Đi tìm màu cây giữa phẳng lặng
cát trắng
Đứng trước ruộng dưa xanh lấm
chấm những trái non vươn mình trong gió sớm, gợi lên mùi đất cát trong trẻo xa
xưa, tôi ngập trong rừng kí ức của khoảng trời mênh mông thơ ấu nơi đất Trằm.
Điều này đồng dạng nào đó
khi nhắc đến Marcel Proust: “...một hương thơm, một mùi vị tìm thấy lại trong
những trường hợp khác lại thức dậy trong ta, và ngoài ý muốn của ta, một cái
quá khứ... thật khác biệt với cái quá khứ do ta cố tình vẽ ra, giống như những
hoạ sĩ bất tài, với những màu sắc thiếu sự thật...”. Tôi chắc rằng mình không
phải là một họa sĩ bất tài, với những màu sắc thiếu sự thật, mà đích thị là kẻ
nuối tiếc những kí ức ấu thơ nằm lại đây đó trên đất Trằm. Tất cả đã sống lại
lưng chừng trong cái hình hài quá khứ. Tôi nhớ mùi hương của đất, những trái
dưa ngọt, màu xanh của khoai, vị cay của ớt, sự nhọc nhằn của rẫy sắn và cả màu
xanh ngút mắt của nương bãi xa xa nhấp nhô giữa màu cát trắng đầy ân huệ.
Thỉnh thoảng trong những giấc
mơ, tôi thấy mình chạy cùng cánh diều trên vùng đất mênh mông của tuổi thơ.
Vùng đất ấy xanh một màu cây giữa phẳng lặng cát trắng ngập tràn nắng gió. Dân
quê tôi gọi đó là vùng Trằm, nơi lưu giữ những tháng năm của bầu trời xanh, của
đồng dưa thơm lành.

Vùng Trằm có những đặc tính
của một thung lũng. Ba mặt Tây, Nam, Bắc là núi đồi bao phủ. Phía Tây, cồn
Giăng và cồn Sứ nhô lên với bạt ngàn lăng mộ bao đời của người làng, nhuốm lên
cái vẻ u buồn vĩnh hằng. Núi Châu Sơn ở phía Bắc luôn xanh mát với những rừng
cây, đứng ở đó sẽ thu trọn Trằm vào tầm mắt, thấy được nhịp sống không ngừng nảy
nở nơi đây. Hướng Đông, ga tàu Hương Thủy ngày đêm inh ỏi những tiếng còi đi -
đến. Tiếng còi là âm thanh duy nhất phá vỡ bầu không khí yên tĩnh của Trằm mỗi
sớm mai. Nó làm cuộc chia ly thêm nghẹn ngào và sự tưởng tượng sân ga vắng bóng
người khi ta ngồi trên đất Trằm khiến cho cái không khí ấy thêm phần ảm đạm. Tiếng
còi ấy đi vào lòng Trằm, vào tôi, vào nỗi xa vắng đầy khắc khoải. Nhưng Trằm lại
có một thứ tinh thần, ở đây tôi mượn tạm thứ “Tinh thần thung lũng” của
Taitetsu Unno để nói rằng: “Trong thung lũng, sự trù phú được nuôi dưỡng và
sáng tạo năng động được sinh ra”. Đúng với Trằm, với những người nông dân chân
chất quê tôi, cần mẫn gieo màu xanh lên vùng đất người ta bỏ quên vì chiến
tranh. Taitetsu Unno lại nói: “Thung lũng cuối cùng là nơi an nghỉ cho mọi sự bị
trôi từ đỉnh núi, thu gom mọi loại bị từ chối và rác rưởi của xã hội và chào
đón cái không cần đến, cái thừa, cái gây thất vọng, cái tan nát”. Trằm chứa đựng
sự bao dung, cố vun vén cho sự mưu sinh đầy lao khổ của những con người cần cù.
Trong sự tĩnh tại, một ngọn gió Trằm khởi sinh một niệm an lành, cộng hưởng
cùng tiếng chuông chùa Thần Phù ngân vọng giữa đêm sâu.
Giữa đất Trằm, nhà tôi được
phân ra ba khu ruộng trồng, cộng lại cũng gần một mẫu. Chúng nằm cách xa nhau
giữa những đất của người khác. Nhà tôi trồng dưa, trồng khoai sắn, lạc và xen
canh bắp, đậu xanh, tùy mùa, tùy tháng, nhưng nhiều nhất vẫn là dưa. Đất Trằm
là đất cát pha, rất thích hợp với dưa, nhất là dưa gang và dưa quả. Những cây
dưa gang thân dài, nhiều lông tơ cứng, lá như lá bí đao non. Trồng độ hai
tháng, dưa bắt đầu trổ bông. Những bông dưa màu vàng bé xíu, có vẻ đài các giữa
màu cát trắng và nổi bật trên màu xanh của lá. Sớm sớm, vô số ong, bướm thi
nhau bay lượn khắp ruộng dưa. Ong ruồi, ong than, ong đất, ong bọ ngựa và ti tỉ
loài bướm tôi không biết hết tên. Ong ở Trằm nhiều vô kể, mỗi lần hoa nở là
chúng kéo về từng đoàn dập dìu quanh những ruộng dưa. Tuổi thơ của tôi có vô số
lần bị ong chích vì những trò nghịch dại. Những lần ấy, mẹ rầy la suốt buổi và
nỗi âu lo hiện rõ trên đôi mắt mẹ.
Nhờ ong bướm, ruộng dưa nhà
tôi ngập những trái non. Dưa gang trông như dưa chuột nhưng màu nhạt hơn và có
phần cong queo. Trái to nhất phải bằng bắp chân người lớn, có hai màu nửa trắng
ngà, nửa xanh với những đường vân dọc. Những trái to như thế nhà tôi thường đem
bán cho thương lái. Tôi thích những quả còi cọc nhưng rất thơm, mát ngọt. Mỗi lần
ăn, chẳng cần đến dao, chỉ cần đưa quả dưa gang lên đầu gối và đập một phát,
dưa vỡ đôi, vị ngọt tự nhiên.
Để những hoa màu luôn xanh tốt,
phân bón và nước là hai yếu tố cần thiết và quan trọng nhất trên vùng đất Trằm.
Nhưng đem được phân và lấy được nước từ Trằm là công việc rất vất vả. Phân chủ
yếu là phân chuồng, có trộn thêm rơm, lấy từ các chuồng trại trong xóm. Mỗi lần
lấy phân là những lần cơ nhọc. Cả ba, mẹ và bà tôi đều còng lưng xúc chở lên xe
công nông. Xe chở vào Trằm rồi lại còn gánh về từng ruộng dưa. Công việc đó kéo
dài đến hằng tuần. Mười năm với công việc ấy trên đất Trằm, bà tôi sau này bị vẹo
cột sống, hai đầu gối luôn nhức buốt khi trở trời, đi lại khó khăn. Mỗi lần như
thế bà lại nhớ về Trằm, không một lời thở than, trách móc.
Những mùa khô hạn, nhất là
khi gió Lào về, nước mới quý nhường nào. Bà con các ruộng dưa gần nhau cùng
chung sức đào giếng. Đất Trằm cát nhiều dễ đào nhưng lại dễ sụp. Đào độ ba, bốn
mét là có mạch nước chảy ra mát rượi cả một cuộc đất. Nước ngầm của Trằm trong,
có mùi oai oải của rễ mục, uống không được nhưng tưới tắm rất mát. Giếng dùng
được vài ba mùa lại bị cạn nguồn, phải đào giếng khác. Những lần ấy vui như hội,
người đào kẻ cuốc, đám trẻ con tha hồ nghịch đất chờ mạch nước phun lên trong
tiếng reo hò tưởng vỡ cả đất Trằm.
Mùa dưa chín, cả Trằm bận rộn
từ mơ trời đến tối mịt. Cuộc chống chọi với những kẻ trộm dưa cũng lắm chuyện
bi hài. Trằm tuy ở xa dân cư nhưng vẫn là nơi để mắt của đám trẻ hoang nghịch,
nhưng hãi hơn cả là lứa thanh niên manh động trộm dưa, có khi vác cả bao tải chỉ
để đổi một chầu nhậu. Việc giữ dưa được đặt lên hàng đầu. Cả nhà tôi thay nhau
vào Trằm, bà giữ cả ngày, riêng buổi tối thì ba và tôi vào ngủ canh.

Vào những mùa trăng, vùng Trằm
vui nhộn hơn bao giờ hết. Tất cả gió núi đua nhau chạy xuống thung lũng, mang
cái hơi mát của những rừng cây đương ngủ trong sương đêm. Trăng lừng lững nhô
lên ở phía đông, trên những hàng cây che khuất ga tàu xa xa. Ánh trăng bạc phủ
xuống ruộng dưa khoai, xuống cả gương mặt trẻ thơ chúng tôi đương hát bài đồng
dao gọi trăng lên.
Mặt trăng đã mọt (mọc)
Ông cọt (cọp) đã ra
Ông cha đi rú
Ông chú ở nhà
Bắt gà làm thịt
Bắt vịt chặt đuôi
Bắt ruồi chặt cạnh
Mụ Hạnh nấu cơm
Mụ đơm cơm cháy
Mụ quấy bà tra
Mụ la con nít...
Ông cọt (cọp) đã ra
Ông cha đi rú
Ông chú ở nhà
Bắt gà làm thịt
Bắt vịt chặt đuôi
Bắt ruồi chặt cạnh
Mụ Hạnh nấu cơm
Mụ đơm cơm cháy
Mụ quấy bà tra
Mụ la con nít...
Chúng tôi nối đuôi nhau đi
lòng vòng trên những mô đất, vừa đi vừa hát, xô nhau ngã nhoài giữa sóng trăng
nhấp nhô bờ cỏ. Hơi trăng quấn quýt từ những cây tràm cao, lan xuống ruộng dưa,
khoai sắn, phả ra cái màu thủy mặc trên những lối mòn bờ bụi. Cỏ nghểnh cao đầu
chờ những giọt sương trăng rơi giữa đêm mát lành. Trong ánh trăng, những quả
dưa non bóng láng, lấp lánh như những viên ngọc xanh.
Khoảng giữa mùa dưa, vào những
ngày trăng như thế này lũ trẻ nít chúng tôi có một trò chơi rất thú, đó là đi bắt
những con mè mè. Con mè mè có hình dạng giông giống con bọ hung, nhưng khác là
nó không có sừng và rất xinh xắn. Có hai loại là mè mè nếp và mè mè lòn, mè mè
nếp màu trắng, rất hiếm, còn mè mè lòn màu nâu thì nhiều vô kể. Mè mè là một loại
côn trùng rất sạch, chúng sống trong đất cát Trằm, đợi đến đêm bay lượn khắp
nơi để tìm bạn đời. Chúng bay hàng đàn với những tiếng vỗ cánh rất khỏe, vù vù
xuyên đêm. Trong ánh trăng sáng, chúng bay ù qua tai và chỉ cần cởi áo tụm lại
như một cái bao là có thể bắt chúng được. Những bụi chứa gai, những cành tràm
hoa vàng cũng là nơi chúng hay đậu bám. Bắt được mè mè rồi, thì cột một sợi chỉ
vào chân và bỏ trong túi áo, lâu lâu đem ra khoe với chúng bạn bằng cái màn
quay tít như vòng xe của con vật tội nghiệp. Chúng rất dễ thương, nuôi ở nhà phải
để ngoài trời cho nó ăn sương. Ấy vậy mà nhiều chú không thích nghi được đã chết,
chú khác may mắn hơn cắn chỉ bay về lại đất Trằm.
Những mùa trăng lung linh là
cơ hội thấy hết những kẻ bí ẩn sinh sống trên đất Trằm. Tôi sợ nhất là giáp mặt
với mấy chú rắn roi. Đây là loài rắn nhỏ luôn ở trên cây, ở những cành bụi rậm
rạp và hầu như có mặt suốt đêm trăng. Gọi là rắn roi vì dài như một cây roi
chăn trâu màu xám, người ta đồn rằng nếu đụng phải thì nó cong đuôi quất vào
người, chỗ đó sau sẽ sưng tấy lên, tê liệt và dẫn đến hoại tử. Tôi chưa chứng
kiến ai bị như vậy cả nhưng vẫn cứ tin là rắn roi có thể làm được như thế. Có
đêm trăng đi chơi, tôi gặp phải nó đang vắt vẻo trên một cành dứa dại. Đôi mắt
sáng quắc, thao láo nhìn vào đêm, thỉnh thoảng nó thè lưỡi ra bắt ruồi muỗi.
Trông rắn roi hiền lành, vô hại nhưng khi cái đuôi của nó quất lên để chuyền
cành, tôi ù té chạy.
Có đôi lần, những loài thú
hoang từ rừng xa ghé qua đất Trằm. Các vị khách lạ ấy là câu chuyện thú vị được
kể trên những ruộng dưa, khoai. Những nai, mang, dê núi, thỏ rừng... nhiều lần
mon men đến đất ruộng. Sáng ra, những dấu chân của chúng còn trên cát, dăm ba đọt
dưa bị dẫm nát. Tôi cảm nhận được mùi rừng còn đâu đó trên cỏ, trên lá cây ven
con đường mòn, một thứ mùi hăng hắc và cô liêu.
Mỗi độ tháng năm, tháng sáu,
gió Lào bắt đầu tràn về Trằm. Cái lưỡi bỏng rực của nó liếm lên núi đồi, lên cả
vùng đất cát cày sâu cuốc bẫm. Gió Lào hừng hực táp lên những cây tràm hoa vàng
già cỗi, những bụi sim và đau đớn nhất là những ruộng dưa khoai đang mùa thu hoạch.
Nó hung hăng quật những bóng mát ngả nghiêng, làm nhiều luống dưa khô lại trên
những vồng cát. Mặt trời tháng ấy như cộng hưởng cùng gió Lào, mặc sức buông nắng
xuống Trằm, như thể ban phát một ân huệ mà không ai muốn nhận. Giữa nắng trưa
cháy rát, gió Lào hùa theo nắng làm khô cát, cuốn chúng nhảy múa vô hồi giữa
nương rẫy. Những đợt gió tràn về mỗi lúc mỗi lớn, cày xới từng hạt cát, vồng
dưa, bụi cỏ khiến quang cảnh mịt mù như trước một cơn giông. Tôi hãy còn nhỏ lắm,
ngồi trong trại canh nhìn ra ngoài với sự bất lực và sợ hãi. Bà tôi ngồi cạnh đấy
nhai trầu như thể thách thức với gió Lào, với nắng. Bà quen rồi, quen cái nắng
gió bỏng, hách dịch ấy và cách duy nhất là chịu đựng. Da bà tôi đã nhăn như một
tàu lá chuối khô, dần sạm đen trong những ngày gió Lào khốc liệt. Tôi thương bà
quá, thương xách cơm trắng với dăm miếng cá kho, dưa vại, đưa lên miệng đã rộn
rạo cát khô.
Độ bốn, năm giờ chiều, gió
Lào yếu dần, mệt mỏi thổi những hơi nóng còn lại lên vùng đất bị dằn xé sau một
ngày dài. Đến khi sức lực của gió không đủ xô nghiêng một ngọn cỏ, nó âm thầm
chìm vào núi đồi ngủ nghỉ, để rồi trưa mai, một trận gió Lào hung hăng khác lại
điên cuồng xung trận, gieo khô hanh, nóng rẩy xuống vùng đất tội nghiệp.
Ngày nắng cháy là thế nhưng
khi chiều xuống, cả vùng Trằm dịu đi một cách lạ thường. Tôi nhỏ bé đứng trên cồn
đất dựng trại nhìn Trằm yên ả một màu xanh. Những làn gió núi thổi ra nhè nhẹ,
làm bay bay những cọng tranh vàng trên mái. Một vài con ong đất cần mẫn chích mật
những bông cỏ trai cuối ngày. Nắng bắt đầu nhạt đi, thay vào đó là màu vàng của
tơ non rải rác buông xuống những ruộng dưa hãy còn khô khát. Giờ này nhìn về cồn
Giăng, nơi yên giấc nghìn thu bao đời của người làng, một màu buồn dại phủ lên.
Nắng chiếu thấp qua những lăng mộ, để lại bức hậu cảnh xám xịt, nhấp nhô những
trụ biểu đâm lên trời mây thấp. Mỗi lần nhìn về hướng ấy, lòng tôi thắt lại trước
bao cuộc vĩnh hằng chia phôi. Ông nội tôi ở nơi ấy, bà bảo thế mỗi lần tôi nhìn
về Giăng. Tôi đã đến thăm mộ ông mấy lần, một mộ đất đầy cỏ dại với một bia
xi-măng mòn tên mòn tuổi.

Ngoài kia, sét đánh gãy những
thân cây tràm hoa vàng. Sét ngày ấy dạy cho tôi bài học về sự chịu đựng, lắng
nghe tiếng thiên nhiên thét gào, thấy được những trạng tính tự nhiên đang bị
dìm sâu. Một tiếng sét hằn lên thung lũng hay ý niệm về sự thức tỉnh, là linh ảnh
ta nắm giữ, khai mở một khoảng ngộ trong một thời khắc giao hòa giữa bình yên
và cuồng nộ. Những tiếng sét vô tri phút chốc bỗng trở thành thứ ngôn ngữ ám gợi,
siêu năng. Giờ đây, tôi có thể hiểu tiếng sét là một trong những cái duy nhất
có thể biến chuyển sự mặc định. Nó làm biến đổi những thứ vốn dĩ bằng lòng với
thực tại, sự yên bình hay đau khổ. Sét cắt xẻ và chia những tính phận của tôi,
chúng ta, nhân loại hay tự nhiên này.
Trong cái trại nhỏ, mưa thốc
bốn bề và những tia sét cày trên mặt đất, tôi bé thơ không đủ can đảm để chạy
đi nơi khác, mà chạy đi đâu giữa mênh mông Trằm, xối xả mưa và đầy sấm sét. Tôi
nghĩ là sét thở than, sét quát tháo, sét điên cuồng... vì một ẩn ức nào đó. Sau
này cơn giông qua, nhiều cây cối bị mưa gió quật gốc, sét đánh gãy, một vài
trâu bò chết tức tưởi bởi những tia điện trời. Sự sống thật khốc liệt và không
lường được. Chưa bao giờ tôi lạnh, sợ và bất lực như thế. Mưa lạnh ngấm vào tận
xương, người run bắn như một kẻ sốt rét. Chúng tôi dựa vào nhau để chống chọi,
nhưng rồi những cơ thể nhỏ bé chỉ làm cho màn cộng hưởng run, sợ kia dữ dội lên
thôi. Mưa trắng xóa đất trời, và đó là nỗi thê lương gieo lên Trằm chất buồn bã
hiếm khi. Gần hai tiếng đồng hồ chịu đựng cơn giông, chú Phùng, một người bạn của
ba băng mưa gió vượt đến trại bế em tôi và dắt tôi cùng mấy đứa khác đi ra xóm.
Những bóng người xiêu vẹo trong mưa, chân đi như muốn xô ngã, chéo lệch trên mặt
đất đã bì bõm nước. Tôi ngoái nhìn đằng sau, màu xanh của Trằm biến mất, chỉ
còn một khoảng bao la mưa phủ và nước bao vây trắng màu nương bãi.
Cơn giông ấy đã qua đi, để lại
một niềm mãnh liệt trong tâm hồn tôi, nuôi dưỡng những cảm thức không bao giờ
quên lãng về Trằm. Nơi cả nhà tôi, bà con, chòm xóm tôi bao ngày tháng chăm
chút cành xanh, trái ngọt. Tôi nhớ ba những sáng chở bao dưa to tướng bằng chiếc
xe đạp còi cọc để lên tận chợ An Cựu. Nhớ những ngày ba vác cuốc xới từng thớ đất
trồng dưa, vun vồng trồng khoai, mồ hôi ba chảy xuống đất Trằm, làm mặn đi giây
phút đất lành. Giờ ba đã về cõi vĩnh hằng, chọn đất cồn Sứ xa xa, ngoảnh đầu thấy
Trằm mỗi sáng chiều, thấy hồ Châu Sơn nước đong đầy bến mát. Sống ở Trằm và chết
về Trằm, ba ơi, cát bụi chân ai còn bay mãi giữa đất Trằm mênh mông. “Những
ngày và những tháng đều là kẻ lữ hành của thiên thu”, tôi xin ký thác tất cả
vào Trằm, vớt vát những gì của ấu thơ còn lại, của mùi mồ hôi ba ấm nồng trong
đêm ngủ giữa ruộng dưa ngập ánh trăng hiền.
Giờ tôi đứng giữa đất Trằm,
hẫng hụt một mình giữa hoàng hôn. Trằm không còn nguyên vẹn như xưa, người ta
đã quy hoạch nó thành đô thị. Một con đường nhựa cắt ngang Trằm như một con đỉa
lớn thô kệch. Những cọc, mốc cắm lên chia xẻ đất Trằm ra từng vạt đất khô khốc.
Nhà cửa mọc dần lên, át đi cái màu xanh núi đồi, cây dại và cả ánh chiều cũng kệch
cỡm đi qua cồn Giăng. Dăm ba ruộng dưa lạc lõng giữa tất cả những thứ xống xếnh
và thô kệch đó. Tôi đứng giữa mênh mông, lòng xốn như xát muối. Trằm giờ thành
kí ức.
Kí ức đó hằn lên cuộc sống của
một kẻ trưởng thành ở không gian phố thị, là một nỗi ngang trái với quá khứ huy
hoàng thơ dại. Tìm cách gợi lại những bóng hình của quá khứ, là việc không phải
của riêng tôi, kẻ đã thất lạc mình giữa những xa vắng lung linh, mà là nỗ lực của
tất cả những ai từng sống trọn vẹn trong dung ảnh xa xưa của một thời nào đó, đến
không bao giờ nhòa xóa đi, không bao giờ quên lãng. Tôi chắc mình không hoài
công khi cố lục lọi những gì còn lại của Trằm, của gia đình tôi, của những con
người đánh đổi thời gian và sức lực trên màu xanh vĩnh cửu hoa màu. Những dòng
trên đây là cách duy nhất để tìm lại quãng thời gian đã tan chảy ấp chứa trong
nó một vùng đất, cuộc sống đồng quê, những mảnh đời, những kỉ niệm lạc mất, những
rung cảm chân thật... Tôi cố nuôi tham vọng kiến tạo quá khứ bằng nỗi nhớ, sự dằn
vặt đầy thôi thúc từ tiềm thức để kéo lại những phút giây tươi đẹp mỏng mảnh,
níu lại cái tính bất định của sự vật vô thường trôi qua trong sự bất lực của
chính tôi. Tôi không hoài công với vài trang viết, nhưng tôi thất bại vì tất cả
đã thực sự trôi qua rồi, cái còn lại đây chỉ là những ảo ảnh tính linh mà tôi
đã nhận diện phần nào trong đại dương sâu thẳm trích từ quá khứ
Huế, đầu hạ 2014
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét