Thứ Năm, 25 tháng 8, 2016

Đi tìm màu cây giữa phẳng lặng cát trắng

Đi tìm màu cây giữa phẳng lặng cát trắng
Đứng trước ruộng dưa xanh lấm chấm những trái non vươn mình trong gió sớm, gợi lên mùi đất cát trong trẻo xa xưa, tôi ngập trong rừng kí ức của khoảng trời mênh mông thơ ấu nơi đất Trằm.
Điều này đồng dạng nào đó khi nhắc đến Marcel Proust: “...một hương thơm, một mùi vị tìm thấy lại trong những trường hợp khác lại thức dậy trong ta, và ngoài ý muốn của ta, một cái quá khứ... thật khác biệt với cái quá khứ do ta cố tình vẽ ra, giống như những hoạ sĩ bất tài, với những màu sắc thiếu sự thật...”. Tôi chắc rằng mình không phải là một họa sĩ bất tài, với những màu sắc thiếu sự thật, mà đích thị là kẻ nuối tiếc những kí ức ấu thơ nằm lại đây đó trên đất Trằm. Tất cả đã sống lại lưng chừng trong cái hình hài quá khứ. Tôi nhớ mùi hương của đất, những trái dưa ngọt, màu xanh của khoai, vị cay của ớt, sự nhọc nhằn của rẫy sắn và cả màu xanh ngút mắt của nương bãi xa xa nhấp nhô giữa màu cát trắng đầy ân huệ.
Thỉnh thoảng trong những giấc mơ, tôi thấy mình chạy cùng cánh diều trên vùng đất mênh mông của tuổi thơ. Vùng đất ấy xanh một màu cây giữa phẳng lặng cát trắng ngập tràn nắng gió. Dân quê tôi gọi đó là vùng Trằm, nơi lưu giữ những tháng năm của bầu trời xanh, của đồng dưa thơm lành.
Trằm là một dạng địa hình sinh thái thường thấy ở những miền quê Huế hay Quảng Trị. Xen giữa những núi đồi xanh thẳm, đồng bằng màu mỡ là vùng đất cát sâu trong nội đồng, có nơi như một sa mạc trắng bát ngát, tưởng không có sự sống nào nảy mầm lại xuất hiện điểm trũng như cái hồ nước rộng, đất đai trù mật, dân gian quen gọi là vùng Trằm. Một người bạn địa chất của tôi cho rằng đây là dấu vết của một dòng sông cổ ở những đoạn không bị cát vùi lấp. Chất đất ở đây có sự pha trộn giữa cát trắng và đất thịt, gọi là đất cát pha, nên tơi xốp và khá màu mỡ. Vùng Trằm quê tôi cách dòng sông Tả Trạch, một trong hai nguồn chính của dòng sông Hương, một khoảng núi đồi. Vô vàn khe suối vẫn còn len lỏi trong những cánh rừng để chảy vào sông, làm màu mỡ cho các vùng đất bán sơn địa ở vùng trung du Hương Thủy. Dấu tích dòng sông cổ có thể là những chia cắt đứt đoạn dòng chảy của nó, ngày nay đã hình thành rải rác những hồ, những vùng đất trũng len xen giữa các núi đồi trước khi nó bị biến mất. Hồ Động Lực, hồ Châu Sơn, hồ Ba Cửa, và vô số những vùng đất thấp, sũng nước quanh quẩn giữa rừng núi và đồng bằng Hương Thủy cho ta thấy cái dấu vết ấy. Nếu trải dài ra nữa thì địa vực của cát trắng rất rộng lớn, phủ từ Thủy Phù, Phú Bài tới Thủy Châu, Thủy Phương... Nhưng duy đất Thủy Châu quê tôi, mới có vùng Trằm tươi tốt, xanh mát quanh năm.
Vùng Trằm có những đặc tính của một thung lũng. Ba mặt Tây, Nam, Bắc là núi đồi bao phủ. Phía Tây, cồn Giăng và cồn Sứ nhô lên với bạt ngàn lăng mộ bao đời của người làng, nhuốm lên cái vẻ u buồn vĩnh hằng. Núi Châu Sơn ở phía Bắc luôn xanh mát với những rừng cây, đứng ở đó sẽ thu trọn Trằm vào tầm mắt, thấy được nhịp sống không ngừng nảy nở nơi đây. Hướng Đông, ga tàu Hương Thủy ngày đêm inh ỏi những tiếng còi đi - đến. Tiếng còi là âm thanh duy nhất phá vỡ bầu không khí yên tĩnh của Trằm mỗi sớm mai. Nó làm cuộc chia ly thêm nghẹn ngào và sự tưởng tượng sân ga vắng bóng người khi ta ngồi trên đất Trằm khiến cho cái không khí ấy thêm phần ảm đạm. Tiếng còi ấy đi vào lòng Trằm, vào tôi, vào nỗi xa vắng đầy khắc khoải. Nhưng Trằm lại có một thứ tinh thần, ở đây tôi mượn tạm thứ “Tinh thần thung lũng” của Taitetsu Unno để nói rằng: “Trong thung lũng, sự trù phú được nuôi dưỡng và sáng tạo năng động được sinh ra”. Đúng với Trằm, với những người nông dân chân chất quê tôi, cần mẫn gieo màu xanh lên vùng đất người ta bỏ quên vì chiến tranh. Taitetsu Unno lại nói: “Thung lũng cuối cùng là nơi an nghỉ cho mọi sự bị trôi từ đỉnh núi, thu gom mọi loại bị từ chối và rác rưởi của xã hội và chào đón cái không cần đến, cái thừa, cái gây thất vọng, cái tan nát”. Trằm chứa đựng sự bao dung, cố vun vén cho sự mưu sinh đầy lao khổ của những con người cần cù. Trong sự tĩnh tại, một ngọn gió Trằm khởi sinh một niệm an lành, cộng hưởng cùng tiếng chuông chùa Thần Phù ngân vọng giữa đêm sâu.
Giữa đất Trằm, nhà tôi được phân ra ba khu ruộng trồng, cộng lại cũng gần một mẫu. Chúng nằm cách xa nhau giữa những đất của người khác. Nhà tôi trồng dưa, trồng khoai sắn, lạc và xen canh bắp, đậu xanh, tùy mùa, tùy tháng, nhưng nhiều nhất vẫn là dưa. Đất Trằm là đất cát pha, rất thích hợp với dưa, nhất là dưa gang và dưa quả. Những cây dưa gang thân dài, nhiều lông tơ cứng, lá như lá bí đao non. Trồng độ hai tháng, dưa bắt đầu trổ bông. Những bông dưa màu vàng bé xíu, có vẻ đài các giữa màu cát trắng và nổi bật trên màu xanh của lá. Sớm sớm, vô số ong, bướm thi nhau bay lượn khắp ruộng dưa. Ong ruồi, ong than, ong đất, ong bọ ngựa và ti tỉ loài bướm tôi không biết hết tên. Ong ở Trằm nhiều vô kể, mỗi lần hoa nở là chúng kéo về từng đoàn dập dìu quanh những ruộng dưa. Tuổi thơ của tôi có vô số lần bị ong chích vì những trò nghịch dại. Những lần ấy, mẹ rầy la suốt buổi và nỗi âu lo hiện rõ trên đôi mắt mẹ.
Nhờ ong bướm, ruộng dưa nhà tôi ngập những trái non. Dưa gang trông như dưa chuột nhưng màu nhạt hơn và có phần cong queo. Trái to nhất phải bằng bắp chân người lớn, có hai màu nửa trắng ngà, nửa xanh với những đường vân dọc. Những trái to như thế nhà tôi thường đem bán cho thương lái. Tôi thích những quả còi cọc nhưng rất thơm, mát ngọt. Mỗi lần ăn, chẳng cần đến dao, chỉ cần đưa quả dưa gang lên đầu gối và đập một phát, dưa vỡ đôi, vị ngọt tự nhiên.
Để những hoa màu luôn xanh tốt, phân bón và nước là hai yếu tố cần thiết và quan trọng nhất trên vùng đất Trằm. Nhưng đem được phân và lấy được nước từ Trằm là công việc rất vất vả. Phân chủ yếu là phân chuồng, có trộn thêm rơm, lấy từ các chuồng trại trong xóm. Mỗi lần lấy phân là những lần cơ nhọc. Cả ba, mẹ và bà tôi đều còng lưng xúc chở lên xe công nông. Xe chở vào Trằm rồi lại còn gánh về từng ruộng dưa. Công việc đó kéo dài đến hằng tuần. Mười năm với công việc ấy trên đất Trằm, bà tôi sau này bị vẹo cột sống, hai đầu gối luôn nhức buốt khi trở trời, đi lại khó khăn. Mỗi lần như thế bà lại nhớ về Trằm, không một lời thở than, trách móc.
Những mùa khô hạn, nhất là khi gió Lào về, nước mới quý nhường nào. Bà con các ruộng dưa gần nhau cùng chung sức đào giếng. Đất Trằm cát nhiều dễ đào nhưng lại dễ sụp. Đào độ ba, bốn mét là có mạch nước chảy ra mát rượi cả một cuộc đất. Nước ngầm của Trằm trong, có mùi oai oải của rễ mục, uống không được nhưng tưới tắm rất mát. Giếng dùng được vài ba mùa lại bị cạn nguồn, phải đào giếng khác. Những lần ấy vui như hội, người đào kẻ cuốc, đám trẻ con tha hồ nghịch đất chờ mạch nước phun lên trong tiếng reo hò tưởng vỡ cả đất Trằm.
Mùa dưa chín, cả Trằm bận rộn từ mơ trời đến tối mịt. Cuộc chống chọi với những kẻ trộm dưa cũng lắm chuyện bi hài. Trằm tuy ở xa dân cư nhưng vẫn là nơi để mắt của đám trẻ hoang nghịch, nhưng hãi hơn cả là lứa thanh niên manh động trộm dưa, có khi vác cả bao tải chỉ để đổi một chầu nhậu. Việc giữ dưa được đặt lên hàng đầu. Cả nhà tôi thay nhau vào Trằm, bà giữ cả ngày, riêng buổi tối thì ba và tôi vào ngủ canh.
Những đêm tối canh dưa, vùng Trằm tối đen mù mịt và tĩnh lặng. Cả bầu trời đầy ánh sao giăng, dường như là phủ lên tất cả khoảng trống của thung lũng. Khi nằm ngủ, ngó nghiêng qua dưới mái thấy sao chi chít trên đầu. Nhiều đêm, tôi đi vào giấc ngủ bằng những ánh sao sà xuống êm đềm bên kia bờ mộng. Trằm mênh mông quá nên bầu trời sao rộng và dài, như thể nằm giữa đất ấy là có cả thiên hà trong mắt. Những ánh sao toát lên vẻ kì vĩ xa vời. Trong ánh hiền dịu của sao, tôi gối đầu lên tay ba để ngủ. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ mùi mồ hôi của ba, giàu hương đất, hương cỏ cây và mằn mặn một chút muối lành. Tôi đi vào giấc ngủ chiêm bao đồng xanh với cánh diều mải miết bay và những bàn chân nhỏ quấy tung cát trắng.
Vào những mùa trăng, vùng Trằm vui nhộn hơn bao giờ hết. Tất cả gió núi đua nhau chạy xuống thung lũng, mang cái hơi mát của những rừng cây đương ngủ trong sương đêm. Trăng lừng lững nhô lên ở phía đông, trên những hàng cây che khuất ga tàu xa xa. Ánh trăng bạc phủ xuống ruộng dưa khoai, xuống cả gương mặt trẻ thơ chúng tôi đương hát bài đồng dao gọi trăng lên.
Mặt trăng đã mọt (mọc)
Ông cọt (cọp) đã ra
Ông cha đi rú
Ông chú ở nhà
Bắt gà làm thịt
Bắt vịt chặt đuôi
Bắt ruồi chặt cạnh
Mụ Hạnh nấu cơm
Mụ đơm cơm cháy
Mụ quấy bà tra
Mụ la con nít...
Chúng tôi nối đuôi nhau đi lòng vòng trên những mô đất, vừa đi vừa hát, xô nhau ngã nhoài giữa sóng trăng nhấp nhô bờ cỏ. Hơi trăng quấn quýt từ những cây tràm cao, lan xuống ruộng dưa, khoai sắn, phả ra cái màu thủy mặc trên những lối mòn bờ bụi. Cỏ nghểnh cao đầu chờ những giọt sương trăng rơi giữa đêm mát lành. Trong ánh trăng, những quả dưa non bóng láng, lấp lánh như những viên ngọc xanh.
Khoảng giữa mùa dưa, vào những ngày trăng như thế này lũ trẻ nít chúng tôi có một trò chơi rất thú, đó là đi bắt những con mè mè. Con mè mè có hình dạng giông giống con bọ hung, nhưng khác là nó không có sừng và rất xinh xắn. Có hai loại là mè mè nếp và mè mè lòn, mè mè nếp màu trắng, rất hiếm, còn mè mè lòn màu nâu thì nhiều vô kể. Mè mè là một loại côn trùng rất sạch, chúng sống trong đất cát Trằm, đợi đến đêm bay lượn khắp nơi để tìm bạn đời. Chúng bay hàng đàn với những tiếng vỗ cánh rất khỏe, vù vù xuyên đêm. Trong ánh trăng sáng, chúng bay ù qua tai và chỉ cần cởi áo tụm lại như một cái bao là có thể bắt chúng được. Những bụi chứa gai, những cành tràm hoa vàng cũng là nơi chúng hay đậu bám. Bắt được mè mè rồi, thì cột một sợi chỉ vào chân và bỏ trong túi áo, lâu lâu đem ra khoe với chúng bạn bằng cái màn quay tít như vòng xe của con vật tội nghiệp. Chúng rất dễ thương, nuôi ở nhà phải để ngoài trời cho nó ăn sương. Ấy vậy mà nhiều chú không thích nghi được đã chết, chú khác may mắn hơn cắn chỉ bay về lại đất Trằm.
Những mùa trăng lung linh là cơ hội thấy hết những kẻ bí ẩn sinh sống trên đất Trằm. Tôi sợ nhất là giáp mặt với mấy chú rắn roi. Đây là loài rắn nhỏ luôn ở trên cây, ở những cành bụi rậm rạp và hầu như có mặt suốt đêm trăng. Gọi là rắn roi vì dài như một cây roi chăn trâu màu xám, người ta đồn rằng nếu đụng phải thì nó cong đuôi quất vào người, chỗ đó sau sẽ sưng tấy lên, tê liệt và dẫn đến hoại tử. Tôi chưa chứng kiến ai bị như vậy cả nhưng vẫn cứ tin là rắn roi có thể làm được như thế. Có đêm trăng đi chơi, tôi gặp phải nó đang vắt vẻo trên một cành dứa dại. Đôi mắt sáng quắc, thao láo nhìn vào đêm, thỉnh thoảng nó thè lưỡi ra bắt ruồi muỗi. Trông rắn roi hiền lành, vô hại nhưng khi cái đuôi của nó quất lên để chuyền cành, tôi ù té chạy.
Có đôi lần, những loài thú hoang từ rừng xa ghé qua đất Trằm. Các vị khách lạ ấy là câu chuyện thú vị được kể trên những ruộng dưa, khoai. Những nai, mang, dê núi, thỏ rừng... nhiều lần mon men đến đất ruộng. Sáng ra, những dấu chân của chúng còn trên cát, dăm ba đọt dưa bị dẫm nát. Tôi cảm nhận được mùi rừng còn đâu đó trên cỏ, trên lá cây ven con đường mòn, một thứ mùi hăng hắc và cô liêu.
Mỗi độ tháng năm, tháng sáu, gió Lào bắt đầu tràn về Trằm. Cái lưỡi bỏng rực của nó liếm lên núi đồi, lên cả vùng đất cát cày sâu cuốc bẫm. Gió Lào hừng hực táp lên những cây tràm hoa vàng già cỗi, những bụi sim và đau đớn nhất là những ruộng dưa khoai đang mùa thu hoạch. Nó hung hăng quật những bóng mát ngả nghiêng, làm nhiều luống dưa khô lại trên những vồng cát. Mặt trời tháng ấy như cộng hưởng cùng gió Lào, mặc sức buông nắng xuống Trằm, như thể ban phát một ân huệ mà không ai muốn nhận. Giữa nắng trưa cháy rát, gió Lào hùa theo nắng làm khô cát, cuốn chúng nhảy múa vô hồi giữa nương rẫy. Những đợt gió tràn về mỗi lúc mỗi lớn, cày xới từng hạt cát, vồng dưa, bụi cỏ khiến quang cảnh mịt mù như trước một cơn giông. Tôi hãy còn nhỏ lắm, ngồi trong trại canh nhìn ra ngoài với sự bất lực và sợ hãi. Bà tôi ngồi cạnh đấy nhai trầu như thể thách thức với gió Lào, với nắng. Bà quen rồi, quen cái nắng gió bỏng, hách dịch ấy và cách duy nhất là chịu đựng. Da bà tôi đã nhăn như một tàu lá chuối khô, dần sạm đen trong những ngày gió Lào khốc liệt. Tôi thương bà quá, thương xách cơm trắng với dăm miếng cá kho, dưa vại, đưa lên miệng đã rộn rạo cát khô.
Độ bốn, năm giờ chiều, gió Lào yếu dần, mệt mỏi thổi những hơi nóng còn lại lên vùng đất bị dằn xé sau một ngày dài. Đến khi sức lực của gió không đủ xô nghiêng một ngọn cỏ, nó âm thầm chìm vào núi đồi ngủ nghỉ, để rồi trưa mai, một trận gió Lào hung hăng khác lại điên cuồng xung trận, gieo khô hanh, nóng rẩy xuống vùng đất tội nghiệp.
Ngày nắng cháy là thế nhưng khi chiều xuống, cả vùng Trằm dịu đi một cách lạ thường. Tôi nhỏ bé đứng trên cồn đất dựng trại nhìn Trằm yên ả một màu xanh. Những làn gió núi thổi ra nhè nhẹ, làm bay bay những cọng tranh vàng trên mái. Một vài con ong đất cần mẫn chích mật những bông cỏ trai cuối ngày. Nắng bắt đầu nhạt đi, thay vào đó là màu vàng của tơ non rải rác buông xuống những ruộng dưa hãy còn khô khát. Giờ này nhìn về cồn Giăng, nơi yên giấc nghìn thu bao đời của người làng, một màu buồn dại phủ lên. Nắng chiếu thấp qua những lăng mộ, để lại bức hậu cảnh xám xịt, nhấp nhô những trụ biểu đâm lên trời mây thấp. Mỗi lần nhìn về hướng ấy, lòng tôi thắt lại trước bao cuộc vĩnh hằng chia phôi. Ông nội tôi ở nơi ấy, bà bảo thế mỗi lần tôi nhìn về Giăng. Tôi đã đến thăm mộ ông mấy lần, một mộ đất đầy cỏ dại với một bia xi-măng mòn tên mòn tuổi.
Những kí ức về Trằm bị xé mảnh, vỡ vụn đi khi đám mây kéo đen bầu trời Huế, một ánh chớp lóe lên, tiếng sấm ầm ầm giận dữ trên hàng cây đương hoa mùa hạ. Trong cơn mưa vồ vập của phố, tôi sống lại thời bé thơ, trong cơn giông dữ dội đổ xuống trên đất Trằm năm xưa. Đó là một ngày đầy u ám của những ruộng dưa cuối mùa, phơi trong cái nắng gay gắt mùa hè. Tôi cùng em trai mang giỏ vào mót những quả dưa còn lại để về bỏ muối. Chúng tôi chạy tung tăng trên những ruộng dưa suốt buổi trưa. Dưa cuối mùa quắt queo tội nghiệp, nhiều trái vàng hoai đi, rữa ra. Cái giỏ mang theo bòn mót vất vả lắm chỉ được dăm trái. Giữa chiều, nắng nhạt đột ngột, một bóng mây đen u ám kéo về che khuất mặt trời. Bầu trời bỗng dưng tối đi như thể có ai đó choàng lên một tấm áo đen ngột ngạt. Những con chim rừng dáo dác bay bay trên cao, màu trắng của chúng in đậm trên cái phông nền đen kịt. Bốn bề im lặng và núi đồi tự nhiên xa thăm thẳm. Mây mỗi lúc mỗi dày hơn, có cảm giác như trời sắp sụp xuống Trằm. Phía cồn Giăng, một vài ánh chớp lóe lên dài nhằng như sợi dây điện. Ầm... ầm... ầm, sét đánh kinh thiên bằng thứ âm thanh khô khốc, nhói buốt. Những tiếng í ới gọi nhau khắp Trằm, người ta dừng việc, vác cuốc về nhà. Hai anh em tôi ngơ ngác trước sự đổi thay nhanh chóng đó, không biết đi đâu vì phải còn chờ ba vào đón. Một vài giọt mưa nặng hạt rơi xuống Trằm, nhỏ vào mặt tôi lời cảnh báo. Những giọt nước mưa đầu cơn giông to như viên cuội ném lên người tôi. Những tia chớp bây giờ chạy từ cồn Giăng lên đồi Châu Sơn, lại kéo nhau chạy về phía ga, khiến cho cả đất Trằm ngập tràn ánh chớp giằng xé. Mưa bắt đầu ào ạt trút xuống. Chúng tôi chạy nhanh đến trại lá đã tả tơi sau một mùa dưa. Hai ba đứa trẻ khác cũng chạy đến trú, mặt đứa nào đứa nấy tím tái vì sợ. Sấm nổ như trái phá, đùng đoàng khắp nơi. Sự sống bấy giờ rất mỏng manh nếu chỉ một tia sét giáng xuống trại, chúng tôi tựa vào nhau bó gối nhìn ra ngoài. Mưa mỗi lúc mỗi lớn, rào rạt phủ lên mặt đất. Gió thổi như bão, thốc từng dây dưa khô héo, cuốn những hạt cát chưa thấm nước mưa chạy sàn sạt dưới chân. Mưa gió thốc lên mái tranh, chỉ phút chốc chúng tôi đã sũng nước, lạnh run người.
Ngoài kia, sét đánh gãy những thân cây tràm hoa vàng. Sét ngày ấy dạy cho tôi bài học về sự chịu đựng, lắng nghe tiếng thiên nhiên thét gào, thấy được những trạng tính tự nhiên đang bị dìm sâu. Một tiếng sét hằn lên thung lũng hay ý niệm về sự thức tỉnh, là linh ảnh ta nắm giữ, khai mở một khoảng ngộ trong một thời khắc giao hòa giữa bình yên và cuồng nộ. Những tiếng sét vô tri phút chốc bỗng trở thành thứ ngôn ngữ ám gợi, siêu năng. Giờ đây, tôi có thể hiểu tiếng sét là một trong những cái duy nhất có thể biến chuyển sự mặc định. Nó làm biến đổi những thứ vốn dĩ bằng lòng với thực tại, sự yên bình hay đau khổ. Sét cắt xẻ và chia những tính phận của tôi, chúng ta, nhân loại hay tự nhiên này.
Trong cái trại nhỏ, mưa thốc bốn bề và những tia sét cày trên mặt đất, tôi bé thơ không đủ can đảm để chạy đi nơi khác, mà chạy đi đâu giữa mênh mông Trằm, xối xả mưa và đầy sấm sét. Tôi nghĩ là sét thở than, sét quát tháo, sét điên cuồng... vì một ẩn ức nào đó. Sau này cơn giông qua, nhiều cây cối bị mưa gió quật gốc, sét đánh gãy, một vài trâu bò chết tức tưởi bởi những tia điện trời. Sự sống thật khốc liệt và không lường được. Chưa bao giờ tôi lạnh, sợ và bất lực như thế. Mưa lạnh ngấm vào tận xương, người run bắn như một kẻ sốt rét. Chúng tôi dựa vào nhau để chống chọi, nhưng rồi những cơ thể nhỏ bé chỉ làm cho màn cộng hưởng run, sợ kia dữ dội lên thôi. Mưa trắng xóa đất trời, và đó là nỗi thê lương gieo lên Trằm chất buồn bã hiếm khi. Gần hai tiếng đồng hồ chịu đựng cơn giông, chú Phùng, một người bạn của ba băng mưa gió vượt đến trại bế em tôi và dắt tôi cùng mấy đứa khác đi ra xóm. Những bóng người xiêu vẹo trong mưa, chân đi như muốn xô ngã, chéo lệch trên mặt đất đã bì bõm nước. Tôi ngoái nhìn đằng sau, màu xanh của Trằm biến mất, chỉ còn một khoảng bao la mưa phủ và nước bao vây trắng màu nương bãi.
Cơn giông ấy đã qua đi, để lại một niềm mãnh liệt trong tâm hồn tôi, nuôi dưỡng những cảm thức không bao giờ quên lãng về Trằm. Nơi cả nhà tôi, bà con, chòm xóm tôi bao ngày tháng chăm chút cành xanh, trái ngọt. Tôi nhớ ba những sáng chở bao dưa to tướng bằng chiếc xe đạp còi cọc để lên tận chợ An Cựu. Nhớ những ngày ba vác cuốc xới từng thớ đất trồng dưa, vun vồng trồng khoai, mồ hôi ba chảy xuống đất Trằm, làm mặn đi giây phút đất lành. Giờ ba đã về cõi vĩnh hằng, chọn đất cồn Sứ xa xa, ngoảnh đầu thấy Trằm mỗi sáng chiều, thấy hồ Châu Sơn nước đong đầy bến mát. Sống ở Trằm và chết về Trằm, ba ơi, cát bụi chân ai còn bay mãi giữa đất Trằm mênh mông. “Những ngày và những tháng đều là kẻ lữ hành của thiên thu”, tôi xin ký thác tất cả vào Trằm, vớt vát những gì của ấu thơ còn lại, của mùi mồ hôi ba ấm nồng trong đêm ngủ giữa ruộng dưa ngập ánh trăng hiền.
Giờ tôi đứng giữa đất Trằm, hẫng hụt một mình giữa hoàng hôn. Trằm không còn nguyên vẹn như xưa, người ta đã quy hoạch nó thành đô thị. Một con đường nhựa cắt ngang Trằm như một con đỉa lớn thô kệch. Những cọc, mốc cắm lên chia xẻ đất Trằm ra từng vạt đất khô khốc. Nhà cửa mọc dần lên, át đi cái màu xanh núi đồi, cây dại và cả ánh chiều cũng kệch cỡm đi qua cồn Giăng. Dăm ba ruộng dưa lạc lõng giữa tất cả những thứ xống xếnh và thô kệch đó. Tôi đứng giữa mênh mông, lòng xốn như xát muối. Trằm giờ thành kí ức.
Kí ức đó hằn lên cuộc sống của một kẻ trưởng thành ở không gian phố thị, là một nỗi ngang trái với quá khứ huy hoàng thơ dại. Tìm cách gợi lại những bóng hình của quá khứ, là việc không phải của riêng tôi, kẻ đã thất lạc mình giữa những xa vắng lung linh, mà là nỗ lực của tất cả những ai từng sống trọn vẹn trong dung ảnh xa xưa của một thời nào đó, đến không bao giờ nhòa xóa đi, không bao giờ quên lãng. Tôi chắc mình không hoài công khi cố lục lọi những gì còn lại của Trằm, của gia đình tôi, của những con người đánh đổi thời gian và sức lực trên màu xanh vĩnh cửu hoa màu. Những dòng trên đây là cách duy nhất để tìm lại quãng thời gian đã tan chảy ấp chứa trong nó một vùng đất, cuộc sống đồng quê, những mảnh đời, những kỉ niệm lạc mất, những rung cảm chân thật... Tôi cố nuôi tham vọng kiến tạo quá khứ bằng nỗi nhớ, sự dằn vặt đầy thôi thúc từ tiềm thức để kéo lại những phút giây tươi đẹp mỏng mảnh, níu lại cái tính bất định của sự vật vô thường trôi qua trong sự bất lực của chính tôi. Tôi không hoài công với vài trang viết, nhưng tôi thất bại vì tất cả đã thực sự trôi qua rồi, cái còn lại đây chỉ là những ảo ảnh tính linh mà tôi đã nhận diện phần nào trong đại dương sâu thẳm trích từ quá khứ
Huế, đầu hạ 2014
LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Theo http://baohatinh.vn/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...