Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015

Hoa bần thôi rụng

"Hoa bần thôi rụng''   
(Viết cho tập thơ của nhà thơ Kiên Giang -Hà Huy Hà sắp tái bản)
1. Tôi làm quen với "Chương trình thi văn Mây Tần" trên đài phát thanh Sài Gòn từ thập niên 60 của thế kỷ trước qua bài thơ ‘QUÊ NGOẠI". Mấy chục năm dài trôi qua, bây giờ đọc lại, mới thấy rõ những vụng về trong vần điệu, ngôn từ...của thơ thời học trò hồn nhiên, trong sáng. Nhưng tôi yêu quí bài thơ vô cùng , bởi nhờ nó mà tôi mới có cơ hội gặp gỡ, gắn bó lâu dài  với một nhà thơ lớn miền  Nam : Kiên Giang-Hà Huy Hà.
Bài thơ được diễn ngâm liên tục hai kỳ trong chương trình "Thi văn Mây Tần". Sau đó, qua phần nhắn tin, anh Kiên Giang muốn  gặp tôi để thực hiện môt cuộc phỏng vấn về nhóm Về Nguồn-Tây Đô mà tôi và một số anh em văn nghệ tại Cần Thơ  như Huyền Vân Thanh, Trân Khanh, Lăng Cảnh Huy... sáng lập từ năm 1964..Tôi và anh Lê Hà Uyên lên Sài Gòn để trả lời phỏng vấn. Cần Thơ-Sài Gòn chỉ hơn trăm cây số, nhưng phải qua hai phà Cần thơ, Mỹ Thuận lại thêm những bất trắc của đoạn đường thời chiến, nên dù đi từ sáng sớm mà đến xế trưa anh em tôi mới tới Sài Gòn! Nơi gặp là môt quán cà phê nhỏ nằm  trên đường Phát Diệm, cạnh tòa soạn báo Tin Sáng lúc bấy giờ. Điều tôi không ngờ được  là trong buổi chiều hôm đó, tôi lại vô cùng vinh hạnh được diện kiến đến hai ngôi sao trên khung trời văn nghệ miền Nam : nhà thơ Kiên Giang và nhà văn Sơn Nam. Bằng thái độ hết sức chân tình, hai anh đã hỏi thăm chúng tôi về những  hoạt động văn nghệ ở Cần Thơ, trao đổi  về các sáng tác của nhóm Về Nguồn. Tôi không thể nào quên được buổi chiều hôm ấy dù đã trên 40 năm với bao nhiêu sao dời vật đổi. Hình ảnh những bậc đàn anh văn nghệ lại rất mực gần gũi, khiêm tốn ngay  cả với những thế hệ đi sau-cho đến hôm nay-vẫn mãi là một ấn tượng khó phai trong lòng tôi. Suy cho cùng, bài học về đạo lý làm người  nầy, chắc hẳn đâu chỉ riêng tôi, mà còn cho bao nhiêu người làm văn nghệ trong cuộc sống hôm nay. Cũng trong chiếc quán nghèo đó, ngồi cạnh bàn chúng tôi , còn có diễn viên điện ảnh La Thoại Tân và  nhà văn đang "ăn khách" Nghiêm Lệ Quân. Những người "muôn năm cũ" đó, giờ ai còn, ai mất, hay đang trôi dạt nơi xứ lạ trời xa?
     Từ lần gặp gỡ nầy, tôi được hai anh hết lòng giúp đỡ. Qua anh Kiên Giang, tôi  có dịp làm quen với bao nhiêu người bạn văn nghệ khắp miền đất nước : Trần Ngọc Hưởng, Như Uyên Thủy, Mặc Tuyền, Ngô Nguyên Nghiễm, Việt Chung Tử...Năm 1970, tôi và các bạn thực hiện tạp chí KHƠI DÒNG, thì cũng chính hai anh Kiên Giang và Sơn Nam góp tiếng với các sáng tác của mình mà không hề đòi hỏi một đồng nhuận bút. Kiên Giang với bài thơ "Lúa sạ miền Nam" và Sơn Nam với truyện ngắn "Người đẹp Cần Thơ". Đây là những sáng tác của hai anh chưa từng đăng trên bất kỳ tạp chí, nhật báo nào ở miền Nam. (Lúc đó, tập thơ "Lúa sạ miền Nam" của  Kiên Giang cũng chưa xuất bản). Nếu bạn là những người làm văn nghệ ở miền Nam trước 1975, hiểu được vị trí  của hai cây  "cổ thụ" nầy trên văn đàn, thì bạn mới biết đây là một  góp mặt lớn lao và ý nghĩa đến dường  nào. Cũng từ sự động viên của hai anh, tôi đã  cùng các anh chị em văn nghệ tại Cần Thơ cộng tác với Đài phát thanh Cần Thơ để thực hiện"Chương trình thi văn Về Nguồn", hoạt động liên tục từ năm 1968 cho đến tháng 4 năm 1975. 
2. Từ sau 1975, anh em chúng tôi như những  nhánh sông đời trôi về vạn nẽo.  Nhóm Về Nguồn xẻ đàn tan nghé, mỗi người một cuộc đời riêng. Tôi mỏi mòn chạy theo"nghiệp dĩ", gắn với nghề dạy học. Con đường xa tăm tắp, nặng nợ áo cơm, thêm bao nhiêu đổi thay sau ngày 30-4 ở miền Nam, đã làm cằn  khô trong tôi những ước mơ, nhiệt tình về văn nghệ. Đôi  khi nhớ quay quắt kỷ niệm một thời, nhớ bạn bè ..nhói lòng, nhưng cũng  cố quên...Với ước mơ ngày đất nước thanh bình của một người trẻ lớn lên từ ly loạn, trong bài viết nhân kỷ niệm 7 năm (1971) thành lập nhóm Văn nghệ Về Nguồn-một nhóm văn nghệ học trò-tôi đã nói lên cảm xúc tự lòng mình: "Ngày nào thôi làm văn nghệ,tôi sẽ bắt chước Kiều Phong, đưa A Châu về bên kia ải Nhạn Môn quan chăn cừu độ nhật.
Kiều Phong rữa tay gác kiếm, bỏ một bên những ân oán giang hồ. Tôi sẽ hứa với nàng là chẳng làm thơ nữa, nếu có chăng là đặt vài câu lục bát để nàng thay ca dao hát ru con ngủ. "Cái ước mơ mang hơi thở "kiếm hiệp Kim Dung" có pha chút ngông nghênh thời trai trẻ đến hôm nay phần nào đã bị thời gian ma chiết.
Nhưng cũng có lẽ chính  ước mơ nầy  đã thắp lại  ngọn lửa nhen nhúm trong lòng. Một điều lạ là những năm đầu tiên sau 1975, tôi lại gặp anh Kiên Giang nhiều hơn. Anh thường xuống Cần Thơ và lần nào cũng ghé nhà tôi. Trong những lần đó, anh luôn động viên phải gắng "giữ lửa", gắng đi tiếp con đường văn nghệ. Cũng trong những lần đó, tôi mới hiểu thêm một phần về sự thủy chung, ân nghĩa trong  trái tim nhà thơ lớn. Lần nào , anh cũng rũ tôi ( có khi có cả anh Lê Hà Uyên), đến thắp hương cho cố nhân trong bài thơ  "Hoa trắng thôi cài trên áo tím". Trong ngôi nhà nhỏ nằm phía sau nhà thờ Chánh tòa Cần Thơ, anh thường ngồi yên lặng nhìn lên chân dung người đã mất sau làn khói hương nghi ngút. Hai người con của chị hiện sống ở đây -đều là giáo viên- rất hiền lành, mực thước , rất quí trọng nhà thơ và gọi anh là cậu. Một điều cũng rất lạ là tên anh em trong gia đình đều bắt đầu bằng vần Tr..( Ba của các em cũng có tên Trinh, giống như tên nhà thơ Kiên Giang. Có phải chăng từ một góc sâu thẳm trong trái tim người con gái xóm đạo vẫn là nỗi hoài niệm khôn nguôi về một mối tình thời học trò thơ dại?
      Ít  nhất một lần, anh Kiên Giang rủ tôi cùng theo anh vào nghĩa trang Công giáo viếng mộ người xưa. Nhìn anh đứng lặng lẽ thật lâu trước ngôi mộ trong buổi trưa cuối năm vắng ngắt, lòng tôi dâng lên bao nỗi cảm hoài tha thiết. Hình như hôm đó, trời đất đã chuyển mùa, gió bấc phương Nam đủ làm se lạnh lòng người, mái đầu nhà thơ qua mấy mươi năm xuôi ngược giang hồ cũng đã ngã màu sương gió. Trong khoảnh khắc đó, tôi nhận ra cái phù du của kiếp người, cuối cùng rồi cũng lấp vùi trong cát bụi thời gian. Và cũng trong khoảnh khắc đó, càng thấm thía hơn hai câu thơ của anh:
              "Trong lòng con- giữa màu hoa trắng,
                 Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!".
    Mấy năm sau nầy, vì tuổi tác, anh Kiên Giang ít có dịp lên xuống Cần Thơ. Giật mình khi chợt nghĩ nhà thơ đã vượt tuổi tám mươi. Đọc báo, nghe tin anh bị người khác mượn danh làm chuyện không tốt do anh ưa để mất điện thoại di động, càng ngậm ngùi hơn khi nhớ lại cuộc gặp gỡ năm nào chỉ như là giấc mộng! Tuổi già làm cho ta dễ nhớ, dễ quên, con đường "phiêu bạt giang hồ" của người thi sĩ tài hoa ấy cũng ngắn lại như con đường thời gian của một kiếp người mong manh , là hạt bụi trong vũ trụ vô cùng. Nhưng tôi tin rằng,với tâm hồn đầy ắp lòng nhân ái đó, Kiên Giang vẫn  mãi mãi là một" hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê"...
3. Tôi sinh ra ở một vùng quê nghèo nằm ven bờ sông Tiền bốn mùa miên man sóng vỗ. Từ những năm thơ ấu, trong tâm hồn đứa học trò nhà quê nhiều mơ mộng đã không biết bao lần bâng khuâng khi nhìn những cánh hoa bần rụng xuống trường giang. Hồi đó, tôi chưa quen và cũng chưa được đọc bài thơ nào của anh Kiên Giang. Sau nầy, khi đã vào Trung học có dịp biết đến tập thơ "Hoa trắng thôi cài trên áo tím", tôi rất tâm đắc mấy câu thơ anh viết trong bài "Đẹp Hậu Giang" :
                                       Nếu cô thôn nữ ngừng câu hát,
                                       Nếu bạn thương hồ bặt tiếng ca
                                       Đờn nguyệt không hòa câu vọng cổ
                                       Hoa bần thôi rụng xuống phù sa.
    Có lẽ những câu thơ nầy tác giả viết ra từ nguồn rung cảm về những tiếng hát câu hò một thời trên sông nước miền Nam. Khi tôi vừa lớn lên , cũng là lúc chinh chiến tràn lan, tiếng đạn nổ  bom gầm đã giết chết bao âm thanh ngọt ngào, trong trẻo của những chàng trai, cô gái miệt vườn cất lên trong những đêm trăng trải dài theo từng vàm sông, ngọn rạch.
Nhưng, bất chấp qui luật khắc nghiệt của những đổi thay từ cuộc sống, bất chấp chiến tranh, và ngay khi cả tiếng đàn nguyệt lắng sâu vào quá vãng, thì hoa bần vẫn rụng xuống phù sa! Có phải chăng đó chính là nguồn mạch quê  hương, là tự tình dân tộc vẫn âm thầm cuộn chảy trong trái tim ta khi bao lượn sóng  đời cứ muốn xô dạt ân nghĩa, thủy chung về cuối trời quên lãng? 
     Và cũng phải chăng cánh bông bần   mang sắc trắng tinh anh đó, cũng chính là  tấm lòng của những con người nặng nợ văn chương như Sơn Nam, Kiên Giang, như bao nhiêu đứa con của vùng đất phương Nam, góp hương làm đẹp cho đời rồi cuối cùng âm thầm gửi trọn kiếp nhân sinh cho mạch đất phù sa ngọt ngào ân tình quê mẹ?
    Bài viết ngắn ngủi nầy xin được gửi đến anh, một đàn anh văn  nghệ mà tôi vô cùng yêu mến và trân trọng. Mấy mươi năm gặp gỡ và quen biết quả thực không nhiều so với đất trời vô tận, nhưng riêng tôi, là những tháng năm đầy hạnh phúc. Anh Kiên Giang ơi, biết đến bao giờ  anh em mình  mới có dịp qua chuyến đò Xóm Chài trong buổi hừng đông, bỏ lại sau lưng thành phố Cần Thơ rộn ràng xe ngựa để anh viết trọn những dòng thơ đầy lãng mạn: "Cô lái đò ngang cười chúm chím-Thầm trêu  hàn sĩ lúc sang sông"?....
             Cần Thơ, những ngày cuối năm
LÊ TRÚC KHANH
NGHĨ VỀ NGÔI TRƯỜNG TRĂM TUỔI
Kỷ niệm 100 năm trường Nam tiểu học Cần Thơ
1. Vào những năm đầu thế kỷ XIX, vùng đất Trấn Giang đã được “Gia Định thành thông chí” nhắc đến như là một trong những trung tâm thương mại phồn thịnh nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu. Địa danh Tân An, Thới Bình đã có rất sớm ngay trong buổi đầu khai hoang mở đất. Trong thời điểm này, giao thông chủ yếu vẫn là hệ thống sông rạch thiên nhiên “nhiều như mạng nhện”, dẫn đến việc hình thành hệ thống làng xã dọc theo các con sông với những xóm ấp, chợ búa, đình chùa,… mang nét riêng  của văn hóa miền sông nước.
Với những người lưu dân sống đời “gạo chợ nước sông” như thế, phải đấu tranh với thiên nhiên để tìm cái sống, nên buổi đầu - không chỉ Trấn Giang- mà cả vùng Nam Bộ, người dân ít chú trọng đến việc học hành, thi cử. Cộng đồng dân cư ở Trấn Giang bao gồm: một bộ phận là binh lính và gia đình của quân binh Hà Tiên, Rạch Giá và một bộ phận là những lưu dân từ miền ngoài vào, từ miền Đông xuống. Vì thế, những dấu vết văn hoá truyền thống từ miền ngoài còn được lưu giữ trong tập tục thờ cúng của nhiều địa phương trong vùng. Nhưng qua năm tháng,  ý thức hệ Nho giáo cùng với những chế định về văn hoá - giáo dục, những quy tắc về đạo đức và chuẩn mực ứng xử ngày càng phát triển. Nói như thế, việc giáo dục ở phương Nam vẫn theo khuôn mẫu cửa Khổng sân Trình như ở miền Trung, miền Bắc. Những bậc trí thức khai khoa làm vinh dự cho vùng đất lầy, đất đứng như Phan Thanh Giản, Nguyễn Đình Chiểu, Bùi Hữu Nghĩa, Phan văn Trị,...đã góp mặt vào giới khoa bảng dân tộc bằng tài năng và nhân cách mang đậm “sĩ khí miền Nam”.
Nhưng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội ở Nam Kỳ lục tỉnh. Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông theo hoà ước nhượng bộ của triều đình Huế năm 1862.
Ngày 20, 22 và 24 tháng 6-1867, thực dân Pháp đã vi phạm hoà ước 1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên.
Ngày 1-1-1868, Thống đốc Nam Kỳ Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú (Trấn Giang - Cần Thơ) với Bãi Sào (Sóc Trăng) đặt thành quận, lập toà bố tại Sa Đéc.
Ngày 30-4-1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập Phong Phú với Bắc Tràng (một vùng thuộc phủ Lạc Hoá, tỉnh Vĩnh Long) lập thành một hạt, đặt toà bố tại Trà Ôn. Một năm sau, toà bố Trà Ôn lại dời về Cái Răng (Cần Thơ).
Ngày 23-2-1876, Soái phủ Sài Gòn ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ (Arrondissement de Cantho) với thủ phủ là Cần Thơ (làng Tân An, huyện trị của huyện Phong Phú cũ). Năm 1889, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi thành quận.
Như vậy, từ năm 1876 đến năm 1954, Cần Thơ – một phần đất của Nam Kỳ lục tỉnh - nằm trong sự cai trị của chính quyền thực dân Pháp. Khi đã tạm ổn định về an ninh, chính quyền xâm lược tiến hành việc khai thác thuộc địa: không chỉ tiềm năng kinh tế mà còn cả chất xám của người dân bản xứ.Trong chiều hướng đó, tại các địa phương nhiều trường học đã được người Pháp lập ra.
2. Nói đến các trường học ra đời tại Cần Thơ, ta thường nghĩ tới trường College de Can tho, nay là trường THPT Châu văn Liêm được xây dựng từ năm 1917. Thực ra, có những ngôi trường ra đời còn sớm hơn cả trường Trung học Cần Thơ. Đó là trường Tiểu học Phong Phú (nay là trường Tiểu học Trần Hưng Đạo) có mặt đã 101 năm! Và trong thành phố Cần Thơ, trường Nam Tiểu học (nay là trường Tiểu học Mạc Đỉnh Chi) vừa tròn trăm tuổi.
Trường Tiểu học Mạc Đỉnh Chi được xây dựng và đi vào hoạt động cách đây đúng 100 năm (1913-2013). Nó ra đời trước trường College de Cantho  (nay là Trung học phổ thông Châu Văn Liêm) đúng 4 năm. Trường tọa lạc trong địa phận làng Tân An, nay thuộc phường An Hội - Quận Ninh Kiều, TP Cần Thơ, là một trong những ngôi trường nội ô lâu đời nhất của thành phố Cần Thơ và cả miền Tây sông Hậu.
Trường gồm 3 khu vực, địa giới ban đầu gần bên nhau với tổng diện tích 6750m2.
Khu vực chính (Khu A - vị trí của trường tiểu học Mạc Đỉnh Chi hiện nay) xây dựng năm 1913, diện tích rộng 4560,9m2, nằm giữa 4 con đường chính. Mặt chính của trường hiện nay là đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (đường Phan Thanh Giản cũ), bên trái là đường Trương Định, bên phải là đường Võ Thị Sáu (trước là đường Pasteur), phía sau của trường là đường Ngô Hữu Hạnh (trước đây là đường Trịnh Tấn Truyện). Vị trí này rất thuận lợi cho việc đi lại học hành của học sinh và cả việc đưa rước con em của các bậc phụ huynh.
Khu B: Trước còn gọi là trường Võ Tánh xây dựng năm 1948 (nay là Trung tâm GDTX – KTTHHN TP. Cần Thơ tọa lạc ở góc đường Trương Định – Xô Viết Nghệ Tĩnh).
Khu C: (tức là Mẫu giáo An Hội) xây dựng năm 1949,  hiện nay không còn sử dụng.
100 năm qua, những thế hệ học sinh đã lớn lên từ mái trường này luôn làm rạng danh nhà trường bởi thành tích học tập, rèn luyện của mình. Nhiều học  sinh thành đạt ở nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội, làm việc ở mọi nơi của Tổ quốc. Nhiều cựu học sinh có học hàm, học vị cao, nhiều học sinh giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt cấp thành phố, cấp quận, các tổ chức , đoàn thể, quân đội… Nói không quá lời, hầu như những nam công dân cư ngụ trên  địa bàn trung tâm thành phố, từ những năm 13 của thế kỷ trước, đều bước chân qua cổng trường Nam tiểu học với bao nhiêu kỷ niệm ngọt ngào của thời thơ ấu. Sức lan tỏa của ngôi trường không chỉ ở địa phương Cần Thơ, mà nó còn đi theo bước chân những học sinh ngày nào đến mọi miền Tổ quốc để cùng nhân dân góp sức dựng xây, bảo vệ quê hương bằng tri thức, bằng cả tuổi thanh xuân đã một thời được sự dạy dỗ của bao bậc ân sư đất Cần Thơ cây lành trái ngọt.
2. Khi tôi đến Cần Thơ thì đã trưởng thành và cũng qua rất lâu thời học trò tiểu học. Chính vì thế, tôi  không có được vinh dự là học sinh của ngôi trường tuổi tròn thế kỷ. Nhưng không biết bao nhiêu lần, tôi đứng tần ngần trước những dãy phòng học cũ kỹ, nằm lặng lẽ dưới những cây còng rợp bóng ban trưa, hay những đêm mưa, ánh đèn từ bên ngoài đường Phan Thanh Giản hắt ánh sáng vàng vọt vào khoảng sân trường ngập nước. Sao mà trường Nam Tiểu học Cần Thơ giống vô cùng trường Tiểu học Tân Thạch ở quê tôi, vùng đất Bến Tre trong những năm mịt mờ khói lửa. Rồi lại  nhớ lan man đến Thầy cô, những người gần gũi biết bao với đám học trò quê áo quần không lành lặn, mỗi sáng ôm chiếc cặp đan bằng đệm, lội qua mấy đoạn đường ngập nước, qua mấy chiếc cầu gãy nát vì bom đạn, rồi lại tiếp tục qua “mấy gian đồng” mắt đã mờ vì bụng đói đường xa mà ngôi trường vẫn còn xa thăm thẳm!...
Có lẽ vì thế mà tôi quý trọng biết bao những thầy cô dạy tại trường Nam tiểu học Cần Thơ. Có thầy về sau chuyển sang làm Giám thị tại trường Phan Thanh Giản, rất được học trò kính nễ vì đức độ, nhân cách, nhất là việc đối xử với học sinh bằng cả tấm lòng nhân ái. Quý Thầy Cô ngày nào kiên trì tận tụy với nghề, giờ đây hầu hết đã bước vào cõi trường sinh. Một trăm năm đi qua đã có biết bao thế hệ Thầy Cô nối bước để viết tiếp những trang đời. Và... bao lớp học trò lớn lên, rời khỏi ngôi trường thân yêu bước xuống cuộc đời, sao khỏi bồi hồi khi nhớ về những tháng ngày thơ ấu?
Qua tuổi sáu mươi, mỗi sáng tôi lại đến trường Nam tiểu học ngày nào với một công việc khác hơn: đưa cháu vào lớp học. Ngôi trường đã hoàn toàn thay đổi với những dãy lầu cao,  những phòng học khang trang, làm ta hơi hụt hẫng. Nhưng trên sân trường như vẫn còn đọng lại chút hồn xưa. Đứng bên này nhìn qua cánh cổng, tôi vẫn còn thấy được bên kia là mái ngói cổ kính rêu phong, là dãy lầu với khung cửa sổ lá sách quen thuộc của trường trung học Cần Thơ. Đây cũng là nơi tôi từng đứng hơn 40 năm trước.
Từ điểm “định vị” này, tôi đã quyết tâm tiếp bước thầy cô. Khi tóc bắt đầu nhuốm bạc, khi bỏ lại hết ảo vọng phù hoa, ta mới thực sự trải lòng ngược dòng  kỷ niệm và trong phút giây chợt thấy mình trở lại tuổi hai mươi!
    Phía sau tôi, tiếng cười đùa của các học sinh như tiếng chim ríu rít gọi bình minh. Trong vô cùng những âm thanh rộn rã đó, chắc chắn có sự góp phần của đứa cháu ngoại thân yêu, cũng là một kỳ vọng của riêng tôi cho một tương lai rực nắng. Và có lẽ, cũng là cách tôi đền ơn bao nhiêu bậc ân sư dù không trực tiếp dạy mình nhưng đã cho tôi những bài học sâu xa về cuộc sống thanh cao, về điều không gì so sánh được trong trái tim thấm đẫm chất nhân văn mãi rạng ngời trước bao biến động của thời gian.
   Thành phố Cần Thơ đang bước vào  những ngày cuối năm. Chút nắng lên cho đất trời thêm rạng rỡ. Và càng đẹp biết bao, ngôi trường bước qua tuổi đời tròn thế kỷ mà vạn tấm lòng vẫn phơi phới mùa xuân!.
Lê Phước Nghiệp
NHỮNG NẼO ĐƯỜNG MÙA XUÂN
1. Mùa hè năm 1965, tôi về thăm quê người bạn học ở  Mái Dầm trên một chuyến tàu xuôi dòng sông Hậu. Ở quê tôi “chiếc tàu” nhỏ bé thế nầy chỉ được gọi là “đò máy” và  rất ngại  mỗi lần ngược sóng sông Tiền trong mùa gió chướng . Tàu nhỏ, dòng sông cuồn cuộn phù sa, lại thêm đất trời trắng xóa một màn mưa, nên trong lòng không chút nào yên. Tôi ngồi nhấp nhổm trên băng gỗ phía trước , mắt cứ ngóng về phía tay phải dòng sông. Theo lời bạn tôi, khi nào nhìn thấy cột ống khói lò gạch, cũng có nghĩa là tới Mái Dầm. Một tiếng-rồi hai tiếng trôi qua. Dòng sông dậy sóng, hàng đàn lục bình trôi tăm tắp,  xuôi về đâu mà hối hả như một cuộc đuổi bắt không có điểm dừng chân? Lẫn trong tiếng máy, trong tiếng sóng vỗ vào mạn tàu, tôi còn nghe được cả âm thanh của những tràng đại liên vang lên đâu đó trên bờ. Thời chiến, hình như mọi người cũng ít nói hơn. Nụ cười trẻ thơ cũng tắt hẳn trên môi. Cái cảm giác phập phòng lo sợ như một ám ảnh không rời.
Khi mọi người trên tàu reo mừng, tôi nhìn qua cửa sổ, thấy trước mắt mình là cột ống khói xây bằng gạch thức thật cao đang thả từng ngụm khói lên bầu trời tháng năm bây giờ sau cơn mưa đầu mùa đã  trong vắt gờn gợn mấy làn mây trắng. Bất chợt, nhìn trên bến, dọc theo bờ sông, những cánh bằng lăng nở tím đung đưa trong gió. Bao nhiêu lo lắng, băn khoăn bất chợt tan biến để trải lòng ra hòa nhập cùng đất trời vô tận:
                                     Em Mái Dầm sông xa lớp lớp
                                    Bằng lăng mọc tím lối lên trời
                                    Khói tàu bay trắng vàm kinh nhỏ
                                    Đôi mắt em- màu xanh biển khơi…
Chút lãng mạn thời học trò được gửi qua mấy dòng thơ.Yêu dòng sông Hậu cuồn cuộn phù sa, yêu bến nước phủ sắc tím bằng lăng, nhưng không khỏi ngán ngẫm vì chuyến hành trình hơn ba tiếng đồng hồ trong khi khoảng cách giữa bến Ninh Kiều và Mái Dầm chỉ trên dưới mười cây số! Có lẽ không chỉ riêng tôi, mà bao nhiêu khách đi tàu buổi ấy, vẫn thầm mong có một con đường nối liền phố thị với vùng quê. Nhưng ước mơ nầy sớm chìm trong lửa đạn. Thời chiến, sinh mạng con người mong manh, nói chi là đắp bồi, xây dựng? Năm tháng dần qua, chiến tranh kết thúc. Bao nhiêu gia đình trở về chốn cũ. Buổi đầu còn nhiều khó khăn, di chuyển chủ yếu vẫn là sông nước. Con đường nối các vùng quê được người dân tự lực sửa chửa, nhưng vẫn là những con đường đất mùa mưa lầy lội. Họa hoằn lắm mới có một số ít đường quê lót xi măng, nhưng thường ngắn  và chủ yếu dành cho người đi bộ. Như vậy  có nghĩa là mơ ước năm nào của tôi và của những hành khách trên chuyến tàu xa xôi kia ví như những cánh lục bình trôi về biển cả…
Tháng 12 năm 2010, tôi trở lại Mái Dầm không phải trên chuyến tàu năm cũ mà bằng xe gắn máy. Qua khỏi cầu Quang Trung, rẻ phải, bỏ lại sau lưng cái ồn ào của một thành phố đang chuyển  mình theo bước đi thời công nghiệp hóa, con đường nhựa phía trước trải rộng thênh thang.Tháng Chạp phương Nam thoáng chút gió mùa Đông Bắc, cái nắng không gay gắt nhưng bầu trời thì xanh thăm thẳm làm lòng ta chợt nôn nao khi trời đất giao mùa.Về mái Dầm lần nầy, không chỉ thăm người bạn cũ mà còn để tiễn bạn tôi vào cõi vô cùng.Thời học trò, chúng tôi đã từng mơ ước một con đường như thế nầy, nhưng tiếc cho bạn tôi: sau  năm 1975, anh về quê sống cuộc đời nông dân bình dị rồi ngã bệnh liệt giường suốt mấy năm dài. Điều đó cũng có nghĩa là anh không có cơ hội để nhìn và để được đi trên con đường dẫn về quê mẹ.Và có bao nhiêu người  như bạn tôi - như những  người dân tay lấm chân bùn, giống như cánh đom đóm nhỏ bé kia lập lòe mơ ước từ một góc quê hương rồi cuối cùng chìm khuất  trong bão táp thời gian?
 Mấy mươi năm dài sau chiến tranh, còn nhiều điều  chưa vừa ý và cần thay đổi, nhưng rõ ràng ai cũng nhìn thấy được những thay đổi rất lớn của Cần Thơ. Con đường nhựa thênh thang đâu  chỉ đến Mái Dầm, mà còn qua Cái Côn, còn về Kế Sách. Cuối năm 2011, tôi và các bạn đồng nghiệp cùng làm một cuộc viễn du. Từ con đường nầy, chúng tôi qua Kế Sách, ghé Sóc Trăng, xuống Vĩnh Châu rồi trở lại Cần Thơ theo quốc lộ. Con đường chúng tôi đi qua hai bên là những cánh đồng tăm tắp một màu xanh, có lúc là một thị trấn trẻ với cửa nhà san sát. Đẹp và tự hào  biết bao quê hương tôi trong những năm tháng thanh bình…
2. Thêm một lần đất trời chuyển nhịp. Cũng buổi chiều cuối năm se lạnh, Thành phố nhộn nhịp chuẩn bị vào Xuân. Con đường Hòa Bình lung linh ánh đèn với sắc màu rực rỡ. Xuôi theo dòng người hối hả , tôi lại qua cầu Quang Trung, nhưng rẽ trái theo đường dẫn cầu Cần Thơ về hướng Hậu Giang. Miền  Nam nhiều sông rạch nên đường đi cũng san sát những nhịp cầu! Nhưng có lẽ đặc biệt và độc đáo hơn, nếu bạn dừng xe, đứng trên cầu và hướng tầm mắt  về xa. Dưới kia là dòng sông hiền hòa, đục nước phù sa, uốn quanh những vùng quê yên tĩnh. Cặp theo dòng sông, không chỉ một con đường, mà có đến năm bảy lối đi, kết lại tựa như những cánh hoa tỏa về muôn nẽo. Những con đường nầy dẫn về đâu? Một thôn xóm yên bình, một chợ quê ồn ào ban sáng, hay một ngôi trường rộn tiếng đùa vui?
Yêu biết bao nhiêu - những con đường quê như thế. Những con đường - giống như đường về Mái Dầm - là ước mơ từ bao nhiêu năm tháng để hôm nay trở thành hiện thực. Chợt nhớ thời thơ ấu, đứa học trò nhà quê chân đất đầu trần, mùa mưa phải bấm từng bước chân trên con đường trơn trợt, mùa khô đất nứt trắng, lại bước thấp bước cao nên hầu như các móng chân không bao giờ nguyên vẹn! Con đường đi tìm tri thức của thế hệ chúng tôi sao mà vô cùng gian khổ. Có những ngày bụng đói, phải vượt mấy “gian đồng”, mắt đổ hào quang mà trường tôi vẫn còn xa thăm thẳm.
Tuổi thơ hôm nay thật vô cùng hạnh phúc. Con đường quê  các em đi bằng phẳng, thênh thang mà lối vào đời cũng phủ kín hoa hồng. Xin được ghi ơn những hy sinh lặng thầm của bao nhiêu người  khai hoang mở đất. Xin gửi chút ngậm ngùi quá khứ như một hạt bụi chôn vùi để nẫy mầm hoa cỏ .Và, để những con đường Cần Thơ tôi yêu mãi mãi là những nẽo đường xuân…
Cần Thơ, tháng Chạp 2012
LÊ TRÚC KHANH
BẾN NINH KIỀU- NĂM THÁNG VÀ NỖI NHỚ
1. Tôi đến Ninh Kiều lần đầu tiên vào những năm 60 của thế kỷ 20.Lúc bấy giờ, dù trong thời chiến, nhưng Cần Thơ vẫn là thành phố sầm uất nhất ở vùng đồng bằng sông Hậu mà người dân gọi bằng mỹ từ “Tây Đô” với tất cả sự tự hào.Suốt những năm học trò Trung học,tôi học ở trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu và nhà ở cạnh hồ Nước ngọt, cách trung tâm thành phố Mỹ Tho chỉ một con đường. Chẳng biết tự bao giờ,câu ca dao quen thuộc đã đi vào lòng tôi:
                Đèn Sài Gòn  ngọn xanh ngọn đỏ
                Đèn Mỹ Tho ngọn  tỏ ngọn lu..
Điều đó, chứng tỏ rằng có một thời , Mỹ Tho chỉ “thua chị kém em” là so với Sài Gòn, chớ Cần Thơ chưa xứng mặt “anh tài”!Thế mà  những năm 60, chưa bao giờ tôi thấy nhà lồng chợ Mỹ Tho mở cửa quá bốn giờ chiều.Vườn hoa Lạc Hồng  cũng là nơi khách nhàn du lui tới, phía bên kia sông là Cù Lao Rồng xanh ngắt những vườn cây, nhưng ánh đèn đêm vàng vọt đã giục khách nhanh chân về nhà vì phía cuối trời xa, những ánh hỏa châu long lanh trên sóng nước Tiền Giang như nhắc nhở mọi người quê hương còn chìm trong lửa đạn.
 Với suy nghĩ đó, tôi vô cùng ngạc nhiên khi chợ Cần Thơ hầu như buôn bán suốt đêm và bến Ninh Kiều lúc nào cũng rộn ràng xe ngựa. Hình như cánh tay bạo lực của chiến tranh không chạm tới nơi nầy? Cũng không cần phải đi tìm trong tư liệu về nguồn gốc tên gọi Bến Ninh Kiều.Đó là cái tên bắt nguồn từ giai thoại về Chúa Nguyễn Ánh trong một lần thả thuyền trên sông Bassac vì mến tiếng đàn câu hát mà đổi lại là Cầm thi giang. Đó là những năm sau 1955, chính quyền miền Nam đổi tên Bến Hàng Dương thành Bến Ninh Kiều bởi con đường cặp theo dòng sông lúc bấy giờ có tên là đường Lê Lợi? Những điều nầy với tôi không có gì quan trọng. Cảm nhận trước hết của tôi về Bến Ninh Kiều là nét đẹp trong sáng hồn nhiên của  cô gái miệt vườn, nhưng đã thay đổi y phục người phố chợ cộng thêm một chút trang điểm nhẹ nhàng, thành ra vừa dễ gần mà lại đậm đà hương sắc  làm say đắm lòng người.
Khi đất trời chuyển mùa, tháng Chạp  trở về mang theo chút gió heo may từ phương Bắc.Ấn tượng rõ nhất của mùa Đông là buổi sáng ngợp mắt vì những chiếc áo ấm đủ màu xuôi ngược trên đường. Có lẽ những người cùng thế hệ tôi đều có chung suy nghĩ: hình như thời đó, mùa đông lạnh hơn bây giờ rất nhiều? Trong những ngày nầy, Bến Ninh Kiều càng rực rỡ hơn với ngàn hoa khoe sắc. Từ Ngã ba cột đèn ba ngọn cho đến sát khu vực Hải Quân ( nay là khu nhà hàng Ninh Kiều), hàng trăm loại hoa kiểng từ khắp nơi được thương lái đưa về bày bán.
Hàng đoàn ghe thương hồ nối đuôi nhau, cắm sào phía dưới bờ sông.Phía bên kia, xóm Chài vốn dĩ ngày thường trầm mặc ,dường như cũng rộn rã hẳn lên.Từ các loại cúc đại đóa, cúc mâm xôi, cho đến vạn thọ, hoa xác pháo, trạng nguyên, ngọc nữ… và bao nhiêu loại hoa vừa lạ vừa quen mà tôi không làm sao nhớ hết.Cứ mỗi năm, những nghệ nhân dân gian lại  sáng tạo thêm nhiều tên gọi mới, như một mong ước: sống lâu, sống giàu sang, hạnh phúc..và các loại hoa mang tên như thế cũng rất được người Cần Thơ đón nhận nhiệt tình.
Bùng binh Đại lộ Hòa Bình Tết Mậu Thân 1968
Thời chiến, tiếng súng hòa lẫn vào tiếng pháo.Càng  gần đến ngày đưa ông Táo về trời , hai thứ âm thanh nầy lại càng chen  nhau như một điệp khúc đầy nghịch lý. Nôn nao khi sắp đón một mùa Xuân, nhưng tự lòng tôi không khỏi thoáng chút ngậm ngùi. Cần Thơ thanh lịch, Cần Thơ rộn ràng xe ngựa, nhưng vẫn không che giấu được những ánh mắt đượm buồn, nhưng chiếc áo sờn vai, những bàn tay chai sần.. của người dân nghèo trôi nổi sông hồ trên  những con  thuyền chất đầy hương sắc mùa Xuân để đem bán cho đời!
Nhưng có lẽ, điều mà tôi nhớ nhất về Bến Ninh Kiều vào xuân là những kỷ niệm ngọt ngào của một thời thơ mộng. Những năm trước 1975, học sinh các trường công lập  ở miền Nam thường được chia tách nam, nữ học riêng. Nam sinh thì quần xanh áo trắng, còn nữ sinh thì mới vào lớp Đệ Thất ( nay là lớp sáu) đã phải mặc áo dài.Cần Thơ có hai trường trung học lớn và nổi tiếng khắp vùng sông Hậu: trường Trung học Phan Thanh Giản và Trung học Đoàn thị Điểm. Hai trường cách nhau một con đường nhỏ (trước mang tên Pasteur,  nay là đường Võ thị Sáu) mà lại bị cấm đi vì ở gần khu quân sự.Biết bao nhiêu chàng “ thi sĩ học trò” đã gửi lòng mình qua những sáng tác thơ văn đầy lãng mạn cho một bóng hồng nào đó thoáng hiện qua chiếc cầu thang bên kia ngôi trường “kín cổng cao tường”. Những mối tình thơ câm lặng đó rồi cũng như một con sóng nhỏ trên mặt trường giang, sẽ phai dần đi để trở thành kỷ niệm khi chúng ta bước xuống cuộc đời.Nhưng, mùa Xuân và Bến Ninh Kiều đã khơi một dòng chảy cho nước về nguồn, cho bao nhiêu câu chuyện tình học trò cứ tưởng mong manh như sương khói mà lại bền bĩ với thời gian.
Hạnh phúc nhất với tuổi học trò chúng tôi thời đó là những buổi sáng giáp Tết, cũng ôm cặp sách tới trường, nhưng không vào lớp, mà điểm hẹn là  Bến Ninh Kiều! Mặt trời lên, mang theo chút nắng ấm, gió từ sông Hậu thổi vào lồng lộng,bạn cứ ngỡ đi trong chợ hoa mà như lạc tới Đào Nguyên!  Chung quanh ta, hàng trăm tà áo dài trắng nữ sinh tung bay trong gió, những nụ cười, ánh mắt, những câu chuyện không dứt.. Mùa Xuân hình như tràn ngập trong mỗi trái tim người..
Giã từ năm tháng học trò, bước  vào cuộc sống với bao nhiêu hệ lụy, hình ảnh một thời đó đã bị phủ kín bởi lớp bụi thời gian.Mấy mươi năm- dù vẫn sống ở Cần Thơ- nhưng rất ít khi tôi đi chợ Tết Ninh Kiều. Cuộc sống bộn bề lo toan chuyện áo cơm, con cái.. Những ngày giáp Tết thì tất bật nên nếu có ghé vào phiên chợ tết thì cũng vội vàng. Một điều nữa là hiện nay, nữ sinh cũng rất hiếm khi mặc áo dài trắng như ngày xưa, nên chợ hoa Xuân -với cảm nhận riêng tôi- hình như cũng giãm phần sinh động.
2. Mùa Xuân lại về. Bến Ninh Kiều hôm nay đẹp hơn với những công trình xây dựng. Lối đi rộng hơn, con đường cặp sát bờ sông thoáng đãng và không còn lồi lõm  như nhiều năm trước. Phía bên kia, Xóm Chài cũng đang dần thay chiếc áo cũ kỹ năm xưa để bước vào thiên niên kỷ mới. Chợ hoa sau bao nhiêu lần đổi chỗ, cuối cùng nơi đây vẫn là điểm chính. Thực ra, khách có thể đến chợ hoa Nhị Kiều, làng hoa Bà Bộ, hay những con đường hoa tự phát dọc theo lối dẫn về Bình Thủy-Long Tuyền. Nhưng có lẽ trong suy nghĩ của những cư dân “cố cựu” Cần Thơ, thì không nơi nào phù hợp hơn Bến Ninh Kiều.Điểm đặt chợ hoa không chỉ thuận tiện cho người mua mà còn cho kẻ bán.Vị trí phải là “trên bến dưới thuyền”, để ghe thuyền dễ dàng lui tới,để có nước sông tưới mát giữ được sắc hoa bền lâu trong suốt thời gian bán Tết.
Xuân nầy, tôi lại có dịp đi chợ hoa Ninh Kiều, nhưng bên cạnh là đứa cháu ngoại vừa ở tuổi biết cảm nhận cái đẹp của hoa và cũng có hàng trăm câu hỏi về hoa mà đôi lúc ông ngoại phải chào thua vì không có lời giải đáp! Lại nhớ lan man về những người bạn học,trong đó có nhiều  người đã vĩnh viễn ra đi.Một đêm nào trong mùa xuân chiến tranh, tôi và Hà Huy Thanh đã đi chợ Tết Ninh Kiều với cả tấm lòng phơi phới tuổi hai mươi:
                            Ra chợ đêm chờ xem pháo bông
                            Bến bờ bên ấy vẫn mênh mông.
                            Hai thằng bạn rũ đi trên pháo
                            Để thấy tình yêu vẫn đẹp hồng..
Rồi người bạn thân ấy cũng đã nói lời vĩnh biệt.Ngày bạn mất, lòng tôi đau nhói vì Hà Huy Thanh ra đi là đã mang theo  một phần đời thanh niên của tôi ở đất Cần Thơ .Điều đó, hôm nay tôi cũng không thể tâm sự với cháu mình mà chỉ giấu kín trong lòng .Rồi lại nhớ cô bé học trò mỗi ngày với tà áo trắng bay trên đường Phan Thanh Giản để cho ai kia cứ theo bước giai nhân, khoảng đường gần mà mắt thì xa dịu vợi!:
                              Đại lộ và mười  lăm cột đèn
                              Bây giờ nghe khoảng cách dài thêm
                              Dấu chân hai đứa nhòa sương bụi
                              Anh ngẩn ngơ- thời gian lãng quên…
Cố nhân  nay cũng đã là bà nội, ngoại, tóc bạc màu theo năm tháng và có lẽ những câu thơ vụng về chắc cũng không còn nhớ nổi  dù hồi nào tôi đã nắn nót từng dòng trên giấy poluer xanh để kín đáo gửi cho nàng.Mà thôi, nhắc làm gì cái thời hoa bướm đó. Tôi chợt ngước nhìn lên khung trời tháng chạp.Quê hương tôi đang bước vào xuân với không gian bát ngát màu xanh,cao vời vợi như nhữn g niềm mơ ước không cùng. Lẫn tron g cái nền xanh bình yên đó, có một vầng mây trắng phiêu bạt cuối trời xa,trôi rất chậm như có chút gì lưu luyến nên bất chợt trong khoảnh khắc dừng lại phía vàm sông.Có phải đó là Hà Huy Thanh, là Lăng Cảnh Huy, …hay bao nhiêu người khác nữa, những người cùng tôi góp mặt  trong chợ Tết Ninh Kiều mà  giờ đây  đã là “bạch vân thiên tải” ?
 Đi giữa những hàng hoa “ nghìn tía muôn hồng”, lòng ta phơi phới khi đất trời đang chuyển bước vào xuân.Đẹp biết bao-quê hương Cần Thơ- nơi tôi đã gửi trọn hoài bão một thời thanh niên đầy ắp những ước mơ hồng.Nhưng tự sâu thẳm lòng mình, tôi vẫn thấy nhớ tiếc những tà áo dài năm nào như đàn bướm trắng mùa Xuân đang hút mật cuộc đời để gửi lại nhân gian những dòng thơ ngọt  ngào hương sắc.Những  tà áo trắng một thời- cũng như bạn bè tôi- giờ như  vầng mây kia trên khung trời xanh thẳm …
Nữ sinh các trường Trung học trong Thành phố Cần Thơ giờ rất ít khi mặc áo dài (trừ ngày thứ hai), nên dù có vào chợ hoa ngày Tết , thì hầu như chỉ là đồng phục ngắn.Tuổi trẻ hôm nay hồn nhiên, trong sáng và đẹp hơn so với tuổi trẻ ngày xưa, bởi các em lớn lên trên một đất nước thanh bình , mà những ám ảnh chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ.Nhưng đi giữa ngàn hoa Bến Ninh Kiều, lòng tôi vẫn có chút bâng khuâng.Giá mà…
Bất chợt, ước ao phải chi trở lại thời mười tám tuổi , trở lại một Ninh Kiều hôm nay nhưng lại tung bay sắc trắng tinh anh của chiếc áo học trò bên hàng trăm loài  hoa đang chào đón mùa Xuân.Để tôi được cùng bạn bè chen chân trong rừng người đón Tết, để viết trọn những vần thơ thời mới lớn:
                                 Trên những đường xưa rợp áo dài
                                 Em về- gió động tóc thề bay…
 Hoặc ngồi trên chiếc ghế đá nào đó cạnh bờ sông mà mơ một chuyến đi đầy lãng mạn : theo đoàn ghe thương hồ trở về các vùng quê khắp mọi miền đất nước khi kết thúc chợ hoa vào trưa ngày ba mươi tết. Ninh Kiều ơi, yêu biết bao nhiêu…..
Cần thơ, những ngày cuối năm
LÊ TRÚC KHANH
“ĐỒNG TƯỚC XUÂN THÂM 
TỎA NHỊ KIỀU”
   Ngày mới tới Cần Thơ, khi xe qua hai chiếc cầu sắt song song nối liền đôi bờ sông Cái Khế, trong đầu tôi đã hiện ra một câu thơ Đường quen thuộc: “Đồng tước xuân thâm tỏa Nhị Kiều”.
  Dĩ nhiên, câu thơ cổ nầy chẳng chút liên quan nào đến hiện tại, bởi đó là một giai thoại từ thời Tam quốc! Nhưng chỉ vì “Nhị Kiều” lại là một mỹ danh để gọi chiếc cầu đôi. Ôi, hiền lành và nhỏ bé biết bao, con sông nối mạch Cần Thơ để rồi len lỏi vào tận vườn cây trái xanh tươi miệt Bình Thủy, Phong Điền.Trong thời học trò, không biết bao nhiêu lần, tôi ngẩn ngơ đứng trên bến Nhị Kiều mà trông vời chiều mưa Cái Khế. Những đám mây đen đó, rồi sẽ theo gió trôi giạt về đâu, cứ để con sông bập bềnh muôn lượn sóng. Sát bờ sông, có một công viên nho nhỏ, đặt vài băng ghế đá, bãi cỏ xanh, bóng cây mát rượi là chỗ dừng chân cho khách nhàn du. Kỷ niệm một thuở trong sáng hồn nhiên chừng như theo con  nước lớn, ròng với những đám lục bình vô định trôi tăm tắp về đâu.
    Rồi theo qui luật muôn đời “Sông sâu bên lỡ bên bồi”, phía bên nầy bờ bị dòng chảy  Cái Khế xoáy mòn và chỉ trong một khoảng ngắn thời gian, công viên nhỏ bé kia đã chìm theo bao lượn sóng vô tình. Ở ngay giao điểm ngả ba con đường Phan Thanh Giản và Duy Tân (Nay là đường Xô Việt Nghệ Tĩnh và Hoàng Văn Thụ) sát bờ sông, có một gốc phượng già, đến mùa hè trổ bông rực rỡ. Bạn bè tôi đều đồng ý đó là cây phượng đẹp nhất thành phố Cần Thơ. Những cánh phượng hồng rơi trong gió, bay lả tả trong không gian rồi cũng tự giấu mình trên mặt sông dài. Phượng giống như chúng tôi, vùi lấp tuổi thơ ở một góc quê hương ngạt ngào mộng tưởng. Theo năm tháng, tôi trưởng thành từ trong khói lửa chiến tranh và bước vào nghề dạy học. Đôi lúc giữa nợ nần, cơm áo vây bủa, chợt nhớ lại ngày thơ, lòng không khỏi ngậm ngùi:
                                    Bảy tám năm rồi xa lớp học
                                    Xa trường- xa hết cuộc rong chơi
                                    Dòng sông Cái Khế buồn thiu đó,
                                    Đã cuốn tình trôi vạn nẻo đời….
   Vậy đó,  mà đã gần 50  năm trôi qua. Có biết bao cuộc đời, bao thế hệ lớn lên trên một quê hương đang từng ngày đổi mới. Cây phượng cũ không còn. Hai chiếc cầu sắt hiền lành, nhỏ nhắn được thay bằng chiếc cầu bê tông hiện đại, nhưng cái tên Nhị Kiều vẫn tồn tại với thời gian. Mấy năm sau nầy, bờ sông Cái Khế được kè đá cả hai bên, phía đường Hoàng Văn Thụ xây dựng công viên mới, cũng tấp nập trên bến dưới thuyền. Đặc biệt hơn, cứ mỗi lần giáp Tết, những dãy hàng hoa san sát, nối liền hai đầu cầu bên nầy là An Cư, và bên kia là An Hội. Dưới bến sông, chen chúc ghe xuồng chở hoa từ các vùng quê tới: An Bình, Long Tuyền, Bình Thủy, Vàm Xáng, Phong Điền... Lại có cả người bán hoa Tết từ các vùng cù lao, từ Sa Đéc, Đồng Tháp... cũng ghé vào đây để góp thêm sắc màu cho mùa xuân mới. Nhị Kiều rộn ràng với vạn thọ, hoàng mai, đỗ quyên, trạng nguyên, ngọc nữ... và hàng trăm loại hoa mà tôi không làm sao nhớ hết. Cái không khí vui tươi, rạo rực ấy bắt đầu sau rằm tháng Chạp cho đến xế trưa ngày ba mươi Tết. Khi chiếc ghe thương hồ cuối cùng rời bến, Nhị Kiều trở lại với bình lặng cố hữu của nó như mọi ngày, để cùng nhân gian nhẹ bước vào xuân.
   Lòng tôi lại bồi hồi vì một cảm xúc mênh mang, như muốn ngược dòng ký ức. Vẫn là Nhị Kiều quen thuộc của tôi, của một thời học trò hồn nhiên trong trắng. Chắc hẳn là do chủ quan, tôi yêu Nhị Kiều hơn cả bến Ninh Kiều! Trong cảm nhận của riêng tôi, Ninh Kiều đẹp và sắc sảo như một cô gái thành phố, trong khi cái đẹp của Nhị Kiều là một nét duyên quê, một thứ “hoa đồng cỏ nội” mà gặp một lần ta chẳng dễ gì quên.
    Lại thêm một lần đất trời chuyển nhịp. Mùa Xuân trở về để Nhị Kiều thêm rực rỡ, để tôi có dịp nhìn từng hàng ghe thuyền san sát mà trở lại ước mơ thời trẻ: chờ đợi một chuyến đi xa với điểm khởi đầu là con sông Cái Khế thân quen. Tuổi tác, năm tháng, cuộc đời... đã làm mòn dần trong ta bao nhiêu khát vọng. Thì thôi, xin nguyện làm một giọt phù sa, lắng giữa dòng trong để giữ tròn kỷ niệm hôm qua và gởi lại nghìn sau chút lòng yêu đất nước…
Cần Thơ, những ngày cuối  năm 2011  
  LÊ TRÚC KHANH
MỘT CHÚT LÒNG QUÊ
1. Cuối năm,trời mênh mang trở lạnh. Mùa đông đến sớm với chút mưa bụi lất phất đường như điểm thêm một nét duyên ngầm cho vùng đầt phương Nam chỉ có hai mùa mưa nắng.
  Buổi tối, xem phóng sự ngắn của Đài THVN về sự chuyển đổi đột ngột của thời tiết buổi tàn niên.Người miền Nam khi được phỏng vấn “Bạn nghĩ gì về cái lạnh và cơn mưa bụi?” thì thích thú, hài lòng vì được cái “hương vị” của mùa đông chỉ biết từ sách vở.Những người miến Bắc, từ một viên chức, công nhân ..đến người lao động thủ công đang  ngược xuôi mưu  sinh ở đất Sài Gòn, đều có chung cảm xúc “thương nhớ mười hai” và nỗi nhớ càng thiết tha hơn khi đất trời đang chuyển nhịp. Mới thấy tình quê thật là sâu nặng....
2. Năm 1923, nhà cách mạng Nguyễn An Ninh vừa tròn 24 tuổi. Có người nhận xét rằng ông mang tâm hồn nghệ sĩ, ít nghĩ tới việc tổ chức lực lượng cách mạng.Nhưng chắc chắn ở ông là lòng nồng nàn yêu nước, yêu dân  mà cụ thể là tình yêu đất, yêu người. Trong bài “Cao vọng của bọn thanh niên An Nam”  ông có viết:
   “Ta cần phải lên một chỗ non cao, ở một nơi yên tịnh mà tra mình cho biết các thân của mình thế nào, rồi lấy con mắt hoà hảo, tương ái mà ngó cả vũ trụ, xã hội chung quanh mình. Chừng ấy, ta mới bỏ chỗ non cao mà trở về với xã hội, cái xã hội ấy ta có thể dùng trọn cái tinh thần tạo lập của ta được. Nghĩa là ta đây là người An Nam, ta phải trở về với xứ Nam Việt nầy vì ta là người sanh trong xứ nầy, ta quen biết với non sông, nòi giống của ta thì ta làm việc làm của ta, ta khỏi mất công lần mò vô ích.”
     Văn phong quốc ngữ những năm hai mươi của thế kỷ trước có thể hơi dài dòng, khó hiểu với thế hệ hôm nay, những nội dung của nó vẫn là những điều còn tươi rói : Yêu nước gắn liền với tình yêu quê và luôn luôn, quê hương vẫn là nơi đẹp hơn tất cả.
     Từ mối đồng cảm với người xưa, lòng ta chợt thoáng chút bồi hồi khi cuối năm nhớ về quê cũ.Quê tôi nằm bên kia Thành phố Mỹ Tho, cách một dòng sông cửa Đại mênh mông bốn mùa miên man sóng vỗ.Hồi đó, chiếc cồn cát chắn ngang vàm sông chưa nổi lên, nên tới mùa gió chướng thì sóng bủa trắng chân trời. Trên dòng sông, hàng đàn le le không biết từ đâu, đúng hẹn trở về dập dềnh bơi lội, như báo cho mọi người biết là năm cùng tháng tận.Chúng dạn dĩ đến độ chẳng thèm tránh ghe tàu xuôi ngược, nên đôi khi chết dưới “chân vịt” mấy chiếc phà. Loài vật nầy giống hệt loài “vịt Tàu”, có điều nhỏ hơn một chút, và tôi cũng chưa thấy ai săn bắt chúng làm thức ăn.Rồi khi mùa đông sắp  hết, tiết trời ấm áp chuyển sang xuân, cả đàn rủ nhau bay đi, trả lại cái mênh mông của dòng sông với hàng vạn cánh lục bình nối nhau trôi về vô tận.
   Khoảng vài mươi năm nay, tự dưng không còn thấy đàn le le xuất hiện ( Nếu có chăng,chúng trở thành một trong những món ăn “cao cấp”  ở các quán nhậu đầy dẫy trong thành phố Cần Thơ!). Có phải vì nòi giống chúng bị tận diệt hay vì cuộc sống ồn ào náo nhiệt của thành phố ngàycàng sôi động làm mất đi hình ảnh một thời qua ?
    Nối hai bờ sông lúc đó, là những chiếc phà nhỏ chỉ có 1 đầu để xe cộ và khách bộ hành lên xuống. Khi phà cặp bến, khách lên xong, mới đến lượt xe di chuyển và dừng lại ở bàn cầu gỗ đặt  trên cầu phao. Cái sàn cây nầy cũng thật đặc biệt: hình chữ thập, lót gỗ chắc chắn, có hệ thống bánh xe lăn phía dưới.Những người công nhân bến phà sẽ dùng sức đẩy cầu, để xe được trở đầu thuận chiều lên bến. Từ những năm 70 của thế kỷ trước, dạng cầu phao nầy cũng đi vào quá vãng, bởi đã có  phà 2 đầu và cầu phao cũng vững vàng, rộng rãi hơn. Nhiều lúc qua phà, lòng lại chợt bâng khuâng. Trong cái se lạnh cuối năm, khoảnh khắc dừng lại trên chiếc cầu phao mới, lòng ngậm ngùi nhớ “người muôn năm cũ”!
    Rồi những ngày sóng lớn, qua phà ướt  đẫm cả người. Công nhân phà phải cột chặt các xe lớn bằng dây luộc vào hai bên lan can phà. Những bà mẹ, người chị đi chợ tết Mỹ Tho về, đang tíu tít nói cười, trong phút chốc mặt mày xanh mét ngồi nép mình bên thành phà, miệng lâm râm cầu Trời Phật cho được bình yên, phà mau cặp bến. Nhiều bà mẹ quá sợ, quăng bớt hàng của mình xuống sông lớn để cho “nhẹ phà, không chìm”! Khổ thay, đó lại là dưa Tết- những trái dưa loại nhứt- chẳng những không chìm mà lại dật dờ trên sóng nước. Và suốt thời thơ ấu cho đến khi được đi trên những chiếc phà lớn, rộng rãi, an toàn như hôm nay, tôi chưa bao giờ nghe có một chiếc phà nào chìm trên dòng cửa Đại! Có điều, những hình ảnh ngộ nghĩnh, buốn cười với bao nhiêu con người chơn chất, thật thà đã mãi mãi chìm sâu trong con sông đời vô tận.....
     Mùa Xuân miền Nam hình như thường hay đến sớm. Đến trong âm thanh tiếng quết bánh phồng từ làng trên xóm dưới. Đến trong tiếng guốc rộn rã đường quê. Người dân quanh năm đầu trần, chân đất, lối đi thì mùa mưa lầy lội, mùa nước nổi thì di chuyển bằng xuồng ghe. Nhưng khi bắt đầu trở gió bấc,con đuờng khô trắng, buồi sáng dẫm lên mát rượi bàn chân. Nhớ biết bao hàng vĩ đan bằng lá dừa phơi bánh tráng, gác trên giàn cao, đủ cho tôi bóng râm với giấc ngủ bình yên những ngày trưa tháng Chạp.
                 Nêu mới vươn trời ru gió bấc,
                 Mười lăm tháng Chạp đã vào xuân             
                 Bỏ manh áo vá từ năm ngoái,
                 Khua guốc đường mơ pháo lại gần....
  Nhưng với thời thơ ấu, kỷ niệm tuyệt vời nhất của tôi là những sớm cuối năm qua đò Rạch Miễu. Một vùng sông nước trắng xoá sương mù, phà trôi nhẹ nhàng, sóng gợn lăn tăn.Tâm hồn cậu học trò nhà quê nhiều mơ mộng như gởi tận đâu đâu.Tôi hình dung phía sau vùng sương mù ấy, chiếc phà sẽ đưa tôi đến cõi Đào Nguyên! Bồi hồi nhớ truyện Từ Thức gặp tiên “Từ buộc thuyền lên bờ coi, thì thấy khí núi xanh biếc, vách đá dụng thẳng, cao hàng ngàn trượng. Rồi theo lối nhỏ mà lần vào,.Cửa vách  đá khép lại ngăn lối về trần.Và từ đó, nhân gian bảo rằng Từ Thức đã lạc lối Thiên thai...” .      
   Tuổi thơ ai lại chẳng một lần ước mơ như thế? Huống chi  khi tôi vừa lớn lên thì quê hương mịt mù khói lửa.Nhưng khi bước vào cuộc đời nghiệt ngã, trôi dạt nơi xứ lạ quê người, mới hiểu rằng Đào Nguyên không có thực. Nhưng không thể phủ định rằng chính những điều đáng nhớ đáng thương của thời thơ ấu đã chắp cánh cho tôi bằng những ước mơ hồng.....
3. Cho đến hôm nay, câu chuyện cổ tích của hơn 600 năm trước vẫn còn nao lòng ngưòi. Có điều, chưa ai lý giải rõ ràng nguyên nhân nào Từ Thức lại cương quyết rời bỏ cõi tiên để trở về cõi tục. Phải chăng giữa người xưa và thế hệ hôm nay vẫn chung dòng suy nghĩ: Đào Nguyên đẹp, nhưng thiếu hẳn tình người và Từ Thức quay về bởi chàng còn một chút lòng quê?.
  Cần Thơ, đầu năm 2010
Lê Trúc Khanh            
 VÙNG ĐẤT PHƯƠNG NAM  VÀ 
TINH THẦN TÔN SƯ TRỌNG ĐẠO
1. Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hoá, dinh phủ đặt tại làng Ái Tử, thuộc huyện Đăng Xương, Quảng Trị ngày nay. Theo chân ông, những người lưu dân VN đã có mặt trên một vùng đất mới, đất của những dân tộc Chiêm Thành, Chân Lạp, Bồn Man, Lão Qua, Phù Nam... đầy lạ lùng, kỳ bí mà càng tiến về Nam như đi vào thời hồng hoang với rừng tràm rừng đước bạt ngàn, sơn lam chướng khí, muỗi, mòng, đĩa vắt, "dưới sông sấu lội trên rừng cọp đua".
Năm 1658 Hiền Vương Nguyễn Phước Tần tiếp nối quá trình chinh phục và khai thác, sáp nhập vùng Mô Xoài (Bà Rịa - Biên Hoà) vào lãnh thổ VN. Hai mươi năm sau (1679) các tôi thần nhà Minh vượt biển Đông sang xin thần phục chúa Nguyễn và tiếp tục khai thác vùng Lộc Dã (Đồng Nai) và Mỹ Tho. Năm 1695, thêm Mạc Cửu đến khai thác vùng Rạch Giá - Hà Tiên. Như vậy, theo đà Nam trấn, từ năm 1757 vùng đất về sau được gọi là "Nam kỳ lục tỉnh" đã hoàn toàn là một phần máu thịt của đất nước VN. Vì đây là vùng đất mới, nên đối với lưu dân, không phải là hưởng thụ, thụ động chờ thời vận mà phải là tích cực khẩn hoang. Bằng chính nổ lực tự thân, qua bao nhiêu năm tháng, người lưu dân đã có thể an tâm với cuộc sống vật chất do mình tạo dựng "Ở Gia Định, có khách đến nhà lần đầu tiên gia chủ dâng trầu cau, sau dâng tiếp cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu, không kể người thân sơ, quen lạ, tông tích ở đâu, ắt đều thâu nạp khoản đãi, cho nên người đi chơi không cần đem  tiền gạo theo, mà lại có nhiều người trốn xâu, trốn thuế đi đến xứ nầây ẩn núp, bởi vì có chỗ dung dưỡng vậy" (Trịnh Hoài Đức - Gia Định Thành thông chí) cũng trong quyển nầy tập Hạ, Trịnh Hoài Đức còn chép "Đất Gia Định nhiều sông, kinh, cù lao, bãi cát nên trong 10 người  đã có 9 người biết nghề bơi lội, chèo thuyền, lại ưa ăn mắm, ngày ăn ba bữa cơm mà ít khi ăn cháo". Hay Doãn Uẩn từng là thự án sát tỉnh Vĩnh Long vào năm 1833 có chép trong Trấn Tây Kỷ Lược. "Cũng có kẻ nghèo phải đi ăn xin, nhưng mỗi tháng họ chỉ đi xin một lần cũng đủ sống rồi. Họ thường tựu nhau nơi đình miếu, mỗi người đều có mùng màn riêng. Trộm cắp cũng ít xảy ra, trâu thì có chuồng nhốt ngoài đồng... họ rất thích ca hát, không ngày nào là không có múa hát".
   Như vậy, từ một vùng đất đầy những khó khăn, trở ngại về thiên nhiên, bao lớp người đi trước như thân cây đước cây tràm ngã xuống để cho lớp sau nối tiếp màu xanh bất tận. Cuộc sống sung túc đổi bằng mồ hôi, nước mắt và cả sinh mạng nữa... phải chăng làm cho họ ít quan tâm đến chuyện học hành, thi cử, không chịu ràng buộc bởi lễ giáo thánh hiền như ở Đàng Ngoài với niềm tự hào "ngàn năm văn vật"? Cũng phải chăng vì thế mà ta vẫn nghe cách nói theo kiểu bất cần đời của một điền chủ miền Nam nào đó "lấy giạ đong lúa chớ không ai lấy giạ đong chữ". Vậy thì, với vùng đất phương Nam, có hay không tinh thần "Tôn sư trọng đạo"?
2. Cuộc sống "gạo chợ nước sông" như thế đã tạo cho người lưu dân nhiều tính tốt mà cũng nhiều tật xấu: máu "anh chị" trọng nghĩa bạn bè, sẵn sàng kết thân và hy sinh vì người khác miễn là người ấy tỏ ra rộng lượng, anh hùng như mình. Họ cũng không phân biệt giàu nghèo, chủng tộc, đôi khi sống vô kỷ luật, thinh biểu dương võ lực để giải quyết mọi xung đột, ưa hài hước và đôi khi lãng phí.
    Nhưng cũng có một nghịch lý lịch sử thật vô cùng độc đáo. Thực ra, nếu như giặc Pháp không xâm chiếm Nam kỳ từ những năm cuối thế kỉ 19, thì dân VN không để tràn xuống Rạch Giá, Cà Mau quá nhanh như thế. Các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên, Sóc Trăng... còn nhiều vùng phì nhiêu chưa khai phá đến.
   Có nhận định như thế, chúng ta mới hiểu được lòng yêu nước vô bờ bến và sự cố gắng khai hoang của họ. Bởi quá căm thù thực dân, họ "sanh nhiều tật kỳ khôi": không đóng thuế cho Pháp, không muốn gặp mặt người Pháp, lắm cụ già bảy tám mươi tuổi đã giữ trọn tiết tháo ấy mãi đến lúc chết. Các cụ cất nhà giữa rừng, ở chót núi, vàm sông, ở cù lao cô tịch... không bao giờ đi chợ. Không ai biết được danh tánh các cụ. Rõ ràng, những con người vô danh đó có thể chưa hề xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, chưa hề bước chân vào chốn quan trường, thế mà sống đúng đạo lý "uy vũ bất năng khuất" đâu khác người xưa?
  Đó là đạo lý nhân dân, là quan niệm của những vị thầy vĩ đại xuất thân từ chốn quần bôù áo vải. Người dân kính trọng và ca ngợi họ, xem đó là những tấm gương thực tế để noi theo.
Người miền Nam không gọi cha là "Thầy" như miền Bắc. Hình như từ "Thầy" chỉ dùng để gọi những người dạy dỗ, nâng bước cho mình không chỉ ở tứ thứ ngũ kinh mà còn ở mọi ngành nghề trong xã hội.
    Đại Nam Nhất thống chí cũng từng ghi lại, "Dân Gia Định có tục chuộng khí tiết, khinh tài trọng nghĩa, sĩ phu ham đọc sách cốt yếu cho hiểu rõ nghĩa  lý mà lại vụng về văn từ". Đánh giá nầy từ những năm 1850 (thời Tự Đức) đã khẳng định một quan niệm sống hết sức thực tế của người phương Nam. Đối với họ lòng tôn kính tuyệt đối luôn dành cho những bậc thầy có công tác tạo cho mình. Do đặc thù của đời sống xã hội, ở đây có thầy hò (dạy hò hát) thầy tuồng (dạy các tuồng tích diễn xướng) thầy đờn (dạy đờn) đều được kính trọng như nhau chớ không hề có quan niệm "xướng ca vô loại". Nhiều cụ già tuy nghèo tả tơi nhưng dám vay nợ, mua đờn, rước thầy về dạy vọng cổ cho con. Đôi khi, cả làng hùn tiền mời thầy dạy hò để khỏi mắc cỡ khi có một khách thương hồø nào đó lên tiếng trên sông mà trong làng không ai đối đáp!.
Xa và cao hơn nữa, nhiều vị sáng lập tôn giáo ở phương Nam cũng được gọi bằng "Thầy": Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ... Có phải chăng, với nhiều lưu dân, tinh thần "tôn sư trọng đạo" luôn gắn chặt với thực tế cuộc sống, đạo nghĩa thầy trò cũng giống như bao thứ ân tình khác mà họ vẫn mang theo trong lòng từ buổi đầu khai hoang, vỡ đất?
3. Hơn mười năm trước, tôi có dịp nghe một thầy giáo già kể lại một kỷ niệm "kinh khủng" trong cuộc đời mình mà thầy đang ngấp nghé giữa lằn ranh sinh tử. Đó là khoảng những năm sau 1945, quê hương chìm trong lửa đạn. Vào một ngày cuối năm, thầy về thăm quê mình ở huyện Bình Minh (nay thuộc tỉnh Vĩnh Long), lúc nầy đang nằm trong sự khống chế của lực lượng quân sự thuộc giáo phái H... Chẳng may, ngay trong đêm thầy bị bắt cùng một số người khác (do nghi ngờ sao đó), và bị nhóm nầy trói tay bịt mắt, đưa ra hành hình trên sông Hậu. Thầy đã cầm chắc mười mươi cái chết. Những tên đao phủ máu lạnh lần lượt kéo từng người ra phía trước mũi ghe, lột khăn bịt mặt và dùng dao bầu chặt đứt cổ rồi đạp xuống dòng sông đang lặng lẽ chảy xuôi dòng dưới ánh trăng vàng vọt cuối năm mà không hề thương tiếc. Thầy giáo là người thứ tư sắp bị hành hình. Nhưng điều thầy không ngờ được là khi tấm vải che mặt vừa được giật ra thì có tiếng kêu khe khẽ từ tên đao phủ "Trời ơi! Thầy!" Trong lúc "thập tử nhất sinh" đó, thầy cũng không nhớ nổi tên đứa học trò cũ của mình. Anh ta nói nhanh trong hơi thở đứt quảng "Con sẽ giả bộ chặt đầu, nhưng đẩy thầy qua phía tay phải tức là mé Cần Thơ, thầy rán lội vào bờ và nhớ đừng qua đây nữa".
   Mọi việc diễn ra êm đẹp, không ai biết trừ hai thầy trò. Chắc chắn dù anh học trò không căn dặn, thầy cũng chẳng dám đặt chân lần thứ hai đến vùng đất ấy! Hôm nay thầy đã đi xa và anh học trò kia cũng không còn trong cõi đời nầy. Nhắc lại câu chuyện lòng thoáng chút ngậm ngùi vì qui luật đổi đời dâu biển, nhưng cũng vô cùng ấm áp bởi đạo nghĩa thầy trò - trong đêm đen của quê hương thời ly loạn - vẫn mãi rạng ngời như muôn vì sao sáng cuối trời xa!.
   Có một điều mà ngay cả các nhà xã hội học chắc cũng bất lực đi tìm lời đáp. Đó là trong những năm thực dân Pháp đô hộ, miền Nam xuất hiện một tầng lớp "anh chị" sống ngang nhiên trong xã hội, hành xử theo kiểu giang hồ: đứng bến xe, cờ bạc, trộm cắp, thanh toán lẫn nhau... Ở đất Cần Thơ, chắc những người lớn tuổi không thể quên tên nhân vật Sáu Thanh. Đây cũng là một tên tuổi vang bóng một thời: tiêu xài như nước, có vô số đàn em, sẵn sàng cho em út thanh toán những kẻ cậy thế ỷ quyền không chút nao núng. Nhưng đối với thầy giáo, thì các nhóm "giang hồ" lại có một biệt đãi, không bao giờ để xảy ra đụng chạm, xích mích làm mất lòng quí thầy. Nếu có một tên đàn em nào đó vì không biết, lỡ "cầm nhầm" của thầy một chiếc xe đạp, một số tiền... giữa chợ, chỉ cần thầy lên tiếng là lập tức có người mang đến trả và xin lỗi! Không chỉ Sáu Thanh mà hầu như các tay "anh chị" nào cũng đều cư xử như thế! Có thể coi đây là một nét độc đáo của tinh thần "tôn sư trọng đạo".
4. Đất trời lại thêm một lần chuyển nhịp. Trong cái se lạnh cuối năm, lòng bâng khuâng nhớ về thời thơ ấu. Quê tôi nằm ở bên kia sông Tiền, thuộc tỉnh Bến Tre. Ở quê tôi, trong những ngày cận tết, bên cạnh bao nhiêu lo toan vất vả, người dân quê vẫn không quên hai điều quan trọng: "Tết Mụ và tết Thầy".
   Nhớ ngày nào - như mới hôm qua - má tôi chuẩn bị cho hai anh em đội mâm lễ vật đến nhà "Tết Mụ". "Mụ" là tiếng gọi dân dã, là người đã giúp cho đứa bé lọt lòng. Thời đó, hầu như không một sản phụ nào đến nhà bảo sanh (mà cũng chưa có) nên việc "đi biển một mình" của người mẹ đều trông cậy hoàn toàn vào những bà "mụ vườn" giàu kinh nghiệm. Có thể nói, gần như tất cả trẻ con trong làng, thời anh em tôi, đều được bà dắt tay vào cuộc sống qua tiếng khóc đầu tiên.
   Lễ vật cũng chẳng có gì quí giá: Một gói trà "Tam quan kỳ chưởng", một bịt thèo lèo, vài phong bánh in... nhưng quan trọng là lòng tri ân sâu xa với người đã tạo tác cho mình. Khi đến nhà bà mụ, anh em tôi cũng nhận ra không chỉ có mình mà còn biết bao gia đình khác cũng bày tỏ lòng biết ơn như thế. Mấy chục năm trời trôi nổi, qua nhiều vùng đất nước, tôi chưa gặp ở đâu một nét phong tục độc đáo và ngộ nghĩnh như thế. Trong đầâu óc non nớt trẻ thơ, ấn tượng sâu sắc về lòng biết ơn, về đạo nghĩa "uống nước nhớ nguồn" đã trở thành những vết khắc vô hình mà trọn đời ta không quên được. Chợt nhớ thời thơ ấu, say mê vì bao câu chuyện cổ phương Nam. Đặc biệt là mối quan hệ giữa cọp và người. Đó là chuyện cọp rước mụ về sinh cho vợ cọp. Người nhà bà mụ kinh hoàng vì nghĩ là bà đã chết, không dè mấy ngày sau, cọp cõng bà trả về nhà cũ, lại còn đền ơn bằng cả một con heo rừng to tướng! Bà cũng kể lại, sau khi sanh xong, sợ cọp cái đói sẽ ăn thịt bà mụ nên cọp đực vội vàng đưa bà giấu biệt trong rừng sâu để đảm bảo an toàn. Có lẽ trong cuộc sống chung với dã thú ở cùng trời cuối đất người lưu dân đã nhìn ra được đâu là công ơn của những người đã góp phần giúp họ duy trì nòi giống, đảm bảo nhân số lao động để chiến thắng thiên nhiên, nên cọp cũng như người, đều quí trọng  những "bà mụ vô danh", người thầy đầu tiên ở vùng "tràm xanh củi lục"?.
   Từ những suy nghĩ lan man đó, ta có thể khẳng định: tinh thần "tôn sư trọng đạo" của vùng đất phương Nam thật là đơn giản, bình dị. Nó không là một thứ giáo điều, khuôn thước theo lối lý luận, sách vở - mà thấm đẫm trong lòng người như bao nhiêu mồ hôi đã thấm vào lòng đất theo mỗi bước chân người xưa mở cõi. Để cũng từ đó, ta tự hào biết bao về một lớp trí thức, cũng khoa bảng mà cũng thật bình dân: Võ Trường Toản, Phan Thanh Giản, Huỳnh Mẫn Đạt, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa... đã sinh ra và lớn lên từ nhân dân nên trọn đời gắn bó với nhân dân, để ngọn đuốc "tôn sư trọng đạo" không chỉ thắp sáng nơi cửa Khổng sân Trình mà còn soi rọi khắp ruộng lúa, cánh đồng, ngọn núi, dòng sông...
     Xin được lắng lòng nghe lại truyền thống đáng tự hào này để tự răn mình và không hỗ thẹn với người xưa...
        Lê Trúc Khanh
            (Về Nguồn - Tây đô)
       Theo http://www.ptgdtd.com/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Khúc hát Marseilles

Khúc hát Marseilles Thời đại Bạc đã mang lại cho văn học Nga nhiều tên tuổi sáng giá. Một trong những người sáng lập chủ nghĩa biểu hiện N...