Cấu trúc “Nhịp cầu”
trong
tình ca ban mai của Chế
Lan Viên
Bản chất
của văn chương là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Chế Lan Viên là một trường hợp
như thế, ông không làm nhiều thơ tình nên Tình ca ban mai là
trường hợp đặc biệt hiếm hoi. Đúng theo cái bản chất coi trọng chất lượng chứ
không coi trọng số lượng. Đây là một bài thơ tình đặc sắc, không chỉ so với
chính các sáng tác của ông mà còn so với các sáng tác về tình yêu của các nhà
thơ khác. Bài thơ hay vì nhiều yếu tố như: cấu tứ, mạch cảm xúc, hệ thống tín
hiệu…
“Em đi
như chiều đi
Gọi chim
vườn bay hết.
Em về tựa mai về
Rừng non
xanh lộc biếc
Em ở trời trưa ở
Nắng
sáng màu xanh che
Tình em như sao khuya
Rãi hạt
vàng chi chít
Sợ gì chim bay đi
Mang
bóng chiều đi hết
Tình ta như lộc biếc
Gọi ban
mai lại về.
Dù nắng trưa không ở
Ta vẫn
còn sao khuya
Hạnh phúc trên đầu ta
Mọc sao
vàng chi chít
mai, hoa em lại về”.
Xét
về mặt cấu trúc, bài thơ như chuỗi hạt ngọc với lối ghép đôi và những khoảng
giãn cách đăng đối. Điều này khiến cho hình thức của bài thơ trở nên hài hòa và
dễ thương như một tặng vật của tình yêu. Nó dễ dàng thể hiện được cái cảm xúc của
bài thơ là đề cao tới mức gần như tuyệt đối vai trò của người con gái trong đời
sống tinh thần của nhân vật trữ tình. Em là có tất cả và em đi rồi, tất cả hư
vô…
“Em đi
như chiều đi
Gọi chim
vườn bay hết”.
“Em đi”
là cái cụ thể. “Chiều đi” là cái trừu tượng. Lấy cái trừu tượng để diễn tả cái
cụ thể là một tín hiệu ngược. Thường thì người ta nói “chiều đi” như “em đi”.
Buổi chiều đi, tức là sang đêm, mang theo bầy chim trong vườn bay hết. Vậy
trong vườn còn lại gì? Chỉ còn lại đêm tối. Không còn âm thanh (tiếng chim),
không có màu sắc. Cuộc sống như vậy thì tẻ ngắt, u tối. Đó là vì “em đi”. Hai
câu thơ đầu gợi âm điệu như một nguồn ánh sáng vụt tắt.
Cặp hình
ảnh ghép đôi, cũng là tín hiệu tình yêu đầu tiên hiện lên bất ngờ, đẹp lung
linh nhưng chính nó tạo ra một vấn đề lớn cho tư duy. Hình ảnh so sánh “Em
đi như chiều đi” và “Gọi chim vườn bay hết” gắn bó
chặt chẽ với nhau như “anh và em sẽ chết nếu quanh mình là khoảng trống hư
vô” lại được dùng để diễn tả chính sự cô đơn, thiếu hụt, sự vô nghĩa
của cuộc đời anh khi không có em giống như cách mà Nguyễn Tuân dùng nước để tả
lửa và dùng lửa để tả nước trong tùy bút Người lái đò sông Đà. Được
giãn cách bằng một khoảng trắng như để ngừng nghỉ sau một chặng tư duy và lấy
lại phương hướng để tiếp tục cuộc hành trình đến ngọn nguồn của tình yêu, hai
câu tiếp ánh sáng bừng lên khi ban “mai về”:
“Em về
tựa mai về
Rừng non
xanh lộc biếc”
Em ra
đi, tất cả chỉ còn lại đêm tối, cô đơn và lạnh lẽo như chìm trong địa ngục thì
ngược em về, bình minh kỳ diệu cũng theo về. “Rừng non xanh” thảng thốt
giật mình sau cơn dị mộng chia ly bỗng bừng lên sức sống bằng triệu triệu “lộc
biếc”. Tình yêu như một vị linh dược có khả năng hồi sinh tất cả,
hồi sinh cả những thứ tưởng như đã chết… Mỗi cặp câu như hai mảnh ván ghép
thành một nhịp cầu đến với yêu thương, đi qua nhịp cầu ấy cũng lắm gian nan và
biết bao thử thách còn ở phía trước. Em ra đi, em quay về và biết em có ở lại
mãi hay không? “Hỏi thế gian tình là gì” mà có thể mang đến cho người ta
bao điều kỳ diệu và cũng gây cho người ta bao đau đớn, lo âu?
Nắng
sáng màu xanh che”
Tình em
như sao khuya
Rãi hạt
vàng chi chít
Sợ gì chim bay đi
Mang
bóng chiều đi hết”
Bài thơ,
có cấu tứ đều đặn nhưng lại diễn tả mạch cảm xúc liên tục tăng tiến. Em ở bên
anh thì cuộc đời anh sẽ yên ổn, dịu mát như mỗi buổi trưa nắng được chở che bởi
tán lá xanh. Có lá xanh che, nắng sẽ dịu, anh sẽ thấy mát. Ở trên, tác giả đã
nói đến buổi chiều – buổi chiều phải sống trong sự vô nghĩa bởi “em đi”
mang theo bầy chim, rồi nói buổi ban mai khi “em về” thì đời anh lại
bừng lên, tràn sức sống. Chàng trai đề cao vai trò của cô gái trong đời sống
tinh thần của mình đến nỗi miêu tả tình yêu của nàng đẹp ngoạn mục, huyền diệu
như những ngôi sao khuya trên bầu trời, tựa hồ muôn hạt vàng được rắc xuống
trần gian.
Tình yêu
đích thực bao giờ cũng lạc quan, tràn đầy niềm tin cho dù người trong cuộc có
thể buồn, nhớ, giận hờn, thậm chí có lúc tưởng như bế tắc, tuyệt vọng do hiểu
lầm nhau. Bởi vì bản chất của tình yêu là luôn hy vọng vào những điều tốt đẹp
nhất. Không phải ngẫu nhiên Chế Lan Viên xây dựng tứ thơ tình gắn với thời gian
buổi sáng, lúc ban mai. Và tên bài thơ là Tình ca ban mai, âm
hưởng toàn bài toát lên vẻ sáng sủa, quang đãng, long lanh, rực rỡ của nắng,
của màu xanh, của lộc biếc – toàn những hình ảnh chứa chan sức sống. Có lẽ mọi
hy vọng tốt đẹp nhất của hai người trong cuộc được dồn vào hai câu thơ có thể
coi như đỉnh điểm của toàn bài:
“Tình ta
như lộc biếc
Gọi ban
mai lại về”
Và cuối
cùng, tác giả kết bài bằng một câu buông lửng: “Mai, hoa em lại về”… Cả bài
chẳng hề nói gì đến hoa mà cuối cùng lại nhắn gửi như vậy có chút gì đó rất
riêng tây, “bí mật” của nhà thơ chăng? Em tên là Mai, là Hoa – thật cụ thể –
một cô gái nào đó ngoài đời bước vào thơ của thi sĩ chăng? Có thể lắm. Và cũng
có thể không phải. Chỉ là một chút mập mờ, úp mở cho có vẻ hư hư, thực thực,
gây sự chú ý cuối cùng cho người đọc lúc khép lại bài thơ. Tất cả những điều đó
không quan trọng. Chỉ biết bài thơ mở ra rất nhiều hướng cảm nhận về tình yêu.
NGUYỄN THANH TUẤN
NGUỒN:TÀI HOA TRẺ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét