Tìm hiểu thang âm ngũ cung trong âm nhạc Huế
Âm nhạc Huế từ lâu vốn rất
phong phú bởi nó được sản sinh từ một vùng đất trước đây là của Chiêm Thành
(Chăm) được người Việt miền ngoài tiếp nhận. Người Việt vào đây mang theo âm nhạc
từ bao đời của họ, đến vùng đất mới họ nghe được âm nhạc của người bản địa (vẫn
là cư dân đa số), từ đó có sự giao lưu, hòa nhập, tiếp thu và có sự tiếp biến
trong cảm quan âm nhạc của người Huế. Thật ra âm nhạc Chiêm Thành bước đầu hòa
nhập vào suối nguồn nhạc Đại Việt từ thời Lý khi vua Lý Thái Tông cho múa hát
khúc Tây Thiên và vua Lý Cao Tông cho soạn khúc Chiêm Thành âm. Có
thể đây chưa hẳn là bằng chứng về ảnh hưởng của nhạc Chiêm Thành trên nhạc Đại
Việt nhưng điều đó có thể khẳng định từ thời điểm này chúng ta đã nghe và biết
đến nhạc Chiêm Thành. Sau này khi hai châu Ô, châu Rí đã thuộc về Đại Việt, một
phần âm nhạc Chiêm Thành đã ở lại với vùng đất này. Từ đó sự giao lưu trong
sinh hoạt với phần âm nhạc bản địa đã để lại dấu ấn là điệu Nam hơi
ai trong âm nhạc Huế.
I. Các loại hình trong âm nhạc
Huế.
Trước khi tìm hiểu về hệ thống
thang âm, chúng ta thử điểm lại các loại hình trong âm nhạc Huế. Có thể kể đến
hai loại hình chính là âm nhạc bác học (nhạc cung đình, nhạc thính phòng...) và
âm nhạc dân gian (nhạc tôn giáo, nhạc tín ngưỡng, các loại hát, ngâm, ru, hò,
vè, lý...). Sự phân chia này không có nghĩa đây là hai loại hình biệt lập mà thật
ra có sự giao thoa và ảnh hưởng lẫn nhau vì đều là ngôn ngữ âm nhạc của xứ Huế
cả.
1. Âm nhạc bác học: Gọi
là âm nhạc bác học bởi nó xuất phát từ những nhà nghiên cứu thuộc tầng lớp
hoàng gia, quan lại được cung đình giao phó nhiệm vụ hoặc các nghệ nhân quý tộc.
Họ có kiến thức về âm nhạc và nghệ thuật múa có thể sáng tạo nên bài bản làm mẫu
mực cho giới thưởng ngoạn là vua quan hoặc tầng lớp cao trong xã hội.
a) Âm nhạc cung đình: Vì Huế
là kinh đô nước Việt dưới triều Nguyễn nên ở đây đã xuất hiện một thứ âm nhạc
bác học mà loại hình nổi trội chính là âm nhạc cung đình. Khi nói đến loại nhạc
này, nhiều người thường gắn triều Nguyễn vào để gọi là âm nhạc cung đình triều
Nguyễn. Thật ra phải gọi đúng là âm nhạc cung đình Việt Nam, bởi triều Nguyễn
đã tích lũy tinh hoa của loại nhạc cung đình từ các triều đại trước đó (từ trước
đời Lý cho đến các đời chúa Nguyễn) và làm phong phú thêm để tạo nên điển chế,
quy ước và vốn liếng bài bản (répertoire) được xếp đặt rành rẽ mang bản sắc
riêng của âm nhạc bác học Việt Nam. Với giá trị phong phú và độc đáo
của nó, ngày 7-11-2003 Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của
Liên Hiệp Quốc (UNESCO) đã công nhận âm nhạc cung đình Huế là kiệt tác di sản
phi vật thể và truyền miệng của nhân loại.
Nhạc cung đình gồm có đại nhạc
và tiểu nhạc, gọi chung là nhã nhạc, có các loại như sau: giao nhạc (nhạc
dùng trong tế lễ bên ngoài cung đình, đây là lễ tế trời đất tại Nam giao và Bắc
giao), miếu nhạc (nhạc dùng trong các lễ tế miếu ở Thái Miếu, Triệu
Miếu, Thế Miếu, Hưng Miếu, Văn Miếu, Liệt Miếu), ngũ tự nhạc (nhạc
dùng trong các dịp tế Thành hoàng, Xã tắc, Thần Nông), đại triều nhạc (nhạc
dùng trong các lễ đại triều như các ngày mồng một, rằm, Tết Nguyên đán, Tết
Đoan dương, lễ Vạn thọ, Thánh thọ, lễ đăng quang, ngày truyền lô thi đình, lễ
ban sóc, lễ đón tiếp sứ thần nước ngoài...), thường triều nhạc (nhạc
dùng trong các ngày mồng 5, mồng 10, 20, 25 hằng tháng là các ngày thiết thường
triều, sử dụng ban Tế nhạc và dàn nhạc bát âm gồm 8 loại nhạc khí: bào, thổ,
cách, mộc, thạch, kim, ty, trúc), yến nhạc (nhạc dùng trong các dịp
đãi yến tiệc lớn trong cung đình, có các dàn nhạc, ca công và các đội múa),cung
nhạc (âm nhạc diễn tấu trong nội cung, có dàn nhạc và các điệu múa như múa
văn, múa võ, múa bông, múa đèn). Như vậy, trong nhạc cung đình, ta thấy phần nhạc
lễ giữ vai trò quan trọng.
Bên cạnh các loại nhạc trên,
gồm nhạc diễn tấu có hoặc không có lời ca, trong một số nghi lễ còn có sự xuất
hiện các điệu múa thiết yếu đi liền với lời ca hầu hết là tiếng Hán Việt. Cho đến
nay còn tồn tại 11 điệu múa cung đình, được trình diễn trong các dịp khác nhau,
gồm múa nghi lễ (các điệu múa Bát dật, Lục cúng, Song quan), múa chúc tụng
(Tam tinh chúc thọ, Bát tiên hiến thọ, Trình tường tập khánh, Vũ phiến, Lục triệt
hoa mã đăng, Tứ linh), múa tuồng tích (Tam quốc- Tây du, Nữ tướng xuất quân).
b) Ca nhạc thính phòng: Đây
là loại hình âm nhạc bác học được các nhà trước tác âm nhạc chuyên nghiệp hoặc
các nghệ nhân trong dân gian được trưng tập vào cung đình làm ra trước hết phục
vụ tầng lớp dòng dõi vương triều và quý tộc, thường được gọi là ca Huế. Nó
không thuộc loại âm nhạc cung đình, cũng không thuộc âm nhạc dân gian. Tuy vậy
ca Huế tiếp thu được phong cách tao nhã của nhạc cung đình, lời ca mang đậm
tính chất văn chương đồng thời tiếp thu được tinh hoa âm nhạc dân gian để làm
giàu bản sắc riêng của loại hình ca nhạc này. Ca Huế được phát triển qua thời
gian để đi đến mức độ hoàn chỉnh thành đường nét giai điệu của lòng bản cố định.
Loại hình này có lời ca ít dính dáng đến sinh hoạt lao động của xã hội mà trước
hết trở thành thú vui tao nhã của tầng lớp cao trong xã hội cũ. Đây là hình thức
ca nhạc thính phòng với không gian diễn tấu nhỏ hẹp với một nhóm ít diễn viên.
Tuy vậy nó đã vượt ra ngoài khuôn khổ của nhạc thính phòng để ngày càng được phổ
biến sâu rộng hơn trong dân gian. Ca Huế có lợi thế lời ca bằng tiếng Việt, dễ
nhớ dễ thuộc hơn chữ Hán. Chính vì vậy ca Huế dễ được quần chúng tiếp nhận, nó
có đời sống lâu dài cho tới ngày nay và đã trở thành tài sản chung của dân
gian.
Hiện ca Huế có một số bài cơ
bản như sau:
- các bài điệu Bắc: Lưu
thủy, Ngũ đối thượng, Ngũ đối hạ, Long ngâm, Cổ bản, Lộng điệp, Phú lục (nhanh
và chậm), mười bản Tàu (Phẩm tuyết, Nguyên tiêu, Hồ quảng, Liên hoàn,
Bình bản, Tây mai, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tẩu mã).
- các bài điệu Nam hơi
ai: Nam ai (Ai giang nam), Nam bình, Quả phụ, Tương
tư khúc.
- các bài điệu Nam hơi
xuân và hơi dựng : Hành vân, Nam xuân (Hạ giang nam), Cổ bản dựng,
Tứ đại cảnh.
Ngoài những bài cơ bản nêu
trên, ca Huế còn có thể đưa vào buổi diễn một số làn điệu lý và hò trong âm nhạc
dân gian như các bài Lý tình tang, Lý tử vi, Hò mái đẩy, Hò mái nhì (với
chức năng một câu dạo, câu rao trước khi vào điệu Nam bình)...
2. Âm nhạc dân gian: Âm
nhạc dân gian Việt Nam nói chung, vùng Thừa Thiên - Huế nói riêng, rất
phong phú với nhiều thể loại. « Các bài dân ca không phải là công
trình của một tài năng đơn độc mà là sản phẩm của toàn thể nhân dân... Dân ca
giống như những đóa hoa huệ mọc nơi hang sâu núi thẳm mà cái đẹp trong trắng,
thuần nhiên làm mờ hết màu gấm vẻ ngọc của các tác phẩm kinh viện » (Sérov).
Nó xuất hiện ngay cả trước khi nghệ thuật bác học ra đời bởi nó gắn bó chặt chẽ
với những hoạt động thực tiễn của con người, với lao động của cá nhân và cộng đồng
trong cuộc sống.
Trong các loại âm nhạc dân
gian vùng Thừa Thiên-Huế nổi bật nhất là các điệu hò, gọi chung là hò Huế.
Về thuật ngữ hò, Lê Quý Đôn là người đề cập sớm nhất: “Khiêng cây gỗ to,
người ở trước hô tà hử, người sau cũng đáp lại. Đó là tiếng hò để gắng sức
trong lúc khiêng nặng. Tục ngày nay hô ô hà tức là đó” (1). Năm 1808
từ điển Dictionnaire annamite- francais của J.F.M. Génibrel giải
thích: « Hò là tiếng hô của những người chèo thuyền, với tiếng ấy người ta
điều chỉnh những động tác chèo thuyền ». Nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát định
nghĩa: « Hò là những điệu hát xuất phát trực tiếp từ lao động, thúc đẩy
công tác lao động, gây phấn khởi hào hùng » (2). Giáo sư Trần Văn Khê viết:
« Hò là những bài hát truyền khẩu, phát sinh từ trong dân chúng, được truyền
tụng và phổ biến trong dân chúng » (3). Hò Huế cũng đi từ môi trường lao động,
tiếp bước vào môi trường nghi lễ, giải trí rồi vươn tới thi thố tài năng trong
lĩnh vực văn chương..., bao gồm nhiều điệu mà phổ biến là các điệu hò sau:
- Hò đẩy nôốc:
Ơ ơ ơ… Ai sinh cồn cạn này
ra
Áo quần rách nát thịt da gầy
mòn, la hè la hè…
Ơ ơ ơ…Trước mui xu xa, sau
lai cũng xu xa
Đứa mô không đẩy thì trôi cả
bà liền con, la he la he…(4)
- Hò giã gạo:
Hơ hơ hơ hơ hơ hơ khoan hô
khoan ta mời bạn mà khoan mà lại là hò là khoan (hư). Hơ hơ hơ hơ hơ Thiếp gặp
chàng như rồng mây kia mà gặp hội. Chàng mà gặp thiếp như chim phụng hoàng mà gặp
cội ngô với cây là ngô (hưm). Ơ ơ mấy lâu ni thì kẻ Hán mà người Hồ là bữa ni
thiên a tri cùng mà lý hơ ngộ hơ hơ. A ha hơ hô hô bữa ni thiên tri mà lý ngộ
là quyết phân phô tình cho tận là tình hơ hơ (5).
- Hò nện (hò hụi):
Ai mà (nì)là hô hò khoan lợp
miệu thiếu tranh là hô hồ khoan,lợp đình (mà) thiếu ngói (nì) là hô
hò khoan, xây thành thiếu vôi là hô hồ khoan hồ khoan hời hồ khoan... Khoan rằng
(nì) là hồ hồ khoan, khoan tới khoan lui, là hồ hồ khoan, khoan anh có vợ, la hồ
hồ khoan, khoan tui có chồng, là hồ hồ khoan... Hết khoan rồi sang hụi, hô hồ hụi,
hết hụi thì khoan, là hồ hồ khoan... (6)
- Hò lờ:
Em ôm bó mạ xuống đồng (ai
nghe hò lờ), miệng hò tay cấy (ai nghe hò lờ) mà lòng nhớ ai .Hò lơ hó lơ lắng
tai nghe hó lơ hò lờ... Em chờ cho hết sức chờ (ai nghe hò lờ) chờ cho rau muống
(ai nghe hò lờ) lên bờ trổ bông. Hò lơ hó lơ lắng tai nghe hó lơ hò lờ. (7)
- Hò ô (hò đạp nước):
Ô ô ô ồ...Em không nhớ là
khi mô khi mạ úa ruộng khô Ồ ô ồ...Em giậm chân kêu một tiếng hò. Ô ô ô ô...Anh
đạp nước bên ô cũng về ê. Ô ô ô ồ...
(8).
- Hò ru con (ru em):
Ru con cho théc cho muồi để
mẹ đi chợ (ạ ơ) mua vôi (rứa) ăn trầu (ạ ơ). Mua vôi chợ Quán chợ Cầu (rứa) Mua
cau Nam Phổ (ạ ơ) mua trầu (rứa) chợ Dinh (i)...(9).
- Hò mái nhì:
(Hơ hơ hơ hơ ơ hời ha hơ hơ
hơ hư ha Hô hô hô hô) Trước bến (hưm) (hơ hơ hơ...) Văn Lâu chiều (hà ha hơ)
chiều (hơ hơ)... Chiều chiều trước bến Văn Lâu ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm,
ai thương ai cảm ai nhớ ai là trông (hơ hơ hơ hơ hơ hưm). Hơ...Thuyền ai thấp
thoáng bên sông (lại) đưa (ơ hơ) câu (thí) mái (hà hy). Hơ... mái đẩy nên chạnh
(ha hơ hơ hơ hơ) lòng. Hơ...Ơ hơ hơ...chạnh lòng non nước là non (hơ hơ hơ...) (10)
- Hò bài chòi:
Ô ô ô ô...Mười một chòi lằng
lặng mà nghe nì, thuyền ta thì đậu bến ta, can chi nhổ cọc cắm qua thuyền người.
Là con nọc ơ...đương. (11)
- Hò bài thai:
Ê ê ê ề...Em không ra lấy chồng
thì thiên với hạ đàm tiếu, mà em ra lấy chồng thì bỏ mẹ yếu em thơ. Thôi thôi
em ở làm rứa dẫu tóc bạc như tơ cũng đành i...(đáp số con nghèo hoặc thầy chùa)
(12).
- Hò đưa linh:
Cảm thương nỗi dân đen đoái
trông dạ chừng, hồn hóa theo mây, đưa ling an sàng, suối vàng mấy dặm...
Mẹ già thọ bệnh, khi nóng
khi lạnh, thuốc thang chẳng rời, mẹ về chầu trời...(13).
Đó là chưa kể một số điệu hò
khác như hò kéo gỗ, kéo lưới, hò xay lúa, hò đạp lúa; hò mái đẩy (tới lớp
mái thì đẩy thuyền tới), hò mái xấp (hò khi gặt lúa, những lớp mái được hát xấp
đôi nhanh hơn), hò mái ba (lớp mái được hát sô đúng ba lần); hò nghé, hò đua
ghe, hò lề số...
Nói vè cũng là một
hình thức được ưa chuộng, tức là nói có vần điệu các bài thơ lục bát, song thất
lục bát hoặc những câu 5,6,7 tiếng, tính chất thiên về tự sự. Vè thường xoay
quanh các nội dung chính là thế sự, sự kiện lịch sử, chẳng hạn diễn xướng đơn
sơ như Vè nói trạng, hoặc dài hơi như Vè thất thủ kinh đô:
Hãy còn có mặt mầy đây
Thành đô khôi phục nhớ
ngày quảy đơm
Ví dầu dĩa muối bát cơm
Cô dì thúc phụ quảy đơm
(cho) nhớ ngày...
... Chẳng qua Nam Việt thời
hư
Quân thần phụ tử lên chừ rừng
xanh
Thở than trong chỗ rừng xanh
Bao giờ khôi phục chốn thành
kinh đô… (14)
Điệu ngâm, thường là
nói thơ, ngâm thơ, cũng là hình thức diễn xướng có âm điệu, không cần tiết tấu
hay phụ họa, với nhiều thể thơ khác nhau như Đường luật, lục bát, song thất lục
bát, thơ mới... Ngâm có ở cả ba miền, song ở Huế thường sử dụng ngũ cung có sắc
thái Huế.
Điệu ru cũng là diễn
xướng các câu thơ lục bát, biến thể với âm điệu ngọt ngào để đưa trẻ vào giấc ngủ,
có dùng tiếng đệm, tiếng lót như ạ ơ hờ, ơ ơ... Đôi khi điệu ru cũng là dịp mà
người ru giãi bày tâm sự của chính mình.
Điệu lý là những
bài hát dân dã từ làng quê mà ra, có tính chất quê mùa, đối lập với những bài
ca của tầng lớp thượng lưu trí thức (ca nhạc cung đình và thính phòng). Bài lý
đưa nhạc điệu vào các bài thơ để giãi bày đời sống tinh thần của người dân quê
lúc làm việc, nghỉ ngơi, hội hè. Lý có thể độc diễn hay đồng diễn đối đáp nam nữ,
gọi là lý giao duyên. Huế có các bài lý khá phổ biến như:
- Lý tình tang:
Non cao ai đắp nên cao, bể…sâu
bể sâu nhờ bởi(ô tang ô tang
tình tang) ai…đào (ô tang tình
tang) sâu nên sâu, sâu nên sâu (ô tang ô tang
tình tang tình tang tình ô
tang tình tang ô tang tình tang). (15)
- Lý
giang nam:
Giương cung mà bắn ư… bắn bắn
bắn bắn bắn cò bắn con cò (tình bạn) con cò ư…(tình bạn) con cò ư… Để cung
để cung vác súng ư… bắn bắn bắn bắn bắn cò bắn con cò (tình bạn) cò bay ư…
(tình bạn) cò bay ư…(16).
- Lý
hoài xuân (Lý con sáo Huế):
Ai đem con sáo sang sông, để...cho
để cho con sáo (ơi người ơi) sổ...lồng (ơi người ơi) bay xa, sổ lồng (ơi người
ơi) bay xa (17).
- Lý
nam xang:
Làm người phải có (ư) luân
ngũ luân (ư) luân ngũ luân. Nếu mà (tình như) thiếu một (a í a) mười
phân mười phân thẹn thuồng (u xang u xang u liu phàn) mười phân mười phân thẹn
thuồng. (18)
- Lý
qua đèo (Lý hoài nam):
Chiều chiều dắt mẹ… dắt mẹ
(ta la) đèo qua đèo (ta la) đèo qua đèo. Chim kêu chim kêu (tình như) bên nớ úy
óa, chi rứa chi rứa, ơi hỡi vượn trèo, vượn trèo (ta la) kia bên kia (ta la)
kia bên kia. Ơi hỡi vượn trèo (ta la) kia bên kia. (19).
Ngoài ra còn có một số bài
lý khác như Lý tử vi (Lý trăm huê), Lý ngựa ô, Lý tình như, Lý tiểu
khúc, Lý giao duyên, Lý quỳnh tương, Lý vọng phu...
Bên cạnh các bài ca lao động
và sinh hoạt, còn có các bài gắn với đời sống tâm linh, thể hiện trong các nghi
lễ tín ngưỡng dân gian và tôn giáo. Đó là loại nhạc lễ, một diễn xướng âm nhạc,
trong đó quan trọng là thanh nhạc, khí nhạc chỉ là phụ họa. Ở môi trường này,
các bài hát là thành phần quan trọng trong cấu trúc buổi lễ. Chẳng hạn hát
bả trạo trong lễ cầu ngư. Đây là loại hình múa hát nghi lễ của cư dân
duyên hải miền Trung, phổ biến ở các tỉnh từ Quảng Bình đến Bình Thuận.
Một loại hát quan trọng
trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Huế là hát chầu văn. Đó là sự diễn xướng
các bài văn hầu, nghĩa là hát văn hầu để hầu bóng, để thỉnh mời thiên tiên
thánh mẫu hay một vị thánh thần nào đó giáng xuống trần, hóa thân vào
« con đồng » để phán bảo. Người hát các bài văn hầu gọi là cung văn,
diễn xướng các bài thơ lục bát và song thất lục bát bằng âm Hán Việt hoặc đôi
khi tùy vai đồng đang múa gì mà linh hoạt ứng tác cho phù hợp. Các bài văn hầu
khuôn mẫu thường có văn phong và ngôn ngữ quý phái, đài các của văn chương cổ
điển được các nhà trí thức Nho học sáng tác.
Tín ngưỡng dân gian Huế đi
liền với tôn giáo ở Huế. Đó là mối quan hệ biện chứng. Trong tâm thức người
bình dân Việt Nam, Trời đi liền với Phật, Phật đi liền với thánh. Các am
điện thờ thánh, Mẫu ở Huế thường có thờ tượng Phật, tượng Quan Âm Bồ Tát. Chính
trong tâm thức đó, Phật giáo ở Huế được phổ biến với pháp môn Tịnh độ, chủ
trương tụng kinh niệm Phật để cầu giải thoát. Về mặt âm nhạc, Phật giáo cho ta
nhiều âm điệu qua lời kinh tiếng kệ, qua phong cách tán tụng – những âm điệu đặc
thù trong âm nhạc Phật giáo tại Huế.
Nhìn chung, âm nhạc dân gian
Huế khá phong phú với nhiều thể loại, từ hò vè hát lý đến các áng văn hầu cúng
khuôn mẫu, các bài văn ai ứng tác bi thiết, các bài kinh kệ, tán tụng, bài chú
của Phật giáo đã làm cho âm nhạc Huế thấm đẫm sắc thái văn hóa độc đáo của một
vùng đất văn vật, góp phần làm giàu cho văn hóa âm nhạc Việt Nam.
II. Thang âm ngũ cung hay thất
cung thiên nhiên?
Có điều đơn giản mà mọi người
dễ nhận ra chính là âm điệu đặc trưng của giọng nói địa phương trở thành thổ ngữ
rất riêng mà người nơi khác khó bắt chước. Và tất nhiên âm nhạc sản sinh từ giọng
nói đó cũng tạo ra sắc thái riêng trong thang âm của nền âm nhạc Huế. Chính từ
sắc thái riêng này mà đã có ý kiến khác nhau khi bàn về thang âm trong âm nhạc
Huế. Phần lớn ý kiến cho rằng thang âm Huế không nằm ngoài hệ thống thang âm
ngũ cung của Việt Nam, nhưng cũng có ý kiến cho rằng âm nhạc Huế thuộc về thang
âm thất cung thiên nhiên.Vậy thang âm trong âm nhạc Huế là ngũ cung hay thất
cung thiên nhiên tức là thất cung có 7 cung đều nhau?
Năm 1961, nhạc sĩ Nguyễn Hữu
Ba cho in ronéo tập sách Nhạc pháp Việt Nam, trong đó có đề cập « hệ
thống cung âm trong âm giai thiên nhiên Việt Nam » và cho biết thang âm
này chính là thang âm gồm 7 cung đều nhau. Đó là thang âm đặc biệt của miền
Trung , rõ hơn là của vùng Thừa Thiên – Huế, nhất là khi nghe những bài như Nam
ai, Nam bình, Tứ đại cảnh... Giáo sư Trần Văn Khê nhất trí với khái niệm này,
tuy ông không đồng ý với thuật ngữ « âm giai thiên nhiên Việt Nam ».
Sau này giáo sư đọc thêm tài liệu về âm nhạc cổ truyền Thái Lan của nhà nghiên
cứu Carl Stumpf, về âm nhạc Campuchia và Lào của Alain Daniélou cũng như nghe
các bản thu âm tại các làng quê Thái Lan và Campuchia của Jacques
Brunet đều nhận ra ở các nơi này đều có thang âm 7 cung đều nhau. Trong tác phẩm La
musique du Cambodge et du Laos (Pondichéry, 1957), ông
A.Daniélou cho rằng thang âm thất cung này thông dụng ở Ấn Độ từ thế
kỷ thứ VI, người Ấn gọi là thang âm nhà trời, thang âm thần thánh (gamme
céleste, gamme sacrée). Từ Ấn Độ, thang âm thất cung có 7 cung đều nhau này
truyền sang đến các nước Myanmar, Thái Lan, Campuchia, Lào, miền Trung Việt Nam
và có thể có ở Indonesia nữa (20).
Thật ra việc chia một quãng
tám làm 7 cung đều nhau chỉ là nói trên lý thuyết. Về mặt âm học, việc phân
chia này rất khó. Chẳng hạn một quãng tám của Tây phương gồm 5 cung và 2 bán
cung, mỗi cung đo được 9 commas, như vậy một quãng tám có 54 commas. Đem 54
commas chia cho 7 thì chỉ có được con số lẻ 7,71 commas. Hoặc tính quãng tám
theo nhà vật lý Anh Alexander Ellis gồm 1.200 cents thì khi chia cho 7 vẫn là số
lẻ 171,45 cents. Thành thử cao độ mỗi âm bậc trong âm nhạc của ta chỉ có giá trị
tương đối thôi.
Để hình dung thang âm có 7
cung đều nhau, giáo sư Trần Văn Khê đã so sánh thang âm này với thang âm Tây
phương với biểu đồ sau đây (mỗi bán cung gồm 100 cents) (21):
Do Re Mi Fa Sol La Si Do
100c
|
200
|
300
|
400
|
500
|
600
|
700
|
800
|
900
|
1000
|
1100
|
1200
|
Hò Xự
non Xự Xang
già Xê non Cống non Phàn Liu
(171c) (342c) (514c) (685c) (887c) (1028c)
Trên thực tế việc xác định
cao độ của mỗi cung một cách tỉ mỉ thì rất khó, các nghệ nhân miền Trung chỉ có
thể phân biệt các âm bậc xự và cốngnon một chút, âm xê cũng
hơi non, còn đàn các bài điệu Nam thì xangphải già một chút. Trong trình
diễn, các nghệ nhân Huế thường lên dây đàn theo thang âm ngũ cung; để có
những âm bậc non hoặc già, họ dùng kỹ thuật nhấn (bên cạnh các kỹ thuật vuốt, vỗ,
rung...) để thay đổi cao độ. Chẳng hạn lấy hò ấn xuống để nâng cao độ
lên xự non hoặc xự, lấy xê ấn xuống để có cống
non, lấy xang ấn xuống để có xang già... Đó là lối mượn cung
trong kỹ thuật đánh đàn Huế.
III. Thang âm ngũ cung Huế:
Trong âm nhạc truyền thống
Việt Nam, hệ thống định âm của ta không trùng khớp với hệ thống bình quân luật
trong âm nhạc cổ điển Tây phương, nghĩa là thang âm Việt không cấu thành từ hệ
thống 12 bán cung của một quãng tám như trong nhạc Tây phương. Sự khác biệt về
hệ thống định âm này chính là do sự thẩm âm riêng biệt mang bản sắc dân tộc của
cư dân từng khu vực, từng quốc gia khác nhau. Một đặc điểm khác là
cao độ của mỗi âm bậc trong nhạc Việt chỉ có tính cách tương đối, âm bậc chuẩn
chỉ mang tính quy ước trong từng điệu thức, từng hơi nhạc, tùy bài bản và tùy ở
mỗi vùng miền khác nhau. Các kỹ xảo trong diễn tấu (nhấn, rung, vuốt, mổ...)
trên từng âm bậc của thang âm đã tạo nên hệ thống các hơi nhạc phong phú của âm
nhạc Việt Nam.
1. Điệu Bắc: Với âm nhạc
Huế, chúng ta có một hệ thống thang âm ngũ cung khá độc đáo. Trước tiên là
thang âm cơ bản, là sự kế thừa thang âm Đại Việt lâu đời từ trong lịch sử, đó
là điệu Bắc (người Huế - người trên đất Thuận Hóa cũ - còn gọi là điệu
Khách), tương đương với cung hoàng chung (cung thương giốc chủy vũ) trong âm nhạc
Trung Hoa:
hoø xöï xang xeâ coáng liu
(do re fa sol la do)
Chúng ta dễ dàng tìm thấy
thang âm này trong phần lớn bài bản âm nhạc cung đình và ca nhạc thính phòng.
Điệu Bắc chính là dấu ấn của ảnh hưởng Trung Hoa trong nhạc Việt, tuy vậy điệu
thức của người Việt vẫn có ngôn ngữ riêng với cách nhấn nhá ở các âm bậc xự,
cống với kỹ thuật rung đặc trưng và âm bậc cống cũng đàn hơi
non. Điệu Bắc mang tính chất vui tươi, trang nghiêm, tốc độ thường là khoan
thai hoặc nhanh, ít khi chậm, thường được dùng trong các buổi tế lễ long trọng,
chẳng hạn bài Long ngâm dùng trong những lúc rót rượu cúng tế; bài Man (trong
nhạc Bả lệnh) của dàn Đại nhạc dùng trong lễ rước vua hay đón sứ thần, nghe dồn
dập, sôi nổi, vui tươi, dùng nhiều đảo phách, chủ âm được thay đổi nhiều lần
nên nét nhạc rất uyển chuyển; bài Mã vũ dùng trong điệu múa Lân
mẫu xuất lân nhi, thể hiện tình cảm thân thiết, trìu mến; Đăng đàn cung do
dàn Đại nhạc diễn tấu cũng thuộc nhạc nghi lễ; mười bản Tàu trong ca Huế...
Theo giáo sư Trần Văn Khê,
trong nhạc Việt, tất cả các bài thuộc điệu Bắc đều có bảy yếu tố cơ bản: có
thang âm ngũ cung với âm bậc cơ bản là hò (do); bất kỳ âm bậc nào
trong thang âm ngũ cung đều có thể dùng làm bậc khởi đầu, bậc kết thúc hoặc bậc
ngơi nghỉ. Bài Lưu thủy bắt đầu bằng âm hò và kết thúc cũng
âm hò, còn các bài điệu Bắc khác lại không bắt đầu bằng âm hò. Chẳng
hạn, bài Cổ bản bắt đầu bằng âm xê (sol), bàiLong đăng bắt
đầu bằng âm ú (re)… Phần lớn các bài nhạc Việt đều kết thúc bằng âm hò (do)
hoặc âm xang (fa). Nhưng các âm khác cũng có thể dùng để kết thúc, ví
dụ Nguyên tiêu kết thúc bằng âm cống (la), Kim tiềnbằng
âm xự (re); có tốc độ khoan thai hoặc nhanh; các câu nhạc trong điệu
Bắc có độ dài thay đổi, số ô nhịp trong bài thường là chẵn, trừ trường hợp những
bài quá ngắn như Xuân phong, Long hổ; nhạc công diễn tấu điệu Bắc đều có
những nốt hoa mỹ để luyến láy; các nhạc cụ như đàn tranh hoặc đàn nguyệt đều
lên dây theo hệ thống dây Bắc; tất cả bài bản điệu Bắc đều mang tính chất vui
tươi. (22)
2. Điệu Nam: Điệu
này xuất hiện từ khi dòng người Việt đi về phươngNam vào đất mới. Họ mang
theo ngôn ngữ, phong tục, tập quán và cả âm nhạc. Tuy nhiên trong quá trình
sinh hoạt và giao lưu văn hóa với người bản địa, người Việt đã chịu ảnh hưởng của
người Chăm. “ Có thể trong dĩ vãng, người Việt ở miền Bắc vốn quen dùng
ngũ cung đúng (do re fa sol la), khi Nam tiến đã bị nhạc Chàm với ngũ cung oán
(do mi fa sol la) quyến rũ rồi sáng tạo ra ngũ cung ai (do, re non, fa già,
sol, la non) chăng?” (23). Điều dễ nhận ra là ảnh hưởng trong giọng nói, ngôn
ngữ. Chẳng hạn thanh sắc và thanh ngã của người Huế khi phát âm đã hạ thấp hơn,
thanh hỏi lại cao hơn so với miền ngoài, có người cho đó là giọng lơ lớ. Chính
âm thanh lơ lớ này đã hình thành điệu Nam trong nhạc Huế :
hò xự
non xang già xê cống
non liu
(do re- fa+ sol la- do)
Trong thang âm này hai âm bậc hò và xê không
thay đổi so với điệu Bắc, các bậc còn lại đều có thay đổi để làm nên sắc thái
riêng của điệu thức miền Trung, trong đó hò và xang dùng kỹ
thuật rung.
Nói đến hai điệu Bắc và Nam
để khẳng định nguồn ảnh hưởng của Trung Hoa và Chăm trong nhạc Việt. Tuy nhiên
trong âm nhạc Huế, với kỹ thuật rung hai bậc xự, cống, điệu Bắc đã được Việt
hóa, không còn là của Trung Hoa nữa. Ngoài ra người Huế đã sáng tạo thêm một
cách tinh tế và phong phú các sắc thái đặc thù trong âm nhạc của mình mà người
Huế gọi là hơi nhạc. Đó là sự vận dụng tài tình ngôn ngữ âm nhạc để
giãi bày các trạng thái tình cảm, nội tâm trữ tình và đa dạng của họ.
3. Các hơi nhạc: Âm nhạc Huế
gồm có các hơi nhạc sau: hơi ai, hơi xuân, hơi oán, hơi dựng, hơi thiền.
- Hơi ai dùng để
diễn tả sự buồn thương, áo não, những tình cảm luyến tiếc, mất mát, thở than, tốc
độ chậm rãi. Chính vì tính chất này, hơi ai không dùng trong âm nhạc cung đình
mà thường được dùng trong ca nhạc thính phòng Huế, nhiều khi cũng được dùng
trong âm nhạc cúng tế, trong tang lễ. Ví dụ các bài Nam ai, Nam bình,
Tương tư khúc…Hơi ai có thang âm như sau:
hò xự
non xang già xê cống
non liu
(do re- fa
rung sol la- do)
Âm bậc xư và cống giảm
xuống gần ¼ cung, âm xang rung. Nếu chuyển cung dùng âm cống (la)
làm chủ âm (hò), thang âm này sẽ là:
la do re mi sol la
Ông Thái Văn Kiểm trong sách Cố
đô Huế dẫn lời cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị nói chính chúa Minh là người đã
sáng tác bài Ai giang nam, tức Namai. Chúa Minh chính là Nguyễn Phúc
Chu (1691-1725). Như vậy có thể bài Nam ai xuất hiện vào đầu thế
kỷ 18, giai điệu buồn bã nhưng không quá não nuột như các bài hơi oán Nam bộ:
Ngoảnh lui cố quốc
Ngập ngừng gót ngọc
Mây phủ kín trời thương
Ngơ ngẩn bâng khuâng
Hoa đang độ thanh xuân
Dập vùi cứu mạng muôn dân
Không sánh đặng Chiêu Quân
Cho trọn đạo quân thần
Vẻ chi một đóa yêu kiều diễm
lệ…(24)
Bài Nam bình cũng
là hơi ai, có lời cổ là Nước non ngàn dặm ra đi nói về công chúa Huyền
Trân nhưng giai điệu tươi tắn hơn, có tính chất tao nhã hơn:
Nước non ngàn dặm ra đi
Cái tình chi
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô Ly
- Hơi xuân có thể tìm
thấy trong âm nhạc cung đình Huế, âm nhạc tuồng và nằm trong hệ thống
điệu Bắc. Thang âm của nó là:
hò xự xang xê cống liu
(do re fa sol la do)
Nghệ nhân đàn tranh thường mắc
dây với âm hò là sol thì thang âm này sẽ là:
sol la do re mi sol
Tuy nhiên hơi xuân Huế có thủ
pháp nhấn rung đặc biệt là âm bậc xangvà liu thường rung nhấn
lên khoảng một cung rồi trở về âm bậc chính. Âm bậc xự và cống rung
như điệu Bắc. Âm bậc xê dùng kỹ thuật mổ (nhấn rồi thả thật nhanh).
Có khi hơi xuân lại xuất hiện âm bậc phàn cao hơn âm bậc cống một
chút. Hơi xuân có trong bài Thài bát dật (đệm cho điệu múaBát dật trong
cung đình), bài Nam xuân (khác bài Nam xuân trong nhạc tài
tử Nam bộ có thang âm là hò y xang xê phàn liu), thường
mang tính chất đĩnh đạc, uy nghiêm và tươi vui hơn hơi ai (26):
Nhắn nhe vườn hạnh, đợi chờ
chim xanh
Khéo đưa tình,
Đưa tình, đưa lại cho ta, lại
cho ta
Trót đã mặn mà, đã gần xin bạn đừng
xa
Sớm đào tối mận lân la
Trước còn trăng gió (còn
trăng gió) sau ra đá vàng. (27)
- Hơi oán diễn tả điệu
buồn sâu xa, có tính chất oán thán. Oán tự nguồn gốc là âm cống (la)
trong bài Chinh phụ, thuộc điệu Nam trong nhạc Huế. Trong bài
này, tất cả âm cống phải đọc thành oán, theo Hoàng Yến trong bài
viết La musique à Huê, B.A.V.H tháng 7-8.1919 (28). Hơi oán phần lớn được
sử dụng trong đờn ca tài tử Nam bộ, tuy vậy trong ca nhạc Huế cũng có hơi này
nhưng thang âm có khác biệt, như trong các bài Tứ đại oán, Chinh phụ...
thang âm của nó như sau:
hò xư xang xế oán liu
(fa sol# sib do# mib fa) hoặc
(la do re fa sol la)
Âm bậc cống trong
hơi này được gọi là oán, vào hơi nhạc thì đọc trại ra là oan.
- Hơi dựng là sự
chuyển điệu từ hơi này sang hơi khác, nghĩa là trong khi diễn tấu điệu này lại
chen vào những đoạn theo điệu khác, tuy vậy những đoạn chen vào đó chỉ là tạm
thời để rồi trở về điệu chính. Hơi dựng có trong các bài Hành vân, Tứ đại
cảnh, Cổ bản dựng, Quả phụ…
- Hơi thiền được
tìm thấy ở những bài chịu ảnh hưởng các bài kệ, bài tán và tụng trong âm nhạc
Phật giáo. Theo nhạc sĩ Vĩnh Phan, hơi thiền cũng là hơi khách (Bắc). Trong một
bài hơi khách có hai cung y, phàn (mi, sib) thì dĩ nhiên có chuyển hệ;
trong một bài hơi khách mà hai cung xự, cống luôn có mặt trong dứt
câu hay ở đầu ô nhịp, lúc đánh cho ta cảm giác một âm giai thứ hoặc dùng cả hai
cung y, phàn nữa thì hơi đó nhất định là hơi thiền:
hò xự (y) xang xê cống (phàn) liu
(do re mi fa sol la sib do) (29)
Có thể tìm thấy hơi thiền
trong bài tán Dương chi tịnh thủy, ca ngợi Phật Quan âm (riêng bài tán Nhất
điện lại theo hơi ai). (30)
4. Thang âm ngũ cung trong
âm nhạc dân gian Huế thì tương đối thuần nhất hơn. Các bài dân ca chủ yếu sử dụng thang
âm ngũ cung điệu Nam của âm nhạc Huế.
hò xự
non xang già xê cống
non liu
(do re- fa+ sol la- do)
Trước hết là các điệu lý: «Có
thể nói tất cả những bài lý của Trị Thiên dù dưới những tên gọi khác nhau, làn
điệu khác nhau, hát bằng ngũ cung hơi Nam giọng ai (do, re non, fa già, sol, la
non) là ngũ cung độc đáo của địa phương» (31). Đó cũng là thang âm của các
bài hò, ngâm... “Năm cung bậc ở đây cũng thay đổi và không giống ngũ cung Bắc
và ngũ cung oán: do re (non) fa (rung) sol la
(non). So với ngũ cung Bắc và oán, hệ thống năm cung ở vùng Huế đã khác hẳn:
cung re bị lơ lớ, cung fa không ở một vị trí nhất định, cung la cũng bị non đi” (32).
Riêng đối với điệu hò mái đẩy, nhạc sĩ Phạm Duy đã tìm hiểu thang âm điệu
hò này (năm 1953) và đem so sánh với thang âm điều hòa Tây phương như
sau:
hò xự xang xê cống liu
sol la
1/2b do re
1/2b mi 1/2b sol
Như vậy các quãng của hò mái
đẩy là:
1,5 + 3,5 + 1,5 + 2 + 3,5
bán cung. (33)
Điệu hát chầu văn, mà Phạm
Duy gọi là thể ca nhạc phù phép (incantation), thường rất chú trọng đến văn, tức
là những bài thơ lục bát, song thất lục bát do những người có học sáng tác, bởi
có nhiều từ Hán Việt hoặc sử dụng sự tích, điển cố văn học. Tùy theo nghi lễ từ
phụng thỉnh chư thánh đến lúc người ngồi đồng nhập bóng, các cung văn lập tức đổi
giọng, đổi văn, nghĩa là đổi bài tụng ca, tán ca và đổi điệu nhạc.
Chẳng hạn với các bài thỉnh chư thần, dâng hoa, dâng nước, khi đệ tử lễ bái,
cung văn diễn xướng:
Tôn ông đà nhắp cạn, xin
dâng liền tuần hai
Thủ am quỳ trước kim giai
Xin tôn ông phù hộ cho phát
tài hanh thông. (34).
... Hoa quả dâng lên
dâng trà, hoa quả dâng lên
Lòng tin Phật đức chúa là
tiên (ư ư) cửu trùng...
Mày liễu tốt tươi mặt chầu
ba mày liễu tốt tươi
Hình dung bao sắc miệng cười
nở hoa. (35)
Trong các bài văn hầu này
cung văn sử dụng giọng đài. Âm nhạc mà cung văn diễn xướng chạy trên thang âm
ngũ cung re fa sol la do. Khi qua một
đoạn khác, chẳng hạn:
Giá vũ một thôi ngài đằng
vân giá vũ một thôi
Thiên đình phút đã ngài xuống
nơi dương đình
Ba ngàn thế giới cảnh thanh.
Thế giới cảnh thanh ba ngàn
thế giới cảnh thanh
Đâu đâu đều cũng chí thành
lòng tin
Tiểu chúng tôi cầu đảo (ư ư)
khấn nguyền... (36)
Thì âm nhạc lại chuyển sang
thang âm điệu Nam hơi ai: la do re mi sol.
Đây chính là hiện tương chuyển hệ (métabole) trong nhạc Việt.
Với bài văn hầu Thánh mẫu
thượng ngàn:
Nền linh hiển ngàn xưa chung
tú
Riêng một tòa động phủ thiên
nhiên
Vốn xưa chúa ở cung tiên
Giáng trần độ thế về miền
non xanh. (37)
... Đài Minh cảnh lung lay
bóng nguyệt
Cung Quảng hàn mờ mịt thức
mây
Chiều chiều gió thổi rung
cây
Mùi hơi chim nói thú ngàn
mây rộn ràng
Thú núi non chúa Thượng
ngàn...(38)
Cung văn hát trên thang âm
giọng đài: re fa sol la do,
nhưng đến đoạn sau:
Đêm thâu múa hát trong đêm tựa
ngày
Ngọn đèn ngọn đèn khêu bấc
(?) thơ mượn làm vui
Ban mai gió cuộn trăng lờ
Chiếc thuyền ven suối lững lờ
lờ trôi. (39)
thì cung văn chuyển sang
thang âm: la do mi sol la.
Như vậy trong hát chầu văn Huế thường sử dụng bộ thang âm ngũ cung như
sau:
re fa sol la do re
re fa sol sib do re
la do re mi sol la
Âm hưởng nhạc Huế theo bước
chân người Việt dần tiến về phương Nam đã tạo nên hai loại hình âm nhạc có tên
tuổi là đờn Quảng và đờn ca tài tử Nam bộ. Có thể nói đây là hai loại nhạc có
nguồn gốc từ âm nhạc Huế mà ra.
Tất cả các loại hình âm nhạc
cung đình, ca Huế, đờn Quảng, đờn ca tài tử Nam bộ đã tạo thành nền âm nhạc cổ
điển Việt Nam mang tính chất đặc thù, có màu sắc riêng biệt không thể nhầm lẫn
với âm nhạc một nước nào trong khu vực. Chúng ta tự hào về giá trị nền âm nhạc
này, cho nên nhiệm vụ của chúng ta là phải bảo tồn và phát triển những giá trị
tinh thần quý báu ấy.
CHÚ THÍCH
(1) Lê
Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, tập II, quyển VI, mục âm tự,
Sài Gòn, 1972, tr. 133.
(2) Nguyễn Xuân Khoát, Hò,
tạp chí Âm Nhạc, Hà Nội, số 4, tháng 10 và 11-1956,tr. 11.
(3) Trần Vă n Khê, Các
loại nhạc Việt Nam, tạp chí Bách Khoa, Sài Gòn, số 41, 1958,
tr. 21.
(4) Lê V Chưởng, Đặc
khảo hò Huế, NXB Thuận Hóa, 2000, tr. 49.
(5) Nguyễn Viêm sưu tầm và
ghi âm, in trong Dân ca Việt Nam,
NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1976,
tr. 160-162.
(6) Nguyễn Hữu Ba, Dân
ca Việt Nam, Bộ Quốc gia Giáo dục,
Sài Gòn, 1961, tr. 52.
(7) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr.
50-51.
(8) Lê Văn Chưởng, sđd, tr.
52.
(9) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr.
60-61.
(10) Nguyễn Viêm, sđd, tr.
163.
(11) (12) (13) Lê Văn Chưởng,
sđd, tr. 56-58.
(14) Lê Quang Thái, Bài
học lịch sử quý giá từ Vè thất thủ kinh đô, tạp chí Sông Hương, Huế,
tháng 5-2010, tr. 80-81.
(16) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr.
35.
(17) (18) Nguyễn Hữu Ba,
sđd, tr. 44-45.
(19) Nguyễn Hữu Ba, sđd, tr.
62.
(20) Trần Văn Khê, Vài
ý kiến về thất cung thiên nhiên và việc dùng comma để đo cung bực trong nhạc Việt,
Nghiên Cứu Việt Nam, Huế, số 3 mùa thu 1966, tr. 10.
(21) Trần Văn Khê, bài đã dẫn,
tr. 14.
(22) Trần Văn Khê, La
musique vietnamienne traditionnelle,
PUF, Paris, 1962, tr. 217.
(23) Phạm Duy, Đặc khảo
về dân nhạc ở Việt Nam, NXB Hiện Đại,
Sài Gòn, 1972, tr.
37.
(24) Trần Kiều Lại Thủy, Âm
nhạc cung đình triều Nguyễn,
NXB Thuận Hóa, Huế, 1997,
tr. 158. Bài Nam ai do Đào Quý Duy ghi âm.
(25) Trần Kiều Lại Thủy,
sđd, tr. 161. Bài Nam bình do Đào Quý Duy ghi âm.
(26) Trần Kiều Lại Thủy,
sđd, tr. 219.
(27) Văn Thanh, Tìm hiểu ca
Huế và dân ca Bình Trị Thiên,
Sở Văn hóa- thông tin Bình
Trị Thiên, 1989, tr. 55.
(28)Trần Văn Khê, La
musique vietnamienne traditionnelle, PUF, Paris, 1962, tr. 244.
(29) Vĩnh Phan, Vài ý
kiến về các hơi nhạc cổ truyền Huế, Nghiên Cứu Việt Nam, Huế, số 1
mùa xuân 1966, tr. 18.
(30) Trần Văn Khê, Phong
cách tán tụng trong Phật giáo Việt Nam, báoGiác Ngộ, TP.HCM, số 59 năm 2001.
(31) Tôn Thất Bình, Dân
ca Bình Trị Thiên, NXB Thuận Hóa, Huế, 1997, tr. 32.
(32) Phạm Duy, sđd, tr. 52.
(33) Trần Văn Khê, sđd, tr.
209.
(34) Trần Đại Vinh, Tín
ngưỡng dân gian Huế, NXB Thuận Hóa, Huế, 1995, tr. 211.
(35) (36) CD Chầu văn
Huế (trực tiếp ghi âm tại một buổi lễ chầu văn tại Đà Nẵng năm 1973
do cung văn Nguyễn Văn Hối diễn xướng
– tài liệu riêng của
người viết).
(37) Trần Đại Vinh, sđd, tr.
206.
(38) (39) CD Chầu văn
Huế, đã dẫn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét