Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

Khoảnh khắc mùa thu Paris

Khoảnh khắc mùa thu Paris
Tặng Jacques Ng.
Bốn giờ sáng gọi taxi đưa ra ga Eurostar Luân Đôn để lên chuyến tàu đầu tiên đi Paris,
khởi hành lúc sáu giờ. Nhà ga rộng lớn, hiện đại chẳng khác gì một phi trường. Cũng phải làm các thủ tục an ninh: bỏ giày, điện thoại, áo khoác, xách tay, và những thứ lỉnh kỉnh khác như chìa khóa, nịt, đồng hồ….cho qua máy. Rồi điền giấy khai hải quan…Vé lên tàu có ghi số toa, số ghế. Tàu sẽ dừng đúng số toa của mình, đầu mỗi toa có nhiều ngăn để hành lý. Tàu chạy với vận tốc 360 km / giờ, lúc qua biển Manche, mình chỉ nhận biết  tàu bắt đầu vào hầm và ra khỏi hầm, với thời gian  hai mươi ba phút. Đường hầm dài hơn 50 km, kể từ ngày khai trương vào năm 1994, Luân Đôn và Paris không còn bị chia cắt bởi biển, chỉ có hơn hai tiếng đồng hồ để qua lại.
Đến Paris gare du Nord đúng 9 giờ 20. Đi hai đoạn metro ngắn là tới khách sạn đã đặt phòng trước. Vì ở Paris chỉ có hai ngày, nên phải lên lịch ngay đi thăm một số nơi.
Tôi thầm cám ơn các website văn học, vì nhờ đó mà Jacques đã đọc và lần mò hỏi ra địa chỉ email của tôi. Tên Việt của Jacques là Thạch. Thạch, con nuôi của người cô họ.
Lúc tôi trưởng thành, Thạch còn nhỏ lắm. Tôi thương Thạch vì cứ nghĩ đến nỗi buồn thiếu vắng tình thương của cha mẹ ruột. Tôi không nhớ những lần đi chơi với Thạch đã cư xử, đã nói ra với nó những gì. Chỉ biết lần cuối cùng gặp nhau vội vã ở Nha Trang vào giữa tháng 4 năm 1975, thời điểm những ngày tàn cuộc nội chiến. Rồi thời gian dài sống lăn lóc trong sa mù thời cuộc, như bầy gà bươi móc mỗi ngày để kiếm sống, ngụp lặn trong cái u tối đói nghèo, ngu dốt; còn chút ánh sáng nào đâu để soi rọi ký ức mình….
Cho đến một ngày đầu năm nay, tôi nhận email của Thạch, chỉ mấy giòng ngắn ngủi luộm thuộm thiếu dấu thiếu chữ, nếu là anh của email này thì trả lời em ngay. Tôi trả lời Thạch. Những thư tiếp theo, Thạch cho biết lần cuối em gặp anh đến nay đã 36 năm rồi! Và  Em đang sống ở Paris.
Khi biết tôi sẽ ghé Paris, Thạch vui lắm. Thạch hẹn gặp tôi ngay buổi trưa đầu tiên ở khách sạn. Rât đúng giờ, Thạch đến. Thay vì mừng rỡ, vồ vập, tôi đứng lặng người nhìn Thạch. Trước tôi là một người Pháp già, lưng hơi còm, mái tóc muối tiêu, tên là Jacques.
Ôi, Thạch của ngày nào đây, chỉ còn nét mặt và giọng nói là không thay đổi. Jacques cười, ông chủ khách sạn tưởng em là người Pháp nên nói toàn tiếng Tây! Thì em là người Pháp rồi còn gì, đã sống ở Paris 28 năm!.
Chúng tôi ăn trưa Phở 14. Thạch nói phở này ngon nhất Paris đó anh. Trong lúc ăn, Thạch lên  chương trình đưa  tôi đi chơi một số nơi. Paris với hệ thống metro chằng chịt, mà Thạch thuộc nó như trong lòng bàn tay. Vì thời gian hạn hẹp, chúng tôi không thể đi sâu vào mỗi nơi. Như khi phải đứng từ xa mới có thể nhìn hết đươc Viện bảo tàng Louvre, chứ  đừng nói vào dược bên trong, phải mất ít ra vài tuần đến cả tháng mới thăm hết được. Louvre, công viên Tuilerie, quảng trường La Concorde, Khải Hoàn Môn nằm trên một trục thẳng. Cảnh vật suốt dọc các công trình rất đẹp và nhiều nơi ghi dấu lịch sử. Vườn Tuilerie, đang là mùa thu, lá vàng rơi đầy mặt đất. Đại lộ Champs Elysees có tiếng đep nhất thế giới, rất đông du khách đi bộ. Cái lạnh chớm thu nằm sau những chiếc khăn quàng của phụ nữ, rơi hững hờ trước ngực.
Giờ cao điểm ở các trạm metro, cứ hai phút có một chuyến đến, mọi người đứng chen nhau, không một biểu lộ khó chịu, cảnh đó rất bình thường trong sinh hoạt hằng ngày. Để đến một nơi, đôi khi phải đổi tàu nhiều lần, phải đi thang máy hoặc leo bậc cấp lên trạm metro phía trên, hay xuống trạm metro phía dưới. Có những đường tàu nằm sâu hai, ba trăm mét dưới lòng đất.
Ảnh 1: Một phần vbt Louvre.
Ảnh 2: Công viên Tuilerie.
Anh 3: Đại lộ Champs Elysees.
Ảnh 4: Khải Hoàn Môn.
Ở thế hệ chúng tôi, trước những năm sáu mươi ngồi ghế nhà trường trung học, không ai là không nhớ bài học thuộc lòng “Ngày Tựu Trường” của Thanh Tịnh, và đoạn văn của Anatole France tả cậu bé với chiếc cặp trong tay, đi qua vườn Lục Xâm Bảo vào một buổi sáng mùa thu, lá vàng rơi trên những pho tượng trắng…Ngờ đâu nửa thế kỷ sau, tôi lại được ngồi trong công viên Luxembourg cũng vào một buổi sáng mùa thu, giữa những bức tượng trắng và lá vàng rơi đầy mặt đất, để thương nhớ tuổi thơ minh!
Luxembourg, công viên lớn thứ hai của Paris, chì sau Tuilerie, được đặt nhiều tượng danh nhân  như Beethoven, Paul Verlaine, Georges Sand, Saint-Geneviere….Công viên cũng là bối cảnh nổi bật trong tác phẩm Les Miserables (Những Kẻ Khốn Cùng) của Victor Hugo. Nhiều chiếc ghế dựa bằng sắt có thể xê dịch được, để du khách thoải mái chọn góc nhìn ngồi nghỉ ngơi. Cuối công viên bên phải là một lâu đài có hồ nước lớn phía trước, tiếp với một vườn hoa đầy sắc màu rực rỡ.
Hơn năm mươi năm trôi qua, từ một cậu bé lòng như khăn mới thêu, từng xúc động bởi hình ảnh  mùa thu ở vườn Lục Xâm Bảo ngày nào, nay với mái tóc bạc đang ngồi đếm tháng năm còn lại của đời mình trên đầu ngón tay. Nhìn những pho tượng trăm năm còn đứng đó, nhớ đến cậu bé của Anatole France ngày nào cùng những người đã một lần qua đây, mà ngậm ngùi tự hỏi…?
Một ngày lang thang dưới bầu trời đầy mây và trong những đường hầm metro, tôi đã không giấu đươc nét mệt mỏi dù cho nhiều thắng cảnh, di tích lịch sử ở đây luôn cuốn hút bước chân mình. Jacques thường nhìn tôi với ánh mắt ái ngại. Còn tôi tham lam giành giựt với thời gian, phải tận mắt nhìn cho được những thứ mà mình chỉ biết qua sách báo và chuyện kể. Thạch đưa chúng tôi đi bộ qua nhiều nơi.
Nào Place Vendome ở trung tâm Paris, nối liền với đại lộ De La Paix. Giữa quảng trường là tượng Napoleon đứng chót vót trên một trụ đồng tròn có chạm trổ hoa văn hình xoắn ốc cao trên hai trăm mét để kỷ niệm ngày chiến thắng quân Áo năm1805. Ông là một vĩ nhân, được ca tụng là người “khi trên lưng ngựa thì chiến đấu lẫy lừng, lúc xuống ngựa là  một nhà cai trị đất nước kiệt xuất.” Sau cách mạng Pháp, ông lập ra triều đại Bonaparte, với những cải cách về luật pháp, bộ luật Napoleon đã ảnh hưởng rất lớn đến chính trị thế giới. Về giáo dục, các trường đại học được mở, đào tạo sinh viên bằng tiền nhà nước. Ông thành lập đơn vị hành chánh tự cai quản và xử lý lấy công việc. Napoleon mất năm 1821. Lăng mộ ông sáng lòa có thể nhìn thấy từ tháp Eiffel. 
Nào Khải Hoàn Môn (The Arc de Triomphe), đài kỷ niệm nổi tiếng nhất, với 50 mét chiều cao, 45 mét bề rộng, từng chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử nước Pháp: Năm 1940 Đức đánh chiếm Paris đã cho quân diễn hành qua đây, trong  khi thủ đô bỏ trống, mở đầu cuộc kháng chiến chống phát xít. Qua năm 1944, Paris được hoàn toàn giải phóng, đoàn quân chiến thắng của nước Pháp Tự Do trở về ca khúc khải hoàn, lại  diễn hành qua Khải Hoàn Môn lịch sử này.
Ảnh 1, 2 & 3 : Lâu đài, Hoa và tượng
                       ở công viên Luxembourg.
Ảnh 4 & 5     : Tượng Napoleon và quảng trường
                       Vendôme về đêm.
Buổi chiều đứng trên cầu Notre-Dame ngắm sông Seine, Jacques giành máy ảnh chụp tôi cho bằng được.Hắn nói anh toàn chụp cảnh không, ít ra phải có vài tấm để làm kỷ niệm chứ. Sông Seine đẹp, nhất là cảnh vật thơ mộng hai bên bờ. Tôi vừa đọc đâu đó, chỉ khúc sông chảy qua Paris đã có đến 37 cây cầu, mà nổi tiếng là Pont Neuf, cổ nhất, được xây bằng đá từ cuối thế kỷ thứ 16, có tượng vua Henri IV ngồi trên lưng ngựa. Tiếp đến là Pont Marie, Pont Royal, Pont Louis Philippe… Cầu nào cũng có chiều cao trên 100 mét, rộng trên dưới 20 mét. Theo Jacques cây cầu đẹp nhất là Pont Alexandre III, gần nơi an nghỉ của Napoleon. Hắn tiếc rẻ là tôi ở Paris ít quá, không thể đi thăm hết đươc, và anh mới biết chưa được một phần mười Paris.
Chân tháp Eiffel,cận cảnh.
Đâu cần đi thuyền trên sông Seine, mà dù có muốn cũng không có thời gian, chúng tôi đứng tựa thành cầu, nhìn những chiếc tàu lớn lộ thiên chở đầy du khách chạy trên sông, luồng qua chân cầu hình vòm cung, thật êm ả.
Sông Seine. Trước mắt tôi là sông Seine. Bỗng cảm thấy có cái gì vướng nơi đáy cổ cùng với nắng chiều đang tắt dần, khi nhớ Trịnh Công Sơn lần đầu tiên qua Pháp trở về, khoảng  đầu những năm chín mươi, ngồi uống rượu với anh, nghe anh kể về những ngày vui và bận rộn với bạn bè ở Paris, tôi nảy ý làm một cuộc trao đổi. Bài viết gần như một tạp văn với chữ in nghiêng là phần anh kể, lấy tựa “Trịnh Công Sơn, từ sông Hương đến sông Seine”, sẳn dịp nhà thơ Thái Ngọc San về Sài Gòn in báo, đã lấy bài này đăng trên tạp chí Sông Hương. Giờ đây hai anh đã đi vào cõi vĩnh hằng, đâu biết có kẻ còn lận đận với trần gian, đang đứng bên giòng sông Sein của anh ngày nào, nhớ về sông Hương với các bạn San, Quê, Ngăn trong lần uống rượu vang đỏ ở quán Thiên Đường . Không ngờ  lần chia tay nhau hôm ấy là lần Thái Ngọc San vĩnh viễn xa rời chúng tôi.
Quảng trường Tháp Eiffel
Sông Hương, sông Seine, những trái tim yêu thương đang  rải rác ở khắp mọi miền có nhớ về nhau là nhớ về một giòng sông, nơi từng in bóng anh em bạn bè, dù còn hay đã mất.
Kể từ ngày bỏ nước ra đi, Jacques chưa một lần về thăm chốn cũ. Hắn đã nhận Pháp là quê hương của mình rồi. Hai mươi tám năm sống ở Paris, những đền đài, phố xá, sông nước nơi đây đã làm nhạt phai hình ảnh một Hòn Chồng, cầu Xóm Bóng, Hải Học Viện mà tuổi thơ hắn từng yêu mến.
Sông Seine, Kim và Jacques
Chúng tôi ngồi xuống bậc thềm trước quảng trường tháp Eiffel, nhìn du khách đi thành đoàn vui vẻ chụp hình, quay phim. Dưới chân tháp người ta xếp hàng rồng rắn, dài hàng mấy trăm mét để mua vé lên các tầng trên. Giá vé cho mỗi tầng khác nhau: Lên tới đỉnh, tầng 3 là 14 euro, tầng 2- 8.20 và tầng 1- 4.10 euro. Sinh hoạt này kéo dài đến nửa đêm.
Tháp Eiffel xây dựng năm 1887, hoàn thành năm 1889, do kỹ sư Gustave Eiffel (1832-1923) thiết kế. Nó là một công trình kiến trúc bằng kim loại, trở thành biểu tượng nổi tiếng nhất, không những của Paris nước Pháp, mà còn được thế giới công nhận. Hàng năm có hàng triệu người leo lên chiêm ngưỡng. Trong số những công trình trứ danh của ông, ngoài Paris nước Pháp ra, còn có mặt trên nhiều quốc gia khác như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Ai Cập, Hoa Kỳ…Riêng tại Việt Nam, những công trình của Gustave Eiffel để lại còn đến bây giờ là Bưu điện Sài Gòn, cầu Long Biên Hà Nội, cầu Trường Tiền ở Huế.
Thuyền du lịch trên sông Seine
Như lần trước, khi rời Luân Đôn đến Paris bằng chuyến Eurostar đầu tiên, sáng nay chúng tôi giả từ thủ đô ánh sáng cũng trên chuyến tàu khởi hành lúc 6 giờ. Đêm qua trước khi chia tay Jacques, hai anh em ngồi với nhau trong một quán nhỏ, tôi uống chát đỏ, còn
Tượng ở quảng trường Tháp Eiffel
Jacques cũng uống nhưng chỉ nhấp môi. Trưa mai em lại vào bệnh viện lọc máu, vẫn chờ ngày được thay thận nhưng không biết đến bao giờ, em rất mừng gặp anh lần này. Rồi im lặng một lúc, giọng Jacques chùng xuống không biết em có còn lần thứ hai để gặp anh không? Tôi không nói gì, kể cả một lời cám ơn Jacques, vì tôi biết rằng kể từ đây Jacques  mãi mãi có mặt trong cuộc sống của chúng tôi.
Paris, Sept  2011
Lữ Quỳnh
Theo http://www.vanchuongviet.org/


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...