Hình tượng sông Đà trong tùy bút
sông Đà của Nguyễn Tuân
Nhà văn đã lấy tên con sông
Đà - mạch nước nguồn tưới tắm, bồi đắp cho đất, cho núi, cho ngàn hoa,… Tây Bắc
làm nhan đề cho cả tập tùy bút, có lẽ bởi sự gắn bó tự nhiên, ngàn đời của con
sông và vùng đất tạo cho ông bao cảm xúc và khơi lên sức sáng tạo. Sâu xa hơn,
cái tên ấy, hình tượng ấy còn chất chứa những thông điệp nghệ thuật đầy ý
nghĩa. Bởi thế, gần như trong toàn bộ tập tùy bút, thế giới đời sống của đất và
người Tây Bắc hiện lên qua ngòi bút nhà văn trong sự gắn bó khi trực tiếp, khi
gián tiếp nhưng vô cùng bền chặt, da diết mối thiên duyên và nhân duyên với
sông Đà.
1.ĐÔI ĐIỀU VỀ NGUYỄN TUÂN
VÀ MẢNH ĐẤT TÂY BẮC, VỀ TÙY BÚT SÔNG ĐÀ
Trong Xòe, Nguyễn Tuân đã họa nên Tây Bắc thật đẹp, thật thơ: Cái vườn
đẹp Tây Bắc ấy, diện tích rộng tới một phần sáu đất đai toàn bộ đất nông nghiệp
Việt Nam. Ở đấy, cây to bóng cả, núi vót ngọn xanh, núi dằng dặc lam, suối dạo
đàn và rêu biếc lòng suối óng ả như tóc tuôn của một người đàn bà biết phát biểu
bằng thơ[2, 186]. Với Nguyễn Tuân, Tây Bắc dường như đã tìm gặp được người tình
nhân, người nghệ sĩ tài hoa để được yêu, để được họa và ca nơi tùy bút Sông
Đà. Dòng thác mãnh liệt của cách mạng đã đưa một trái tim từng tha thiết, nâng
niu những vẻ đẹp của một thời vang bóng đến với mảnh đất Tây Bắc xa xôi muôn
trùng, để làm nên mối duyên kì ngộ. Sức sống, vẻ đẹp nguyên sơ, trong lành của
Tây Bắc được đánh thức, được bất tử hóa bởi ngòi bút tài hoa. Và có lẽ, hồn khí
của đất và người Tây Bắc với nét duyên quyến rũ đã khơi nên nguồn cảm hứng mãnh
liệt nơi trái tim và tâm hồn nhà văn, để ông có được những trang tuyệt bút ấy.
Nhà văn đã lấy tên con sông Đà - mạch nước nguồn tưới tắm, bồi đắp cho đất, cho
núi, cho ngàn hoa,… Tây Bắc làm nhan đề cho cả tập tùy bút, có lẽ bởi sự gắn bó
tự nhiên, ngàn đời của con sông và vùng đất tạo cho ông bao cảm xúc và khơi lên
sức sáng tạo. Sâu xa hơn, cái tên ấy, hình tượng ấy còn chất chứa những thông
điệp nghệ thuật đầy ý nghĩa. Bởi thế, gần như trong toàn bộ tập tùy bút, thế giới
đời sống của đất và người Tây Bắc hiện lên qua ngòi bút nhà văn trong sự gắn bó
khi trực tiếp, khi gián tiếp nhưng vô cùng bền chặt, da diết mối thiên duyên và
nhân duyên với sông Đà.
2.HÌNH TƯỢNG SÔNG ĐÀ TRONG
TÙY BÚT SÔNG ĐÀ CỦA NGUYỄN TUÂN
Trong tư duy văn hóa của nhân loại, biểu tượng sông hay dòng nước chảy đồng
thời là biểu tượng cho khả năng của vạn vật, của tính lưu chuyển của mọi dạng
thể, của sự phong nhiêu, của cái chết và sự đổi mới. Dòng chảy là dòng của sự sống
và sự chết… Chảy xuống từ trên núi cao, quanh co qua những thung lũng, biến mất
trong những hồ và biển, dòng sông tượng trưng cho đời người với chuỗi những
liên tiếp những ước mong, những tình cảm, những ý định và thiên hình vạn trạng
những bước ngoặt của chúng… [3, 830].
Bài
viết này hướng tới nỗ lực khám phá hình tượng sông Đà trong tùy bút cùng tên của
Nguyễn Tuân từ ba góc độ:
+
Sông Đà – quà tặng của tạo hóa dành cho Tây Bắc
+
Sông Đà – dòng chảy mãnh liệt của sự sống Tây Bắc qua đau thương, máu lửa
+
Sông Đà – sự lưu chuyển của điểm nhìn trong hành trình đi tìm cái đẹp
2.1. Sông
Đà – quà tặng của tạo hóa dành cho Tây Bắc
Chảy miên man bên những sườn
núi, dốc đá Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, sông Đà chính là cái mạch âm của
vùng đất, làm nên một thực thể Tây Bắc trọn vẹn như là hiện thân tuyệt mĩ của
chốn non nước hữu tình. Bao đời nay, những cư dân Tây Bắc kết nối, duy trì sự sống
cùng với hành trình mãnh liệt trôi chảy của dòng nước Đà giang giữa đất, trời
bao la.
Bởi thế, lẽ tất nhiên, Nguyễn
Tuân khi viết về đất và người Tây Bắc đều hướng đến những hình ảnh châu tuần về
hợp lưu của dòng sông ấy. Những trang của tập tùy bút Sông Đà được viết
bởi chất thơ của xúc cảm và trí tuệ, ở đó hình tượng con sông mang sứ mệnh
thiêng liêng, là quà tặng của tạo hóa dành cho Tây Bắc – “con sông có sức
hút mạnh bước chân người”.
Qua những khám phá, phát hiện
của Nguyễn Tuân, (và cũng là cảm nhận của bất cứ lữ khách nào đến với vùng đất
này), trước hết, sông Đà mang đến cho Tây Bắc vẻ đẹp của cảnh sắc thiên
nhiên đầy mê đắm, trữ tình nhưng vô cùng hiểm trở, dữ dội. Thiên tùy bút Người
lái đò sông Đà là những trang tuyệt bút kết tinh tài năng và cảm xúc nhà
văn để lột tả đến tận độ vẻ đẹp ấy. Có biết bao thế hệ người đọc từng say sưa với
những câu văn tài hoa miêu tả vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của dòng sông mang nhịp
điệu, âm hưởng của thơ ca: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai
và cuồn cuộn mù khói Mèo đốt nương xuân… Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử.
Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”[2, 74]. Dường như chỉ có sự
tài hoa, lịch thiệp của Nguyễn Tuân mới dựng lên dáng hình sông Đà duyên dáng,
quyến rũ đến nhường ấy, mới đủ sức mạnh để bất tử hóa vẻ đẹp – linh hồn của Tây
Bắc. Chỉ với từng ấy trang sách, nhà văn đưa đến cho người đọc một suy diễn thú
vị: chỉ Nguyễn Tuân, duy nhất Nguyễn Tuân đã tạc hình ảnh sông Đà nơi không
gian Tây Bắc vào thời gian và nghệ thuật; Tây Bắc - sông Đà – Nguyễn Tuân mối
thiên duyên kì lạ.
Trong tùy bút ấy, sông Đà
còn được Nguyễn Tuân khắc họa với vẻ hung bạo, hiểm trở của những thác, những
đá, những hút nước, những vực sâu… Đặt trong hoàn cảnh tác phẩm ra đời, vẻ hung
bạo, hiểm trở ấy được người đọc tiếp nhận như là những thử thách khẳng định vẻ
đẹp của chất vàng mười trong những người chèo đò Tây Bắc, thì giờ đây sự tiếp
nhận ấy dần được mở rộng. Nó đem đến cho người đọc sự thấm thía bởi khả năng dự
báo đầy chất nghệ thuật của nhà văn về sứ mệnh tài nguyên vô tận của sông
Đà.
Như thế, trong khám phá của
Nguyễn Tuân, sông Đà không chỉ đem đến vẻ đẹp kì thú cho cảnh sắc thiên nhiên
Tây Bắc, mà còn dành cho vùng đất nguồn tài nguyên vô giá: “Dưới mặt đất Tây Bắc,
cũng như trên mặt Tây Bắc và ngay trong dòng nước sông Đà trôi xuôi kia có vô
khối là tài nguyên”[2, 60]. Nguồn tài nguyên sức nước không chỉ làm quay tua
bin tạo nên dòng năng lượng điện, dòng nước ấy đổ ra sông Hồng khiến Tây Bắc có
“đường ra, đường về”. Nguyễn Tuân đã miêu tả sứ mạng ấy của con sông với niềm tự
hào, hồ hởi: “Mùa xuân này, tôi trở lại Quỳnh Nhai, tôi thấy vui hơn mùa xuân
năm ngoái, một phần chính cũng là vì được thấy mỏ than mỡ đã khai ra và cuối
năm vừa qua, đã có hàng trăm chuyến thuyền than Quỳnh Nhai xuôi sông về nhà máy
đồng bằng và áp cả bến nhà máy của ta ở ngoài cửa biển”[2, 278]. Điều đó, khiến
ta có cảm nhận, Nguyễn Tuân đến với sông Đà không chỉ trong tâm thế của một nghệ
sĩ say mê đi tìm cái Đẹp, mà còn với tư cách nhà khoa học, nhà địa chất… đầy
trách nhiệm. Ông gọi mỏ than mỡ chạy dọc sông Đà là mỏ vàng góp vào “gia tài
hương hỏa chung của Tổ quốc”. Nguyễn Tuân, trong câu chuyện với bao người Tây Bắc,
đã nhận thấy: nơi lòng rừng núi ông đang từng bước đường băng qua, trong lòng
lưỡi cát bờ sông Đà có nhiều kim, nhiều quặng nhiều vàng. Nhưng qua thực tế chứng
kiến công cuộc đổi thay bên dòng sông này, còn giúp ông tinh tế phát hiện
có một thứ tài nguyên quí giá khác đang được tôi luyện trong tâm hồn những con
người nơi đây, đó là ý chí và khát vọng. Nó là yếu tố quyết định để chinh phục
sông Đà, làm giàu đẹp cho cuộc sống bên dòng sông: “hai ven sông Đà và các chi
lưu sông Đà, không chỗ nào là không có vàng. Vàng trong cát bờ sông, trong quặng
núi, vàng trong tâm người”[2, 60].
Điều đặc biệt, trong hành
trình đến với Tây Bắc, Nguyễn Tuân luôn khám phá vẻ giàu đẹp ấy của sông Đà
trong sự gắn bó ngàn đời, máu thịt với con người nơi đây. Chẳng hạn, trong Than
Quỳnh Nhai, ông viết: “Sông đẹp núi đẹp, cả con đò cả mày mắt cô lái đò đều rất
tạo hình… Ấy là ở Quỳnh Nhai đây, nhờ giời nhờ đất, còn có một khúc sông của
sông Đà chảy qua cho quả núi đá xanh bớt lẻ bóng, cho cô gái chèo thuyền hái
rêu đỡ phải mua gương con, và cho cuộc đời Quỳnh Nhai thêm được bến trên bến dưới”[2,
275]. Với sự hóm hỉnh, trí tưởng tượng giàu có, nhà văn gợi ra một hình ảnh khủng
khiếp: châu Quỳnh Nhai cạn mất con sông thơ mộng, di dưỡng tính tình và đời sống
làm ăn: “giả thử vì một cuộc dâu bể địa chất tạo sơn tạo địa nào đó mà Quỳnh
Nhai trôi buột đi và mất tích hẳn con sông Đà, tất cả thuyền bè và người đang tắm
cứ tênh hênh tô hô trong lòng đá con sông bỗng ráo hoảnh”[2, 60].
Hay ở Người lái đò sông
Đà, nhà văn đã bộc bạch những cảm nhận tinh tế về mối tơ duyên của con người và
dòng sông. Người lái đò sông Quỳnh Nhai mang dáng hình một người tình nhân
muôn thuở, một anh Trương Chi nào của dòng sông nhiều trữ tình này, là một linh
hồn muôn thuở của sông nước này. Từ đó, ông có những liên tưởng sâu sắc, giàu
hình ảnh: hình như con sông đã tạo riêng cho họ một cách cảm một cách nói
vừa rắn rỏi vừa uyển chuyển âm trầm, …từ câu chuyện kể đều dội lên dư âm của
thác đá sông Đà, có khi gân guốc rồi lại êm ru như dòng sông lặng tờ, sau những
khúc ào ào ghềnh thác…
Như vậy, trong tư duy và tâm
thức sáng tạo của người nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, con sông khởi nguồn và đắp đổi
cho sự sống cả cộng đồng dân cư; nó làm duyên, gợi dáng và tạo hồn cho con người
và vùng đất. “Ở đâu có sông có nước lớn, thường trội lên những dấu hiệu của cuộc
sống văn hóa, trội lên những hình ảnh của văn minh” – văn hóa, văn minh Tây Bắc
hình thành, tiếp nối bên dòng chảy Đà giang bất tử và mãnh liệt.
2.2. Sông Đà – dòng chảy
mãnh liệt của sự sống Tây Bắc qua đau thương, máu lửa
Đọc tùy bút Sông Đà, người đọc không chỉ được đắm mình trong một cảnh
sắc thiên nhiên vừa dữ dội, hoang sơ, vừa trữ tình, thơ mộng mà còn có thêm nhiều
hiểu biết về lịch sử một vùng đất đầy đau thương đang chuyển mình đi lên với cuộc
sống mới bên dòng sông Đà. Qua những khám phá và biểu hiện của Nguyễn Tuân, ta
tìm thấy một dòng chảy vô hình mà mãnh liệt của sự sống Tây Bắc qua đau
thương, máu lửa, chảy song trùng với con sông của trời của đất.
Trong suốt chiều dài thời gian, sự sống con người và vùng đất nơi đây trải qua
biết bao biến cố lịch sử như sự trôi chảy của dòng nước sông Đà được tạo nên bởi
hành trình vượt bao ghềnh, bao thác. Sự sống ấy trải dọc trên những sườn non,
những bến sông, những dòng suối, những chi lưu của dòng sông… Hình ảnh về sự vận
động của sự sống Tây Bắc từ quá khứ đau thương đến hiện tại và tương lai tươi
sáng, trong trang viết Nguyễn Tuân, thật dẻo dai, bền bỉ, đáng trân trọng.
Cùng Nguyễn Tuân ngược dòng thời gian, xuôi sông Đà, người đọc đến với cuộc đời
đen tối của Tây Bắc khi xưa. Nỗi đau vẫn còn đọng lại nơi phía bờ sông Đà, nước
thác vẫn réo lên tiếng bọt nước xô vào đá, khi nhà văn lắng nghĩ về cái xác chết
của dĩ vãng Tây Bắc – Đèo Văn Long. Biết bao thân phận người Thái đen, Thái trắng,
người Mèo đã phải chịu kiếp sống trâu ngựa dưới bàn tay bạo tàn. Máu của người
Tây Bắc đỏ loang, lênh láng bên những tảng đá đen đầu cổng nhà Đèo Văn Long, những
dịp hắn tế cờ xuất quân biết bao tù người Xá, người Kinh bị mổ bụng moi gan ăn
sống… “Nói sao cho hết những đau thương của Tây Bắc trước khi lửa cách mạng
tháng Tám cháy bùng lên núi cỏ gianh đánh lùi bóng tối của đem dài Tây Bắc”[2,
188]. Giọng văn Nguyễn Tuân ngậm ngùi như thế khi nói về quá khứ xưa của sự sống
bên sông Đà. Xúc động hơn hết là những trang ông viết về Xòe: “Bóng tối của
phong kiến và đế quốc đã trùm lên đêm hoa đăng giả tạo, bóng tối buộc lấy cổ
tay, ngón chân, cổ chân những bước xòe Thái”[2, 188]. Trong màn đêm ấy, thật
xót xa, xòe – hòn ngọc quí của văn hóa Tây Bắc, thứ giá trị tinh thần hội tụ vẻ
đẹp thể chất và khát vọng tinh thần cháy bỏng của cả một dân tộc, lại biến
thành một thứ tô nghệ thuật. Xót xa hơn nữa, những đóa ban rực rỡ, tài hoa nhất
của núi rừng lại trở thành những “tội nhân nghệ thuật”, những cái đệm sống của
bè lũ đế quốc và phong kiến. Những đôi chân xòe đã bỏng cháy trên sàn gỗ luộc dầu
để trái tim càng buốt giá. Những nỗi uất hận cứ chồng chất gửi vào tiếng thác
sông Đà, mài nhẵn những bậc đá trên bao bến sông, những cầu vồng của nhân gian
Tây Bắc ngày ấy. “Và trong những đêm tiệc, máu đồng trinh cứ rỏ theo bước đi của
đôi chân khiêu vũ, cô gái xòe cứ giẫm lên máu mình mà múa, rồi máu tươi ấy khô
dần một đống trên một cuộc đời đã biến thành một cái đệm, lớp máu đêm sau đóng
vảy lên lớp máu đêm đầu, và cứ thế cứ thế”[2, 193]. Thiết nghĩ, không cần thêm
một lời bình nào, những hình ảnh trong trang viết Nguyễn Tuân đã diễn tả đến tận
cùng những nỗi đau, niềm uất hận hằn lại nơi lòng người, giữa mây ngàn sông nước
miền Tây.
Tích tụ trong căm hờn, đau thương là cái cốt cách vững vàng, khát vọng giải
phóng của những con người bao đời tự do làm bạn cùng với sương mù, non cao, và
sóng nước. Tựa vào núi cao, sông dài, người Tây Bắc tìm thấy ánh sáng cách mạng
trong những ngày gian khó. Những hạt đào cộng sản đã nảy mầm sự sống nơi nhà ngục
– chốn đọa đày, khuất phục ý chí đấu tranh cách mạng; để rồi nhân niềm tin ở những
sắc hoa tươi thắm trong gió ngàn. Chàng thanh niên Lò Văn Gía của núi rừng hồn
hậu, điềm đạm, linh lợi mà kín đáo đã dũng cảm đưa những người tù cộng
sản vượt ngục ra phía sông Đà, trong cái màn mưa trắng núi trắng rừng quen thuộc
của Tây Bắc. Sự tỉnh táo đầy quả cảm và biến báo của những người cộng sản
lúc lâm nguyđã giúp người con của núi rừng hoàn thành sứ mệnh cách mạng. Kẻ thù
hèn hạ tìm cách tiêu diệt anh hòng uy hiếp phong trào và khuất phục tinh thần của
đồng bào. Lò Văn Gía ngã xuống, quả ổi rừng đã buột khỏi tay. Người con ấy
yên nghỉ trong vòng tay quê hương, trong những câu hát mới tự do được cất lên để
thay thế cho những câu hát cũ than thở về ổi rừng: “quả ổi biến thành quả lựu,
người yêu của mình thành ra người của bản xa”. Hình ảnh quả ổi rừng, gốc ổi rừng
mà Nguyễn Tuân phát hiện trong câu chuyện, câu hát về người con trung hiếu gợi
lên trong người đọc những suy tưởng đầy chất thơ về vẻ đẹp tâm hồn người
anh hùng, về vẻ đẹp của vốn thơ ca cũ dân tộc Thái.
Những người lái đò Sông Đà dùng cái sức mạnh để duy trì và tiếp nối sự sống nơi
chốn sông nước bao la, sức mạnh chiến thắng cái thiên nhiên không bình thường của
một con sông Tây Bắc hiểm trở để thoát khỏi sự áp bức của giặc Tây, giặc Nhật…
Trong thử thách khốc liệt, con người Tây Bắc không hề cô đơn, họ được chở che bởi
núi rừng đại ngàn, được tiếp sức bởi những nguồn mạch nước vô tận của đất và trời.
Thiên nhiên Tây Bắc cùng chung vai với con người trong đau thương, cùng sục sôi
khát vọng giải phóng: “Trên Pha Đin, cỏ gianh liên tiếp đồi nọ đồi kia như một
tấm áo nhung đại cà sa óng ánh xanh một màu cỏ pha. Trong chiến tranh vừa qua,
cái áo xanh đẹp ấy đã bị bọn lính viễn chinh xé rách và làm cháy xém nhiều mảng.
Bom chùm, bom dây, bom bướm, bom tạ, bom tấn, bom nhanh, bom chậm, giờ đã làm
hoen ố, rách nhàu nhiều miếng trên thân áo nhung màu. Cây cỏ Tây Bắc có độ lượng,
đã khâu lại tất cả, nhưng người Tây Bắc ở đây không những nêu tội ác của giặc
mà muốn bắt đền nó và không bao giờ quên những khoản nợ máu mà nó gây nên. Đất
đỏ đỉnh đèo lưng đèo bật tung lên như cơ thể vọt máu từ miệng vết thương, và
núi sông quanh đây không ngớt dội lại không thôi tiếng hận thù trong những trận
bom sáng giăng”[2, 94]. Những cảm nhận sắc sảo, tinh tế của Nguyễn Tuân đã
lột tả thật ấn tượng sức sống dẻo dai, bền bỉ của đất và người Tây Bắc
trong chiến tranh. Chính sức mạnh ấy đã giải phóng cho thân phận và khát vọng sống
bao thế hệ con người nơi đây.
Và rồi sức sống của đất và người lại làm nên công cuộc dựng xây. Nhà văn Nguyễn
Tuân đã phát hiện biết bao hình ảnh thật đẹp, thật ý nghĩa về sức mạnh hồi
sinh của Tây Bắc. Bên những tháp trắng mộ liệt sĩ bên đồi A1, cánh đồng đạn đã
trở thành cánh đồng lúa đứng hàng đầu của bốn cánh đồng lương thực ở Tây Bắc. Cả
vùng đất lại quyết tâm, say sưa mở đường vượt sông, kết nối huyết mạch với Tổ
quốc: “Vượt sông Đà, vượt sông Đà, đúng là cái điệp khúc thân yêu của những con
người đã sống chết với Tây Bắc và đang sống cao độ với quê hương Tây Bắc”[2,
120]. Lời văn Nguyễn Tuân như ngân lên những nốt nhạc tươi vui để diễn tả ý
chí, sự hào hứng nơi hồn người đi mở đường. Hình ảnh ngọn lửa Quỳnh Nhai khơi dậy
hát vọng về một Tây Bắc no ấm bên sông Đà: “Từ ngọn lửa lom dom mười năm xưa địch
hậu Quỳnh Nhai gian khổ, cho tới ngọn lửa những thùng phuy luyện cốc trong hoàn
cảnh hôm nay có tươi vui hơn nhưng vẫn chưa hết gian khổ, tôi cảm thấy có một mạch
nối thiêng liêng làm ấm sáng lên tấm lòng của tất cả những con người đang cảm
xúc theo nhịp khai thác mỏ than bên sông Đà”[2, 289].
Như vậy, Nguyễn Tuân với những khám phá của mình giúp người đọc cảm nhận thật
rõ nét: cơ thể Tây Bắc đang chuyển dần, mạch máu của Tây Bắc đang hóa sinh
thêm lên vô vàn hồng huyết cầu; từ nay sông Đà ngày càng xanh ve mãi
lên một niềm hoài vọng; vòng xòe Tây Bắc nối dài trong men say tự do và tình
yêu; nhịp sống mùa xuân “đang tưng bừng chỗ đầu suối tràn ruộng, bến sông” để
những người con gái được yên bình gội đầu bên suối, duyên dáng hong tóc cùng sắc
ban trắng tinh khôi.
2.3. Sông Đà – sự lưu chuyển
của điểm nhìn trong hành trình đi tìm cái đẹp
Sông Đà là kết tinh những kỉ
niệm và vốn sống nhiều năm ở Tây Bắc, đồng thời cũng đánh dấu một bước chuyển
biến cơ bản của tâm hồn Nguyễn Tuân sau lần nhận đường thứ hai của các nhà văn
đi vào cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trình bày những cảm tưởng về
Tùy bút “Sông Đà” của Nguyễn Tuân, nhà văn Nguyên Ngọc đã khẳng định: “Khi
nói cảm tưởng về “Sông Đà”, trước hết tôi muốn chào mừng anh Nguyễn Tuân ở một
cách đứng mới, một vị trí mới, không những chỉ là một vị trí mới của anh trong
tác phẩm của anh, mà trước hết là một vị trí mới của anh trong cuộc sống ngày
nay mà anh nói đến trong tác phẩm. Theo tôi, đó là một thành công mới của anh đạt
được sau cả một quá trình thay đổi lâu dài. Thành công đó quyết định tất cả những
điều tốt đẹp mà anh đem đến cho chúng ta qua tập Sông Đà.
Thế mới biết việc chọn chỗ đứng là quan trọng mức nào đối với người viết. Có
khi đứng như thế nào đấy thì lại tự mình thu hẹp tầm mắt của mình lại, tự mình
che lấp mất cái thế giới bao la quanh mình, và lúc đó chỉ còn thấy những điều tủn
mủn, nhỏ nhặt, lại dễ sinh ra tính câu nệ vụn vặt. Ngược lại, do một cái vị trí
mới, đúng, tác giả bỗng thấy mở ra trước mắt mình một thế giới mới xôn xao, rộn
rịp, tâm hồn mình cũng thành ra cởi mở, rộng rãi”[1, 272].
Chọn cho mình một điểm nhìn nghệ thuật gần gũi, hòa hợp và Ta thấy ở Sông
Đà, Nguyễn Tuân có cái náo nức, sôi nổi của một con người vừa thấy bày ra trước
mắt mình một cuộc sống mới cuồn cuộn, những con người mới rất đẹp, ào ạt đi tới.
Nguyễn Tuân viết về con người mới, cuộc sống mới Tây Bắc với một tâm thế cởi mở,
say mê và vô cùng gắn bó.
Trong Dọn nhà lên Điện
Biên, ông đã dựng lên một khung cảnh điển hình về một phương diện sinh hoạt mới
của đất nước ở giai đoạn xây dựng, kiến thiết: “Hàng loạt người rời đồng bằng
lên những vùng núi non giàu có, bao la, dọn nhà lên Điện Biên”, đi xây dựng đất
nước. Gắn liền với khung cảnh hiện thực ấy là những hoàn cảnh tâm lý, tư tưởng
phức tạp của con người vươn tới cái mới: bỏ quê hương, phá đi bao thứ nếp suy
nghĩ cũ về hạnh phúc, về tình yêu, về đạo đức, làm nên những quan niệm mới,
cách mạng. Nguyễn Tuân thật sâu sắc và tinh tế khi chạm đến những trăn trở, suy
tư kín đáo “bỏ một thói quen, kể cả thói quen với cái làng gốc gác của mình để
mà ra đi, nó rất là giằng xé, rất là phiền phức”. Tác giả say mê ca ngợi cái mới,
đồng thời cũng thấu hiểu, đồng cảm với những khó khăn, sự giằng xé trên bước đường
vươn đến cái mới. Dòng triết lý: “Có những sự chia tay là tất yếu trong đời
sống tiến lên” như là sự trải lòng của chính cái tôi nhà văn trong giai đoạn
“nhận đường”, hơn thế nữa cho thấy một nhân sinh quan tiến bộ, cách mạng trong
cách nhìn về đời sống. Tác phẩm khép lại bằng câu chuyện của một cán bộ địch hậu
Tây Bắc: “Cụ tổ ba đời tôi người Nam Định, lên làm ăn ở Phú Thọ. Nếu căn cứ vào
mồ mả tổ tiên chi họ, thì phải nói quê tôi ở Nam Định. Nhưng nếu đem hộ tịch, địa
bạ ra mà so, thì tôi là người quê ở Phú Thọ, mặc dầu tôi với Phú Thọ đối với thực
tế Phú Thọ, tôi biết tôi hiểu rất ít, hầu như là chưa đủ tri thức để xúc cảm với
những thực tế ấy. Cuộc sống tình cảm của tôi chỉ bắt đầu có từ giai đoạn sống
chết với cơ sở Tây Bắc. Mỗi lần chết đi sống lại với cơ sở trong lòng địch, mỗi
lần đau thương, rồi yêu thương với cơ sở, là mỗi lần mình cảm thấy cơ sở ấy
chính là quê hương mình đấy… Có thể nói một cách khác rằng người ích kỉ cũng là
người không có quê hương. Tôi cho rằng chỗ nào mình có nhiều cảm xúc trước thực
tế mà mình có góp phần xây dựng, chỗ nào mình gắn bó với vận mệnh nơi đó và tập
thể nơi đó yêu thương mình, thì đấy là quê hương của mình”… [2,150]. Cái
quan niệm rất mới, rất đẹp về quê hương ấy được Nguyễn Tuân phát hiện và thấu
ngộ trong từng đoạn đường xe lên Tây Bắc, trong những trái tim đầy hồi hộp xen
lẫn những băn khoăn khi đến Điện Biên. Đó là những chia sẻ mà Nguyễn Tuân góp
nhặt, quan sát từ thực tế chiến đấu và xây dựng, lồng trong đó còn là sự chiêm
nghiệm của nhà văn về lẽ tồn tại trong sự chảy trôi vĩnh cửu của đời sống.
Mở rộng tầm mắt, cởi bỏ cái
Tôi cực đoan để hòa mình vào cuộc sống mới, gắn bó với những con người mới,
Nguyễn Tuân đã khám phá muôn vàn sự biểu hiện của cái Đẹp từ sự trải nghiệm đầy
trách nhiệm. Đó không còn là những cái Đẹp dị biệt, đối lập với thực tế cuộc sống
đương thời, mà là những cái Đẹp giản dị, thầm lặng vươn lên từ gian khó, khốc
liệt.
Nhà văn trân trọng, nâng niu
vẻ đẹp của sự hy sinh nơi những con người đang cống hiến cho sự nghiệp kiến thiết
và bảo vệ Tổ quốc, những con người ông gặp gỡ hàng ngày, hàng giờ trên những nẻo
đường Tây Bắc. Đó là những công nhân “đang tạm thời lấy chân tay mình ra mà moi
mà cuốc những vỉa than mỏ đang chờ cơ giới kéo lên” [2, 140]; những chiến sĩ ở
đồn biên giới Tây Trang xa xôi, thiếu thốn đủ đường nhưng “chật vật nhất là mặt
tình cảm”; những người đi mở đường “giống như những người lái đò cạn…, những vạn
chài trên đất liền Tây Bắc. Và những con đường ta mở ra, sao lại không là một
tia đèn bể chiếu rọi đi xa, chiếu rọi qua những sóng đêm dài ở Tây Bắc” [2,
132]… Không chỉ say mê ngợi ca mà nhà văn còn tìm thấy đằng sau mỗi vẻ đẹp
một triết lý sống thấm thía, sâu sắc. Ông cảm nhận cuộc sống của những lính Tây
Trang đã động viên mình không phải là ít, nó có thêm cho tôi nhiều cảm
nghĩ về cái khía cạnh chịu đựng để mà vươn lên. Ta không còn thấy một cái Tôi
ngạo nghễ, khinh bạc với muôn sự cuộc đời, mà là một cái Tôi trăn trở, gắn bó với
con người và đời sống thực tế, sống kĩ lưỡng với chính mình.
Trong tâm thế người nghệ sĩ
đã hòa hợp vào cái Đẹp cái Lớn chung của dân tộc, Nguyễn Tuân còn ngược dòng thời
gian hướng đến phát hiện, khắc họa cái Đẹp trong quá khứ của Tây Bắc đau
thương. Đó là ánh sáng của những hoa đào cộng sản Sơn La, ánh sáng đôi mắt của
người thanh niên cộng sản Thái Lò Văn Gía… Góc nhìn con người từ phương diện
tài hoa nghệ sĩ, mà ông theo đuổi từ trước cách mạng, đã giúp Nguyễn Tuân khám
phá nên cái Đẹp mà ít người nhìn thấy nơi những người chiến sĩ cách mạng. Bên cạnh “cái
phẩm cách toàn năng của con người cộng sản nhiều trí tuệ chính trị” là sự
đa tình đa cảm đối với đồng loại, đối với cõi tự nhiên. Giữa ngục tù, nơi đày đọa
giết mòn kiếp người, người cộng sản đã bình tĩnh cắm xuống tấc đất đầy máu và
nước mắt một nhánh đào để nó hút lấy hơi đất máu ấy mà kết dần nụ hoa; người cộng
sản khao khát một ánh trăng đêm rằm… Qủa là chỉ có Nguyễn Tuân mới phát hiện thấy
chất lãng mạn nghệ sĩ bên cạnh chất lãng mạn cách mạng trong vẻ đẹp của người cộng
sản.
Cái Đẹp trong quá khứ ấy của
Tây Bắc đau thương được Nguyễn Tuân tô đậm trên cái nền quá khứ phản diện. Ngòi
bút ông đặc biệt trầm lắng, sâu sắc khi nói đến những khổ đau ngày trước. Sự độc
ác, gian xảo của Đèo Văn Long, những kiếp đời não nùng của biết bao cô xòe
Thái… những hình ảnh tăm tối của cuộc đời cũ chính là “những đường viền đen làm
sáng rõ thêm màu sáng của cuộc đời Tây Bắc ngày nay” [2, 276].
Có thể thấy, trước cách mạng,
ông tuyệt đối hóa cái Đẹp chỉ tồn tại trong quá khứ thanh sạch, phủ nhận sự tồn
tại của phạm trù ấy nơi hiện tại rối ren, thì giờ đây với nhãn quan biện chứng
Nguyễn Tuân luôn tìm được mạch kết nối giữa cái đẹp trong quá khứ và hiện tại,
gửi gắm niềm tin, ước vọng về cái Đẹp của tương lai.
Thời gian đã làm nên những
giới hạn cho mỗi đời người, song những ai sống hết lòng với thời gian của đời
mình, người đó coi như đã tìm cách để đến được với vĩnh viễn. Nguyễn Tuân đã bước
vào cõi vĩnh hằng, nhưng những gía trị ông cống hiến cho nghệ thuật còn mãi với
thời gian, ghi danh ông vào cõi bất tử của cái Đẹp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn
và giới thiệu), Nguyễn Tuân về tác gia và tác phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục,
Thp Hồ Chí Minh, 2003.
[2]. Nguyễn Tuân, Tuyển
tập (tập 2), Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1996.
[3]. Jean Chevalier, Alain
Gheerbant, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2002.
Nguyễn Thị Ngọc Thúy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét