Trương Quả được coi là Triết tiên. Sở dĩ như vậy là do chỉ
có mình ông biết cách cưỡi ngựa theo kiểu quay lưng ngược lại mà nhìn ở phía
sau. Chỉ những ai biết nhìn lại phía sau mới có thể biết nhìn về phía trước.
Người ta nói: “Ôn cũ để biết mới”; cũng cần phải nói thêm: “Từ
mới để hiểu cũ”. Hãy nghe Mai Văn Phấn luận về những “Cái chết không
tên” mới xảy ra đây thôi mà có sức ám ảnh dai dẳng có lẽ phải qua một vài
thế hệ nữa may chăng mới nhạt nhòa nguôi ngoai: “Nỗi đau không nhãn mác/ Nghèo khó được tấn phong”. Rồi: “Kẻ châm lửa đốt đền/ Thu chuông và
giữ mõ”.
Đó là dĩ vãng gần. Còn đây
là dĩ vãng xa: “Những hạt bụi vô danh/ Phủ kín ngai vàng/ Vun chúng lại/ Từng bầy ngơ ngác/ Lũ gian thần / Lấp lênh khuôn mặt/ Nơi phòng the từng
thu xếp thế gian”. Không ít người hôm nay đọc mà vẫn cứ phải giật mình
thon thót. Ông Bao Công Lịch sử bao giờ cũng công minh. Vì suy cho cùng, đó
là lương tri luôn thức tỉnh của nhân dân - lương tri ấy như “Mặt đất uy
nghiêm/ Minh bạch/ Nhân từ” để có thể phán xét “Từng nỗi oan/ Dẫn
ra từ bóng tối/ Từng cái chết/ Dẫn ra từ bóng tối”, và rồi mọi giá trị
sẽ được an bài đúng với thang bậc vốn có của chúng:
Ngày Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm từ quan
Mây trắng Bạch - Vân - Am
thẫn thờ bao thế hệ
Khi Nguyễn Trãi kề đầu dưới
lưỡi dao đao phủ
Đá lở Côn Sơn phun mạch nước
lên trời
Lòng người đọc rưng rưng
cùng người viết. Chi tiết sống động - đó là văn chương. Cảm xúc dào dạt - đó
là thi ca. Mai Văn Phấn nhìn chung không vì đuổi theo ý tưởng cao sâu mà bỏ
rơi nghệ thuật như cần phải có:
Trong lời hịch năm xưa lóe
lên binh khí
Xương cốt cha ông chôn bên
xác quân thù
Những câu thơ chờ ta hôm
nay vuốt mắt
Cọc sông Bạch Đằng đã nhổ
hết chưa?
Tôi cứ như được đọc những
vần thơ sang sảng hào khí Đông A thuở nào. Tác giả đã thật sự sống lại những
năm tháng hào hùng của lịch sử ngàn xưa dân tộc, bằng cảm quan của thời đại mới: “Hình
Tổ quốc nghìn năm đóng đinh vào ký ức/ Mang nét vẽ dáng tổ tiên ta đội nón đứng
bên trời/ Giờ Tổ quốc cùng tôi mỗi buổi sớm lại tưng bừng tái hiện/ Mang
khuôn mặt mình thời mọc tóc thay răng”.
Tôi chợt hiểu vì lẽ sâu xa
gì mà Mai Văn Phấn - con người của thời nay lại không một phút rời xa quá khứ.
Anh đặc biệt luôn có ý thức “Soi vào lịch sử chiến tranh/ Những nền
văn minh hủy diệt”. Có gì lạ đâu? Dân tộc Việt Nam ta bốn ngàn năm lịch
sử đã có tới một ngàn hai trăm năm buộc lòng phải cầm súng chống giặc ngoại
bang: “Cuộc chiến tranh lại đi qua những thời thiếu nữ/ Ngọn lửa napan
lùa vào giấc mơ làm mẹ làm vợ”.
Điều khiến tôi thường ngạc
nhiên khi đọc “Người cùng thời” là Mai Văn Phấn luôn sống trong thời
gian ba chiều: quá vãng, hiện thời, và vị lai. Đó là cuộc sống thực như đang
diễn ra, và anh tỏ ra hoàn toàn có lý. Vậy nên, tôi không thấy xa lạ khi chứng
kiến những cuộc chiến tranh âm thầm, dai dẳng mà không kém quyết liệt xảy ra ở
quanh ta hàng ngày: “Ngỡ chiến tranh về theo sau lưng mình/ Phòng lạnh
cơ quan như thoảng mùi thuốc súng/ Nọc độc chạy trong công văn, dây điện thoại,
bò cả vào vi tính.../ Những dại khờ mắc bẫy dưới bình minh”. Anh đã
thuyết phục tôi nhờ cảm quan tinh nhậy đa chiều của mình. Để rồi ở chương IV
có tựa đề “Nỗi đau phát sáng”, anh có thể vĩnh cửu hóa những
tội ác đi kèm theo chúng là những nỗi oan khiên có thể tồn tại ở một đâu đó
và vào một lúc nào đó: “Những con dao ém trong chéo khăn / Những chiếc
lưỡi mọc xương/ Những mũi tên bắn lén / Những khuôn mặt bịt kín / Những vỏ đạn
gỉ hoen mở mắt / Những nét vẽ ăn gian trên tấm bản đồ/ Những nét chữ đóng
đinh vào lý lịch...”. Tôi cứ muốn dẫn ra nhiều, nhiều nữa. Những câu chữ
nóng bỏng và chói sáng! Tưởng như một người ưa im lặng cũng dễ biến thành kẻ
lắm lời khi được đọc những dòng chữ ăm ắp sự sống kết tinh như thế. Cố nhiên,
đây là một bản trường ca rất khó đọc. Phải được trang bị một vốn văn hóa nhất
định.
Và cái quyết định hơn là còn phải dám gạt bỏ ra khỏi thị hiếu thẩm mỹ của
mình những thiên kiến, định kiến cũ kỹ và lỗi thời. Nhờ vậy, ta mới chấp nhận
những gì mới lạ. Tâm hồn con người có thể giàu có nhờ được thường xuyên bồi bổ
những món ăn tinh thần quen thuộc, nhưng sẽ không trở nên đa dạng nếu chỉ
quen tiếp xúc với những giá trị quen thuộc kể trên. Nếu tôi không lầm thì
khái niệm tiến bộ trong nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với những
đề xuất tư tưởng mới mẻ.
Trong nhiều quan niệm mới
lạ về thế giới và nhân sinh được bộc lộ qua“Người cùng thời”, tôi đặc biệt
chú tâm tới nền văn minh tâm học mà tác giả cố ý nhắc đi nhắc lại nhiều lần
khi hướng tới tương lai của dân tộc và nhân loại: “Đã hé mở cánh cửa nền
văn minh tâm học, những linh hồn tâm hồn có đủ lương năng, lương tri rời thể
xác tìm nhau / Vượt gấp nhiều lần tốc độ ánh sáng, trái tim hiền lành rung động
các vì sao”. Trong lần đọc đầu tiên, thú thật, tôi có ý ngờ vực. Nền văn
minh tâm học ư? Liệu anh có rơi vào một dạng khác của “duy ý chí” không?
Tôi nghĩ tới nhà Tâm học Vương Dương Minh (1472 - 1528) bên Trung Quốc. Ông từng
viết:“Tâm ngoại vô lý, tâm ngoại vô vật” (Ngoài cõi lòng ra không có lý,
vật nào hết). Tôi đồng thời nghĩ tới Vương Phu Chi (1619 - 1692), người sống
sau ông chừng hơn một thế kỷ. Học giả họ Vương - Hậu thế đã phê phán học giả
họ Vương - Tiền nhân thế này: Trong nhận thức của con người nếu không có “cảm
quan tai mắt” thì “tâm linh” cũng thành thứ bỏ đi (Chu Dịch ngoại truyện). Khi
đọc lần thứ hai, thứ ba “Người cùng thời” thì tôi hiểu nền văn minh
tâm học trong quan niệm của Mai Văn Phấn không hề tách rời “cảm quan tai mắt”: “Trên
mạng lưới thông tin đại chúng hàng ngày / Chuyện giải thoát con tin, chuyện đặt
bom khủng bố / Những chiêu bài tự do, nhân quyền, dân chủ... / Thiện - Ác bây
giờ cùng lôi kéo văn minh!”. Tuy nhiên, phải đọc bản trường ca tới lần thứ
tư, thứ năm tôi mới hiểu thêm một điều khác nữa: cái hàng ngày nhất thời nằm
trong cái quy luật ngàn năm đó thôi! “Quyền sở hữu ở bên ngoài Thiện -
Ác” - Mai Văn Phấn viết vậy. Từ đó, anh hoàn toàn có cơ sở để lên án
thiên hướng lệch lạc của nền văn minh cơ học khi đề xuất ra cách thức sản
sinh con người bằng phương pháp nhân gen: “Anh được sinh ra bằng phương
pháp nhân gen nhân bản anh thấy mình lạc cuối con đường ra ngoài bản ngã giọng
nói vỡ tan hay tiếng thét vô thanh”. Nền văn minh cơ học này nếu không
khéo điều khiển sẽ đi những bước nguy hiểm, hủy hoại bản thể của con người,
nghĩa là có nguy cơ hủy hoại tất cả. Do vậy, tôi tán đồng với lời kết được in
đậm của bản trường ca: “Muôn năm con người! Muôn năm thiên nhiên!”.
Trường ca “Người cùng
thời” của Mai Văn Phấn kết thúc trong âm điệu ngợi ca con người và thiên
nhiên. Đó là con đường mà các nhà nhân văn chủ nghĩa xưa đã đi, nay đang đi,
và mai sau còn đi. Do vậy, khái niệm“Người cùng thời” được tác giả hiểu
theo nghĩa rộng: “Cùng thời với cả những người chưa kịp sinh ra mà gương
mặt đã hiển hiện trong vòm cây, bóng nước. Cùng thời với cả những người đã chết
bởi những từ ngữ hàng ngày ta vẫn thường gọi đến tên nhau”. Sự bao quát
và tầm sử thi của bản trường ca “Người cùng thời” của Mai Văn Phấn
mới rõ rệt làm sao!.
(Đã đăng báo Người Hà Nội)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét