Trong cuộc sống hằng ngày người Việt chúng ta đôi khi có một
số cách nói rất… “ngược đời”: Nghe vốn là chức năng của thính giác ngửi là chức
năng của khứu giác nhưng đôi khi người ta vẫn nói: “Nghe mùi thơm của nước hoa”
hay “nghe mùi nằng nặng của đồng tiền”… Thấy vốn là chức năng của thị giác nếm
vốn là chức năng của vị giác nhưng đôi khi người ta vẫn nói: “Thấy cay cay nơi
khóe mắt” hay “Thấy chua chua đầu lưỡi”… Đó là hiện tượng tương giao giác quan
trong ngôn ngữ đời thường và các nhà thơ đã vận dụng cách nói ấy để sáng tạo
nên những câu thơ những hình ảnh hết sức độc đáo ấn tượng.
Thử đọc những câu Kiều sau đây của thiên tài Nguyễn Du: Vẫn
nghe thơm nức hương lân/ Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều hay: Hương thừa
dường hãy ra vào đâu đây… Ở những câu thơ này ngoài nghệ thuật ước lệ ẩn dụ
nhân hóa đã có ít nhiều yếu tố tương giao giữa các giác quan. Người đầu tiên đề
cập đến sự tương giao giữa các giác quan chính là nhà thơ Baudelaire
(1821-1867). Theo Baudelaire thì mùi hương màu sắc âm thanh tương giao với
nhau. Ông nhận ra: Có những mùi hương mát như da thịt trẻ con ngọt ngào như tiếng
sáo xanh mượt như cỏ non (Tương ứng). Trong Thơ Mới (1930-1945) ta bắt gặp
không ít sự tương giao ấy. Lưu Trọng Lư chia sẻ mối sầu biêng biếc của những
chàng trai trẻ Xuân Diệu đã nghe rét mướt luồn trong gió Hàn Mặc Tử thấy những
mảnh nhạc vàng rơi lả tả…
Hàn Mặc Tử Lưu Trọng Lư Xuân Diệu… và một số nhà thơ lãng mạn
khác từng học và đọc văn học phương Tây chịu ảnh hưởng cách nói của Baudelaire
là điều dễ hiểu. Còn cậu bé Trần Đăng Khoa hơn bốn mươi năm trước khi sáng tác
Góc sân và khoảng trời chắc là chưa hề biết Baudelaire và có lẽ cũng chưa từng
tiếp xúc với Thơ Mới thế mà đã sử dụng khá thành công sự tương giao giác quan
quả là một điều vô cùng kỳ lạ. Quả thật thời niên thiếu thần đồng Trần Đăng
Khoa có trí tưởng tượng có cách nhìn cách nghe cách cảm khá đặc biệt. Khoa nhìn
thấy trong hạt gạo có: hương sen thơm có lời mẹ hát có bão tháng bảy có mưa
tháng ba... Khoa thấy được hương nhãn đặc lại khi vào đêm: Đêm hương nhãn đặc lại/
Thơm ngoài sân trong nhà.
Khoa nghe được cả tiếng thở của trăng: Nghe trăng thở động tàu dừa. Khoa ngồi trên tàu hỏa mà như ngồi trên giông bão đang chuyển dưới gầm tàu… Trong bài “Đêm Côn Sơn” có hai câu được nhiều người nhắc nhở: Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Cái độc đáo của hai câu thơ này chủ yếu nằm trong cụm từ: Tiếng rơi rất mỏng. Mỏng là hình chứ không phải là tiếng. Tiếng là âm thanh phát ra được nghe bằng tai chứ không thể nhìn bằng mắt. Trong trường hợp này thông thường người ta viết: Tiếng rơi rất khẽ như là rơi nghiêng. Nhưng nếu thay mỏng bằng khẽ thì câu thơ sẽ bình bình như bao câu thơ khác. Tiếng rơi rất mỏng là Trần Đăng Khoa đã sử dụng sự tương giao giữa thính giác và thị giác. Trước Khoa chưa ai nói tiếng rơi mà lại rất mỏng cả.
Khoa nghe được cả tiếng thở của trăng: Nghe trăng thở động tàu dừa. Khoa ngồi trên tàu hỏa mà như ngồi trên giông bão đang chuyển dưới gầm tàu… Trong bài “Đêm Côn Sơn” có hai câu được nhiều người nhắc nhở: Ngoài thềm rơi cái lá đa/ Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng. Cái độc đáo của hai câu thơ này chủ yếu nằm trong cụm từ: Tiếng rơi rất mỏng. Mỏng là hình chứ không phải là tiếng. Tiếng là âm thanh phát ra được nghe bằng tai chứ không thể nhìn bằng mắt. Trong trường hợp này thông thường người ta viết: Tiếng rơi rất khẽ như là rơi nghiêng. Nhưng nếu thay mỏng bằng khẽ thì câu thơ sẽ bình bình như bao câu thơ khác. Tiếng rơi rất mỏng là Trần Đăng Khoa đã sử dụng sự tương giao giữa thính giác và thị giác. Trước Khoa chưa ai nói tiếng rơi mà lại rất mỏng cả.
Còn đây là hai câu mở đầu trong bài “Nghe thầy đọc thơ”: Em
nghe thầy đọc bao ngày/ Tiếng thơ đỏ nắng xanh cây quanh nhà. Tiếng thơ mà lại
đỏ nắng xanh cây? Thật là kỳ lạ! Qua giọng đọc của thầy giáo Khoa tưởng tượng
ra bao nhiêu sắc màu cuộc sống. Không phải cậu bé nào cũng có trí tưởng tượng kỳ
diệu như vậy. Phải hiểu sự tương giao giữa âm thanh và màu sắc Khoa mới viết được
những câu thơ lạ lùng ấy. Khoa nghe cả tiếng chim bay khi đọc bài thơ của anh
trai gửi về từ miền đất mỏ. Khoa nhìn thấy cả tiếng ve ngân trong buổi trưa mùa
hè (Hoa lựu)… Điều đó chứng tỏ cậu bé Khoa rất có ý thức trong việc sử dụng sự
tương giao giữa các giác quan. Trong “Góc sân và khoảng trời” khi miêu tả tiếng
chim có ít nhất hai lần Trần Đăng Khoa sử dụng biện pháp nghệ thuật hiện đại
này. Ở bài "Hương nhãn" Khoa viết:
Vườn xanh biếc tiếng chim/ Dơi chiều khua chạng vạng/ Ai dắt ông trăng vàng/ Thả chơi trong lùm nhãn… Hình ảnh khu vườn xanh biếc tiếng chim khiến chúng ta liên tưởng đến mấy câu thơ của Đoàn Phú Tứ: Sáng nay tiếng chim thanh/ Trong gió xanh/ Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình (Màu thời gian). Gió có màu xanh là cái nhìn mới lạ của Đoàn Phú Tứ tiếng chim có màu xanh biếc cũng là cách nghe mới lạ của cậu bé Trần Đăng Khoa. Ở câu thơ này Khoa tiếp tục sử dụng sự tương giao giữa thính giác và thị giác. Nhưng ở "Cầu Cầm" thì khác Trần Đăng Khoa không sử dụng sự tương giao giữa thính giác và thị giác mà sử dụng sự tương giao giữa thính giác và vị giác: Bạn nhỏ nào đi qua/ Vai bay khăn quàng đỏ/ Tiếng chim hót đâu đó/ Nghe ngọt vị ổi đào… Điều đó cho chúng ta thấy ngòi bút của Trần Đăng Khoa hết sức sáng tạo hết sức linh hoạt. Cũng tả tiếng chim cũng sử dụng sự tương giao giữa các giác quan nhưng Khoa luôn thay đổi luôn có ý thức làm mới nghệ thuật thể hiện cho phù hợp với nội dung và cảm xúc của mình trong từng văn cảnh cụ thể.
Vườn xanh biếc tiếng chim/ Dơi chiều khua chạng vạng/ Ai dắt ông trăng vàng/ Thả chơi trong lùm nhãn… Hình ảnh khu vườn xanh biếc tiếng chim khiến chúng ta liên tưởng đến mấy câu thơ của Đoàn Phú Tứ: Sáng nay tiếng chim thanh/ Trong gió xanh/ Dìu vương hương ấm thoảng xuân tình (Màu thời gian). Gió có màu xanh là cái nhìn mới lạ của Đoàn Phú Tứ tiếng chim có màu xanh biếc cũng là cách nghe mới lạ của cậu bé Trần Đăng Khoa. Ở câu thơ này Khoa tiếp tục sử dụng sự tương giao giữa thính giác và thị giác. Nhưng ở "Cầu Cầm" thì khác Trần Đăng Khoa không sử dụng sự tương giao giữa thính giác và thị giác mà sử dụng sự tương giao giữa thính giác và vị giác: Bạn nhỏ nào đi qua/ Vai bay khăn quàng đỏ/ Tiếng chim hót đâu đó/ Nghe ngọt vị ổi đào… Điều đó cho chúng ta thấy ngòi bút của Trần Đăng Khoa hết sức sáng tạo hết sức linh hoạt. Cũng tả tiếng chim cũng sử dụng sự tương giao giữa các giác quan nhưng Khoa luôn thay đổi luôn có ý thức làm mới nghệ thuật thể hiện cho phù hợp với nội dung và cảm xúc của mình trong từng văn cảnh cụ thể.
Ta có thể nhặt ra trong “Góc sân và khoảng trời” không ít những
câu thơ Trần Đăng Khoa sử dụng sự tương giao giữa các giác quan hết sức sáng tạo
và linh hoạt như thế. Đối với một cậu bé mới tám chín tuổi đã mạnh dạn đưa vào
thơ mình nghệ thuật tương giao các giác quan một cách có ý thức như vậy quả là
thần đồng. Chỉ có thần đồng mới làm được những điều mà người bình thường ít ai
làm được. Không chỉ sử dụng thành công sự tương giao của các giác quan trong
“Góc sân và khoảng trời” Trần Đăng Khoa còn viết những câu thơ những tứ thơ những
hình ảnh thơ rất giống với các bậc tiền nhân xuất hiện trước Khoa hàng mấy trăm
năm. Ví dụ như câu thơ Khoa tả hoa lựu: Hoa lựu như lửa lập lòe khiến chúng ta
nhớ đến câu thơ cũng tả hoa lựu của Nguyễn Du: Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm
bông. Có thể Trần Đăng Khoa đã đọc Truyện Kiều rồi nhập tâm chăng? Điều này chỉ
Khoa mới biết được. Câu: Em nhảy trăng cũng nhảy trong bài “Trông trăng” khiến
chúng ta nhớ đến hai câu thơ khá nổi tiếng: Ngã ca nguyệt bồi hồi/ Ngã vũ ảnh
linh loạn (Ta hát trăng bồi hồi/ Ta múa bóng quay cuồng) trong bài "Nguyệt
hạ độc chước" (Một mình uống rượu dưới trăng) của tiên thơ Lý Bạch. Trường
hợp này có lẽ chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng giả sử cậu bé Khoa lúc đang
học lớp một lớp hai trường làng mà đã đọc thơ Lý Bạch và chịu ảnh hưởng ít nhiều
thì cũng là điều “xưa nay hiếm”!.
Mai Văn Hoan






Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét