Bình Nguyên Lộc - Tùy bút, thơ
Tùy
bút
- Âm thanh bí mật
- Câu dầm
- Những hàng me Sài Gòn
- Quà đêm trên sông Ông Lãnh
- Lập đông ở miền Đông
- Hồn ma cũ
- Mưa thu nhớ tằm
Thơ
- Thơ Ba Mén
- Dâng má thương
- Âm thanh bí mật
- Câu dầm
- Những hàng me Sài Gòn
- Quà đêm trên sông Ông Lãnh
- Lập đông ở miền Đông
- Hồn ma cũ
- Mưa thu nhớ tằm
Thơ
- Thơ Ba Mén
- Dâng má thương
Bình
Nguyên Lộc mà tùy bút, thơ?
Tưởng
ông chỉ chuyên tìm hiểu nguồn gốc người Việt với "lột trần" tiếng Việt
với viết truyện ngắn truyện dài thôi chứ?...
Thì
đúng vậy. Quả nhiên Bình Nguyên Lộc không chuyên về, nghĩa là viết rất ít, tùy
bút. Ngay trong số bảy bài chọn đây, thì đã có bài thực ra là trích đoạn từ một
truyện ngắn. Ông lại càng ít khi thơ hơn nữa.
Chợt
nghĩ, Bình Nguyên Lộc đã bỏ ra không biết bao nhiêu thì giờ để nghiên cứu những
đề tài hóc búa và để hư cấu vô số truyện éo le, mà đã dành quá ít thì giờ cho
việc "diễn" chính tâm hồn mình. Như ta có thể thấy qua số bài tùy
bút, thơ ít ỏi, đó là một tâm hồn đa cảm, nhạy cảm...
Chẳng
những có nhiều cảm xúc tinh, Bình Nguyên Lộc còn có năng khiếu khiến được chúng
hiện ra thành lời gợi cảm, với nét duyên riêng trên dáng chung Nam bộ.
Hình
như chính Bình Nguyên Lộc cũng ưng ý loại văn này của mình và muốn viết nhiều
hơn nhưng hoàn cảnh không cho phép. Tiếc cho ông, cho cảnh này chuyện nọ vật
kia, và cho người đọc...
Sau
đây là chút "của tin".
Âm
thanh bí mật
"Đậu
này nó nóng như Trương Phi,
Giòn như pháo nổ, mua đi các bà!"...
Giòn như pháo nổ, mua đi các bà!"...
Ngâm
sĩ mù có phải là một người Bắc? Giá ngoài bài đậu "Phi, pháo", thỉnh
thoảng hát xẩm cho bà con cô bác nghe chùa.(1)
Năm
2013 không biết nhạc bột khoai có còn nấn ná, chớ hát ru em thì về vườn lâu lắm
rồi.
Gần
sáu thập kỷ trước, "ký giả" ngồi giữa "hòn ngọc Viễn Đông"
nghe tiếng "chim vịt kêu thương" mà "bâng khuâng". Bây giờ,
đọc lại Âm Thanh Bí Mật, có độc giả nào cũng chợt nghe bâng khuâng?...
----
Sáng
sáng sau trận phát thanh xôi giò, bánh bèo, bắp nấu thì một giọng ngâm thơ
trong trẻo nổi lên trong các xóm. Mới nghe người ta ngỡ ai mở ra-dô đâu đó vì
giọng ngâm hay hơn cả giọng ngâm của các ngâm sĩ quen biết.
Ca
sĩ vô hình ngâm lục bát như vầy:
"Đậu
này nó nóng như Trương Phi,
Giòn như pháo nổ, mua đi các bà!"
Giòn như pháo nổ, mua đi các bà!"
Thì
ra đó là chị mù bán đậu rang, còn quờ quạng ngoài đầu ngỏ. Trước kia chị nầy đi
hành khất. Từ ngày có lời khuyên răn của cảnh sát, chị ta đổi nghề. Cảm động
thay!
Đó
là một nghệ sĩ có tài mà không tự biết, người nghe cứ tiếc sao mình không có một
cái máy ghi âm để thâu lấy giọng rao hàng ngâm thơ của chị.
Chiều
lại, một số hành khất chưa chịu "hoàn lương" hiến cho ta những phút
trở về quê cũ và thời xưa não nuột khiến cho ta rưng rưng nước mắt, nhớ lại thời
thơ ấu nào.
Tiếng
"kêu cơm" của họ, nhứt là vào những ngày sóc ngày vọng, đánh thức tỉnh
trong lòng ta cả một dĩ vãng xa xôi: một con đường mòn uốn éo qua làng, một bà
lão xách bị than van trong chiều tà:
"Ớ...
ơ bớ cơm, bớ gạo, làm doan, làm phước bố thí cho kẻ bần hàn..."
Sài
Gòn bỗng chết mất đi và thôn dã hiện lên với tất cả thi vị và đói rét của nó.
Đèn
đường đã bừng cháy. Trời nóng bức khiến ai cũng thèm cái gì ươn ướt mà ngòn ngọt.
Vừa lúc ấy thì một thứ âm thanh huyền ảo khác nổi lên.
"Ai...
bột khoai bún tàu... đậu xanh nước dừa đường cát hôn..."
Tiếng
"cát" lên cao vút như đầu ngọn thông rồi hạ xuống tiếng
"hôn" nó cứ mõn lần trong đêm tối như là giọng thỏ thẻ của một giai
nhân (...)"</i> (1957)
Câu
dầm theo lối "của tôi", tuy cũng có xách theo tới "vài chục cần"
nhưng không nhằm câu con cá nào hết, mà nhằm "hứng lấy những hột mưa nhọn
hoắt, đón những ngọn gió lạnh quíu tay", nhằm được "bơ vơ trong bóng
tối" mà "thèm thuồng một ngọn đèn xa", được "rùng rợn vì tiếng
vạc não nùng" v.v. Hứng mưa, đón gió, thèm đèn, rợn người vì tiếng vạc, kế
đến gặp được ông Ba Sa, bữa câu đó coi như toại nguyện!
----
Tôi
ưa đi câu, không phải để được cá bởi vì tôi nặng bóng vía lắm:
"Cá
không ăn câu, mồ cha con cá dại
Cần câu anh cầm, nghĩ lại con cá khôn."
Cần câu anh cầm, nghĩ lại con cá khôn."
Cũng
không phải theo dấu của ông già sông Vị đợi chờ chúa Thánh rước về làm tướng
Tây Kỳ.
Đi
câu, đối với tôi là những giờ mà lòng được nhẹ bổng không buồn, không vui, lâng
lâng như đã thoát trần. Đi câu là những giờ rình một tăm cá hay lơ đãng ngó
theo bóng chim thằng chài xẹt mau như sao băng, hoặc xem "từng mây lơ lửng
trời xanh ngắt". Đó là những phút hồi hộp nhìn cái phao chìm lần... chìm lần,
nghe đầu cần câu nặng nặng. Rồi... roạch một cái, con cá gì đó đã sứt mép còn
lưỡi câu thì góa mồi, mồ hôi ngư ông nhỏ giọt... Đi câu là xem những con sông,
ngọn rạch, tựa hồ như những con đường biết đi, mang theo hình ảnh của cả một sự
sống, một cuộc đời hiếu động. Đi câu là vớt những trái tràm, những bụi cây rù
rì trôi từ trên nguồn về để nghe nó kể lể chuyện rừng xanh.
Tôi
lại thích đi câu dầm. Vì vậy mỗi lần về quê, tôi về vào mùa mưa để đi câu dầm,
tìm lại những cảm giác đã sống qua ngày nào.
Phải
nói cho các bạn nghe câu dầm là làm sao chớ. Có gì đâu: vài chục cần câu tre ngắn,
đâu cần uốn cong như cây cung, đuôi cần vạt nhọn, nhợ câu ngắn hơn cần một
chút, lưỡi thép hơi to.
Ở
làng tôi người ta gọi đó là câu cắm, là vì cần câu được cắm dài theo bờ ruộng,
có người lại kêu là câu bủa, vì cần nhiều, bủa khắp đồng ruộng. Còn câu dầm của
họ thì lại là một cách khác nữa.
Nhưng
tôi có cần gì nói trúng một tiếng nhà nghề của địa phương đâu. Câu dầm của tôi
là một cuộc đi câu ban đêm, những đêm mưa dầm, phải dầm mưa mà câu.
Ở
đây, câu, đối với tôi cũng không phải là bắt cá bằng cần. Đi câu dầm là hứng lấy
những hột mưa nhọn hoắt, đón những ngọn gió lạnh quíu tay để được tận hưởng
trong tưởng tượng cái cảnh ấm êm, chăn gối nệm bông.
Bơ
vơ trong bóng tối, thèm thuồng một ngọn đèn xa... Lắng nghe sự sống bí mật, âm
thầm của côn trùng trong cỏ, trong lau... Rùng rợn vì tiếng vạc não nùng như tiếng
một cô hồn đau khổ, và tiếng thì thầm của đêm tối, tiếng gió vi vu...
Đó
là những thú lạ thường mà người kỳ khôi hay tìm kiếm. Nhưng điều nầy thích hơn
hết, là đi câu dầm thế nào cũng gặp ông Ba Sa.
*
Ông
Ba Sa là một người thuộc về âm. Ban ngày không ai thấy ông đâu hết, trừ khi ông
giúp đám ma, nhà héo, đi cúng chùa, cúng đình. Những lúc hội họp xóm làng như vậy,
ông ít nói chuyện với ai, không hiểu vì thói quen sống cô độc, hay vì lẽ gì
khác.
Như
một con cú ăn đêm, bạn bè với bóng tối, ông Ba chỉ ra khỏi nhà lúc đỏ đèn để đi
câu dầm, về mùa mưa. Còn trong những tháng nắng ruộng khô không biết ông làm
gì.
Đêm
nào tôi cũng thấy ngọn đèn ông Ba leo lét đằng xa. Một khi kia nghe mình hiu quạnh
cô đơn quá, cần phải nói với ai một điều gì, hay ít ra cũng cần sự có mặt một
"hơi" người bên cạnh, tôi mò lần lại cái đóm đỏ, ẩn hiện như đèn ma đằng
kia.
Ông
Ba cũng không tìm cách trốn tránh gì tôi, song cái miệng làm thinh của ông thì
không ai cạy nổi.
Nhưng
tôi đã có những chiếc đũa phép, một điếu thuốc mời, rồi hai điếu, rồi ba, rồi
không còn biết là mấy điếu nữa. Trong những lúc như vậy mới biết hút thuốc điếu
là sướng.
Cái
sức nóng nhỏ mọn của điếu thuốc như thấm nhuần khắp châu thân, nghe như đỡ lạnh
mình và lạnh lòng.
Khói
thuốc xui người khép nép nhứt cũng phải cởi mở lòng. Lời qua, tiếng lại, ban đầu
còn cụt ngủn, xẳng lè lần lần thân mật, có bao nhiêu trút rót ra không tiếc.
Một
tiếng sét đằng xa vọng lại, tức thì ông Ba có chuyện Thiên Lôi, chuyện lưỡi tầm
sét để nói cho tôi nghe liền.
Ông
Ba biết rất nhiều chuyện yêu ma, và ở đây, hoàn cảnh rất thích hợp để gợi sự
hãi hùng, rùng rợn (...)
Những
hàng me Sài Gòn
Bình
Nguyên Lộc lang thang trên những vỉa hè Sài Gòn cách nay mới sơ sơ... ngót sáu
chục năm. Người lang thang đi rồi, nhưng vỉa hè còn ở lại, me cũng còn ở lại
tuy phong độ so với trước chắc suy nhiều...
BNL
ngó me, vừa vì mến me vừa do có ý muốn theo dõi "cô Mùa". Tuồng như sợ
nỗi nhớ mùa nọ mùa kia của mình chưa đủ dông dài, nhân thấy me ngủ chiều, ông
bèn nhớ luôn tuốt về thời tiền sử!
Những
hàng me Sài Gòn bây giờ có bao nhiêu gốc đủ già để biết người xưa?
----
Me!
Cái tên mới thô lỗ làm sao chớ! Nó không được tầm thường như mận, bưởi, cau, mà
cục mịch như ổi, xoài, măng cụt.
Nhưng
nếu có những cô Thùy Dương, Yến Tuyết không đẹp bằng những chị Mén, chị Vầu,
thì cũng có những cây anh đào, thanh tùng không đẹp bằng me, bằng me Sài Gòn.
Me
vốn đã đẹp với thân cây đều đặn, không cao lỏng khỏng như dầu, không lùn tịt
như sanh, đẹp với vỏ cây cằn cỗi gợi nhớ những cội tùng già bên chùa cổ trên một
sườn non, với rêu xanh non mởn bám trên vỏ sậm đen, đẹp như non bộ dày sương dạn
gió, với tàn không thưa, không xơ rơ như tàn sầu riêng, không dày mịt như măng
cụt, vốn nó đã đẹp ở ngoài thiên nhiên rồi, mà trồng trên vỉa hè đá, bên cạnh
những ngôi nhà xi-măng cốt sắt, khô, nóng và buồn, thì nó còn đẹp hơn biết bao!
Ôi,
những hàng me Chợ Cũ, những hàng me phố Gia Long, những hàng me phố Tản Đà giao
nhành rợp bóng, những hàng me bầu bạn của người đi bộ về trưa, những hàng me tò
mò dòm vào các cửa sổ tư gia, gởi vào đó những lá nhỏ li ti trên tóc cô gái bé,
những hàng me tàn xanh sậm quyến luyến những tiếng dương cầm của ai trong vài cửa
sổ vọng ra...
Ôi,
những hàng me chứa chấp cô Mùa, một cô gái quê ít dám léo hánh đến thành phố.
Chính trên mớ tóc xanh biến màu theo thời tiết của ngươi mà những khách yêu
thiên nhiên tìm dấu chân Mùa hằng năm len lén đến vài lần nơi thành phố.
Lòng
sầu xứ quê của những kẻ lạc loài vào đô thị Sài Gòn được dịu đi vài phần khi
nhìn những hàng me Nguyễn Du và Hồng Thập Tự ngả màu rồi lại thắm màu.
Những
ngày mà toàn thân me đều khoác áo màu đọt chuối non, là những ngày người mến
thiên nhiên nghe tiếng hát của Mùa, là những ngày họ hồi hộp rình Mùa, hồi hộp
lắng nghe bước chân Mùa trên xi-măng của thành phố.
Ôi,
những cây me ngủ chiều, gợi nhớ sự nghỉ ngơi của đồng áng, gợi nhớ những nỗi buồn
tiền sử của loài người, khi chiều xuống họ hãi hùng nhìn cây ngủ, chim về, mặt
trời chun xuống thiên nhai không biết ngày mai sẽ trở lại hay không...
A...
ha, những cây me vui, những cây me rắn mắc, thỉnh thoảng, sau một trận mưa, lại
đánh rơi xuống áo đẹp của ai những hột nước làm cho ai nhăn mày...
Tôi
thương Sài Gòn vì những hàng me. (1952)
Quà
đêm trên sông Ông Lãnh
Vậy
là "gã Bình Nguyên Lộc" còn ưa "lang thang" dưới sông nữa,
chớ đâu phải chỉ trên "hè phố". Nhờ "gã" chịu khó đi rồi chịu
khó ghi, mà nay ta mới được thấy chút ít hình ảnh của con sông Ông Lãnh, tức
con kinh Tàu Hũ, tức con lạch Bến Nghé, một thời...
Món
bánh canh cá rô, "hay tệ lắm (...) cá lóc", không biết có còn nhiều
người thích ăn?
"Con
đò Thủ Thiêm"...
Khách
chạy xe dưới đáy sông Sài Gòn bây giờ có biết chăng xưa kia, trên mặt nước trên
đầu mình, đêm đêm một "cô bé (...) có tấm thân uốn éo như dòng sông uốn
khúc" đã chèo qua chèo lại rao bán "bắp non"?...
----
Nếu
ban ngày con sông Ông Lãnh rộn rịp sanh hoạt với những ghe thương hồ chở khẩm lừ
trái cây và các thứ hàng hóa khác, thì về đêm, một sự sống âm thầm nhưng không
kém linh động, nổi lên trong khi người ta ngỡ con rạch ngủ yên.
Ở
đây không có xe hơi, không có ra-đi-ô, không có trẻ nô đùa, nên những tiếng bí
mật của đêm trường mang rõ linh hồn của nó, âm thanh có sự sống đã đành mà cho
đến tiếng động, lắm khi cũng thành nhạc.
Một
chiếc xuồng tam bản, chuồi êm rơ trên mặt nước, một mái chèo khua nhẹ trên dòng
kinh, một đèn dầu leo lét soi mờ bóng một cô chèo xuồng, rồi từ tất cả các thứ ấy,
vẳng lên: "Ai... chè đậu... cháo cá... hông?".
Bất
giác ta bị đẩy lùi về thế kỷ trước và câu ca dao:
"Bắp
non mà nướng lửa lò
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm"
Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm"
như
được một người bình dân nào bập bẹ cho nó thành hình, chập chững lần dò, bỏ một
tiếng, thêm một lời, để tỏ tình gián tiếp với cô bé chèo thuyền có tấm thân uốn
éo như dòng sông uốn khúc.
Khách
hàng dưới sông phần lớn là dân quê, những trạo phu của ghe thương hồ. Vì thế
quà ở đây cũng nấu theo lối quê, thật thà nhưng đậm hương vị. Cháo cá ngọt cái
chất ngọt của cá đen ở đồng chớ không phải ngọt ngay nhờ bột ngọt hóa học như
cháo trên bờ. Mùi thơm của chè đậu trắng gợi nhớ mùa chè cúng đưa ông Táo ngày
hăm ba Tết ở làng xa.
Lối
bán hỗn hợp hai thứ quà mặn ngọt này cũng là theo truyền thống nhà quê. Trên phố,
người ta bán cháo cá vào giấc sáng, thỉnh thoảng về đêm; chè đậu luôn luôn bán
buổi trưa từ 11 giờ đến hai giờ.
Quà
trên sông Ông Lãnh luôn luôn nóng hổi, vì bếp lửa khỏi phải gánh nặng nề, nên
các nồi quà được nằm mãi trên cà-ràng cho đến khi vơi tới đáy.
Ai
đã ăn món xu xoa mật đường hạ trên kinh Tàu Hủ vào mùa nực chưa? Đường hạ đen sản
xuất ở Biên Hòa tiết ra một mùi thơm đặc biệt mà đường cát trắng không có được.
Khi thứ đường hạ ấy được nấu thành mật để ăn bánh đúc hoặc ăn tàu hủ (óc đậu),
xu xoa, thì hương vị của nó càng đậm đà hơn.
Ta
cứ nghe như là phảng phất đâu đây mùi đồng áng, mùi lò đường tiểu công nghệ với
những đêm dài nổi lửa đốt lò, với tiếng rít ghê rợn của các "ông che"
(...)
"Kẹo
đậu phộng trà Huế hông?". Ông già rụng răng nầy rao nghe còn dở hơn
chú Khách trên. Nhưng người ta cứ mong lão tới.
Họ
thích xem lão đưa cao ấm nước trà đang sôi lên, rót trà xuống một tô nước lạnh,
lão rót thế nào mà bọt dâng lên còn nhiều hơn là bọt bia, không khát nước,
trông thấy cũng cứ thèm.
Thích
nhứt là xem lão ta uống, không biết bao tử lão là bao lớn mà hễ khách quen
thách uống là lão tự pha cho lão, không phải một tô thường, mà một tô con rồng,
thứ tô sứ giả sản xuất ở Lái Thiêu cách đây bốn mươi năm mà ngày nay ít gia
đình nào còn giữ được.
Tô
ấy to bằng năm tô thường. Lão ta uống một hơi, không nghỉ để thở lần nào cả. Những
người biết lão nhiều, kể rằng lão có tài ăn năm mươi chiếc bánh trôi nước có
nhân, rồi uống liên tiếp hai tô nước như vậy.
"Kẹo
đậu phộng trà Huế hông?". Câu hát không hay ho gì nhưng nghe yêu đời
lắm, vì do miệng một kẻ yêu đời hát lên, kẻ ấy đã ngót bảy mươi rồi và chắc
không con cháu, nhưng chưa hề ai thấy lão than thở một lần, đêm đêm quạt lò trà
xành xạch để sống những ngày nhàn như thời Sài Gòn chưa thấy xe hơi, những ngày
một miếng kẹo, một tô trà Huế đậm và một miếng trầu, cả ba thứ được bán chung lại
với một giá kinh khủng là... một xu.
Lập
đông ở miền Đông
"Anh
Chín cất cái chòi này giống như khoét một lỗ trong rừng. Chung quanh nhà anh,
thảo mộc xanh mịt đứng sững lên như thành giếng đóng rêu. Nhà anh Chín giống
như nằm dưới đáy giếng, chỉ thấy một mảnh trời tròn, nhỏ. Gió bấc lướt trên ngọn
cây, té vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và vì không có lối ra gió
quay cuồng, càng vặn thêm lòng người vốn đã lạnh.
Cái
buồn chiều hôm, cái buồn một ngày mưa, cái buồn đêm vắng cũng nghe không khó chịu
bằng nỗi buồn nhìn cây lá xơ rơ trong gió. Nghe như là một cuộc tang thương đã
qua đó, và cái gì cũng đã hết, đã chết, hoàn toàn trống rỗng từ ngoài vào đến
bên trong."
Cảm
giác, cảm xúc độc đáo. Cái "nghe" ở đây ngộ "từ ngoài vào đến
bên trong"!
----
Mặt
trời mãi không thấy đâu hết từ sớm đến giờ. Mây trắng đục phủ cả vòm trời và hối
hả từ phía rừng sâu bay về đâu không biết. Những hột mưa nhỏ xíu khi nhặt khi
thưa cứ rơi mãi xuống mặt đất lầy nhầy. Thỉnh thoảng những sợi nước nhuyễn ấy bị
gió từng cơn thổi tạt, khi thì xiên qua, khi thì xiên lại giống như những sợi
chỉ treo vật gì, đánh đòng đưa trước gió. Có khi gặp phải hai luồng gió ngược
nhau, những sợi mưa ấy tréo lộn với nhau như tre đan. Có khi hột nước mịn quá
và rơi nhặt quá, bị gió cuốn, bay như khói.
Gió
nhẹ, mưa sương, nhưng anh Chín nghe cái lạnh thấm tới đáy lòng anh. Nhưng anh
không ngạc nhiên vì thời tiết. Đã ba ngày rồi trời vẫn thế. Năm nào, vào độ này
trời cũng âm u, vần vũ ba bốn ngày, rồi mưa dứt hẳn, cùng với gió bấc trên rừng
về, và mùa nắng bắt đầu thiêu đốt vạn vật cho đến mùa mưa tới. Anh Chín nhớ rằng
hồi ở dưới làng người ta gọi cảnh thê lương này là "trời lập đông".
Vậy
hôm nay là ngày thứ ba trong những ngày lập đông ủ dột.
Những
đám mây thừa trong lục địa bị đuổi xua ra biển cả, như còn tiếc sứ mạng chưa
tròn, đánh rơi mãi những giọt lệ giã từ buồn như mưa Ngâu.
Anh
Chín cất cái chòi này giống như khoét một lỗ trong rừng. Chung quanh nhà anh,
thảo mộc xanh mịt đứng sững lên như thành giếng đóng rêu. Nhà anh Chín giống
như nằm dưới đáy giếng, chỉ thấy một mảnh trời tròn, nhỏ. Gió bấc lướt trên ngọn
cây, té vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và vì không có lối ra gió
quay cuồng, càng vặn thêm lòng người vốn đã lạnh.
Cái
buồn chiều hôm, cái buồn một ngày mưa, cái buồn đêm vắng cũng nghe không khó chịu
bằng nỗi buồn nhìn cây lá xơ rơ trong gió. Nghe như là một cuộc tang thương đã
qua đó, và cái gì cũng đã hết, đã chết, hoàn toàn trống rỗng từ ngoài vào đến
bên trong (...)
Hai
cặp trâu cổ, nhốt chung trong chòi, phía sau, bỗng rống lên, những tiếng dài chết
lần theo với tiếng gió hú trong cây. Đàng xa thác nước Hàn Dài và Hàn Ông Sâm
giận dữ đổ ào ào nghe như mưa nguồn gầm trong cây lá. Tùy theo chiều gió, tiếng
thác khi thì xáp lại gần như muôn binh tiến đến, khi thì dịu lại như mưa sắp
tàn (...)
Lập
đông đã dứt trong đêm rồi. Mưa bụi không rơi nữa. Mặt trời ban mai đã trở lại
sau những ngày núp ẩn, để nghe chim muông tung hô, chào đón. Qua các lỗ trống
trên tàng cây, ánh nắng lò vào bóng râm, thành những tia ngay bót như cây cột
đình. Anh Chín thỉnh thoảng ôm lấy những cây cột nắng đó để mà sưởi. Những lúc ấy
anh sè tay hứng lá trắc tròn xoe, vừa rơi vừa quay như chong chóng, hoặc những
lá sao dài rơi xụi lơ xuống đất.
Cùng
với tiếng ve rân trong nắng sớm, những tiếng tố hộ, tố hộ của loài công vang dội
từ gốc rừng này đến gốc rừng khác. Những man khê, suối dại rù rì đâu đó, dưới cỏ,
trong rêu (...)
Rốt
cuộc anh cũng tới nơi. Bờ sông Bé cao nghều nghệu như muốn ép con sông nhỏ chảy
dưới kia, sâu thăm thẳm. Vách lá xanh đứng sững lên làm cho sâu thêm vực thẳm ấy.
Bờ sông man rợ khiến dòng nước hiền lành kia cũng mang một vẻ hiểm ác như chứa
trong lòng nó không biết bao nhiêu là thủy quái (...) (Trích từ truyện ngắn
Thèm Người. Nhan đề phần trích tạm đặt.)
Hồn
ma cũ
Nhờ
thấy một người khách "rót cà-phê ra dĩa cho mau nguội, rồi nâng dĩa lên mà
uống", "Kỳ mới hiểu, tại sao chàng lại ưa thích tiệm cà phê nầy".
"Hồn
ma cũ (...) giục chàng đến đó".
Nhưng
thiết tưởng người trong tiềm thức không có hồn ma cũ nào hết, mà đọc nhằm:
"(...)
những buổi sáng sớm mưa dầm. Bên ngoài, mưa gió lạnh, mà ngồi được trước một
tách cà-phê lên hơi, bên cạnh cái lò chụm trấu, thì thú tuyệt vời",
chắc
cũng muốn bước vô ngồi thử trong một tiệm cà-phê cắc chú "truyền thống"...
----
Kỳ
đẩy xe đạp qua các bờ đất, ra tới ngã ba Cầu Kinh, thì mặt nhựt mới tô lợt son
tàu lên tấm nền trời dựng sau những ngọn dừa nước ở hướng Đông.
Từ
đó mà ra Sài Gòn, vào giờ đường vắng, chỉ mất mười lăm phút là cùng; Kỳ cũng chẳng
có công chuyện gì cần phải làm sớm. Thế mà chàng cũng cứ dậy khuya mà đi như mọi
ngày.
Qua
đường Hàng Sanh, qua đường Hàng Bàng, qua đại lộ Hai Bà Trưng, xuống "Một
Hình", rồi đổ ra Chợ Cũ. Kỳ đi thật là lòng vòng, do các nẻo xa nhứt để đi
tới đích.
Chợ
Cũ còn dụi mắt, trừ các tiệm cà-phê. Kỳ sung sướng như về quê nhà và vào ngay
tiệm nước ở góc hai phố X.Y.
Chàng
ngồi trước chiếc bàn con đặt sát vách, không nhìn ai hết, cốt tránh thấy. Chàng
muốn nghe nhiều và ngửi sâu. Ở đây có những tiếng động, những âm thanh, những
mùi vị quen thuộc và rất thân yêu mà chàng mến thích.
Ngoài
sau bếp, người thợ xíu-mại bằm thịt bằng hai con dao Tàu, mà hắn hạ lưỡi dao xuống
thớt theo một nhịp điệu kỳ lạ, nghe như một khúc nhạc man rợ nhưng vẫn êm tai.
Những anh phổ ky hô món ăn hoặc hô số tiền, mà khách phải trả, không phải bằng
văn xuôi, mà bằng lời hát có ca, có kệ đàng hoàng. Khi một người khách đứng
lên, hắn hát to cho anh thủ quỹ nghe: "Ạ ...a... người đội nón nỉ đen
á...à...à...sáu đồng lẻ bảy cắc ạ...a...". Lẽ cố nhiên, hắn hát bằng tiếng
Tàu, thổ ngữ Quảng Đông, câu hát thành dài lê thê vì những á...a, á...à, nghe rất
thú vị. Có một câu ngắn: bạc tẩy tảl tống mùl mà hắn làm được một bài hát nhỏ,
nghê nga đến lúc tách sữa trứng gà bưng ra tới bàn khách, bài hát mới dứt.
Mùi
bánh bao hấp từ các xửng dưới lò bốc lên, mùi cà-phê rịn ra từ những chiếc vợt
đầu tiên trong ngày, tất cả những tiếng và hơi ấy tạo thành một không khí, mà Kỳ
rất thích.
Ngày
nay, các tiệm cà-phê "các chú", phần đông đã đổi mới, không ca hát
lăng nhăng nữa, không bằm dao trên thớt theo một nhịp điệu riêng nữa, nên Kỳ chỉ
vào tiệm nầy thôi. Chàng đã ghiền không khí ở đây, ghiền cả thời gian nữa; phải
ngồi tiệm vào lúc thật sớm, như bây giờ, mới hưởng đầy đủ không khí một tiệm
cà-phê cắc chú ngày xưa (...)
Kỳ
còn ghiền một yếu tố nữa, mà không phải lúc nào cũng đòi hỏi dược. Đó là những
buổi sáng sớm mưa dầm. Bên ngoài, mưa gió lạnh, mà ngồi được trước một tách
cà-phê lên hơi, bên cạnh cái lò chụm trấu, thì thú tuyệt vời. Càng thú hơn, khi
nghe một anh phổ ky đối đáp với khách hàng:
-
Nị không lạnh sao, mà ở trần?
-
Hà cái lầy pên Tàu lặng lắn (lạnh lắm) qua pên lây lực lắn (nực lắm), khoong pết
(không biết) lặng mà...
Nghe
câu nói ấy, không khỏi nghĩ đến một xứ rét run, và mình càng cảm thấy ấm hơn
trong tiệm nầy.
Kỳ
ngồi làm thinh, không kêu món uống. Thế mà anh phổ ky lại hát lên: "Vách
bên trái, cà phê không thật đậm, nhớ lược bằng vợt mới, nghe không". Rồi
người thủ quỹ kiêm nhơn viên rót cà-phê, nhìn chàng một cái, đoạn thi hành y
theo lời phổ ky dặn dò.
Đó
là yếu tố quan trọng nhứt của không khí tiệm nầy. Đây là một tiệm cà-phê lâu đời
và nhứt là một tiệm cà-phê giữ truyền thống của họ, nên họ có những người khách
lâu năm, rất lâu năm. Họ thuộc lòng từ ý muốn nhỏ của mỗi người khách: người nầy
ba muỗng đường; người kia một muỗng rưỡi thôi. Còn khách thì không thốt ra lời
nào cũng có kẻ dưng tới tay món uống vừa ý.
Kỳ
lấy muỗng nhỏ dò đáy ly cà-phê đen như thuốc Bắc: chỉ có độ một muỗng đường cát
ở dưới ấy thôi, thật là đúng sở thích của chàng. Chàng gác muỗng lên miệng dĩa,
cúi xuống hớp một hớp cà-phê, chấp chấp lưỡi để nghe mùi thơm của nó (...) .
Ngày
nào cũng thế, chàng ngồi đó như một vị tiên bất tử. Khách hàng, hết lớp nầy đến
lớp kia ra vào, y như các thế hệ người kế tiếp nhau mà tàn mọc trên dương thế,
còn chàng thì ở ngoại càn khôn mà nhìn những kiếp sống phù du nầy (...)
Mưa
thu nhớ tằm
Trời,
đọc Bình Nguyên Lộc mới biết cái khu phố đông đúc khô khan nơi mình lớn lên,
trước đó không lâu nó đã là một "ngoại ô xa (...) khá nên thơ" có
tre, có cả cây dâu tằm!
Cầu
Mới chắc là cầu về sau gọi cầu Trương Minh Giảng, bắc qua kênh Nhiêu Lộc nước
đen thui. Chợ chồm hổm Bà Y thì chịu không đoán nổi vốn đã ở chỗ nào...
Chắc
không phải ngẫu nhiên mà BNL tìm thăm xóm Quảng để tình cờ gặp cây dâu tằm đâu.
Vì ông vốn có gốc Quảng. Bác Y xa quê ở nhớ tằm nuôi, còn người phỏng vấn bác
hôm trời mưa dầm năm nọ, có phải người ấy xa quê trong gia phả rồi nhớ cái gì
đó chưa từng thấy mà tìm đến?
----
Đi
đường Trương Minh Giảng để ra ngoài đô thành, khi qua khỏi Cầu Mới, bên tay mặt
khách, đâm ra một con đường phố mới, chưa có tên, tạm gọi là Lộ 18.(2)
Bên
phía tay mặt phố là một xóm nhà lá khá sầm uất, có cả một cái chợ chồm hổm nơi
đó, tục gọi là chợ Bà Y.
Đó
là xóm nhà của đồng bào Quảng Nam - Quảng Ngãi tới đây lập nghiệp từ lâu, kẻ
trước người sau, từ hơn hai mươi năm nay.
Người
ta giới thiệu tôi với gia đình ông Y, mà tên của người vợ được lấy đặt tên chợ.
Ông
Y, là một bác thợ dệt, gốc ở phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, vào đây sanh sống từ
những năm đói kém tiền chiến.
Bác
ta làm công cho một xưởng dệt Khách ở Chợ Lớn.
Hôm
tôi vào xóm Quảng Nam năm ấy, trời giữa thu như độ nầy (...)
Mưa
dầm không nặng hột cứ rơi mãi không thôi (...)
Tôi
hỏi thăm bác Y về đời sống hằng ngày ở Quảng Nam, hỏi tên những cây mọc dựa đường,
tên địa phương của dụng cụ nông nghiệp v..v. và xin bác đọc cho chép một mớ ca
dao địa phương mà bác nhớ (...)
Cuộc
"phỏng vấn" đã chấm dứt, nhưng trời cứ mưa hoài, nên chúng tôi ngại
ra về.
Ngồi
nhìn giọt tranh mãi cũng chán, nên tôi lén quan sát người chủ nhà hà tiện lời
kia. Bỗng tôi sực nhớ một cử chỉ của bác ta mà tôi bỏ qua từ lúc khởi đầu nói
chuyện: là mắt bác luôn luôn nhìn ra góc trái sân nhà và không bao giờ rời chỗ
đó ra.
Chà,
bậy quá, tôi nghĩ thầm. Té ra bác ta có một công việc quan trọng nơi đó mà phải
bỏ dở vì mình. Tôi nhìn theo chỗ ngó của bác Y. Qua những làn mưa tro trắng đục,
tôi thấy lơ thơ vài bụi sả đang ngã nghiêng trước gió. Phía sau mấy bụi sả là một
cây dâu già, to bằng cây ổi bốn năm tuổi.
Nước
mưa thoát ra đường mòn trước nhà do góc rào đó và mài khuyết đất quanh gốc dâu.
Một cái mương nhỏ đang đào dở chừng để xuyên tạc đường nước, bấy giờ đã bể bờ
và nước lại trở về đường cũ.
Thì
ra hồi nãy bác Y đang bận cứu cây dâu, chừng như quí lắm nên bác ta mới dầm mưa
mà làm việc và hiện đang sốt ruột trông thấy.
-
Cây dâu nầy bác trồng à ?
-
Dạ, trên mười năm rồi!
-
Để làm gì, rơ miệng cho các cháu?
Ta
có tục tẩy lưỡi trẻ con bằng lá dâu vì thứ lá nầy nhám.
-
Dạ không, tôi không có con.
-
Vậy để đuổi tà ma?
Bác
Y mỉm cười:
-
Tôi không sợ ma quỉ cho lắm.
Mặt
bác Y giãn ra, bớt vẻ băn hăn bó hó.
-
Chớ bác trồng dâu làm gì ?
-
Để cho nó giống làng tôi. Trong Nam nầy, ít khi tôi được thấy cây dâu lắm, nhứt
là ở Sài Gòn.
-
Ngoài bác, người ta trồng dâu nuôi tằm hả?
Nghe
nói tiếng "tằm", mắt bác Y bỗng sáng lên rồi ươn ướt.
Tôi
chợt hiểu bác ta, kéo ghế ngồi xít lại gần bác rồi hỏi thêm, giọng cố thân mật:
-
Cây dâu khiến tôi nhớ tằm. Có phải để...
Bác
Y bẽn lẽn như con gái bị người ta đoán trúng tim đen, nhưng lại sung sướng đến
mọc óc trên da mặt.
Bác
quên tôi là người lạ, nắm lấy tay tôi, nói một thôi không ngớt:
-
Những ngày trời ủ dột như vầy, tôi nhớ nhà thì ít mà nhớ tằm sao mà như nhớ người
tình nhơn đầu. Tôi nhớ "hén" lạnh, tôi nhớ "hén" đói vì dâu
ướt át suốt ngày, khó tìm ra dâu ráo cho "hén ăn".
Bác
Y nói đến con tằm mà y như người ta nói đến một người bạn, dùng tiếng "hắn"
để kêu nó, và cái giọng Quảng Nam biến hắn ra hén, nó bùi ngùi làm sao buổi
trưa hôm đó.
-
Nên tôi trồng cây dâu nầy để sáng sáng, chiều chiều ra nhìn lá mà nhớ hén. Nhiều
đêm, nằm vừa thiu thiu ngủ là tôi nghe văng vẳng tiếng rào rào, ngỡ hén đang ăn
lên, tôi vụt ngồi dậy rờ quanh thì không có gì hết. Buồn quá tôi thắp cây đèn dầu,
chạy ra sân soi vào lá với hy vọng hão huyền tìm gặp một con tằm hoang. Lạ thiệt!
Hồi xưa, tằm vẫn ở hoang chớ phải không thầy? Nhưng sao bây giờ không có tằm
hoang nữa. Tôi trồng cây dâu nầy mười năm, mỗi đêm mỗi trông đợi mà không bao
giờ gặp tằm hoang cả.
Lúc
ấy từ nhà ai ngoài sau, vọng đưa ra tiếng hát ru con. Tiếng ấy hát rằng:
Ù...
Ơ... Em tôi buồn ngủ buồn nghê,
Con tằm đỏ chín, con đê đỏ mùi.
Con tằm đỏ chín, con đê đỏ mùi.
Nghe
hát, bác Y chụp nói:
-
Thầy có thấy tằm "hén"chín đỏ bao giờ chưa? Trời, nó khéo (3) và nó dễ
thương làm sao! Hén ngủ "thức lớn" rồi hén thức chơi với mình suốt bảy
ngày, rồi hén "chộ". Xong là hén chín. Ban đầu một vài con, rồi cả
nong đều chín đỏ như người bạn trung thành đang đau khổ dồn hết bao nhiêu máu
huyết lại để chuẩn bị nhả tơ cho ta dùng. Thương biết bao nhiêu!
À,
thầy nên chép câu ca dao nầy mà hồi nãy tôi quên:
"Thương
tằm cổi áo bọc dâu
Ngỡ tằm có nghĩa, hay đâu bạc tình".
Ngỡ tằm có nghĩa, hay đâu bạc tình".
Con
tằm hén giống như đứa con èo uột. Hén hay đau ốm lắm. Mình cực khổ với hén hết
sức mà lắm khi hén bạc tình, hén lăn ra chết ráo nạo từ nong nầy qua nong khác.
Mà có lẽ cũng vì hén như hũ mắm treo đầu giàn như vậy nên mình thương hén càng
nhiều chăng? Mà thầy ôi, bạc tình chính là tôi, chớ không phải tằm đâu. Tôi đã
bỏ tằm, vô trong nầy... người bạn tôi có lỗi gì đâu (...)
Bác
Y lại tiếp:
-
Tơ mà nó vô tới Sài Gòn thì mùi tằm không còn được bao nhiêu. Tôi ưa hít tơ lắm,
như là hít áo của một người yêu để nhớ hơi, mà tơ ở đây, hít đến mệt phổi cũng
không nghe hơi hám gi.
Mưa
đã dứt. Người bạn tôi đã nhiều lần ngáp dài giữa câu chuyện "con tằm đỏ
chín" nầy nên đứng dậy kiếu về. Tôi siết chặt tay bác Y.
Ra
đến ngoài, bác còn hỏi tôi:
-Chắc
thầy cũng thương tằm lắm phải không? Tôi nhìn mặt thầy thì đoán biết.
-
Phải - tôi nói láo bừa - tôi thương tằm lắm. Bà nội tôi ngày xưa có để tằm mà! (Thu
1956)
Thơ
Ba Mén
Quán
nhỏ. Có người ngồi uống cà-phê ngó ghe đậu dưới bến, "bỗng chạnh tình
quê", nước mắt rưng rưng. Người ấy rồi để ý bàn bên cạnh có ông cũng đang
"khóc trộm"...
Hai
người "đồng tâm" kể cho nhau nghe chuyện xóm làng mình, người này kể
tới đâu người kia thấy "cõi lòng ấm dịu, bàng hoàng bâng khuâng" tới
đó...
Rồi
có Bình Nguyên Lộc không biết ở chỗ nào mà cũng nghe được chuyện, mà viết thành
thơ để "thương những người chìm nổi"...
Thơ
quê chơn chất đôi lời,
Tình kia cảnh nọ rụng rời lòng ai!
Tình kia cảnh nọ rụng rời lòng ai!
Lạnh
thấm lòng, mưa mai lác đác,
Quán bên hè, uống tách cà-phê.
Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê,
Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng.
Quán bên hè, uống tách cà-phê.
Nhìn ghe bỗng chạnh tình quê,
Rưng rưng nước mắt: tư bề người dưng.
Bến
Ông Lãnh màn mưa bao phủ,
Ghe thương hồ ủ rũ dưới kia.
Ghe ơi, vài bữa ghe về,
Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?
Ghe thương hồ ủ rũ dưới kia.
Ghe ơi, vài bữa ghe về,
Nhắn người dưới ruộng, cô Quì còn không?
Mùi
đất nước ruộng bùn phảng phất
Nhớ cố hương ngây ngất lòng sầu.
Năm năm, bao cuộc bể dâu?
Phút giây in lại như hầu hôm qua.
Nhớ cố hương ngây ngất lòng sầu.
Năm năm, bao cuộc bể dâu?
Phút giây in lại như hầu hôm qua.
Bàn
bên cạnh, một ông bới tóc,
Liếc sang nhìn đang khóc trộm thầm,
Đoán mình là kẻ đồng tâm,
Lân la nói chuyện. Mưa dầm cứ rơi.
Liếc sang nhìn đang khóc trộm thầm,
Đoán mình là kẻ đồng tâm,
Lân la nói chuyện. Mưa dầm cứ rơi.
Cà-phê
nóng lên hơi nghi ngút,
Lò than hồng lách tách nổ ran.
Nghe người kể chuyện xóm làng.
Cõi lòng ấm dịu, bàng hoàng bâng khuâng,
Lò than hồng lách tách nổ ran.
Nghe người kể chuyện xóm làng.
Cõi lòng ấm dịu, bàng hoàng bâng khuâng,
Viết
lại đây mẩu đời luân lạc,
Thương những người chìm nổi, đầy vơi.
Thơ quê khôn tả hết lời,
Để ghi dấu vết một thời chiến tranh.
Thương những người chìm nổi, đầy vơi.
Thơ quê khôn tả hết lời,
Để ghi dấu vết một thời chiến tranh.
Dâng
má thương
"Thổ
ngơi thơm phức", vì là nơi "má thương" xưa đã ở.
"Hồn
đất", "hồn ma..."...
"Những
người muôn năm cũ
Hồn ở đây bây giờ"!
Hồn ở đây bây giờ"!
----
Từ
đáy thời gian, dậy tiếng ru
Ầu ơ lời má, giọng trầm phù
Má ơi, hồn đất bao năm thiếp
Bỗng chốc trưa nay vẳng, tít mù...
Ầu ơ lời má, giọng trầm phù
Má ơi, hồn đất bao năm thiếp
Bỗng chốc trưa nay vẳng, tít mù...
Kẽo
kẹt xà nhà tiếng võng đưa
Đâu đây đồng vọng cõi xa xưa
Thổ ngơi thơm phức: hồn ma cũ
Lòng rộn vui mà mắt lệ mờ
Đâu đây đồng vọng cõi xa xưa
Thổ ngơi thơm phức: hồn ma cũ
Lòng rộn vui mà mắt lệ mờ
Ngày
qua, năm tháng cứ trôi xuôi
Một phút nhớ xưa, thoắt ngậm ngùi
Những ngỡ tro tàn trong bếp lạnh
Hay đâu than ngún dưới tro vùi
Một phút nhớ xưa, thoắt ngậm ngùi
Những ngỡ tro tàn trong bếp lạnh
Hay đâu than ngún dưới tro vùi
Ngược
dòng năm tháng mấy dòng này
Những áng tuyết xưa gợi lại đây
Gởi cả muôn thương cùng vạn nhớ
Tân Uyên đất má, thảm vơi đầy.
Những áng tuyết xưa gợi lại đây
Gởi cả muôn thương cùng vạn nhớ
Tân Uyên đất má, thảm vơi đầy.
(1)
"Chùa" nghĩa là miễn phí, lối nói phổ thông ở SG trước 1975.
(2) Lộ 18 sau thành đường Trương Tấn Bửu, rồi Trần Quang Diệu.
(3) Đẹp, nói theo người miền Trung.
(2) Lộ 18 sau thành đường Trương Tấn Bửu, rồi Trần Quang Diệu.
(3) Đẹp, nói theo người miền Trung.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét