"Hoa bần thôi rụng''
1. Tôi làm quen với "Chương trình thi văn Mây Tần"
trên đài phát thanh Sài Gòn từ thập niên 60 của thế kỷ trước qua bài thơ ‘QUÊ
NGOẠI". Mấy chục năm dài trôi qua, bây giờ đọc lại, mới thấy rõ những vụng
về trong vần điệu, ngôn từ...của thơ thời học trò hồn nhiên, trong sáng. Nhưng
tôi yêu quí bài thơ vô cùng , bởi nhờ nó mà tôi mới có cơ hội gặp gỡ, gắn bó
lâu dài với một nhà thơ lớn miền Nam : Kiên Giang-Hà Huy
Hà.
Bài thơ được diễn ngâm liên tục hai kỳ trong chương trình
"Thi văn Mây Tần". Sau đó, qua phần nhắn tin, anh Kiên Giang muốn
gặp tôi để thực hiện môt cuộc phỏng vấn về nhóm Về Nguồn-Tây Đô mà tôi và một số
anh em văn nghệ tại Cần Thơ như Huyền Vân Thanh, Trân Khanh, Lăng Cảnh
Huy... sáng lập từ năm 1964..Tôi và anh Lê Hà Uyên lên Sài Gòn để trả lời phỏng
vấn. Cần Thơ-Sài Gòn chỉ hơn trăm cây số, nhưng phải qua hai phà Cần thơ, Mỹ
Thuận lại thêm những bất trắc của đoạn đường thời chiến, nên dù đi từ sáng sớm
mà đến xế trưa anh em tôi mới tới Sài Gòn! Nơi gặp là môt quán cà phê nhỏ nằm
trên đường Phát Diệm, cạnh tòa soạn báo Tin Sáng lúc bấy giờ. Điều tôi không ngờ
được là trong buổi chiều hôm đó, tôi lại vô cùng vinh hạnh được diện kiến
đến hai ngôi sao trên khung trời văn nghệ miền Nam : nhà thơ Kiên Giang và nhà
văn Sơn Nam. Bằng thái độ hết sức chân tình, hai anh đã hỏi thăm chúng tôi về
những hoạt động văn nghệ ở Cần Thơ, trao đổi về các sáng tác của
nhóm Về Nguồn. Tôi không thể nào quên được buổi chiều hôm ấy dù đã trên 40 năm
với bao nhiêu sao dời vật đổi. Hình ảnh những bậc đàn anh văn nghệ lại rất mực
gần gũi, khiêm tốn ngay cả với những thế hệ đi sau-cho đến hôm nay-vẫn
mãi là một ấn tượng khó phai trong lòng tôi. Suy cho cùng, bài học về đạo
lý làm người nầy, chắc hẳn đâu chỉ riêng tôi, mà còn cho bao nhiêu người
làm văn nghệ trong cuộc sống hôm nay. Cũng trong chiếc quán nghèo đó, ngồi
cạnh bàn chúng tôi , còn có diễn viên điện ảnh La Thoại Tân và nhà văn
đang "ăn khách" Nghiêm Lệ Quân. Những người "muôn năm cũ"
đó, giờ ai còn, ai mất, hay đang trôi dạt nơi xứ lạ trời xa?
Từ lần gặp gỡ nầy, tôi được hai anh
hết lòng giúp đỡ. Qua anh Kiên Giang, tôi có dịp làm quen với bao nhiêu
người bạn văn nghệ khắp miền đất nước : Trần Ngọc Hưởng, Như Uyên Thủy, Mặc Tuyền,
Ngô Nguyên Nghiễm, Việt Chung Tử...Năm 1970, tôi và các bạn thực hiện tạp chí
KHƠI DÒNG, thì cũng chính hai anh Kiên Giang và Sơn Nam góp tiếng với các sáng
tác của mình mà không hề đòi hỏi một đồng nhuận bút. Kiên Giang với bài thơ
"Lúa sạ miền Nam" và Sơn Nam với truyện ngắn "Người đẹp Cần
Thơ". Đây là những sáng tác của hai anh chưa từng đăng trên bất kỳ tạp
chí, nhật báo nào ở miền Nam. (Lúc đó, tập thơ "Lúa sạ miền Nam" của
Kiên Giang cũng chưa xuất bản). Nếu bạn là những người làm văn nghệ ở miền Nam
trước 1975, hiểu được vị trí của hai cây "cổ thụ" nầy
trên văn đàn, thì bạn mới biết đây là một góp mặt lớn lao và ý nghĩa đến
dường nào. Cũng từ sự động viên của hai anh, tôi đã cùng các anh chị
em văn nghệ tại Cần Thơ cộng tác với Đài phát thanh Cần Thơ để thực hiện"Chương
trình thi văn Về Nguồn", hoạt động liên tục từ năm 1968 cho đến tháng
4 năm 1975.
2. Từ sau 1975,
anh em chúng tôi như những nhánh sông đời trôi về vạn nẽo. Nhóm Về
Nguồn xẻ đàn tan nghé, mỗi người một cuộc đời riêng. Tôi mỏi mòn chạy
theo"nghiệp dĩ", gắn với nghề dạy học. Con đường xa tăm tắp, nặng nợ
áo cơm, thêm bao nhiêu đổi thay sau ngày 30-4 ở miền Nam, đã làm cằn
khô trong tôi những ước mơ, nhiệt tình về văn nghệ. Đôi khi nhớ quay quắt
kỷ niệm một thời, nhớ bạn bè ..nhói lòng, nhưng cũng cố quên...Với ước mơ
ngày đất nước thanh bình của một người trẻ lớn lên từ ly loạn, trong bài viết
nhân kỷ niệm 7 năm (1971) thành lập nhóm Văn nghệ Về Nguồn-một nhóm văn
nghệ học trò-tôi đã nói lên cảm xúc tự lòng mình: "Ngày nào thôi làm
văn nghệ,tôi sẽ bắt chước Kiều Phong, đưa A Châu về bên kia ải Nhạn Môn quan
chăn cừu độ nhật.
Kiều Phong rữa tay gác kiếm, bỏ một bên những ân oán giang hồ. Tôi sẽ hứa với nàng là chẳng làm thơ nữa, nếu có chăng là đặt vài câu lục bát để nàng thay ca dao hát ru con ngủ. "Cái ước mơ mang hơi thở "kiếm hiệp Kim Dung" có pha chút ngông nghênh thời trai trẻ đến hôm nay phần nào đã bị thời gian ma chiết.
Nhưng cũng có lẽ chính ước mơ nầy đã thắp lại
ngọn lửa nhen nhúm trong lòng. Một điều lạ là những năm đầu tiên sau 1975, tôi
lại gặp anh Kiên Giang nhiều hơn. Anh thường xuống Cần Thơ và lần nào cũng ghé
nhà tôi. Trong những lần đó, anh luôn động viên phải gắng "giữ lửa",
gắng đi tiếp con đường văn nghệ. Cũng trong những lần đó, tôi mới hiểu thêm một
phần về sự thủy chung, ân nghĩa trong trái tim nhà thơ lớn. Lần nào , anh
cũng rũ tôi ( có khi có cả anh Lê Hà Uyên), đến thắp hương cho cố nhân trong
bài thơ "Hoa trắng thôi cài trên áo tím". Trong ngôi nhà nhỏ nằm
phía sau nhà thờ Chánh tòa Cần Thơ, anh thường ngồi yên lặng nhìn lên chân dung
người đã mất sau làn khói hương nghi ngút. Hai người con của chị hiện sống ở
đây -đều là giáo viên- rất hiền lành, mực thước , rất quí trọng nhà thơ và gọi
anh là cậu. Một điều cũng rất lạ là tên anh em trong gia đình đều bắt đầu bằng
vần Tr..( Ba của các em cũng có tên Trinh, giống như tên nhà thơ Kiên Giang. Có
phải chăng từ một góc sâu thẳm trong trái tim người con gái xóm đạo vẫn là nỗi
hoài niệm khôn nguôi về một mối tình thời học trò thơ dại?
Kiều Phong rữa tay gác kiếm, bỏ một bên những ân oán giang hồ. Tôi sẽ hứa với nàng là chẳng làm thơ nữa, nếu có chăng là đặt vài câu lục bát để nàng thay ca dao hát ru con ngủ. "Cái ước mơ mang hơi thở "kiếm hiệp Kim Dung" có pha chút ngông nghênh thời trai trẻ đến hôm nay phần nào đã bị thời gian ma chiết.
Ít nhất một lần, anh
Kiên Giang rủ tôi cùng theo anh vào nghĩa trang Công giáo viếng mộ người xưa.
Nhìn anh đứng lặng lẽ thật lâu trước ngôi mộ trong buổi trưa cuối năm vắng ngắt,
lòng tôi dâng lên bao nỗi cảm hoài tha thiết. Hình như hôm đó, trời đất đã chuyển
mùa, gió bấc phương Nam đủ làm se lạnh lòng người, mái đầu nhà thơ qua mấy mươi
năm xuôi ngược giang hồ cũng đã ngã màu sương gió. Trong khoảnh khắc đó, tôi nhận
ra cái phù du của kiếp người, cuối cùng rồi cũng lấp vùi trong cát bụi thời
gian. Và cũng trong khoảnh khắc đó, càng thấm thía hơn hai câu thơ của anh:
"Trong lòng con- giữa màu hoa trắng,
Cứu
rỗi linh hồn con, Chúa ơi!".
Mấy năm sau nầy, vì tuổi tác, anh Kiên Giang ít có dịp lên xuống Cần Thơ. Giật
mình khi chợt nghĩ nhà thơ đã vượt tuổi tám mươi. Đọc báo, nghe tin anh bị người
khác mượn danh làm chuyện không tốt do anh ưa để mất điện thoại di động, càng
ngậm ngùi hơn khi nhớ lại cuộc gặp gỡ năm nào chỉ như là giấc mộng! Tuổi già
làm cho ta dễ nhớ, dễ quên, con đường "phiêu bạt giang hồ" của người
thi sĩ tài hoa ấy cũng ngắn lại như con đường thời gian của một kiếp người mong
manh , là hạt bụi trong vũ trụ vô cùng. Nhưng tôi tin rằng,với tâm hồn đầy ắp
lòng nhân ái đó, Kiên Giang vẫn mãi mãi là một" hạt bụi nghiêng mình
nhớ đất quê"...
3. Tôi sinh ra ở một vùng quê nghèo nằm ven bờ sông Tiền bốn mùa miên man sóng vỗ.
Từ những năm thơ ấu, trong tâm hồn đứa học trò nhà quê nhiều mơ mộng đã không
biết bao lần bâng khuâng khi nhìn những cánh hoa bần rụng xuống trường giang. Hồi
đó, tôi chưa quen và cũng chưa được đọc bài thơ nào của anh Kiên Giang. Sau nầy,
khi đã vào Trung học có dịp biết đến tập thơ "Hoa trắng thôi cài trên áo
tím", tôi rất tâm đắc mấy câu thơ anh viết trong bài "Đẹp Hậu
Giang" :
Nếu cô thôn nữ ngừng câu hát,
Nếu bạn thương hồ bặt tiếng ca
Đờn nguyệt không hòa câu vọng cổ
Hoa bần thôi rụng xuống phù sa.
Có lẽ những
câu thơ nầy tác giả viết ra từ nguồn rung cảm về những tiếng hát câu hò một thời
trên sông nước miền Nam. Khi tôi vừa lớn lên , cũng là lúc chinh chiến tràn
lan, tiếng đạn nổ bom gầm đã giết chết bao âm thanh ngọt ngào, trong trẻo
của những chàng trai, cô gái miệt vườn cất lên trong những đêm trăng trải dài
theo từng vàm sông, ngọn rạch.
Nhưng, bất chấp qui luật khắc nghiệt của những đổi thay từ cuộc sống, bất chấp chiến tranh, và ngay khi cả tiếng đàn nguyệt lắng sâu vào quá vãng, thì hoa bần vẫn rụng xuống phù sa! Có phải chăng đó chính là nguồn mạch quê hương, là tự tình dân tộc vẫn âm thầm cuộn chảy trong trái tim ta khi bao lượn sóng đời cứ muốn xô dạt ân nghĩa, thủy chung về cuối trời quên lãng?
Nhưng, bất chấp qui luật khắc nghiệt của những đổi thay từ cuộc sống, bất chấp chiến tranh, và ngay khi cả tiếng đàn nguyệt lắng sâu vào quá vãng, thì hoa bần vẫn rụng xuống phù sa! Có phải chăng đó chính là nguồn mạch quê hương, là tự tình dân tộc vẫn âm thầm cuộn chảy trong trái tim ta khi bao lượn sóng đời cứ muốn xô dạt ân nghĩa, thủy chung về cuối trời quên lãng?
Và cũng phải chăng cánh bông bần
mang sắc trắng tinh anh đó, cũng chính là tấm lòng của những con người nặng
nợ văn chương như Sơn Nam, Kiên Giang, như bao nhiêu đứa con của vùng đất phương
Nam, góp hương làm đẹp cho đời rồi cuối cùng âm thầm gửi trọn kiếp nhân sinh
cho mạch đất phù sa ngọt ngào ân tình quê mẹ?
Bài viết ngắn ngủi nầy xin được gửi đến
anh, một đàn anh văn nghệ mà tôi vô cùng yêu mến và trân trọng. Mấy mươi
năm gặp gỡ và quen biết quả thực không nhiều so với đất trời vô tận, nhưng
riêng tôi, là những tháng năm đầy hạnh phúc. Anh Kiên Giang ơi, biết đến
bao giờ anh em mình mới có dịp qua chuyến đò Xóm Chài trong buổi hừng
đông, bỏ lại sau lưng thành phố Cần Thơ rộn ràng xe ngựa để anh viết trọn những
dòng thơ đầy lãng mạn: "Cô lái đò ngang cười chúm chím-Thầm
trêu hàn sĩ lúc sang sông"?....
Cần
Thơ, những ngày cuối năm
NGHĨ VỀ NGÔI TRƯỜNG TRĂM TUỔI
Kỷ niệm 100 năm trường Nam tiểu học Cần Thơ
1. Vào những năm đầu thế kỷ XIX, vùng đất Trấn Giang đã được “Gia Định
thành thông chí” nhắc đến như là một trong những trung tâm thương mại phồn
thịnh nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu. Địa danh Tân An, Thới Bình đã có rất sớm
ngay trong buổi đầu khai hoang mở đất. Trong thời điểm này, giao thông chủ yếu
vẫn là hệ thống sông rạch thiên nhiên “nhiều như mạng nhện”, dẫn đến việc hình
thành hệ thống làng xã dọc theo các con sông với những xóm ấp, chợ búa, đình
chùa,… mang nét riêng của văn hóa miền sông nước.
Với những người lưu dân sống đời “gạo chợ nước sông” như thế,
phải đấu tranh với thiên nhiên để tìm cái sống, nên buổi đầu - không chỉ Trấn
Giang- mà cả vùng Nam Bộ, người dân ít chú trọng đến việc học hành, thi cử. Cộng
đồng dân cư ở Trấn Giang bao gồm: một bộ phận là binh lính và gia đình của quân
binh Hà Tiên, Rạch Giá và một bộ phận là những lưu dân từ miền ngoài vào, từ miền
Đông xuống. Vì thế, những dấu vết văn hoá truyền thống từ miền ngoài còn được
lưu giữ trong tập tục thờ cúng của nhiều địa phương trong vùng. Nhưng qua năm
tháng, ý thức hệ Nho giáo cùng với những chế định về văn hoá - giáo
dục, những quy tắc về đạo đức và chuẩn mực ứng xử ngày càng phát triển. Nói như
thế, việc giáo dục ở phương Nam vẫn theo khuôn mẫu cửa Khổng sân Trình như ở miền
Trung, miền Bắc. Những bậc trí thức khai khoa làm vinh dự cho vùng đất lầy, đất
đứng như Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan văn Trị,...đã
góp mặt vào giới khoa bảng dân tộc bằng tài năng và nhân cách mang đậm “sĩ khí
miền Nam”.
Nhưng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử có
nhiều biến động dữ dội ở Nam Kỳ lục tỉnh. Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông
theo hoà ước nhượng bộ của triều đình Huế năm 1862.
Ngày 20, 22 và 24 tháng 6-1867, thực dân Pháp đã vi phạm hoà
ước 1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Ngày 1-1-1868, Thống đốc Nam Kỳ Bonard quyết định sáp nhập
huyện Phong Phú (Trấn Giang - Cần Thơ) với Bãi Sào (Sóc Trăng) đặt thành quận,
lập toà bố tại Sa Đéc.
Ngày 30-4-1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập Phong
Phú với Bắc Tràng (một vùng thuộc phủ Lạc Hoá, tỉnh Vĩnh Long) lập thành một hạt,
đặt toà bố tại Trà Ôn. Một năm sau, toà bố Trà Ôn lại dời về Cái Răng (Cần
Thơ).
Ngày 23-2-1876, Soái phủ Sài Gòn ra Nghị định mới lấy huyện
Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ (Arrondissement
de Cantho) với thủ phủ là Cần Thơ (làng Tân An, huyện trị của huyện Phong Phú
cũ). Năm 1889, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi
thành quận.
Như vậy, từ năm 1876 đến năm 1954, Cần Thơ – một phần đất của
Nam Kỳ lục tỉnh - nằm trong sự cai trị của chính quyền thực dân Pháp. Khi đã tạm
ổn định về an ninh, chính quyền xâm lược tiến hành việc khai thác thuộc địa: không chỉ
tiềm năng kinh tế mà còn cả chất xám của người dân bản xứ.Trong chiều hướng đó,
tại các địa phương nhiều trường học đã được người Pháp lập ra.
2. Nói đến các trường học ra đời tại Cần Thơ, ta thường nghĩ tới
trường College de Can tho, nay là trường THPT Châu văn Liêm được
xây dựng từ năm 1917. Thực ra, có những ngôi trường ra đời còn sớm hơn cả trường
Trung học Cần Thơ. Đó là trường Tiểu học Phong Phú (nay là trường Tiểu
học Trần Hưng Đạo) có mặt đã 101 năm! Và trong thành phố Cần Thơ, trường Nam Tiểu
học (nay là trường Tiểu học Mạc Đỉnh Chi) vừa tròn trăm tuổi.
Trường Tiểu học Mạc Đỉnh Chi được xây dựng và đi vào hoạt
động cách đây đúng 100 năm (1913-2013). Nó ra đời trước trường College de
Cantho (nay là Trung học phổ thông Châu Văn Liêm) đúng 4 năm. Trường
tọa lạc trong địa phận làng Tân An, nay thuộc phường An Hội - Quận Ninh Kiều,
TP Cần Thơ, là một trong những ngôi trường nội ô lâu đời nhất của thành phố
Cần Thơ và cả miền Tây sông Hậu.
Trường gồm 3 khu vực, địa giới ban đầu gần bên nhau với tổng
diện tích 6750m2.
Khu vực chính (Khu A - vị trí của trường tiểu học Mạc Đỉnh
Chi hiện nay) xây dựng năm 1913, diện tích rộng 4560,9m2, nằm giữa 4 con đường
chính. Mặt chính của trường hiện nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (đường Phan
Thanh Giản cũ), bên trái là đường Trương Định, bên phải là đường Võ Thị Sáu
(trước là đường Pasteur), phía sau của trường là đường Ngô Hữu Hạnh (trước đây
là đường Trịnh Tấn Truyện). Vị trí này rất thuận lợi cho việc đi lại học hành của
học sinh và cả việc đưa rước con em của các bậc phụ huynh.
Khu B: Trước còn gọi là trường Võ Tánh xây dựng năm 1948 (nay
là Trung tâm GDTX – KTTHHN TP. Cần Thơ tọa lạc ở góc đường Trương Định – Xô Viết
Nghệ Tĩnh).
Khu C: (tức là Mẫu giáo An Hội) xây dựng năm 1949, hiện
nay không còn sử dụng.
100 năm qua, những thế hệ học sinh đã lớn lên từ mái trường
này luôn làm rạng danh nhà trường bởi thành tích học tập, rèn luyện của mình.
Nhiều học sinh thành đạt ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, làm việc
ở mọi nơi của Tổ quốc. Nhiều cựu học sinh có học hàm, học vị cao, nhiều học
sinh giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt cấp thành phố, cấp quận, các tổ chức , đoàn
thể, quân đội… Nói không quá lời, hầu như những nam công dân cư ngụ trên địa
bàn trung tâm thành phố, từ những năm 13 của thế kỷ trước, đều bước chân qua cổng
trường Nam tiểu học với bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào của thời thơ ấu. Sức lan tỏa
của ngôi trường không chỉ ở địa phương Cần Thơ, mà nó còn đi theo bước chân những
học sinh ngày nào đến mọi miền Tổ quốc để cùng nhân dân góp sức dựng xây, bảo vệ
quê hương bằng tri thức, bằng cả tuổi thanh xuân đã một thời được sự dạy dỗ của
bao bậc ân sư đất Cần Thơ cây lành trái ngọt.
2. Khi tôi đến Cần Thơ thì đã trưởng thành và cũng qua rất lâu
thời học trò tiểu học. Chính vì thế, tôi không có được vinh dự là học
sinh của ngôi trường tuổi tròn thế kỷ. Nhưng không biết bao nhiêu lần, tôi đứng
tần ngần trước những dãy phòng học cũ kỹ, nằm lặng lẽ dưới những cây còng rợp
bóng ban trưa, hay những đêm mưa, ánh đèn từ bên ngoài đường Phan Thanh Giản hắt
ánh sáng vàng vọt vào khoảng sân trường ngập nước. Sao mà trường Nam Tiểu học Cần
Thơ giống vô cùng trường Tiểu học Tân Thạch ở quê tôi, vùng đất Bến Tre trong
những năm mịt mờ khói lửa. Rồi lại nhớ lan man đến Thầy cô, những
người gần gũi biết bao với đám học trò quê áo quần không lành lặn, mỗi sáng ôm
chiếc cặp đan bằng đệm, lội qua mấy đoạn đường ngập nước, qua mấy chiếc cầu gãy
nát vì bom đạn, rồi lại tiếp tục qua “mấy gian đồng” mắt đã mờ vì bụng đói đường
xa mà ngôi trường vẫn còn xa thăm thẳm!...
Có lẽ vì thế mà tôi quý trọng biết bao những thầy cô dạy tại
trường Nam tiểu học Cần Thơ. Có thầy về sau chuyển sang làm Giám thị tại trường
Phan Thanh Giản, rất được học trò kính nễ vì đức độ, nhân cách, nhất là việc đối
xử với học sinh bằng cả tấm lòng nhân ái. Quý Thầy Cô ngày nào kiên trì tận tụy
với nghề, giờ đây hầu hết đã bước vào cõi trường sinh. Một trăm năm đi qua đã
có biết bao thế hệ Thầy Cô nối bước để viết tiếp những trang đời. Và... bao lớp
học trò lớn lên, rời khỏi ngôi trường thân yêu bước xuống cuộc đời, sao khỏi bồi
hồi khi nhớ về những tháng ngày thơ ấu?
Qua tuổi sáu mươi, mỗi sáng tôi lại đến trường Nam tiểu học
ngày nào với một công việc khác hơn: đưa cháu vào lớp học. Ngôi trường đã hoàn
toàn thay đổi với những dãy lầu cao, những phòng học khang trang,
làm ta hơi hụt hẫng. Nhưng trên sân trường như vẫn còn đọng lại chút hồn xưa. Đứng
bên này nhìn qua cánh cổng, tôi vẫn còn thấy được bên kia là mái ngói cổ kính
rêu phong, là dãy lầu với khung cửa sổ lá sách quen thuộc của trường trung học
Cần Thơ. Đây cũng là nơi tôi từng đứng hơn 40 năm trước.
Từ điểm “định vị” này, tôi đã quyết tâm tiếp bước thầy cô. Khi tóc bắt đầu nhuốm bạc, khi bỏ lại hết ảo vọng phù hoa, ta mới thực sự trải lòng ngược dòng kỷ niệm và trong phút giây chợt thấy mình trở lại tuổi hai mươi!
Từ điểm “định vị” này, tôi đã quyết tâm tiếp bước thầy cô. Khi tóc bắt đầu nhuốm bạc, khi bỏ lại hết ảo vọng phù hoa, ta mới thực sự trải lòng ngược dòng kỷ niệm và trong phút giây chợt thấy mình trở lại tuổi hai mươi!
Phía
sau tôi, tiếng cười đùa của các học sinh như tiếng chim ríu rít gọi bình minh.
Trong vô cùng những âm thanh rộn rã đó, chắc chắn có sự góp phần của đứa cháu
ngoại thân yêu, cũng là một kỳ vọng của riêng tôi cho một tương lai rực nắng.
Và có lẽ, cũng là cách tôi đền ơn bao nhiêu bậc ân sư dù không trực tiếp dạy
mình nhưng đã cho tôi những bài học sâu xa về cuộc sống thanh cao, về điều
không gì so sánh được trong trái tim thấm đẫm chất nhân văn mãi rạng ngời trước
bao biến động của thời gian.
Thành
phố Cần Thơ đang bước vào những ngày cuối năm. Chút nắng lên cho đất
trời thêm rạng rỡ. Và càng đẹp biết bao, ngôi trường bước qua tuổi đời tròn thế
kỷ mà vạn tấm lòng vẫn phơi phới mùa xuân!.
Lê Phước Nghiệp
1. Mùa hè năm 1965, tôi về thăm quê người bạn học ở Mái
Dầm trên một chuyến tàu xuôi dòng sông Hậu. Ở quê tôi “chiếc tàu” nhỏ bé thế nầy
chỉ được gọi là “đò máy” và rất ngại mỗi lần ngược sóng
sông Tiền trong mùa gió chướng . Tàu nhỏ, dòng sông cuồn cuộn phù sa, lại thêm
đất trời trắng xóa một màn mưa, nên trong lòng không chút nào yên. Tôi ngồi nhấp
nhổm trên băng gỗ phía trước , mắt cứ ngóng về phía tay phải dòng sông. Theo lời
bạn tôi, khi nào nhìn thấy cột ống khói lò gạch, cũng có nghĩa là tới Mái Dầm.
Một tiếng-rồi hai tiếng trôi qua. Dòng sông dậy sóng, hàng đàn lục bình trôi
tăm tắp, xuôi về đâu mà hối hả như một cuộc đuổi bắt không có điểm dừng
chân? Lẫn trong tiếng máy, trong tiếng sóng vỗ vào mạn tàu, tôi còn nghe được cả
âm thanh của những tràng đại liên vang lên đâu đó trên bờ. Thời chiến, hình như
mọi người cũng ít nói hơn. Nụ cười trẻ thơ cũng tắt hẳn trên môi. Cái cảm giác
phập phòng lo sợ như một ám ảnh không rời.
Khi mọi người trên tàu reo mừng, tôi nhìn qua cửa sổ, thấy
trước mắt mình là cột ống khói xây bằng gạch thức thật cao đang thả từng ngụm
khói lên bầu trời tháng năm bây giờ sau cơn mưa đầu mùa đã trong vắt
gờn gợn mấy làn mây trắng. Bất chợt, nhìn trên bến, dọc theo bờ sông, những
cánh bằng lăng nở tím đung đưa trong gió. Bao nhiêu lo lắng, băn khoăn bất chợt
tan biến để trải lòng ra hòa nhập cùng đất trời vô tận:
Em
Mái Dầm sông xa lớp lớp
Bằng
lăng mọc tím lối lên trời
Khói
tàu bay trắng vàm kinh nhỏ
Đôi
mắt em- màu xanh biển khơi…
Chút lãng mạn thời học trò được gửi qua mấy dòng thơ.Yêu dòng
sông Hậu cuồn cuộn phù sa, yêu bến nước phủ sắc tím bằng lăng, nhưng không khỏi
ngán ngẫm vì chuyến hành trình hơn ba tiếng đồng hồ trong khi khoảng cách giữa
bến Ninh Kiều và Mái Dầm chỉ trên dưới mười cây số! Có lẽ không chỉ riêng tôi,
mà bao nhiêu khách đi tàu buổi ấy, vẫn thầm mong có một con đường nối liền phố
thị với vùng quê. Nhưng ước mơ nầy sớm chìm trong lửa đạn. Thời chiến, sinh mạng
con người mong manh, nói chi là đắp bồi, xây dựng? Năm tháng dần qua, chiến
tranh kết thúc. Bao nhiêu gia đình trở về chốn cũ. Buổi đầu còn nhiều khó khăn,
di chuyển chủ yếu vẫn là sông nước. Con đường nối các vùng quê được người dân tự
lực sửa chửa, nhưng vẫn là những con đường đất mùa mưa lầy lội. Họa hoằn lắm mới
có một số ít đường quê lót xi măng, nhưng thường ngắn và chủ yếu
dành cho người đi bộ. Như vậy có nghĩa là mơ ước năm nào của tôi và
của những hành khách trên chuyến tàu xa xôi kia ví như những cánh lục bình trôi
về biển cả…
Tháng 12 năm 2010, tôi trở lại Mái Dầm không phải trên chuyến
tàu năm cũ mà bằng xe gắn máy. Qua khỏi cầu Quang Trung, rẻ phải, bỏ lại sau
lưng cái ồn ào của một thành phố đang chuyển mình theo bước đi thời
công nghiệp hóa, con đường nhựa phía trước trải rộng thênh thang.Tháng Chạp
phương Nam thoáng chút gió mùa Đông Bắc, cái nắng không gay gắt nhưng bầu trời
thì xanh thăm thẳm làm lòng ta chợt nôn nao khi trời đất giao mùa.Về mái Dầm lần
nầy, không chỉ thăm người bạn cũ mà còn để tiễn bạn tôi vào cõi vô cùng.Thời học
trò, chúng tôi đã từng mơ ước một con đường như thế nầy, nhưng tiếc cho bạn
tôi: sau năm 1975, anh về quê sống cuộc đời nông dân bình dị rồi ngã
bệnh liệt giường suốt mấy năm dài. Điều đó cũng có nghĩa là anh không có cơ hội
để nhìn và để được đi trên con đường dẫn về quê mẹ.Và có bao nhiêu người như
bạn tôi - như những người dân tay lấm chân bùn, giống như cánh đom
đóm nhỏ bé kia lập lòe mơ ước từ một góc quê hương rồi cuối cùng chìm khuất trong
bão táp thời gian?
Mấy mươi năm dài sau chiến tranh, còn nhiều điều chưa
vừa ý và cần thay đổi, nhưng rõ ràng ai cũng nhìn thấy được những thay đổi rất
lớn của Cần Thơ. Con đường nhựa thênh thang đâu chỉ đến Mái Dầm, mà
còn qua Cái Côn, còn về Kế Sách. Cuối năm 2011, tôi và các bạn đồng nghiệp cùng
làm một cuộc viễn du. Từ con đường nầy, chúng tôi qua Kế Sách, ghé Sóc Trăng,
xuống Vĩnh Châu rồi trở lại Cần Thơ theo quốc lộ. Con đường chúng tôi đi qua
hai bên là những cánh đồng tăm tắp một màu xanh, có lúc là một thị trấn trẻ với
cửa nhà san sát. Đẹp và tự hào biết bao quê hương tôi trong những
năm tháng thanh bình…
2. Thêm một lần đất trời chuyển nhịp. Cũng buổi chiều cuối năm
se lạnh, Thành phố nhộn nhịp chuẩn bị vào Xuân. Con đường Hòa Bình lung linh
ánh đèn với sắc màu rực rỡ. Xuôi theo dòng người hối hả , tôi lại qua cầu Quang
Trung, nhưng rẽ trái theo đường dẫn cầu Cần Thơ về hướng Hậu Giang. Miền Nam
nhiều sông rạch nên đường đi cũng san sát những nhịp cầu! Nhưng có lẽ đặc biệt
và độc đáo hơn, nếu bạn dừng xe, đứng trên cầu và hướng tầm mắt về
xa. Dưới kia là dòng sông hiền hòa, đục nước phù sa, uốn quanh những vùng quê
yên tĩnh. Cặp theo dòng sông, không chỉ một con đường, mà có đến năm bảy lối
đi, kết lại tựa như những cánh hoa tỏa về muôn nẽo. Những con đường nầy dẫn về
đâu? Một thôn xóm yên bình, một chợ quê ồn ào ban sáng, hay một ngôi trường rộn
tiếng đùa vui?
Yêu biết bao nhiêu - những con đường quê như thế. Những con
đường - giống như đường về Mái Dầm - là ước mơ từ bao nhiêu năm tháng để hôm
nay trở thành hiện thực. Chợt nhớ thời thơ ấu, đứa học trò nhà quê chân đất đầu
trần, mùa mưa phải bấm từng bước chân trên con đường trơn trợt, mùa khô đất nứt
trắng, lại bước thấp bước cao nên hầu như các móng chân không bao giờ nguyên vẹn!
Con đường đi tìm tri thức của thế hệ chúng tôi sao mà vô cùng gian khổ. Có những
ngày bụng đói, phải vượt mấy “gian đồng”, mắt đổ hào quang mà trường tôi vẫn
còn xa thăm thẳm.
Tuổi thơ hôm nay thật vô cùng hạnh phúc. Con đường quê các
em đi bằng phẳng, thênh thang mà lối vào đời cũng phủ kín hoa hồng. Xin được
ghi ơn những hy sinh lặng thầm của bao nhiêu người khai hoang mở
đất. Xin gửi chút ngậm ngùi quá khứ như một hạt bụi chôn vùi để nẫy mầm hoa cỏ
.Và, để những con đường Cần Thơ tôi yêu mãi mãi là những nẽo đường xuân…
Cần Thơ, tháng Chạp 2012
1. Tôi đến Ninh Kiều lần đầu tiên vào những năm 60 của thế kỷ
20.Lúc bấy giờ, dù trong thời chiến, nhưng Cần Thơ vẫn là thành phố sầm uất nhất
ở vùng đồng bằng sông Hậu mà người dân gọi bằng mỹ từ “Tây Đô” với tất cả sự tự
hào.Suốt những năm học trò Trung học,tôi học ở trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu
và nhà ở cạnh hồ Nước ngọt, cách trung tâm thành phố Mỹ Tho chỉ một con đường.
Chẳng biết tự bao giờ,câu ca dao quen thuộc đã đi vào lòng tôi:
Đèn
Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn
Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu..
Điều đó, chứng tỏ rằng có một thời , Mỹ Tho chỉ “thua chị kém
em” là so với Sài Gòn, chớ Cần Thơ chưa xứng mặt “anh tài”!Thế mà những
năm 60, chưa bao giờ tôi thấy nhà lồng chợ Mỹ Tho mở cửa quá bốn giờ chiều.Vườn
hoa Lạc Hồng cũng là nơi khách nhàn du lui tới, phía bên kia sông là
Cù Lao Rồng xanh ngắt những vườn cây, nhưng ánh đèn đêm vàng vọt đã
giục khách nhanh chân về nhà vì phía cuối trời xa, những ánh hỏa châu long lanh
trên sóng nước Tiền Giang như nhắc nhở mọi người quê hương còn chìm
trong lửa đạn.
Với suy nghĩ đó, tôi vô cùng ngạc nhiên khi chợ Cần Thơ
hầu như buôn bán suốt đêm và bến Ninh Kiều lúc nào cũng rộn ràng xe ngựa. Hình
như cánh tay bạo lực của chiến tranh không chạm tới nơi nầy? Cũng
không cần phải đi tìm trong tư liệu về nguồn gốc tên gọi Bến Ninh Kiều.Đó là
cái tên bắt nguồn từ giai thoại về Chúa Nguyễn Ánh trong một lần thả thuyền
trên sông Bassac vì mến tiếng đàn câu hát mà đổi lại là Cầm thi giang. Đó là những
năm sau 1955, chính quyền miền Nam đổi tên Bến Hàng Dương thành Bến
Ninh Kiều bởi con đường cặp theo dòng sông lúc bấy giờ có tên là đường Lê Lợi?
Những điều nầy với tôi không có gì quan trọng. Cảm nhận trước hết của tôi về Bến
Ninh Kiều là nét đẹp trong sáng hồn nhiên của cô gái miệt vườn,
nhưng đã thay đổi y phục người phố chợ cộng thêm một chút trang điểm nhẹ nhàng,
thành ra vừa dễ gần mà lại đậm đà hương sắc làm say đắm lòng người.
Khi đất trời chuyển mùa, tháng Chạp trở về mang
theo chút gió heo may từ phương Bắc.Ấn tượng rõ nhất của mùa Đông là buổi sáng
ngợp mắt vì những chiếc áo ấm đủ màu xuôi ngược trên đường. Có lẽ những người
cùng thế hệ tôi đều có chung suy nghĩ: hình như thời đó, mùa đông lạnh hơn bây
giờ rất nhiều? Trong những ngày nầy, Bến Ninh Kiều càng rực rỡ
hơn với ngàn hoa khoe sắc. Từ Ngã ba cột đèn ba ngọn cho đến sát khu vực Hải
Quân ( nay là khu nhà hàng Ninh Kiều), hàng trăm loại hoa kiểng từ khắp nơi được
thương lái đưa về bày bán.
Hàng đoàn ghe thương hồ nối đuôi nhau, cắm sào phía dưới bờ sông.Phía bên kia, xóm Chài vốn dĩ ngày thường trầm mặc ,dường như cũng rộn rã hẳn lên.Từ các loại cúc đại đóa, cúc mâm xôi, cho đến vạn thọ, hoa xác pháo, trạng nguyên, ngọc nữ… và bao nhiêu loại hoa vừa lạ vừa quen mà tôi không làm sao nhớ hết.Cứ mỗi năm, những nghệ nhân dân gian lại sáng tạo thêm nhiều tên gọi mới, như một mong ước: sống lâu, sống giàu sang, hạnh phúc..và các loại hoa mang tên như thế cũng rất được người Cần Thơ đón nhận nhiệt tình.
Hàng đoàn ghe thương hồ nối đuôi nhau, cắm sào phía dưới bờ sông.Phía bên kia, xóm Chài vốn dĩ ngày thường trầm mặc ,dường như cũng rộn rã hẳn lên.Từ các loại cúc đại đóa, cúc mâm xôi, cho đến vạn thọ, hoa xác pháo, trạng nguyên, ngọc nữ… và bao nhiêu loại hoa vừa lạ vừa quen mà tôi không làm sao nhớ hết.Cứ mỗi năm, những nghệ nhân dân gian lại sáng tạo thêm nhiều tên gọi mới, như một mong ước: sống lâu, sống giàu sang, hạnh phúc..và các loại hoa mang tên như thế cũng rất được người Cần Thơ đón nhận nhiệt tình.
Bùng binh Đại lộ Hòa Bình Tết Mậu Thân 1968
Thời chiến, tiếng súng hòa lẫn vào tiếng pháo.Càng gần
đến ngày đưa ông Táo về trời , hai thứ âm thanh nầy lại càng chen nhau
như một điệp khúc đầy nghịch lý. Nôn nao khi sắp đón một mùa Xuân, nhưng tự
lòng tôi không khỏi thoáng chút ngậm ngùi. Cần Thơ thanh lịch, Cần Thơ rộn ràng
xe ngựa, nhưng vẫn không che giấu được những ánh mắt đượm buồn, nhưng chiếc áo
sờn vai, những bàn tay chai sần.. của người dân nghèo trôi nổi sông hồ
trên những con thuyền chất đầy hương sắc mùa Xuân để đem
bán cho đời!
Nhưng có lẽ, điều mà tôi nhớ nhất về Bến Ninh Kiều vào xuân
là những kỷ niệm ngọt ngào của một thời thơ mộng. Những năm trước 1975, học
sinh các trường công lập ở miền Nam thường được chia tách nam, nữ học
riêng. Nam sinh thì quần xanh áo trắng, còn nữ sinh thì mới vào lớp Đệ Thất (
nay là lớp sáu) đã phải mặc áo dài.Cần Thơ có hai trường trung học lớn và nổi
tiếng khắp vùng sông Hậu: trường Trung học Phan Thanh Giản và Trung
học Đoàn thị Điểm. Hai trường cách nhau một con đường nhỏ
(trước mang tên Pasteur, nay là đường Võ thị Sáu) mà lại bị cấm đi
vì ở gần khu quân sự.Biết bao nhiêu chàng “ thi sĩ học trò” đã gửi lòng mình
qua những sáng tác thơ văn đầy lãng mạn cho một bóng hồng nào đó thoáng hiện
qua chiếc cầu thang bên kia ngôi trường “kín cổng cao tường”. Những mối tình thơ
câm lặng đó rồi cũng như một con sóng nhỏ trên mặt trường giang, sẽ phai dần đi
để trở thành kỷ niệm khi chúng ta bước xuống cuộc đời.Nhưng, mùa Xuân và Bến
Ninh Kiều đã khơi một dòng chảy cho nước về nguồn, cho bao nhiêu câu chuyện
tình học trò cứ tưởng mong manh như sương khói mà lại bền bĩ với thời gian.
Hạnh phúc nhất với tuổi học trò chúng tôi thời đó là những buổi
sáng giáp Tết, cũng ôm cặp sách tới trường, nhưng không vào lớp, mà điểm hẹn
là Bến Ninh Kiều! Mặt trời lên, mang theo chút nắng ấm, gió từ sông
Hậu thổi vào lồng lộng,bạn cứ ngỡ đi trong chợ hoa mà như lạc tới Đào
Nguyên! Chung quanh ta, hàng trăm tà áo dài trắng nữ sinh tung bay
trong gió, những nụ cười, ánh mắt, những câu chuyện không dứt.. Mùa Xuân hình
như tràn ngập trong mỗi trái tim người..
Giã từ năm tháng học trò, bước vào cuộc sống với
bao nhiêu hệ lụy, hình ảnh một thời đó đã bị phủ kín bởi lớp bụi thời gian.Mấy
mươi năm- dù vẫn sống ở Cần Thơ- nhưng rất ít khi tôi đi chợ Tết Ninh Kiều. Cuộc
sống bộn bề lo toan chuyện áo cơm, con cái.. Những ngày giáp Tết thì tất bật nên
nếu có ghé vào phiên chợ tết thì cũng vội vàng. Một điều nữa là hiện nay, nữ
sinh cũng rất hiếm khi mặc áo dài trắng như ngày xưa, nên chợ hoa Xuân -với cảm
nhận riêng tôi- hình như cũng giãm phần sinh động.
2. Mùa Xuân lại về. Bến Ninh Kiều hôm nay đẹp hơn với những công
trình xây dựng. Lối đi rộng hơn, con đường cặp sát bờ
sông thoáng đãng và không còn lồi lõm như nhiều
năm trước. Phía bên kia, Xóm Chài cũng đang dần thay chiếc áo cũ kỹ năm xưa để
bước vào thiên niên kỷ mới. Chợ hoa sau bao nhiêu lần đổi chỗ, cuối cùng nơi
đây vẫn là điểm chính. Thực ra, khách có thể đến chợ hoa Nhị Kiều, làng hoa Bà
Bộ, hay những con đường hoa tự phát dọc theo lối dẫn về Bình Thủy-Long Tuyền.
Nhưng có lẽ trong suy nghĩ của những cư dân “cố cựu” Cần Thơ, thì không nơi nào
phù hợp hơn Bến Ninh Kiều.Điểm đặt chợ hoa không chỉ thuận tiện cho người mua
mà còn cho kẻ bán.Vị trí phải là “trên bến dưới thuyền”, để ghe thuyền dễ dàng
lui tới,để có nước sông tưới mát giữ được sắc hoa bền lâu trong suốt thời gian
bán Tết.
Xuân nầy, tôi lại có dịp đi chợ hoa Ninh Kiều, nhưng bên cạnh
là đứa cháu ngoại vừa ở tuổi biết cảm nhận cái đẹp của hoa và cũng có hàng trăm
câu hỏi về hoa mà đôi lúc ông ngoại phải chào thua vì không có lời giải đáp! Lại
nhớ lan man về những người bạn học,trong đó có nhiều người đã vĩnh
viễn ra đi.Một đêm nào trong mùa xuân chiến tranh, tôi và Hà Huy Thanh đã đi chợ
Tết Ninh Kiều với cả tấm lòng phơi phới tuổi hai mươi:
Ra
chợ đêm chờ xem pháo bông
Bến
bờ bên ấy vẫn mênh mông.
Hai
thằng bạn rũ đi trên pháo
Để
thấy tình yêu vẫn đẹp hồng..
Rồi người bạn thân ấy cũng đã nói lời vĩnh biệt.Ngày bạn mất,
lòng tôi đau nhói vì Hà Huy Thanh ra đi là đã mang theo một phần đời
thanh niên của tôi ở đất Cần Thơ .Điều đó, hôm nay tôi cũng không thể tâm sự với
cháu mình mà chỉ giấu kín trong lòng .Rồi lại nhớ cô bé học trò mỗi ngày với tà
áo trắng bay trên đường Phan Thanh Giản để cho ai kia cứ theo bước giai nhân,
khoảng đường gần mà mắt thì xa dịu vợi!:
Đại
lộ và mười lăm cột đèn
Bây
giờ nghe khoảng cách dài thêm
Dấu
chân hai đứa nhòa sương bụi
Anh
ngẩn ngơ- thời gian lãng quên…
Cố nhân nay cũng đã là bà nội, ngoại, tóc bạc màu
theo năm tháng và có lẽ những câu thơ vụng về chắc cũng không còn nhớ nổi dù
hồi nào tôi đã nắn nót từng dòng trên giấy poluer xanh để kín đáo gửi cho
nàng.Mà thôi, nhắc làm gì cái thời hoa bướm đó. Tôi chợt ngước nhìn lên khung
trời tháng chạp.Quê hương tôi đang bước vào xuân với không gian bát ngát màu
xanh,cao vời vợi như nhữn g niềm mơ ước không cùng. Lẫn tron g cái nền xanh
bình yên đó, có một vầng mây trắng phiêu bạt cuối trời xa,trôi rất chậm như có
chút gì lưu luyến nên bất chợt trong khoảnh khắc dừng lại phía
vàm sông.Có phải đó là Hà Huy Thanh, là Lăng Cảnh Huy, …hay bao nhiêu người
khác nữa, những người cùng tôi góp mặt trong chợ Tết Ninh Kiều
mà giờ đây đã là “bạch vân thiên tải” ?
Đi giữa những hàng hoa “ nghìn tía muôn hồng”, lòng ta
phơi phới khi đất trời đang chuyển bước vào xuân.Đẹp biết bao-quê hương Cần
Thơ- nơi tôi đã gửi trọn hoài bão một thời thanh niên đầy ắp những ước mơ hồng.Nhưng
tự sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn thấy nhớ tiếc những tà áo dài năm nào như đàn bướm
trắng mùa Xuân đang hút mật cuộc đời để gửi lại nhân gian những dòng thơ ngọt ngào
hương sắc.Những tà áo trắng một thời- cũng như bạn bè tôi- giờ như vầng
mây kia trên khung trời xanh thẳm …
Nữ sinh các trường Trung học trong Thành phố Cần Thơ giờ rất
ít khi mặc áo dài (trừ ngày thứ hai), nên dù có vào chợ hoa ngày Tết , thì hầu
như chỉ là đồng phục ngắn.Tuổi trẻ hôm nay hồn nhiên, trong sáng và đẹp hơn so
với tuổi trẻ ngày xưa, bởi các em lớn lên trên một đất nước thanh bình , mà những
ám ảnh chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ.Nhưng đi giữa ngàn hoa Bến Ninh Kiều,
lòng tôi vẫn có chút bâng khuâng.Giá mà…
Bất chợt, ước ao phải chi trở lại thời mười tám tuổi
, trở lại một Ninh Kiều hôm nay nhưng lại tung bay sắc trắng tinh anh của chiếc
áo học trò bên hàng trăm loài hoa đang chào đón mùa Xuân.Để tôi được
cùng bạn bè chen chân trong rừng người đón Tết, để viết trọn những vần thơ thời
mới lớn:
Trên
những đường xưa rợp áo dài
Em
về- gió động tóc thề bay…
Hoặc ngồi trên chiếc ghế đá nào đó cạnh bờ sông mà mơ một
chuyến đi đầy lãng mạn : theo đoàn ghe thương hồ trở về các vùng quê khắp mọi
miền đất nước khi kết thúc chợ hoa vào trưa ngày ba mươi tết. Ninh Kiều ơi, yêu
biết bao nhiêu…..
Cần thơ, những ngày cuối năm
LÊ TRÚC KHANH
Ngày
mới tới Cần Thơ, khi xe qua hai chiếc cầu sắt song song nối liền đôi bờ sông
Cái Khế, trong đầu tôi đã hiện ra một câu thơ Đường quen thuộc: “Đồng tước
xuân thâm tỏa Nhị Kiều”.
Dĩ
nhiên, câu thơ cổ nầy chẳng chút liên quan nào đến hiện tại, bởi đó là một giai
thoại từ thời Tam quốc! Nhưng chỉ vì “Nhị Kiều” lại là một mỹ danh để gọi chiếc
cầu đôi. Ôi, hiền lành và nhỏ bé biết bao, con sông nối mạch Cần Thơ để rồi len
lỏi vào tận vườn cây trái xanh tươi miệt Bình Thủy, Phong Điền.Trong thời học
trò, không biết bao nhiêu lần, tôi ngẩn ngơ đứng trên bến Nhị Kiều mà trông vời
chiều mưa Cái Khế. Những đám mây đen đó, rồi sẽ theo gió trôi giạt về đâu, cứ để
con sông bập bềnh muôn lượn sóng. Sát bờ sông, có một công viên nho nhỏ, đặt
vài băng ghế đá, bãi cỏ xanh, bóng cây mát rượi là chỗ dừng chân cho khách nhàn
du. Kỷ niệm một thuở trong sáng hồn nhiên chừng như theo con nước lớn,
ròng với những đám lục bình vô định trôi tăm tắp về đâu.
Rồi
theo qui luật muôn đời “Sông sâu bên lỡ bên bồi”, phía bên nầy bờ bị dòng chảy Cái
Khế xoáy mòn và chỉ trong một khoảng ngắn thời gian, công viên nhỏ bé kia đã
chìm theo bao lượn sóng vô tình. Ở ngay giao điểm ngả ba con đường Phan Thanh
Giản và Duy Tân (Nay là đường Xô Việt Nghệ Tĩnh và Hoàng Văn Thụ) sát bờ sông,
có một gốc phượng già, đến mùa hè trổ bông rực rỡ. Bạn bè tôi đều đồng ý đó là
cây phượng đẹp nhất thành phố Cần Thơ. Những cánh phượng hồng rơi trong gió,
bay lả tả trong không gian rồi cũng tự giấu mình trên mặt sông dài. Phượng giống
như chúng tôi, vùi lấp tuổi thơ ở một góc quê hương ngạt ngào mộng tưởng. Theo
năm tháng, tôi trưởng thành từ trong khói lửa chiến tranh và bước vào nghề dạy
học. Đôi lúc giữa nợ nần, cơm áo vây bủa, chợt nhớ lại ngày thơ, lòng không khỏi
ngậm ngùi:
Bảy
tám năm rồi xa lớp học
Xa
trường- xa hết cuộc rong chơi
Dòng
sông Cái Khế buồn thiu đó,
Đã
cuốn tình trôi vạn nẻo đời….
Vậy
đó, mà đã gần 50 năm trôi qua. Có biết bao cuộc đời, bao
thế hệ lớn lên trên một quê hương đang từng ngày đổi mới. Cây phượng cũ không
còn. Hai chiếc cầu sắt hiền lành, nhỏ nhắn được thay bằng chiếc cầu bê tông hiện
đại, nhưng cái tên Nhị Kiều vẫn tồn tại với thời gian. Mấy năm sau nầy, bờ sông
Cái Khế được kè đá cả hai bên, phía đường Hoàng Văn Thụ xây dựng công viên mới,
cũng tấp nập trên bến dưới thuyền. Đặc biệt hơn, cứ mỗi lần giáp Tết, những dãy
hàng hoa san sát, nối liền hai đầu cầu bên nầy là An Cư, và bên kia là An Hội.
Dưới bến sông, chen chúc ghe xuồng chở hoa từ các vùng quê tới: An Bình, Long
Tuyền, Bình Thủy, Vàm Xáng, Phong Điền... Lại có cả người bán hoa Tết từ các
vùng cù lao, từ Sa Đéc, Đồng Tháp... cũng ghé vào đây để góp thêm sắc màu cho
mùa xuân mới. Nhị Kiều rộn ràng với vạn thọ, hoàng mai, đỗ quyên, trạng nguyên,
ngọc nữ... và hàng trăm loại hoa mà tôi không làm sao nhớ hết. Cái không khí
vui tươi, rạo rực ấy bắt đầu sau rằm tháng Chạp cho đến xế trưa ngày ba mươi Tết.
Khi chiếc ghe thương hồ cuối cùng rời bến, Nhị Kiều trở lại với bình lặng cố hữu
của nó như mọi ngày, để cùng nhân gian nhẹ bước vào xuân.
Lòng
tôi lại bồi hồi vì một cảm xúc mênh mang, như muốn ngược dòng ký ức. Vẫn là Nhị
Kiều quen thuộc của tôi, của một thời học trò hồn nhiên trong trắng. Chắc hẳn
là do chủ quan, tôi yêu Nhị Kiều hơn cả bến Ninh Kiều! Trong cảm nhận của riêng
tôi, Ninh Kiều đẹp và sắc sảo như một cô gái thành phố, trong khi cái đẹp của
Nhị Kiều là một nét duyên quê, một thứ “hoa đồng cỏ nội” mà gặp một lần ta chẳng
dễ gì quên.
Lại
thêm một lần đất trời chuyển nhịp. Mùa Xuân trở về để Nhị Kiều thêm rực rỡ, để
tôi có dịp nhìn từng hàng ghe thuyền san sát mà trở lại ước mơ thời trẻ:
chờ đợi một chuyến đi xa với điểm khởi đầu là con sông Cái Khế thân quen. Tuổi
tác, năm tháng, cuộc đời... đã làm mòn dần trong ta bao nhiêu khát vọng. Thì
thôi, xin nguyện làm một giọt phù sa, lắng giữa dòng trong để giữ tròn kỷ niệm
hôm qua và gởi lại nghìn sau chút lòng yêu đất nước…
Cần Thơ, những ngày cuối năm 2011
LÊ
TRÚC KHANH
1. Cuối năm,trời mênh mang trở lạnh. Mùa đông đến sớm với chút
mưa bụi lất phất đường như điểm thêm một nét duyên ngầm cho vùng đầt phương Nam
chỉ có hai mùa mưa nắng.
Buổi tối, xem phóng sự ngắn của Đài THVN về
sự chuyển đổi đột ngột của thời tiết buổi tàn niên.Người miền Nam khi được phỏng
vấn “Bạn nghĩ gì về cái lạnh và cơn mưa bụi?” thì thích thú, hài
lòng vì được cái “hương vị” của mùa đông chỉ biết từ sách vở.Những người miến
Bắc, từ một viên chức, công nhân ..đến người lao động thủ công đang ngược
xuôi mưu sinh ở đất Sài Gòn, đều có chung cảm xúc “thương nhớ
mười hai” và nỗi nhớ càng thiết tha hơn khi đất trời đang chuyển nhịp. Mới thấy
tình quê thật là sâu nặng....
2. Năm 1923, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh vừa tròn 24 tuổi.
Có người nhận xét rằng ông mang tâm hồn nghệ sĩ, ít nghĩ tới việc tổ chức lực
lượng cách mạng.Nhưng chắc chắn ở ông là lòng nồng nàn yêu nước, yêu dân mà
cụ thể là tình yêu đất, yêu người. Trong bài “Cao vọng của bọn thanh niên An
Nam” ông có viết:
“Ta cần phải lên một chỗ non cao, ở
một nơi yên tịnh mà tra mình cho biết các thân của mình thế nào, rồi lấy con mắt
hoà hảo, tương ái mà ngó cả vũ trụ, xã hội chung quanh mình. Chừng ấy, ta mới bỏ
chỗ non cao mà trở về với xã hội, cái xã hội ấy ta có thể dùng trọn cái tinh thần
tạo lập của ta được. Nghĩa là ta đây là người An Nam, ta phải trở về với xứ Nam
Việt nầy vì ta là người sanh trong xứ nầy, ta quen biết với non sông, nòi giống
của ta thì ta làm việc làm của ta, ta khỏi mất công lần mò vô ích.”
Văn phong quốc ngữ những năm
hai mươi của thế kỷ trước có thể hơi dài dòng, khó hiểu với thế hệ hôm nay, những
nội dung của nó vẫn là những điều còn tươi rói : Yêu nước gắn liền với tình yêu
quê và luôn luôn, quê hương vẫn là nơi đẹp hơn tất cả.
Từ mối đồng cảm với người xưa,
lòng ta chợt thoáng chút bồi hồi khi cuối năm nhớ về quê cũ.Quê tôi nằm bên kia
Thành phố Mỹ Tho, cách một dòng sông cửa Đại mênh mông bốn mùa miên man sóng vỗ.Hồi
đó, chiếc cồn cát chắn ngang vàm sông chưa nổi lên, nên tới mùa gió chướng thì
sóng bủa trắng chân trời. Trên dòng sông, hàng đàn le le không biết từ đâu,
đúng hẹn trở về dập dềnh bơi lội, như báo cho mọi người biết là năm cùng tháng
tận.Chúng dạn dĩ đến độ chẳng thèm tránh ghe tàu xuôi ngược, nên đôi khi chết
dưới “chân vịt” mấy chiếc phà. Loài vật nầy giống hệt loài “vịt Tàu”, có điều
nhỏ hơn một chút, và tôi cũng chưa thấy ai săn bắt chúng làm thức ăn.Rồi khi
mùa đông sắp hết, tiết trời ấm áp chuyển sang xuân, cả đàn rủ nhau
bay đi, trả lại cái mênh mông của dòng sông với hàng vạn cánh lục bình nối nhau
trôi về vô tận.
Khoảng vài mươi năm
nay, tự dưng không còn thấy đàn le le xuất hiện ( Nếu có chăng,chúng trở
thành một trong những món ăn “cao cấp” ở các quán nhậu đầy dẫy
trong thành phố Cần Thơ!). Có phải vì nòi giống chúng bị tận diệt hay vì
cuộc sống ồn ào náo nhiệt của thành phố ngàycàng sôi động làm mất đi hình ảnh một
thời qua ?
Nối hai bờ sông lúc đó,
là những chiếc phà nhỏ chỉ có 1 đầu để xe cộ và khách bộ hành lên xuống. Khi
phà cặp bến, khách lên xong, mới đến lượt xe di chuyển và dừng lại ở bàn cầu gỗ
đặt trên cầu phao. Cái sàn cây nầy cũng thật đặc biệt: hình chữ thập,
lót gỗ chắc chắn, có hệ thống bánh xe lăn phía dưới.Những người công nhân bến
phà sẽ dùng sức đẩy cầu, để xe được trở đầu thuận chiều lên bến. Từ những năm
70 của thế kỷ trước, dạng cầu phao nầy cũng đi vào quá vãng, bởi đã có phà
2 đầu và cầu phao cũng vững vàng, rộng rãi hơn. Nhiều lúc qua phà, lòng lại chợt
bâng khuâng. Trong cái se lạnh cuối năm, khoảnh khắc dừng lại trên chiếc cầu
phao mới, lòng ngậm ngùi nhớ “người muôn năm cũ”!
Rồi những ngày sóng
lớn, qua phà ướt đẫm cả người. Công nhân phà phải cột chặt các xe lớn
bằng dây luộc vào hai bên lan can phà. Những bà mẹ, người chị đi chợ tết Mỹ Tho
về, đang tíu tít nói cười, trong phút chốc mặt mày xanh mét ngồi nép mình bên
thành phà, miệng lâm râm cầu Trời Phật cho được bình yên, phà mau cặp bến. Nhiều
bà mẹ quá sợ, quăng bớt hàng của mình xuống sông lớn để cho “nhẹ phà, không
chìm”! Khổ thay, đó lại là dưa Tết- những trái dưa loại nhứt- chẳng những
không chìm mà lại dật dờ trên sóng nước. Và suốt thời thơ ấu cho đến khi được
đi trên những chiếc phà lớn, rộng rãi, an toàn như hôm nay, tôi chưa bao giờ
nghe có một chiếc phà nào chìm trên dòng cửa Đại! Có điều, những hình ảnh ngộ
nghĩnh, buốn cười với bao nhiêu con người chơn chất, thật thà đã mãi mãi chìm
sâu trong con sông đời vô tận.....
Mùa Xuân miền Nam
hình như thường hay đến sớm. Đến trong âm thanh tiếng quết bánh phồng từ làng
trên xóm dưới. Đến trong tiếng guốc rộn rã đường quê. Người dân quanh năm đầu trần,
chân đất, lối đi thì mùa mưa lầy lội, mùa nước nổi thì di chuyển bằng xuồng
ghe. Nhưng khi bắt đầu trở gió bấc,con đuờng khô trắng, buồi
sáng dẫm lên mát rượi bàn chân. Nhớ biết bao hàng vĩ đan bằng lá dừa phơi bánh
tráng, gác trên giàn cao, đủ cho tôi bóng râm với giấc ngủ bình yên những ngày
trưa tháng Chạp.
Nêu
mới vươn trời ru gió bấc,
Mười
lăm tháng Chạp đã vào xuân
Bỏ
manh áo vá từ năm ngoái,
Khua
guốc đường mơ pháo lại gần....
Nhưng
với thời thơ ấu, kỷ niệm tuyệt vời nhất của tôi là những sớm cuối năm qua đò Rạch
Miễu. Một vùng sông nước trắng xoá sương mù, phà trôi nhẹ nhàng, sóng gợn lăn
tăn.Tâm hồn cậu học trò nhà quê nhiều mơ mộng như gởi tận đâu đâu.Tôi hình dung
phía sau vùng sương mù ấy, chiếc phà sẽ đưa tôi đến cõi Đào Nguyên! Bồi hồi nhớ
truyện Từ Thức gặp tiên “Từ buộc thuyền lên bờ coi, thì thấy khí núi xanh biếc,
vách đá dụng thẳng, cao hàng ngàn trượng. Rồi theo lối nhỏ mà lần vào,.Cửa
vách đá khép lại ngăn lối về trần.Và từ đó, nhân gian bảo rằng Từ Thức
đã lạc lối Thiên thai...” .
Tuổi
thơ ai lại chẳng một lần ước mơ như thế? Huống chi khi tôi vừa lớn
lên thì quê hương mịt mù khói lửa.Nhưng khi bước vào cuộc đời nghiệt ngã, trôi
dạt nơi xứ lạ quê người, mới hiểu rằng Đào Nguyên không có thực. Nhưng không thể
phủ định rằng chính những điều đáng nhớ đáng thương của thời thơ ấu đã chắp
cánh cho tôi bằng những ước mơ hồng.....
3. Cho
đến hôm nay, câu chuyện cổ tích của hơn 600 năm trước vẫn còn nao lòng ngưòi.
Có điều, chưa ai lý giải rõ ràng nguyên nhân nào Từ Thức lại cương quyết rời bỏ
cõi tiên để trở về cõi tục. Phải chăng giữa người xưa và thế hệ hôm nay vẫn
chung dòng suy nghĩ: Đào Nguyên đẹp, nhưng thiếu hẳn tình người và Từ Thức quay
về bởi chàng còn một chút lòng quê?.
Cần
Thơ, đầu năm 2010
Lê Trúc Khanh
Lê Trúc Khanh
VÙNG
ĐẤT PHƯƠNG NAM VÀ
TINH THẦN TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO
1. Năm
1558, Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá, dinh phủ đặt tại làng Ái Tử, thuộc
huyện Đăng Xương, Quảng Trị ngày nay. Theo chân ông, những người lưu dân VN đã
có mặt trên một vùng đất mới, đất của những dân tộc Chiêm Thành, Chân Lạp, Bồn
Man, Lão Qua, Phù Nam... đầy lạ lùng, kỳ bí mà càng tiến về Nam như đi vào thời
hồng hoang với rừng tràm rừng đước bạt ngàn, sơn lam chướng khí, muỗi, mòng,
đĩa vắt, "dưới sông sấu lội trên rừng cọp đua".
Năm 1658 Hiền Vương Nguyễn Phước Tần tiếp nối quá trình chinh
phục và khai thác, sáp nhập vùng Mô Xoài (Bà Rịa - Biên Hoà) vào lãnh thổ VN.
Hai mươi năm sau (1679) các tôi thần nhà Minh vượt biển Đông sang xin thần phục
chúa Nguyễn và tiếp tục khai thác vùng Lộc Dã (Đồng Nai) và Mỹ Tho. Năm 1695,
thêm Mạc Cửu đến khai thác vùng Rạch Giá - Hà Tiên. Như vậy, theo đà Nam trấn,
từ năm 1757 vùng đất về sau được gọi là "Nam kỳ lục tỉnh" đã hoàn
toàn là một phần máu thịt của đất nước VN. Vì đây là vùng đất mới, nên đối với
lưu dân, không phải là hưởng thụ, thụ động chờ thời vận mà phải là tích cực khẩn
hoang. Bằng chính nổ lực tự thân, qua bao nhiêu năm tháng, người lưu dân đã có
thể an tâm với cuộc sống vật chất do mình tạo dựng "Ở Gia Định, có khách đến
nhà lần đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng tiếp cơm bánh, tiếp đãi trọng
hậu, không kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp khoản
đãi, cho nên người đi chơi không cần đem tiền gạo theo, mà lại có
nhiều người trốn xâu, trốn thuế đi đến xứ nầây ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng
vậy" (Trịnh Hoài Đức - Gia Định Thành thông chí) cũng trong quyển nầy tập
Hạ, Trịnh Hoài Đức còn chép "Đất Gia Định nhiều sông, kinh, cù lao, bãi
cát nên trong 10 người đã có 9 người biết nghề bơi lội, chèo thuyền,
lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít khi ăn cháo". Hay Doãn Uẩn từng là
thự án sát tỉnh Vĩnh Long vào năm 1833 có chép trong Trấn Tây Kỷ Lược.
"Cũng có kẻ nghèo phải đi ăn xin, nhưng mỗi tháng họ chỉ đi xin một lần
cũng đủ sống rồi. Họ thường tựu nhau nơi đình miếu, mỗi người đều có mùng màn
riêng. Trộm cắp cũng ít xảy ra, trâu thì có chuồng nhốt ngoài đồng... họ rất
thích ca hát, không ngày nào là không có múa hát".
Như vậy,
từ một vùng đất đầy những khó khăn, trở ngại về thiên nhiên, bao lớp người đi
trước như thân cây đước cây tràm ngã xuống để cho lớp sau nối tiếp màu xanh bất
tận. Cuộc sống sung túc đổi bằng mồ hôi, nước mắt và cả sinh mạng nữa... phải
chăng làm cho họ ít quan tâm đến chuyện học hành, thi cử, không chịu ràng buộc
bởi lễ giáo thánh hiền như ở Đàng Ngoài với niềm tự hào "ngàn năm văn vật"?
Cũng phải chăng vì thế mà ta vẫn nghe cách nói theo kiểu bất cần đời của một điền
chủ miền Nam nào đó "lấy giạ đong lúa chớ không ai lấy giạ đong chữ".
Vậy thì, với vùng đất phương Nam, có hay không tinh thần "Tôn sư trọng đạo"?
2. Cuộc sống "gạo chợ nước
sông" như thế đã tạo cho người lưu dân nhiều tính tốt mà cũng nhiều tật xấu:
máu "anh chị" trọng nghĩa bạn bè, sẵn sàng kết thân và hy sinh vì người
khác miễn là người ấy tỏ ra rộng lượng, anh hùng như mình. Họ cũng không phân
biệt giàu nghèo, chủng tộc, đôi khi sống vô kỷ luật, thinh biểu dương võ lực để
giải quyết mọi xung đột, ưa hài hước và đôi khi lãng phí.
Nhưng
cũng có một nghịch lý lịch sử thật vô cùng độc đáo. Thực ra, nếu như giặc Pháp
không xâm chiếm Nam kỳ từ những năm cuối thế kỉ 19, thì dân VN không để tràn xuống
Rạch Giá, Cà Mau quá nhanh như thế. Các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên, Sóc Trăng...
còn nhiều vùng phì nhiêu chưa khai phá đến.
Có nhận
định như thế, chúng ta mới hiểu được lòng yêu nước vô bờ bến và sự cố gắng khai
hoang của họ. Bởi quá căm thù thực dân, họ "sanh nhiều tật kỳ khôi":
không đóng thuế cho Pháp, không muốn gặp mặt người Pháp, lắm cụ già bảy tám
mươi tuổi đã giữ trọn tiết tháo ấy mãi đến lúc chết. Các cụ cất nhà giữa rừng, ở
chót núi, vàm sông, ở cù lao cô tịch... không bao giờ đi chợ. Không ai biết được
danh tánh các cụ. Rõ ràng, những con người vô danh đó có thể chưa hề xuất thân
từ cửa Khổng sân Trình, chưa hề bước chân vào chốn quan trường, thế mà sống
đúng đạo lý "uy vũ bất năng khuất" đâu khác người xưa?
Đó là đạo
lý nhân dân, là quan niệm của những vị thầy vĩ đại xuất thân từ chốn quần bôù
áo vải. Người dân kính trọng và ca ngợi họ, xem đó là những tấm gương thực tế để
noi theo.
Người miền Nam không gọi cha là "Thầy" như miền Bắc.
Hình như từ "Thầy" chỉ dùng để gọi những người dạy dỗ, nâng bước cho
mình không chỉ ở tứ thứ ngũ kinh mà còn ở mọi ngành nghề trong xã hội.
Đại Nam
Nhất thống chí cũng từng ghi lại, "Dân Gia Định có tục chuộng khí tiết,
khinh tài trọng nghĩa, sĩ phu ham đọc sách cốt yếu cho hiểu rõ nghĩa lý
mà lại vụng về văn từ". Đánh giá nầy từ những năm 1850 (thời Tự Đức) đã khẳng
định một quan niệm sống hết sức thực tế của người phương Nam. Đối với họ lòng
tôn kính tuyệt đối luôn dành cho những bậc thầy có công tác tạo cho mình. Do đặc
thù của đời sống xã hội, ở đây có thầy hò (dạy hò hát) thầy tuồng (dạy các tuồng
tích diễn xướng) thầy đờn (dạy đờn) đều được kính trọng như nhau chớ không hề
có quan niệm "xướng ca vô loại". Nhiều cụ già tuy nghèo tả tơi nhưng
dám vay nợ, mua đờn, rước thầy về dạy vọng cổ cho con. Đôi khi, cả làng hùn tiền
mời thầy dạy hò để khỏi mắc cỡ khi có một khách thương hồø nào đó lên tiếng
trên sông mà trong làng không ai đối đáp!.
Xa và cao hơn nữa, nhiều vị sáng lập tôn giáo ở phương Nam
cũng được gọi bằng "Thầy": Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, Đức Thầy
Huỳnh Phú Sổ... Có phải chăng, với nhiều lưu dân, tinh thần "tôn sư trọng
đạo" luôn gắn chặt với thực tế cuộc sống, đạo nghĩa thầy trò cũng giống
như bao thứ ân tình khác mà họ vẫn mang theo trong lòng từ buổi đầu khai hoang,
vỡ đất?
3. Hơn mười
năm trước, tôi có dịp nghe một thầy giáo già kể lại một kỷ niệm "kinh khủng"
trong cuộc đời mình mà thầy đang ngấp nghé giữa lằn ranh sinh tử. Đó là khoảng
những năm sau 1945, quê hương chìm trong lửa đạn. Vào một ngày cuối năm, thầy về
thăm quê mình ở huyện Bình Minh (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long), lúc nầy đang nằm
trong sự khống chế của lực lượng quân sự thuộc giáo phái H... Chẳng may, ngay
trong đêm thầy bị bắt cùng một số người khác (do nghi ngờ sao đó), và bị nhóm nầy
trói tay bịt mắt, đưa ra hành hình trên sông Hậu. Thầy đã cầm chắc mười mươi
cái chết. Những tên đao phủ máu lạnh lần lượt kéo từng người ra phía trước mũi
ghe, lột khăn bịt mặt và dùng dao bầu chặt đứt cổ rồi đạp xuống dòng sông đang
lặng lẽ chảy xuôi dòng dưới ánh trăng vàng vọt cuối năm mà không hề thương tiếc.
Thầy giáo là người thứ tư sắp bị hành hình. Nhưng điều thầy không ngờ được là
khi tấm vải che mặt vừa được giật ra thì có tiếng kêu khe khẽ từ tên đao phủ
"Trời ơi! Thầy!" Trong lúc "thập tử nhất sinh" đó, thầy
cũng không nhớ nổi tên đứa học trò cũ của mình. Anh ta nói nhanh trong hơi thở
đứt quảng "Con sẽ giả bộ chặt đầu, nhưng đẩy thầy qua phía tay phải tức là
mé Cần Thơ, thầy rán lội vào bờ và nhớ đừng qua đây nữa".
Mọi việc
diễn ra êm đẹp, không ai biết trừ hai thầy trò. Chắc chắn dù anh học trò không căn
dặn, thầy cũng chẳng dám đặt chân lần thứ hai đến vùng đất ấy! Hôm nay thầy đã
đi xa và anh học trò kia cũng không còn trong cõi đời nầy. Nhắc lại câu chuyện
lòng thoáng chút ngậm ngùi vì qui luật đổi đời dâu biển, nhưng cũng vô cùng ấm
áp bởi đạo nghĩa thầy trò - trong đêm đen của quê hương thời ly loạn - vẫn mãi
rạng ngời như muôn vì sao sáng cuối trời xa!.
Có một
điều mà ngay cả các nhà xã hội học chắc cũng bất lực đi tìm lời đáp. Đó là
trong những năm thực dân Pháp đô hộ, miền Nam xuất hiện một tầng lớp "anh
chị" sống ngang nhiên trong xã hội, hành xử theo kiểu giang hồ: đứng bến
xe, cờ bạc, trộm cắp, thanh toán lẫn nhau... Ở đất Cần Thơ, chắc những người lớn
tuổi không thể quên tên nhân vật Sáu Thanh. Đây cũng là một tên tuổi vang bóng
một thời: tiêu xài như nước, có vô số đàn em, sẵn sàng cho em út thanh toán những
kẻ cậy thế ỷ quyền không chút nao núng. Nhưng đối với thầy giáo, thì các nhóm
"giang hồ" lại có một biệt đãi, không bao giờ để xảy ra đụng chạm,
xích mích làm mất lòng quí thầy. Nếu có một tên đàn em nào đó vì không biết, lỡ
"cầm nhầm" của thầy một chiếc xe đạp, một số tiền... giữa chợ, chỉ cần
thầy lên tiếng là lập tức có người mang đến trả và xin lỗi! Không chỉ Sáu Thanh
mà hầu như các tay "anh chị" nào cũng đều cư xử như thế! Có thể coi
đây là một nét độc đáo của tinh thần "tôn sư trọng đạo".
4. Đất trời
lại thêm một lần chuyển nhịp. Trong cái se lạnh cuối năm, lòng bâng khuâng nhớ
về thời thơ ấu. Quê tôi nằm ở bên kia sông Tiền, thuộc tỉnh Bến Tre. Ở quê tôi,
trong những ngày cận tết, bên cạnh bao nhiêu lo toan vất vả, người dân quê vẫn
không quên hai điều quan trọng: "Tết Mụ và tết Thầy".
Nhớ ngày nào
- như mới hôm qua - má tôi chuẩn bị cho hai anh em đội mâm lễ vật đến nhà
"Tết Mụ". "Mụ" là tiếng gọi dân dã, là người đã giúp cho đứa
bé lọt lòng. Thời đó, hầu như không một sản phụ nào đến nhà bảo sanh (mà cũng
chưa có) nên việc "đi biển một mình" của người mẹ đều trông cậy hoàn
toàn vào những bà "mụ vườn" giàu kinh nghiệm. Có thể nói, gần như tất
cả trẻ con trong làng, thời anh em tôi, đều được bà dắt tay vào cuộc sống qua
tiếng khóc đầu tiên.
Lễ vật
cũng chẳng có gì quí giá: Một gói trà "Tam quan kỳ chưởng", một bịt
thèo lèo, vài phong bánh in... nhưng quan trọng là lòng tri ân sâu xa với người
đã tạo tác cho mình. Khi đến nhà bà mụ, anh em tôi cũng nhận ra không chỉ có
mình mà còn biết bao gia đình khác cũng bày tỏ lòng biết ơn như thế. Mấy chục
năm trời trôi nổi, qua nhiều vùng đất nước, tôi chưa gặp ở đâu một nét phong tục
độc đáo và ngộ nghĩnh như thế. Trong đầâu óc non nớt trẻ thơ, ấn tượng sâu sắc
về lòng biết ơn, về đạo nghĩa "uống nước nhớ nguồn" đã trở thành những
vết khắc vô hình mà trọn đời ta không quên được. Chợt nhớ thời thơ ấu, say mê
vì bao câu chuyện cổ phương Nam. Đặc biệt là mối quan hệ giữa cọp và người. Đó
là chuyện cọp rước mụ về sinh cho vợ cọp. Người nhà bà mụ kinh hoàng vì nghĩ là
bà đã chết, không dè mấy ngày sau, cọp cõng bà trả về nhà cũ, lại còn đền ơn bằng
cả một con heo rừng to tướng! Bà cũng kể lại, sau khi sanh xong, sợ cọp cái đói
sẽ ăn thịt bà mụ nên cọp đực vội vàng đưa bà giấu biệt trong rừng sâu để đảm bảo
an toàn. Có lẽ trong cuộc sống chung với dã thú ở cùng trời cuối đất người lưu
dân đã nhìn ra được đâu là công ơn của những người đã góp phần giúp họ duy trì
nòi giống, đảm bảo nhân số lao động để chiến thắng thiên nhiên, nên cọp cũng
như người, đều quí trọng những "bà mụ vô danh", người thầy
đầu tiên ở vùng "tràm xanh củi lục"?.
Từ những
suy nghĩ lan man đó, ta có thể khẳng định: tinh thần "tôn sư trọng đạo"
của vùng đất phương Nam thật là đơn giản, bình dị. Nó không là một thứ giáo điều,
khuôn thước theo lối lý luận, sách vở - mà thấm đẫm trong lòng người như bao
nhiêu mồ hôi đã thấm vào lòng đất theo mỗi bước chân người xưa mở cõi. Để cũng
từ đó, ta tự hào biết bao về một lớp trí thức, cũng khoa bảng mà cũng thật bình
dân: Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị, Bùi Hữu
Nghĩa... đã sinh ra và lớn lên từ nhân dân nên trọn đời gắn bó với nhân dân, để
ngọn đuốc "tôn sư trọng đạo" không chỉ thắp sáng nơi cửa Khổng sân
Trình mà còn soi rọi khắp ruộng lúa, cánh đồng, ngọn núi, dòng sông...
Xin được
lắng lòng nghe lại truyền thống đáng tự hào này để tự răn mình và không hỗ thẹn
với người xưa...
Lê Trúc Khanh
(Về
Nguồn - Tây đô)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét