Cao Bá Quát kẻ sĩ, người con xuất sắc
của Kinh Bắc qua một bài thơ Say
Xưa nay thi nhân thường mượn rượu để nói chí mình là chuyện thương
tình. Ta dễ dàng gặp các gặp các bài thơ này trong dòng thơ Đường của Tàu mang
tư tưởng ấy.
Phong cách của người xưa, một khi có tâm sự u uất, họ mượn
chén rượu để làm vơi nỗi buồn, hoặc muốn nói rõ ý chí chí mình họ cũng
tìm qua đó. Xưa nay các nhà thơ Tàu và cả ta thường như thế cả .Uống
rượu với hai hay nhiều bè bạn để cùng chia sớt tâm sự, hay nỗi lo của kẻ sĩ trước
sự hưng vong của dân tộc là chuyện thường tình. Khi rượu vào là có lời ra. Rượu
lời xảy ra thường song hành trước khi và trong khi uống, sau khi thì cực kỳ hiếm
hoi.
Ông vua về dòng thơ uống rượu để nói cái chí mình, phong cách sống của mình bên Tàu là Lý Bạch. Lý tuy viết khá nhiều nhưng kém
hơn cụ Cao về độ đậm đặc trong ngôn từ và trong tư tưởng gọi ghém trong 28 chữ.
Ý nghĩ, tư tưởng trong thơ được cô đúc trong thể thơ hay nhất của Tàu là dòng tứ
tuyệt [2] thì rõ ràng thơ Tàu không có bài nào qua nổi với bài Bạc vãn túy quy
của cụ Cao bá Quát Việt Nam chúng ta .
Có thật không?
Với Cao thi bá, nỗi ưu tư dằng dặc đeo bấm ông đến tận đường
về nhà. Đó là trường hợp "sau khi uống" điều này cho thấy Cụ uống
mãi ,uống mãi cho đến khi Cụ không còn có khả năng uống nữa, hoặc Cụ đã uống đến
từng giọt rượu cuối cùng. Nỗi niềm không hết thì làm sao mà ngưng được rượu trừ
trường họp bất khả. Uống để trút, để vơi tâm sự u uất cùng nổi lòng trước sự
suy tàn vong của tổ quốc3, cụ quá đổi cô đơn! Cái lo trước sự ô nhục của
giống nòi Đại Việt theo cụ là không sao tránh khỏi. Nổi ô nhục dằn vặt tâm tư cụ
hẳn đã lâu, nay còn kéo dài mãi từ khi nhập cuộc cho đến tận đường về. Cụ quá
say và nổi ô nhục là quá lớn. Nổi ô nhục không buông hề chịu buông tha
cho kẻ sĩ cho đến khi cụ gặp người quân tử (qua hình ảnh tượng trưng hoa sen
tinh khiết trong đầm, trong áo, một nình ảnh của người nho sĩ chọn con đường ở
ẩn). Được gặp đối tượng có thể "ngang tầm" ,có thể lắng nghe, cụ
dừng chân để trút lời thỏ thỉ dài dòng (có lẽ lẫn vào đó là cả lời xỉ vả rằng: ”ngươi có còn chia cùng ta trước nỗi nhục này không!, sao ngươi ích kỷ chỉ
tự cứu mình lánh tục ". Có lẽ cuối bài là giọt nước mắt của tiền nhân.
Thương quá!
Xin mời Khách thơ đọc lại giai đoạn lịch sử [3] này..
Năm Đinh mùi (1847,đời vua Thiệu Trị ,nhà Nguyễn ) , tháng ba
(âm lịch) quân Pháp sinh sự tại cửa Đà nẳng, bắn chìm năm chiếc thuyền đồng của
ta tại đây Lãnh binh Nguyễn đức Chung tử trận.
Tháng 10 âm lịch cùng năm, Tự Đức lên ngôi .Tự Đức thay vì dưỡng
sức dân, khoan thuế để nương sức dân như kế sách kháng Nguyên của Đức thánh Trần
năm xưa thì lại tập trung quốc khố dùng cho việc xây lăng tẩm, cho cha ,cả cho
mình và tiếp tục đỏ tiền vào xây dựng kinh thành Huế để đời. Kinh Thành cho dù
đẹp mà sĩ khí quốc gia không còn, dân khiếp nhược thì làm sao mà giữ được nước.
Một ông vua hèn như thế, ích kỷ như thế, tư cách như thế, vua gì mà mỗi khi mở miệng
là "mẹ con trẫm ra sao! ăn ở đâu?", Tự Đức ngồi trên ngai những 46
năm lấy thơ ca làm niềm vui. Đất nước này sao mà không tàn mạt. Một oan nghiệt
của giống nòi Lạc Việt!. Tai trời ách nước cho toàn giống Lạc hồng. Chỉ có Nguyễn
Công Trứ [4] (1778-1858) là xum xoe!
Năm Tân hợi (1849) dịch bệnh làm dân Bắc Hà chết 589.460
người (hơn nửa triệu); năm 1851 tại Lạng Sơn dịch bệnh làm chết hơn 4000 người.
Từ năm 1849 đến 1854 ( năm CBQ tử trận vì khởi binh chống lại vương triều);
không có năm nào dưới triều Tự Đức mà dân ta không chết vì đói, vì dịch bệnh
hay vì tai trời ách nước như vỡ đê ,bão táp, lũ lụt. Dân khổ trăm bề! .
Vùng biên giới phía bắc thổ phỉ Tàu và binh lính Thanh sang quấy phá và dời cột
mốc. Cao Bá Quát chứng kiến quá nhiều chuyện buồn lòng. Lòng kẻ sĩ CBQ làm sao
không quặn đau . Đọc đến đây laiquangnam buồn quá không sao đọc tiếp dùm cho
Khách thơ giai đoạn lịch sử u ám này, mong được Khách thơ rộng lượng ...
Xin mời Khách thơ
高伯适
cao bá quát
Nguyên tác chữ Hán
薄 晚 醉 歸
酩 酊 歸 來 不 用 扶
一 江 煙 竹 正 模 糊 喃 喃 自 與 連 花 說 可 得 紅 如 酒 面 無? |
Phiên âm:
Bạc vãn tuý quy
Minh đính quy lai bất dụng phù Nhất giang yên trúc chính mô hồ Nam nam tự dữ liên hoa thuyết Khả đắc hồng như tửu diện vô ?
Cao Bá Quát
Xin tạm dịch nghĩa
Chiều tà say trở về
Say lắm trở về không cần dìu đở, Một sông, khói tre cùng mịt mờ Lãm nhãm một mình nói cùng hoa sen: Có đỏ sậm như mặt rượu này không? |
Dịch thơ quốc âm
1
Say quá! đường về... cứ mặc ta .
Một sông khói trúc án lòa nhòa Càm ràm cô độc bên sen đỏ Rượu đỏ mặt này Sen kém Qua!
Laiquangnam
2
Xỉn gi! về để mặc ta!
Một sông sương khói nhập nhòa sóng tre Nhìn sen, lẩm rẩm ri hè: "Mặt sen mặt rượu đỏ kè, mặt nao?" Hử!.
Laiquangnam
3
Chiều hôm say về.
Ta say, chẳng bận ai dzìu,
Một sông, bóng trúc khói chiều tiêu tao. Này sen, tớ hỏi tầm phào: Hồng sen, hồng rượu, hồng nào hồng hơn ?
Đặng Tiến, 07.30
|
Tham khảo
1- Vũ Khiêu chủ biên, Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, nxb Văn học
1970, sách được viết bởi những người có thẩm quyền thuộc viện văn học Hà Nội
2-.Nguyễn sĩ Đại, Một số đặc trưng nghệ thuật của thơ tứ tuyệt
đời Đường
(luận văn tiến sĩ ),Văn học ,2007
(luận văn tiến sĩ ),Văn học ,2007
3- Đỗ Đức Hùng (Viện sử học), Việt Nam những sự kiện lịch sử, NXB
Giáo dục, 2006
4-Đàm xuân Thiều, Trần trọng San, Việt văn độc bản lớp
11.BGD-TTHL -1971 ( tái bản lần thứ 7)
Chú vài tiếng Việt:
án là chận (ví dụ án ngữ); án gần như đồng âm vói áng là là
tảng,là mảng,là bức dư đồ.
Hử là tiếng gằn thịnh nộ của mà người dân Nam trung bộ
thường dùng.
Laiquangnam
Theo http://chimviet.free.fr/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét