Một chút tình Thu
Giới thiệu:
Tôi có điều may mắn là
trong mười năm làm giáo sư trung học (1958-1968), dạy môn văn chương VN, tôi
thường phải tìm tòi cổ văn lẫn kim văn nước ta để làm tròn cái chức năng 'gạch
nối' giữa thế hệ đã qua và thế hệ đang tới, đem cái tinh hoa của người xưa mà
truyền thụ lại cho người đời nay, với niềm hy vọng tha thiết là cái gì người
xưa sáng tạo thì người sau cảm nhận nó, đau với cái đau, vui với cái vui của
người xưa, cảm thông tâm sự của họ, để khỏi như Nguyễn Du phải trách đời rằng,
ba trăm năm về sau nữa có ai nhỏ xuống cho ông đôi dòng lệ tiếc thương một kiếp
người tài hoa bạc phận:
'Bất
tri tam bách dư niên hậu
Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Nhứ’
Thế hệ ngày nay và mai
sau sẽ nâng niu trân trọng nó và phát triển thêm ra vì văn hóa VN không chỉ của
riêng người Việt.
Bên cạnh đó, phong cảnh
hữu tình thơ mộng của Huế đã khắc đậm vào lòng tôi những cảm xúc bồi hồi, nhung
nhớ khó phai, cùng với bao nhiêu kỷ niệm của một thời trẻ dại. Những hàng
phượng đỏ hai bên bờ sông Hương cùng với thành quách đền đài miêù mạo, những
con đường rợp bóng mù u, những ngày nắng xuân le lói, những đêm mưa âm thầm
trong đại nội, trong tử cấm thành như phảng phất đâu đó linh hồn vua chúa, cung
phi mỹ nữ đã quá vãng lâu rồi, làm cho lòng tôi càng thêm hoài cổ, dẫn dắt
người ta tới chỗ mộng mơ mà mộng mơ là chất liệu của thi ca, đặc biệt thi ca
lãng mạn tiền chiến, một nền thi ca sung mãn và đặc sắc, mới lạ của VN, kể từ
1925, khi Phan Khôi thổi hồi kèn tiên phong với bài 'Tình già' cho tới cuộc
'Cách Mạng Mùa Thu năm 1945, cuộc cách mạng mở ra một thời kỳ thi ca đấu tranh
cho nền độc lập dân tộc.
Mặc dầu đã xa môi trường
văn học ấy hơn ba chục năm, mà đời tôi thì lắm cảnh thăng trầm, từ một anh lính
mới tò te ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung cho tới những bước chân phiêu bạt
của người làm phóng viên phát thanh chiến trường ở những bến sông ở chỗ tận
cùng của đất nước, qua nhiều năm trong cảnh tận cùng địa ngục trong nhà tù Cộng
sản, hay một bến bờ xa lạ nơi hoang đảo tỵ nạn Pulau Bidong, lòng yêu mến thi
ca của tôi chẳng bao giờ phai lạt. Nay trôi giạt về nơi xứ người, nhìn cảnh thu
màu sắc vô cùng đẹp đẽ nơi vùng Đông Bắc nước Mỹ, lòng tôi thêm nung nấu nhớ
nhung những mùa thu cũ, cả trong thi ca cũng như ở cảnh sắc quê nhà, viết lại
đôi dòng để tỏ bày cùng tri âm, cùng cố nhân và cả những ai lớn lên ở quê
người, chưa từng nghe 'Tiếng thu quê hương nức nở, chưa từng cảm 'Ý thu VN rạt
rào trong trái tim nóng bỏng của cha ông đã viết nên những trang thơ tuyệt vời
làm say đắm biết bao nhiêu người!
* * *
Bây giờ là mùa thu, mùa
thu mà không nói đến thi ca thì sao được?! Dù sao thì ta cũng nên để cho lòng
ta lắng đọng một chút, để cho lòng xúc động một chút, dù chỉ là một chút thôi
vì cuộc đời nơi đất khách lắm khi tất bật, để ru hồn mình vào cảnh thu ở quê
người và nhớ lại đôi chút cảnh thu ở quê nhà qua những vần thơ cũ.
Hồi mới đến đây, vùng
Đông-Bắc Hoa Kỳ, tôi thấy xứ Mỹ nầy lạ lắm. Hết thành phố lâu đài cao rộng thì
đến những núi đồi trùng điệp, có chỗ giống như đường lên Đà Lạt, cao nguyên ở
quê mình, dù không 'Đường lên núi rừng sao hãi hùng' thì cũng làm ta bâng
khuâng, lòng vẫn còn mơ tưởng đến những con đường cũ.
Nhà tôi ở Barre, một
'town' nhỏ, cách Worcester, thành phố lớn thứ nhì của Massachusetts những 22
dặm. Ngôi nhà nằm lưng chừng một ngọn đồi nhỏ, sau nhà là một rừng thông bao
la, chỉ thấy nhà hàng xóm thấp thoáng trong bóng cây, và trước mặt cũng là một
rừng thông trùng điệp, thoai thoải xuống chân đồi, dưới đó có một hồ nước rộng
mà nước bao giờ cũng xanh biếc, tưởng như sâu thăm thẳm. Mùa hạ vừa qua, phấn
thông vàng bay lã tả, rụng đầy hiên nhà, mui xe, kính xẹ.. làm tôi nhớ 'Phấn
thông vàng' của Xuân Diệu. Tôi không biết Xuân Diệu thấy phấn thông vàng ấy ở
đâu, ở Đà Lạt hay ở những ngọn thông trên núi Ngự Bình. Rừng thông nầy, sau khi
Pháp chiếm lại thành phố Huế năm 1946, đã bị chặt trụi, làm cho núi Ngự Bình
thành ra hòn núi trọc, khiến cụ Ưng Bình Thúc Giạ thị phải than:
Núi
Ngự không cây chim ngủ đất
Sông
Hương vắng khách đĩ kêu trời.
Bây giờ là mùa thu ở đây,
lá sồi màu xanh non đang chuyển qua màu xanh già, bắt đầu úa để chuyển qua màu
đỏ nâu, rụng đầy trên những con đường lớn, nhỏ trong các cụm rừng trên các con
đường vùng tôi ở. Những cành cây khẳng khiu giơ lên giữa bầu trời thu xanh, như
cánh tay gầy guộc của ai đó, không khỏi làm cho lòng người xao xuyến, tiếc một
mùa hạ qua nhanh.
Mỗi ngày đi từ Barre tới
Worcester một hai bận, tôi thấy cảnh sắc khác đi từng chút, từng ngày. Lớp lá
rụng bên đường hôm nay hình như dày hơn hôm qua, những cành khô giơ lên trời
cao nhiều hơn, màu lá thông đen thẫm hơn. Trời xanh ngăn ngắt nhưng lại thêm
nhiều đám mây vần vũ, báo hiệu một mùa đông giá gần kề. Vài khi tơ trời vương
trên kính xe; hay mỗi chiều khi tôi ngồi trước sân nhà, vướng nhằm những sợi tơ
mỏng manh, trắng muốt, nhẹ nhàng bay qua, tôi không khỏi nhớ đến những câu thơ
của Nguyễn Bính tả một cảnh thu ở đồng bằng Bắc bộ:
Tơ
gạo phương xa tản mạn về
Gió
vào đồng lúa chín vàng hoe
Một
con diều giấy không ăn gió
Ỏng
ẹo chao mình xuống vệ đê
Con đường đi về mỗi ngày
gần năm mươi dặm, ngồi một mình trong xe, đóng kín cửa, đừng mở hơi nóng hay
hơi lạnh để khỏi nghe tiếng quạt máy kêu vù vù mà nghe cho rõ 'Buồn Tàn Thu của
Văn Cao, nghe Họa Mi hát 'Em Ra Đi Mùa Thu của Phạm Trọng, nghe 'Mùa Thu Paris'
của Phạm Duỵ..
Ôi! nỗi buồn nơi xứ người
sao thấm thía lắm vậy!? Mùa thu, cái gì trông cũng có vẽ lãng đãng, mơ màng và
vô cùng gợi nhớ, từ những ngày còn niên thiếu, bước vào tuổi mộng mơ, cho đến
bây giờ tóc ngã màu sương muối, lưu lạc nơi xứ người.
Nhìn đâu đâu cũng nhuốm
vẻ thu; thu ở mầu trời, mầu đất, màu hoa lá, màu cây, màu không gian và cả 'màu
thời gian... tím ngắt' trong lòng mỗi chúng ta nữa. 'Màu thời gian' ấy, Đoàn
Phú Tứ thấy trong lòng 'Tần phí và Tương Phố thì thấy trong “Giọt Lệ Thu”:
Trời
thu ảm đạm một màu
Gió
thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng
thu bóng ngã bên thềm
Tình
thu ai để duyên em bẽ bàng
Quả thật mùa thu không có
gì vui, không tươi thắm như mùa xuân mới, không rực rỡ như hè sang. Trăng bao
giờ cũng mơ màng, ảm đạm, gió thu hiu hắt lạnh lẽo và tình thu thì... cô đơn.
Thế mà ai cũng thích mùa thu!?
Khi còn trẻ, tôi cứ nghĩ
chỉ những ai chịu ảnh hưởng thi ca lãng mạn mới yêu thu tha thiết, đậm đà.
Không phải vậy đâu! Thu là mùa cảnh vật thay đổi nên gây nhiều xúc cảm trong
lòng người. Xúc cảm đó là gì? Là nỗi chia lỵ Mùa thu là mùa chia ly, xa cách,
một chút lạnh đã về làm cho người ta thấy lạnh lẽo; cô đơn và nhung nhớ cũng
theo về, làm cho kẻ cô đơn thêm đợi chờ khắc khoải.
Hãy đơn cử một ví dụ
trong truyện Kiều. Trong đời cô Kiều có biết bao nhiêu lần ly biệt: Kim Trọng
chia tay Kiều về Liêu Dương, Kiều bán mình chuộc cha, ra đi theo Mã Giám Sinh.
Nhưng lần Thúc sinh chia tay Kiều để về thăm nhà là lần chia tay đẹp nhứt trong
đời cô kỹ nữ:
Người
lên ngựa kẻ chia bào
Rừng
phong thu đã nhuốm màu quan san
Dặm
hồng bụi cuốn chinh an
Người
đi đã khuất mấy ngàn dâu xanh
Người
về chiếc bóng năm canh
Kẻ
đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng
trăng ai xẻ làm đôi
Nửa
in gối chiếc nửa soi dặm trường.
Nguyễn Du vẽ một cảnh
chia ly giữa Kiều và Thúc Sinh vào mùa thu, chắc hẵn có chủ ý. Nguyễn Du muốn
nói lên cảnh chia ly trong lòng người sao cho phù hợp với cảnh chia ly của
thiên nhiên. Người đi xa xôi lạnh lẽo được trao chiếc áo ngự hàn. Rừng phong cũng
nhuốm màu chia cách (quan san), Kiều và Thúc sinh ai cũng cảm thấy cô đơn. Tuy
nhiên, nếu hiểu hoàn cảnh Kiều và Thúc sinh, ta thấy cách tả của Nguyễn Du
không hợp. Những chữ như 'lên ngựa', 'chia bào', nghe có vẻ như chinh phu mặc
áo giáp, lên ngựa ra biên ải, phảng phất hình ảnh chinh phu trong Chinh Phụ
Ngâm. Những chữ như 'chinh an' (Kẻ lên ngựa đi xa), 'quan san' (Cửa ải trên
núi), cũng na ná hình ảnh chia tay của người đi lính thú.
Nếu nói đoạn trên có vẽ
như tả một chinh phu ra trận thì đoạn thơ sau đây đúng hơn, cũng mùa thu, chia
ly:
Thuở
lâm hành oanh chưa bén liễu,
Hỏi
ngày về ước nẽo quyên ca
Nay
quyên đã giục oanh già,
Ý
nhi lại gáy trước nhà liù lo
Thuở
đăng đồ mai chưa dạn gió,
Hỏi
ngày về chỉ độ đào bông
Nay
đào đã quyến gió đông
Phù
dung lại nở bên sông bơ thờ
Lúc ra đi (lâm hành) chim
oanh chưa về đậu trên cành liễu (xuân chưa về), chàng hẹn mùa hạ sẽ về (ước nẽo
quyên ca), nay đã mùa thu rồi (quyên giục oanh già). Lúc ra đi, mai chưa dạn
gió (mai chưa có, xuân chưa về), chàng hẹn xuân sẽ về (độ đào bông, bông đào
nở), nay xuân đã tàn (quyến gió đông, 'đông phong' là gió xuân, theo 'ngũ hành'
mùa xuân thuộc phương đông). Trong Chinh Phụ Ngâm cũng có câu:
Xót
người lần lữa ải xa
Xót
người nương chốn hoàng hoa dặm dài
Hoàng hoa là hoa cúc
vàng, mùa thu hoa cúc nở ('Mùa thu hoa cúc vàng lưng dậu', Nguyễn Bính). Đó là
mùa đi thú.
Ngày xưa đi lính thú (lên
mạn ngược để canh phòng biên ải, cứ ba năm đổi phiên một lần) vào mùa thụ Mùa
thu là mùa chia ly, gió tây (gió thu, cũng theo 'ngũ hành', mùa thu thuộc
phương tây) lạnh, làm cho người vợ nhớ chồng đang xông pha ngoài biên ải,
thương chồng chịu cảnh lạnh lùng:
Gió
tây nổi không đường hồng tiện
Xót
cõi ngoài tuyết quyến mưa sa
(Chinh
Phụ Ngâm)
Khi gió thu nổi lên, chim
hồng không bay ra biên ải được, người vợ không thể gởi thư bằng chim hồng (chim
hồng đưa thư).
Trong Cung Ốn Ngâm Khúc,
dù không có cảnh chia ly vợ chồng như trong Chinh Phụ Ngâm, nhưng cũng có tâm
trạng cô đơn lạnh lẽo của cung nữ vì bị vua bỏ bê:
Đền
vũ tạ nhện giăng cửa mốc
Gác
thừa lương thức ngủ thu phong
(Vũ tạ: nhà để múa hát,
gác thừa lương: nhà để hóng mát) Nơi cung nữ múa hát ngày trước, nay vắng vẻ
(nhện giăng cửa mốc). Nơi hóng mát cùng nhà vua thì nay gió thu thổi lạnh lùng
(thức ngủ thu phong). Đi xa hơn chút, với thơ Đường, thời đại thi ca cực thịnh
của Trung Hoa thì cái ý thu trong thơ Tàu và thơ ta không khác nhau bao nhiêu
(dĩ nhiên là thơ ta chịu ảnh hưởng thơ Tàu). Rõ nhất là trong Tỳ Bà Hành của
Bạch Cư Dị, Phan Huy Vịnh dịch:
Bến
Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh
hơi thu lau lách đìu hiu
Người
xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén
quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ty.
Tiễn bạn canh khuya ở bến
Tầm Dương, hơi thu lạnh, lau lách đìu hiu. Kẻ xuống ngựa, kẻ dừng chèo, chào
nhau ly biệt, mời nhau chén rượu nhớ chiều nghe tiếng sáo (trúc ty).
Nói chung, cách làm thơ,
mô tả khung cảnh thiên nhiên cũng như lòng người, trong cổ thi thường có tính
ước lệ. Chẳng hạn như khi nói tới mùa thì mùa nào thức nấy. Mùa xuân thì có hoa
mai, đào để đón tết; hạ thì có hoa lan, thu thì có hoa cúc, đông thì có trúc.
Mai Lan Cúc Trúc là hoa (trúc không phải hoa) của bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông.
Ngoài ra, trong thi ca, về các mùa còn có những ước lệ khác nữa. Mùa thu, ngoài
hoa cúc, còn có lá ngô đồng (rụng):
Ngô
đồng nhất diệp lạc
Thiên
hạ cộng tri thu
(Một
lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu về).
Theo Kinh Dịch: Kim, mộc,
thủy, hỏa, thổ là ngũ hành, mùa thu ở hướng tây, thuộc kim. Cho nên gió thu còn
gọi là 'gió tây', 'kim phong'. Bên Tàu như thế mà ta cũng vậy. Gió thu thổi
theo 'Gió mùa' (mousson), theo hình thể địa lý của ta là từ hướng bắc xuống,
mang theo cái lạnh của Tây Bá Lợi Á, nên gọi là gió Bấc (đọc trại của bắc).
Ca dao có câu:
Ra
về để áo lại đây,
Để
khuya em đắp (ngọn) gió Tây lạnh lùng.
Mùa thu cái gì cũng
riêng. Trăng riêng, gió riêng, hoa riêng, lá cũng riêng, chim chóc cũng riêng,
đó là chim di thệ Mùa thu gió bắt đầu lạnh, chim bay từng đoàn về phương nam
trốn tuyết. Thời thơ ấu, tôi từng thấy trên bầu trời sông Thạch Hãn hay thời
niên thiếu tôi thấy trên bầu trời sông Hương, những đàn chim bay thành hình tam
giác, con đầu đàn đi trước, bay ngang khung trời xanh. Tôi thường xao xuyến vì
cảnh thu ở quê nhà, mơ ước những chuyến đi xa. Nay ở bên nầy cũng vậy. Mùa thu,
vài khi chợt thấy những con thiên nga dừng chân bên các hồ nước rộng trong các
công viên. Chúng dừng 'chân' nghỉ trên con đường trốn tuyết bay về Nam Bán Cầu.
Trên là nói về thơ cổ;
còn thơ nửa cổ nửa kim thì có Tản Đà. Ông là cái gạch nối giữa những 'linh hồn
cũ' của thế hệ làm thơ văn bằng 'chữ vuông' và thế hệ làm thơ văn bằng chữ quốc
ngữ. Thu của Tản Đà cũng buồn lắm:
Đêm
thu buồn lắm chị Hằng ơi
Trần
thế em nay chán nữa rồi
Cung
quế đã ai ngồi đấy chửa?
Cành
đa xin chị nhắc lên chơi
Có
bầu có bạn can chi tủi
Cùng
gió cùng trăng thế mới vui
Rồi
cứ mỗi năm rằm tháng tám
Cùng
nhau trông xuống thế gian cười.
Cái cười Tản Đà cũng chỉ
cười gượng đó thôi, vì một người đa tình như ông, sống ở cõi đời này cũng chỉ
để buồn vì những cái rất bâng quơ:
Ngọn
gió thu phong rụng lá vàng
Lá
bay hàng xóm lá bay sang
Vàng
bay mấy lá năm già nửa
Hờ
hững ai xui thiếp phụ chàng
Ngọn
gió thu phong rụng lá hồng
Lá
bay tường bắc lá sang đông
Hồng
bay mấy lá năm hồ hết
Thơ
thẩn kìa ai vẫn đứng trông
Lá vàng là lá đầu thu:
mới quá nửa năm; lá hồng là lá cuối thu: năm gần hết. Lá từ bắc sang đông, lá
từ hàng xóm bay sang, lá rụng khắp mọi nơi, làm tác giả nhớ cảnh chia ly, nhớ
chuyện thiếp phụ chàng, nhớ cảnh cô đơn, ai đó vẫn chờ ai trong tuyệt vọng.
Người VN thường giữ tình xóm làng, kể cả lòng yêu trộm nhớ thầm một cô hàng
xóm, chờ đến khi người ta đã đi lấy chồng về thăm nhà mới dám nói ra thì đã quá
trễ:
Nụ
tầm xuân nở ra xanh biếc
Em
có chồng anh tiếc lắm thay!
(ca dao)
Hay hoàn toàn im lặng như
Nguyễn Bính:
Từ
độ mồng tơi thôi trổ lá
Thì
cô hàng xóm cũng thôi sang
Mồng tơi trổ lá vào mùa
hạ. Khi thu lạnh tới thì cây mồng tơi cũng tàn, còn nữa đâu mà trổ lá, và cô
hàng xóm đã đi lấy chồng. Ngồi đó mà tiếc ngẫn tiếc ngơ!
Tản Đà là thiên tài làm
thơ, xuất thần làm thơ, thơ thần. Đọc thơ ông người đọc cảm nhận cái hay một
cách tự nhiên trong mỗi chữ, mỗi câu chứ giải thích thì không giải thích được,
đặc biệt là bài 'Thề Non Nước':
Nước
non nặng một lời thề
Nước
đi đi mãi không về cùng non
Trong những người làm thơ
mới, kế cận với Tản Đà nhất có lẽ là bà Tương Phố với bản 'Giọt Lệ Thu' khóc
chồng là ông Thái Văn. Dù chỉ một tác phẩm nầy, bà để lại cho đời một áng văn
vừa xuôi vừa thơ làm 'chết đứng' tâm hồn bao người mê thơ (*):
Trời
thu ảm đạm một màu
Gió
thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng
thu bóng ngã bên thềm
Tình
thu ai để duyên em bẽ bàng
Anh
ơi!
Thu
về như gợi mối thương tâm
Mỗi
độ thu sang em lại vò lòng than khóc
Mỗi
năm có một lần thu
Nhưng
thu năm nay đi, năm sau còn trở lại
Hỏi
ba sinh hương lửa
Thì
ái ân kia dễ mấy kiếp hẹn hò nhau
Chẳng
hay cơ trời dâu bể vì đâu
Xui
nên chăn gối vừa êm
Sắt
cầm dìu dặt ngón đàn
Bỗng
ai xô lộn
Bình
tan gương vỡ
Cho
người dỡ duyên
Anh
đi hồi ấy
Năm
tháng thường về
Người
không dấu vết
Năm
tháng bâng khuâng
Sầu
lại nhớ
Thương
nhau vò võ khóc vì nhau...
Hình ảnh và chữ dùng
trong 'Giọt Lệ Thu' không ra khỏi những ước lệ thơ cổ, điều đó đương nhiên vì
tác giả là người của đầu thế kỷ 20, lúc phong trào thơ mới vừa lên, chưa mạnh,
nhưng cách phô diễn tình cảm như của bà trong đó thì đã mới mẻ lắm, mãnh liệt lắm.
Bốn câu đầu bà làm theo thể lục bát, một thể thơ dân gian rất phổ cập; phần sau
viết theo thể trường đoản, niêm luật không cần nghiêm nhặt lắm nhưng lại là văn
'biền ngẫu' (lời văn đối nhau), rất phổ thông trong cổ văn.
Ngay cả những người làm
thơ mới như Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư thường đã phá những khuôn mẫu, ước
lệ thơ cũ nhưng nhiều khi vẫn không thoát khỏi ảnh hưởng của nó.
Chẳng hạn như bài 'Nguyệt
Cầm' của Xuân Diệu, ngôn ngữ và thi tứ mang rất nhiều âm hưởng Tỳ bà Hành:
Thu
lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời
Đàn
ghê như nước lạnh trời ơi
Long
lanh tiếng sỏi vang vang hận
Trăng
nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người.
(Nguyệt Cầm, XD)
Thu lạnh, tiếng đàn lạnh,
trăng càng thêm tỏ. Tiếng sỏi vang dưới bước chân người. 'Trăng nhớ Tầm Dương,
nhạc nhớ người'. Rõ ràng Xuân Diệu tả lại cảnh chia tay một đêm thu trên bến
Tầm Dương giữa Bạch Cư Dị và người bạn. Trăng nhớ bến xưa và nhạc nhớ ngón đàn
tuyệt vời của kỷ nữ đêm trăng đó đã đàn cho Bạch và người bạn nghe. Tâm sự
người ca kỷ về già đã làm cho Bạch Cư Dị khóc. Cái hay Xuân Diệu thấy mà không
có trong Tỳ Bà Hành là tiếng sỏi kêu lên dưới chân người đi. Tiếng sỏi ấy như
tiếng hận của cõi lòng ly biệt.
Điều tôi thắc mắc là loại
đàn của người kỷ nữ đánh hôm đó là đàn tỳ-bà (Tỳ bà hành), rất phổ cập trong
nhạc Tàu, hình bầu ở dưới, phía trên nhỏ lại mà cũng là cần đàn. Hình cây đàn
tỳ bà như quả lệ (Xem bài 'Tỳ bà hay Nguyệt cầm?' cùng tác giả) Xuân Diệu đổi
thành Nguyệt cầm (đàn nguyệt), dưới là bầu tròn như mặt trăng, trên là cần đàn.
Nói về thơ mới mà cũ,
không thể không nói đến một thi nhân nổi tiếng, một tác phẩm nổi tiếng: Quách
Tấn với tập thơ 'Mùa Cổ Điển'. Như ông đã nói trong nhan đề cuốn thơ của ông,
mặc dầu thơ ông xuất hiện trong cùng phong trào thi ca lãng mạn đầu thế kỷ 20,
thơ ông là thơ cổ điển, có nghĩa phần nhiều làm theo thể thơ Đường luật, và cả
ý thơ, lời thơ đều cổ điển cả. Bài thơ hay nhứt của ông được nhiều người ưa
thích là bài 'Đêm Thu Nghe Quạ Kêu':
Từ ô y hạng rủ rê
sang,
Bóng lẫn đêm thâu
tiếng rộn ràng
Trời bến Phong Kiều
sương thấp thoáng
Thu sông Xích Bích
nguyệt mơ màng
Bồi hồi thương kẻ
nương sông bạc.
Lặng lẽ nhà ai rụng
giếng vàng
Tiếng dội lưng mây
đồng vọng mãi
Tình
hoang mang gợi tứ hoang mang.
(Quách Tấn)
Ông là nhà thơ mới nhưng
thơ ông rất nhiều điển tích, là tính cách đặc biệt của thơ cổ: 'Ô y hạng' là
'Ngõ áo thâm'. Theo tục xưa, các gia đình làm quan to nhiều đời ở chung một
xóm, ai ai cũng mặc áo thâm, để chứng tỏ thuộc nhà quan. Dòng họ Nguyễn Du ở Hà
Tĩnh mấy đời đều làm quan to trong triều vua Lê chúa Trịnh; dòng họ Phan Đình
Phùng, 12 đời, đời nào cũng có người đỗ đại khoa (tiến sĩ), họ ở chung trong
một 'ô y hạng'. Bến Phong Kiều là lấy chữ trong bài thơ 'Phong Kiều Dạ Bạc' của
Trương Kế bên Tàu, bến sông Xích Bích là chỗ Khổng Minh bày mưu cho Tôn Quyền
phá quân Tào trên sông Trường Giang, về sau ông Tô Đông Pha có làm bài phú Xích
Bích nói tới trận đánh lớn nầy trong lịch sử Tam Quốc. Thụy Khuê thuật lại trên
đài RFI rằng khi còn trẻ, một hôm Quách Tấn qua làng bên bốc thuốc cho mẹ, trên
đường về, đi qua một rặng tre, bỗng một đàn quạ trong tre thức giấc kêu vang
lên làm ông kinh hãi. Ban đầu đề bài thơ là 'Nghe quạ kêu', sau Lưu Trọng Lư đề
nghị ông thêm vào hai chữ 'Đêm thu (Đêm Thu Nghe Quạ Kêu) cho bài thơ thêm chút
thi vị.
Về thơ mới, Xuân Diệu là
một trong những người đi tiên phong. Không như bài trên của Quách Tấn, thêm vào
chữ 'Đêm Thu' thành ra bài thơ nghe có vẽ tả cảnh mùa thu, bài 'Đây Mùa Thu
Tới' của XD là chọn ngay đề tài mùa thu để làm thơ:
Rặng
liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc
buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Đây
mùa thu tới, mùa thu tới,
Với
áo mơ phai dệt lá vàng
Hơn
một loài hoa đã rụng cành
Trong
vườn sắc đỏ rủa màu xanh
Những
luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi
nhánh khô gầy xương mỏng manh
Thỉnh
thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non
xa khởi sự nhạt sương mờ
Đã
nghe rét mướt luồn trong gió
Đã
vắng người sang những chuyến đò.
Mây
vẫn từng không chim bay đi
Khí
trời u uất hận chia ly
Ít
nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa
cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?
Hồn
còn mang nặng lời thề
Nát
thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Giải thích theo thơ Tàu:
'Bồ liễu chi tư vọng thu nhi tiên diêu'. Cây bồ cây liễu là thứ cây yếu ớt, hễ
trông thấy mùa thu tới thì rụng và héo rồi, ví như người đàn bà yếu ớt vậy.
(Truyện Thúy Kiều, Trần Trọng Kim-Bùi Kỷ chú thích, trang 98).
Trong Kiều cũng có câu:
Khi
về hỏi liễu Chương Đài
Cành
xuân đã bẻ cho người chuyên tay.
Sách Thái Bình Quang Ký
chép rằng Hàn Hoành đời Đường lấy người kỷ nữ là Liễu thị, đi làm quan xa để
lại tại phố Chương Đài ở kinh đô Trường An, làm bài thơ gởi về có câu: 'Chương
Đài liễu! Chương Đài liễu! Tích nhật thanh thanh kim tại phủ, giả ưng phan
chiết tha nhân thủ'. Nghĩa là: 'Liễu Chương Đài! Liễu Chương Đài! Ngày nọ xanh
xanh nay còn không, hay là tay khác đã bẻ mất rồi.' Cuối đời Thiên Bảo, Liễu
thị bị tướng Phiên cướp mất. Sau Hứa Tuấn cướp lại được, trả lại cho người cũ.
(Theo Tự điển Truyện Kiều
của Đào Duy Anh và truyện Thúy Kiều của Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ) tả nhan
sắc Dương Quí Phi, Lý Bạch có câu:
Phù
dung như diện, liễu như mi
(Mặt như hoa phù
dung, mày như lá liễu).
Hoặc ta thấy câu:
Hốt
kiến mạch đầu dương liễu sắc,
Hối
giao phu tế mịch phong hầu.
Chợt thấy cây dương liễu
đầu đường, lấy làm hối hận xui chồng ra đi tìm khanh tướng. Đoàn Thị Điểm diễn
như sau trong Chinh Phụ Ngâm:
Chợt
ngoảnh lại thấy màu dương liễu
Thà
khuyên chàng đừng chịu tước phong.
Dù là thơ mới, Xuân Diệu
cũng khó thoát ra khỏi những ý cổ. Lá liễu như tóc người con gái với những giọt
nước mắt đọng lại trên đó:
Rặng
liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc
buồn buông xuống lệ ngàn hàng
Với Xuân Diệu, lá liễu
còn là tóc quấn khăn tang. Cái buồn và tang tóc đó làm cho Xuân Diệu phải thốt
to lên: 'Đây mùa thu tới! Mùa thu tới!' Áo mùa thu, may bằng lá vàng. Trước
ông, ít khi người ta nói vậy.
Cảnh thu bây giờ buồn:
Hoa rụng. Lá vàng trong vườn chuyển qua sắc đỏ. Những cành khô như xương giơ
cao lên, mỏng manh. Gió thổi làm những chiếc lá còn lại trên cành rung rinh
theo gió.
Trăng buồn ngẫn ngơ, nhớ
buồn và chia ly. Trời nhiều sương khói nên khung cảnh ở xa đã mờ đi. Rét mướt
đã luồn theo gió thu trở về. Mùa thu tới, cuộc sống như chậm lại như cổ nhân
nhận xét: Xuân sanh, Hạ trưởng, Thu thâu, Đông tàng (trữ). Thu thâu là cuộc
sống chậm lại, nhựa sống trong thân cây chảy chậm lại, dồn nén trong thân, rễ
cây. Người ta ít ra ngoài hơn và những chuyến đò ngang trở nên vắng khách. Chim
bay về phương nam tìm hơi ấm. Trời, đất, người, chim chóc vạn vật đều nhuốm vẽ
chia lỵ Truớc cảnh buồn và chia ly đó, các cô gái bỗng thấy lòng bâng khuâng
với một nỗi buồn xa xôi vô cớ, đứng tựa cửa nhìn ra khung trời xa rộng. Hình
ảnh nầy rất mới. Trong thơ cũ, con gái phải kín cổng cao tường, khép kín ở
phòng thẹ
Tư tưởng đã mới, cách
diễn đạt của Xuân Diệu không những mới mà Tây, rất Tây. Không ai nói 'Hơn một
loài hoa mà nói 'Đã có một loài hoa. Chỉ 'rủa' (jurer) gốc là tiếng tây; người
ta không nói: Nàng trăng tự ngẫn ngơ (động từ tự phản hồi) mà nói trăng ngẫn ngơ;
sương mờ, khói làm nhạt non ở xa, chứ không nói ngược như Tây: 'Non xa khởi sự
nhạt sương mờ'. Trong gió đã có rét, không nói 'Rét mướt 'luồn' trong gió'. Đặc
biệt những chữ rung rinh (lá) diễn tả độ rung chiếc lá khi gió thổi.
Có thể đây là một trong
những bài thơ đầu tay của Xuân Diệu, ý tưởng tuy có mới nhưng kỹ thuật chưa
hoàn hảo. Bài ‘Ý Thu sau đây hay hơn nhiều:
Ý Thu
Những
chút hồn buồn trong lá rụng
Bị
nhầu ai tưởng dưới trăm chân
Bông
hoa rứt cánh, rơi không tiếng
Chẳng
hái mà hoa cũng hết dần
Dưới
gốc nào đâu thấy xác ve
Thế
mà ve đã tắt theo hè
Chắc
rằng gió cũng đau thương chứ
Gió
vỡ ngoài kia, ai có nghe
Hôm nay tôi đã chết
trong người
Xưa hẹn nghìn năm yêu
mến tôi
Với bóng hình xưa, tăm
tiếng cũ
Cách xa chôn hết nhớ
thương rồi
Yên vui, xây dựng bởi
nguôi quên
Muốn bước trong đời
phải giẫm trên
Muôn tiếng kêu than
thầm lẵng lặng
Nhưng hoa có thể cứ
lâu bền
Ơ nhỉ! Sao hoa lại
phải rơi
Đã xa sao lại hứa yêu
hoài
Thực mà dị quá! Mà tôi
nữa
Sao nghĩ làm chi
chuyện nhạt phai!
Cái ý thu của Xuân Diệu chính là chiếc lá có linh
hồn, có phải ông chịu ảnh hưởng từ La Mélacholie de René của Chateaubriand (*).
Lá rụng xuống đất, tưởng như có trăm bàn chân dày xéo lên nó. Hoa âm thầm rụng.
Chẳng ai hái mà hoa cũng không còn trong vườn. Những con ve chưa chết, không
thấy xác chúng dưới gốc; sao tiếng ve đã tắt? Gió mang đau thương về, và vỡ ở
ngoài kia. Bài nầy chỉ có hai đoạn đầu là hay.
Ít ai như Xuân Diệu, ông thường sợ mất hiện tại.
Tiếng thu nầy là tiếng thu cũ, tất cả rồi qua, sẽ phai nên Xuân Diệu cũng sợ
hiện tại phôi phạ Ý thu của Xuân Diệu là xa cách, ly biệt, là nhớ, là thương,
là giẫm đạp lên từng chiếc lá là giẫm đạp lên đau khổ của lòng. Ông nói tới sự
lâu bền của hoa. Ý hoa Xuân Diệu nói có lẽ là tình yêu, như một đóa hoa nảy nở
trong lòng người, có thể chỉ có hoa đó, hoa tình yêu, mới lâu bền. Bài nầy khác
với bài 'Đây Mùa Thu Tới', nói tới 'cảnh thu thì ít mà nói tới 'ý thu thì
nhiều, y như đề bài: Yêu đương, đau khổ và ly biệt thì nhiều, quả thật đó là ý
nghĩa của mùa thu vậy.
Nói tới thu, người ta phải nói tới trăng vì vào
mùa thu bao giờ trăng cũng đẹp. Có lẽ vì thế mà có tết Trung Thụ Trong các thi
sĩ tiền chiến, ai cũng ít nhiều nói đến trăng nhưng nói nhiều nhất có lẽ là Hàn
Mặc Tử. Ông viết cả tập văn xuôi 'Chơi Giữa Mùa Trăng' và trong rất nhiều bài
thơ, ông nói tới trăng. Tuy nhiên, trước khi nói tới trăng của Hàn Mặc Tử, ta
hãy trở lại với trăng Xuân Diệu:
Cũng trong bài 'Nguyệt Cầm', Xuân Diệu có mấy câu
khá hay:
Trăng nhập vào đây
cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ
hỡi trăng ngần
Đàn buồn, đàn lặng, ơi
đàn chậm
Mỗi giọt rơi tràn như
lệ ngân
Mây trắng trời trong
đêm thủy tinh
Lung linh bóng nguyệt
bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong
câu hát
Đã chết đêm rằm thu
nước xanh
Nói tới ngón đàn của người kỹ nữ đêm nào trên bến
Tầm Dương, Tỳ Bà Hành viết là:
Tiếng cao thấp lựa
chen lần gảy,
Mâm ngọc đâu lần nảy
hạt châu
Trong hoa oanh riù rít
nhau
Nước tuôn róc rách
chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh giây
manh ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bật
tiếng tơ
Âm thầm đau giận ngẫn
ngơ
Xem ra lặng lẽ bây giờ
càng hay
Lấy ý trong Tỳ Bà Hành, thơ Xuân Diệu cũng lạ:
Trăng nhập vào cung đàn lạnh. Trăng rất sáng (trăng ngần) mang cả niềm thương
nỗi nhớ, không phải nhớ thương người đi xa mà nhớ thương tuổi trẻ đã qua mất
rồi, vì chính trong Tỳ Bà Hành có câu tả thân phận kỹ nữ khi già:
Về già phải kết duyên
cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh
đường ly cách
Mãi buôn chè sớm tếch
ngàn khơi
Thuyền không đỗ bến
mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi
nước trôi lạnh lùng.
Trong Tỳ Bà Hành, Bạch Cư Dị tả tiếng đàn của kỹ
nữ nghe như tiếng ngọc (hạt châu) rơi trên mâm ngọc. Xuân Diệu thì ví như giọt
nước mắt rơi xuống, không nói có rơi xuống mâm ngọc hay không, dĩ nhiên, giọt
nuớc mắt rơi không tạo thành tiếng như viên ngọc rơi trên mâm ngọc.
Phải nói là trí tưởng tượng của Xuân Diệu khá
phong phú, ông vừa chịu ảnh hưởng cổ văn, vừa chịu ảnh hưởng thơ văn Pháp, có
cách diễn đạt mới hơn, thoáng hơn.
Bài 'Chiều' của Xuân Diệu, tôi đoán tác giả tả
một cảnh chiều thu vì mở đầu Xuân Diệu nói ngay đến sương. Chiều thu rất nhiều
sương:
Sương trinh rơi kín từ
nguồn yêu thương
Phất phơ hồn của bông
hường
Trong hơi phiêu bạt
còn vương màu hồng
Nghe chừng gió nhớ qua
sông
E bên lau lách thuyền
không vắng bờ
Không gian như có dây
tơ
Bước đi sẽ đứt, động
hờ sẽ tiêu
Êm êm trời ngẫn ngơ
chiều
Lòng không sao cả hiu
hiu sẽ buồn
Đúng là cái lãng mạn thi ca tiền chiến. Người ta
buồn là phải có lý dọ Xuân Diệu buồn chẳng có cớ nào hết. Chỉ là một buổi chiều
êm, ngẫn ngơ, lòng buồn hiu hiụ Đúng là tính chất đặc biệt của thời kỳ lãng mạn
mà trước và sau nó, ít khi thấy có. 'Gió nhớ' (qua sông) là một ý rất lạ và rất
hay. Không phải một lần Xuân Diệu nói như thế, ông nói nhiều lần:
Hôm nay trời nhẹ lên
cao
Tôi buồn không hiểu vì
sao tôi buồn
Lá hồng rơi lặng ngõ
thuôn
Lá hồng rơi, có nghĩa hôm nay là mùa thu. Cảnh
thu làm ông buồn vớ vẫn.
Xuân Diệu (?) có hai câu thơ tả cảnh thu, được
đánh giá là hai câu hay nhứt trong thi ca lãng mạn:
Ô hay vàng rơi cây ngô
đồng
Vàng rơi, vàng rơi thu
mênh mông!
Trong các thi sĩ tiền chiến, không ai nói thu
vui, tươi sáng. Họ chịu ảnh hưởng cả hai nền văn học Tàu và Tây; Tây thì có
Chauteaubrian, Lamartine, Verlaine, Valerỵ.. với những nỗi buồn mênh mông và
sâu sắc của anh chàng René trong Mélancholie De René, của Chanson d'Automne thì
làm gì có vui, mà rặt một thứ buồn lãng mạn, vô cớ; Tàu thì có 'Phong Kiều Dạ
Bạc' của Trương Kế, thơ của Thôi Hiệu, của Lý Bạch, 'Tỳ bà Hành' của Bạch Cư
Dị, mùa thu bao giờ cũng nhuốm đầy cả màu quan tái, bẽ bàng, lạnh lẽo. Điều đáng
nói hơn nữa, cái buồn của thi sĩ tiền chiến khác với thơ xưa của ta hay của Tàu
ở chỗ nó thê lương hơn, ảm đạm hơn, buồn đến nỗi như Hàn Mặc Tử 'Không nói được
nửa lời':
Ấp úng không ra được
nửa lời
Tình thu bi thiết lắm
thu ơi
Vội vàng cánh nhạn bay
đi trớt
Heo hắt hơi may thoảng
lại rồi
Nằm gắng đã không
thành mộng được
Ngâm tràn cho đỡ chút
buồn thôi
Ngàn trùng bóng liễu
trông xanh ngắt
Cảnh sắp về đông, mắt
sẽ vơi.
Cảnh thu buồn bi thiết, ông muốn nhờ nhạn đưa thư
cho 'ai đó' (*) ở Gia Hội (Huế) mà nhạn đã bay đi mất rồi ('Vội vàng chi lắm
nhạn lưng mây, chầm chậm cho mình gởi chút đây' -Gởi nhạn HMT). Gió heo may
thổi lại rồi, cảnh mênh mông toàn là bóng liễu...
Như đã nói, thu thường đi với trăng, trăng trung
thu tròn và đẹp, nhưng khi trăng còn chỉ một nửa, người thơ lại trách:
Hôm nay có một nửa
trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn
vỡ rồi.
Dùng chỉ 'cắn vỡ' (trăng) như ông là mới lắm, xưa
nay chưa ai nói vậy. Dùng chữ 'ai' (cắn vỡ) không những là hỏi mà hàm ý trách!
Mùa thu là mùa ly cách, lạnh lẽo, cô đơn và buồn
bã. Đó là tính ước lệ trong thơ cũ cũng như thơ mới:
Đây bãi cô liêu lạnh
hững hờ
Với buồn phơn phớt,
nắng trơ vơ
(Cuối thu HMT)
Người ta nói buồn dìu dịu, buồn nhẹ nhàng, buồn
bâng khuâng. Ông nói buồn phơn phớt. Có lẽ Hàn Mặc Tử làm bài thơ nầy khi về
sống ở bãi biển Qui Hòa (Ghềnh Ráng) sau khi bị bệnh phung. Thời bấy giờ, khu
này rất vắng vẽ làm cho Hàn Mặc Tử thấy cô đơn và buồn. Gia đình dựng cho Hàn
Mặc Tử một cái chòi lá bên bờ biển, để ông ở đó một mình. Bãi cô liêu ông nói
trong câu thơ trên là bãi biển Qui Hòa nầy chăng? Theo thi sĩ Quách Tấn kể lại,
mái lá căn chòi bị thủng nhiều chỗ, Hàn Mặc Tử phải lấy bìa che lại. Bãi cô
liêu hay vũng cô liêu như trong bài thơ sau đây:
Ai đi lẵng lặng bên
làn nước
Với lại ai ngồi khít
cạnh tôi
Cớ sao ngậm cứng thơ
đầy miệng
Không nói không rằng
nín cả hơi
Chao ơi ghê quá trong
tư tưởng
Một vũng cô liêu cũ
vạn đời
Có người viết là 'bãi cô liêu'. 'Bãi cô liêu' là
nói về chiều rộng, 'vũng cô liêu' là nói về chiều sâu. Sự cô liêu của Hàn Mặc
Tử lớn như thế, có khi ông cảm nhận nó bằng nỗi rộng mênh mông, có khi bằng nỗi
sâu hun hút.
Mây biến thành mưa, Hàn Mặc Tử không nói thế, ông
viết là:
Mây vỡ hằng hà sa số
lệ
Là nguồn ly biệt giữa
cô đơn
Sao không tô điểm nên
sương khói
Trong cõi lòng tôi
buổi chập chờn.
(Cuối thu, HMT)
Mưa đem ly biệt tới, trong khi đã cơ đơn rồi. Có
thể Hàn Mặc Tử rơi vào cảnh cô đơn cùng cực. Lúc nầy, với ông, cái chết đã gần
kề nên thơ ông có nhiều hình ảnh kinh khiếp: 'Và ai gánh maù đi trên tuyết'. Có
lẽ ông thấy maù đó trên trên tay chân bệnh tật của ông ta chăng? Tội nghiệp,
ông qua đời lúc mới 28 tuổi. Không những cảnh thu muộn đang héo hon mà chính
lòng ông, đang bị ám ảnh vì cái chết, cũng đang héo hon vậy:
Thu héo nấc thành
những tiếng khô,
Một vì sao lạc mọc
phương mô
Người thơ chưa thấy ra
đời nhỉ
Trinh bạch ai chôn tận
đáy mồ.
Đúng là lời nói của một người sắp chết, 'Điểu chi
tương tử kỳ minh giả ai, nhân chi tương tử kỳ ngôn giả thiện'. Thơ ông, khi ông
sắp chết, trở nên khó hiểu mà đó cũng là điều thiện chăng? Các nhà phê bình văn
học cho rằng khi biết mình còn sống chẳng bao lâu nữa, thơ của ông thành bí hiểm.
Sự bí hiểm đó nằm trong tôn giáo, cũng là điều thiện vậy. Người ta nói thu mênh
mông sương khói, ông thì tả cảnh thu héo, cành khô đi và có tiếng nấc trong
cành cây lá cỏ khô héo đó. Ông tìm một vì sao lạ, một vì sao lạ trong kinh
thánh hay một vì sao của đời ông, như Vũ Trọng Phụng viết: 'Tôi sinh ra đời
dưới một ngôi sao xấu'. Vì sao đó là bản mệnh của mỗi chúng tạ Trong những năm
cuối đời, bị đau khổ tinh thần cũng như thể xác dằn vặt, bị ám ảnh bởi cái
chết, và mong cầu một cuộc đời hạnh phúc mai sau, thơ ông mang màu sắc tôn
giáo, -Thiên chúa giáo, khá đậm. Vì sao lạ tượng trưng cho thánh thần xuất
hiện. Hàn Mặc Tử tìm một vì sao lạ nhưng lại để mong cầu một nhà thợ
Đặc biệt thơ ông hay nói tới maù, là nói tới maù
khô ở những vết thương trên da thịt ông đó chăng? Maù ở đây không phải là maù
trong đấu tranh chém giết như những nhà thơ Cộng Sản.
Maù đã khô rồi, thơ
cũng khô
Tình ta chết yểu tự
bao giờ
(Trút linh hồn, HMT)
Thơ ông là maù, nên khi maù khô thì thơ cũng khô,
thơ cũng không còn. Nếu maù là tượng trưng cho đau khổ thì thơ ông cũng vậy. Nó
làm cho Hàn Mặc Tử trở thành điên dại:
Thưa tôi không dám say
mê
Một mai tôi chết bên
khe ngọc tuyền
Bây giờ tôi dại tôi
điên
Chắp tay tôi lạy khắp
miền không gian!
Như đã nói, thơ mới chịu ảnh hưởng thi ca lãng
mạn Pháp khá đậm. Muốn cho tình cảm thật dạt dào, sôi động, thắm thiết, người
ta nhiều khi vay mượn tình cảm, vay mượn đề tài, vay mượn nỗi buồn, nỗi nhớ của
người khác để rên xiết than vãn, như Chế Lan Viên chẳng hạn. Ông là người kinh,
họ Phan (Phan Ngọc Hoan, quê ở Cam Lộ, Quảng Trị), lấy bút hiệu là Chế Lan
Viên, để người ta lầm tưởng ông là người Chiêm (Có thời ông làm thông phán ở
Phan Rang) để dễ khóc với 'Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đí.
Vay mượn, người ta cũng gọi là thương vay khóc
mướn thì không hay dù có khi người ta cố viết cho thật não nùng:
Tôi có chờ đâu, có đợi
đâu
Đem chi xuân lại gợi
thêm sầu
Với tôi tất cả như vô
nghĩa
Tất cả không ngoài
nghĩa khổ đau
Ai đi trở lại mùa thu
trước
Nhặt lấy cho tôi những
lá vàng
Cùng với lá vàng tan
tác rụng
Về đây đem chắn nẻo
xuân sang.
Ông không chờ mùa xuân vui tươi, ông chỉ muốn mùa
thu có lá vàng rụng tan tác.
Trong khi đó, Hồ Dzếnh, một người không phải là
một trăm phần trăm VN (bố ông là người Tàu, không nói sõi tiếng Việt) thì thơ
của ông lại rất VN:
Trời không nắng, cũng
không mưa
Chỉ hiu hiu rét cho
vừa nhớ nhung
Đúng là cảnh dịu dàng
của mùa thu!
Đâu hình tàu chậm quên
ga,
Buâng khuâng gió nhớ
về qua lá dày
(Mùa thu năm ngoái, HD)
Làm gì có tàu quên ga, chỉ ông có khi quên mất
đường về vì cái tính giang hồ lãng đãng của nghệ sĩ thì có. Nhớ về trong gió và
qua lá cây. Ý đó thật lạ! Ông lấy ý của Xuân Diệu hay Xuân Diệu lấy ý của ông.
Xuân Diệu viết 'Gió nhớ qua sông' còn ông thì viết: 'Gió nhớ về qua lá dày.'
Chữ 'năm ngoái' ở đề bài thơ là một chữ rất VN và
rất dễ yêu. Nguyễn Khuyến cũng có 'Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái'.
Cái đặc biệt trong thơ Hồ Dzếnh là sự chừng mực,
không có cái gì quá lắm, đúng là cái dìu dịu của thu: 'Không nắng cũng không
mưa', rét cũng vừa phải: 'hiu hiu rét'. Thương nhớ cũng chừng mực: 'vừa' (nhớ
thương). Nhưng cái dìu dịu vừa phải của Hồ Dzếnh thì lại có một kết quả sâu
sắc: 'quên gá, như trong câu đầu. Bài 'Thú của ông, bốn câu trên không được hay
lắm, nhưng các đoạn sau thì ý tưởng thật mới lạ mà thơ thì rất nhẹ nhàng:
... tất cả một mùa thơ
Tất cả lều tranh, cả
khói mờ
Cả gió mây đưa buồn
lắng xuống
Cả lòng tôi với cả
lòng cô
Có một nghìn cây rũ
rượi buồn
Một nghìn sông rét,
vạn hoàng hôn
Dăm thân thiếu nữ gầy
như trúc
Đứng chịu tang trời đổ
bóng đơn
Thu xa bằng gió bằng
mây
Không gian thở nhẹ
buồn vây chìm chìm
Lòng không ai cấm mà
im
Không dưng bỗng nhớ,
không tìm bỗng mong
Nơi tôi còn ít lá lòng
Chiều nay rơi nốt vào
trong lá rừng.
Khổ thơ giữa thật hay. Rừng có một nghìn cây là
một rừng cây buồn, một nghìn sông rét, vạn hoàng hôn. Hai câu nầy tả cảnh toàn
bộ không gian và thời gian, tất cả đều buồn. Những cây tre vươn lên qua các lều
tranh có khói mờ bốc lên, giữa cảnh cô đơn, ảm đạm.
Có một độ, trên con đường lưu lạc Bắc Nam trước
1945, Nguyễn Bính ghé lại Huế, thấy người ở hoàng thành còn mang màu cổ kính:
Mùa thu hoa cúc vàng
lưng giậu
Thiếu nữ mơ màng áo
trạng nguyên
Hoa cúc nở vào mùa thu mà ở Huế, trước 1945 còn
rất nhiều vườn, nhiều phủ của các ông hoàng bà chúa, quan quyền. Hoa cúc nở
vàng bờ giậu khiến các cô thiếu nữ mơ màng việc lấy chồng, mơ được làm vợ một
ông trạng nguyên (áo trạng nguyên màu vàng phải là trạng nguyên được vua chọn
làm phò mã (?), dù các khoa thi đình của triều đình Huế không chấm trạng
nguyên. Huế đổi thay kể từ khi Pháp đặt nền đô hộ, và càng nhiều hơn nữa khi vị
vua cuối cùng triều Nguyễn không còn ở trong Tử Cấm Thành. Cùng với vua quan và
cung phi mỹ nữ, hoa cúc vàng cũng lui sâu vào dĩ vãng, và chiếc áo màu vàng của
quan trạng trở thành huyền sử cố độ
Ngay từ thời kỳ đó, khi bước chân giang hồ của
Nguyễn Bính dừng lại Huế cũng chỉ để thấy:
Trường Tiền vắng ngắt
người qua lại
Đập đá mênh mông bến
nước đầy
Đò vắng khách chơi nằm
bát úp
Thu về mang lại gió
heo may
Cầu Trường Tiền vắng khách, đò vắng khách, đập đá
mênh mông nước, gió heo may đã về. Cơn lạnh của gió heo may xô người ta vào
trong nhà, đóng cửa lại. Ai từng ở Huế, mới biết cái lạnh của Huế khá đặc biệt,
thấm thía. Trong cái lạnh của Huế, nhiệt độ không xuống thấp như ở Bắc Mỹ nầy,
nhưng sao nó lại nhức buốt xương tủy, xót xa da thịt đến làm vậy?!
Mùa Thu VN.
Tôi muốn nhắc lại đây một mùa thu rất xưa, bài
Vịnh Thu của bà Ngô Chi Lan:
Gió vàng hiu hắt cảnh
tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng
nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn
bông hết thắm
Rừng phong lá rụng
tiếng như mưa
Kể từ bài nầy cho đến những bài tả cảnh thu về
sau như trong truyện Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Cung Ốn Ngâm Khúc, Hoa tiên, v, v...
bài nào tả cảnh thu cũng hay nhưng nghe ra có vẽ là thu bên Tàu: Có giếng ngọc
(ngọc tỉnh), có lá ngô đồng, có rừng phong, có bóng nhạn. v v... Ngay cả những
tác phẩm thi ca lãng mạn, cũng không hoàn toàn thoát khỏi những ước lệ đó.
Trong thơ Hàn Mặc Tử ta thấy:
Vội vàng chi lắm nhạn
lưng mây
hoặc:
Trước sân anh thơ
thẩn,
Đăm đăm trông nhạn về
(Gái
quê)
Vậy trong văn thơ VN, không có mùa Thu VN chăng?
Bạn đọc hãy đọc ba bài sau đây của Nguyễn Khuyến:
Thu Điều
(Mùa Thu câu cá)
Ao thu lạnh lẽo nước
trong veo
Một chiếc thuyền câu
bé tẻo teo
Nước biếc theo làn hơi
gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ
đưa vèo
Tầng mây lơ lững trời
xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co
khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu
chẳng được
Lá vàng trước gió sẽ
đưa vèo
Thu
Vịnh
(Vịnh cảnh thu)
Trời thu xanh ngắt mấy
từng cao
Ngõ trúc quanh co gió
hắt hiu
Nước biếc trông như
tầng khói phủ
Song thưa để mặc bóng
trăng vào
Mấy chùm trước giậu
hoa năm ngoái
Một tiếng trên không
ngỗng nước nào
Nhân hứng cũng vừa
toan cất bút
Nghĩ ra lại thẹn với
ông Đào.
Thu
Ẩm
(Mùa Thu uống rượu)
Năm gian nhà cỏ thấp
le le
Ngõ tối đêm khuya đốm
lập lòe
Lưng giậu phất phơ làn
khói nhạt
Làn ao lóng lánh bóng
trăng loe
Lưng trời ai nhuộm mà
xanh ngắt
Mắt lão không viền
cũng đỏ hoe
Rượu tiếng rằng hay
hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say
nhè.
Nguyễn Khuyến mô tả ba cái thú vui đặc biệt của
người Việt trong mùa thu: câu cá, uống rượu và làm thợ Đó là những thú vui
thanh cao ngày xưa. Câu cá là thú vui cô đơn. Vần 'eo' là một vần nghèo (ít
chữ), lại khó gieo. Cảnh câu cá ở đây là một cảnh rất quen thuộc ở miền quê
nước ta, nhất là vùng trung châu Bắc bộ và vùng quê Trung bộ, vùng có nhiều hồ
ao. Đây là ao làng, nơi dân làng có thể ra đó tắm giặt, lấy nước. Cảnh Nguyễn
Khuyến mô tả ở đây như một bức tranh quê VN. Những chi tiết trong tranh đơn sơ,
giản dị, bình thường, màu sắc rất quen thuộc. Một chiếc thuyền câu trên mặt ao
màu xanh. Phải là thiên tài mới vẽ được cái lạnh lẽo trên mặt hồ thu; mặt nước
lăn tăn sóng (gợn tí), có chiếc lá vàng (tương phản mặt hồ xanh) bay ngang trên
mặt nước (đưa vèo). Bầu trời xanh ngắt, vắt ngang qua đó là mấy tầng mây.
Để tiện lấy nước sinh hoạt, làng quê VN thường
nằm bên một con sông hay một hồ nước. Do đó, ngồi trên hồ, tác giả thấy cái ngõ
làng quanh co, vắng bóng người. Tất cả hình ảnh trên, rất thường thấy ở miền
quê VN, ngay cả cái ngõ trúc cũng không lạ gì với chúng tạ Những người ở thành
phố cũng có thể thấy ngõ làng qua 'Xóm Giếng Ngày Xưa' của Tô Hoài: 'Ngõ thăm
thẳm xuyên vào ruột hai hàng tre, tre mọc liền sát khít gốc, ở trên, cành và lá
giao nhau, lối mòn đi giữa đôi bờ tre cũ. Bốn mùa màu lá tre bóng rợp che con
đường đất mịn. Ngoài kia, lượn một con sông xinh. Dòng nước về mùa hè trong và
mát, liếm vào bờ cỏ chảy lừ đừ. Con sông bé bỏng đựng bóng bờ tre theo đường
ngõ xóm rồi vòng ngoèo sang phía khác, đến đằng kia sông lại ló hình, nhưng đã
xa đi rồi, con sông vui vẻ! Nó đem nước dẫn vào những cánh đồng xa lạ khác để
cái ngõ tre ngơ ngác đứng lại một bên bờ. Con đường xóm thì ngẫn ngơ bò vào
trong ngõ, qua một vòm cổng gạch phủ cỏ và rêu xanh hun hút'.
Tất cả những hình ảnh đó, vắng và buồn, lặng lẽ;
lặng lẽ đến nỗi tác giả nghe được cả tiếng cá lâu lâu móng nước dưới chân bèo. Âm
thanh và màu sắc được phối trí rất hài hòa. Thi sĩ không cần sáng tạo vì âm
thanh đó, màu sắc đó là những cái rất tự nhiên ở làng quệ Cái tài của tác giả
là phô diễn ra bằng lời. Cái tĩnh lặng của miền quê VN là cái tĩnh lặng của
cuộc sống, của thiên nhiên cả ngàn năm không có gì thay đổi trước khi có cuộc
'Cách mạng mùa thú, tiếp sau là cuộc 'Cải cách ruộng đất' mà tiếng than khóc và
maù đỏ tuông ra tương phản với không khí tĩnh lặng của ruộng đồng, các lũy tre
làng êm ã.
Bài 'Thu Vịnh' vừa tả cảnh vừa tả tình. Đó cũng
là cảnh thu VN, một cảnh thu ở miền quê giống như bài 'Thu điêù'. Trời xanh
cao, ngõ xóm vắng vẻ, gió thổi nhẹ (hắt hiu), cửa sổ mở cho bóng trăng chiếu
vào (song thưa). 'Mặc' là chữ nôm (Song thưa để mặc) đưa vào thơ khó hay. Tuy
vậy, sau nầy Thế Lữ lại dùng cũng khá hay ('Điềm nhiên mặc kệ con người vớ
vẫn', Khách Chinh Phu). Trước hàng rào, lại thấy mấy chùm hoa nở. Hoa nầy năm
ngoái nở rồi, nay lại nở. Chữ 'năm ngoái' biểu lộ một sự gần gủi thân quen, một
cố nhân, làm nhớ câu thơ của Thôi Hộ (Đào hoa y cựu tiêù đông phong) mà Nguyễn
Du diễn ý đó trong Kiều là 'Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông'.
Hoa thì biết rồi, năm ngoái, như cũ, nhưng ngỗng
thì không biết từ nước nào bay tới. Nguyễn Khuyến gọi nôm na là ngỗng, không
văn chương như các nhà thơ làm thơ ước lệ, gọi là nhạn, là hồng.
Trước cảnh thiên nhiên đẹp một cách đơn sơ, gần
gủi và gợi tình như thế, tác giả tính làm thơ, vài câu ngẫu cảm nhưng lại hổ
thẹn với Đào Tiềm, nhà thơ Trung Hoa nổi tiếng. Đó là sự khiêm nhượng chăng,
chứ xem ra cả ba bài thơ tả cảnh thu của ông, người ta khó phủ nhận đó là tuyệt
tác.
Xin trở lại vần 'oé hay 'é, hai vần nầy hơi giống
nhau, đi với nhau cũng được, là một vần nghèo, như đã nói trong bài 'Thu Điêù'.
Phải là người có tài mới gieo vận nhanh khi dùng vần nầy. Bài thứ ba có vài ý
mâu thuẫn nhau. Mới đọc, người ta tưởng tác giả tả cảnh thu về đêm. 'Ngõ tối
đêm khuya đốm lập lòe'. Trời tối mới thấy đom đốm lập lòe trong ngõ. Nhưng tiếp
đó, ở câu ba, Nguyễn Khuyến lại viết: 'Lưng giậu phất phơ làn khói nhạt'. Phải
trời còn sáng mới thấy làn khói nhạt bay lên, hơi sương bay lên thì đúng hơn,
tương tự như 'Yên ba giang thượng' vậy. Phải trời tối mới thấy bóng trăng loe
dưới ao (Làn ao lóng lánh bóng trăng loe), nhưng tiếp đó lại là cảnh ban ngày
'Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt'. Chắc chắn cảnh nầy không phải là cảnh sáng hay
trưa, mà chiều hay chập choạng, chạng vạng, hoàng hôn. Lúc đó, ngõ tre thì đã
tối lắm, có thể tối như lúc đêm khuyạ Xem lại bài 'Xóm Giếng' như tôi ghi lại ở
trước, độc giả có thể hiểu, nhất là ai từng sống ở quê .
Con đường làng có hai hàng tre hai bên, che kín
trên đầu là kín lắm, có khi nhìn lên không thấy trời, thành ra trời mới chiều
ngõ đã tối om, đom đóm bay ra kiếm ăn. Lúc hoàng hôn, dưới ao sâu, cảnh cũng đã
tối nên dễ thấy bóng trăng. Thực ra, tác giả tả cảnh chiều và sắp tối ở miền
quệ Vì cấu trúc thơ Đường khắt khe, nên Nguyễn Khuyến khó tả cảnh theo thứ tự
thời gian. Tác giả cũng tả phong thái của ông khi uống rượu, hòa mình với khung
cảnh thiên nhiên của mùa thu nơi thôn dã, thung dung nhàn hạ của một ông già
điềm đạm, vui với thời gian và không gian. Thời gian có tính tổng quát, không cần
xác định một cách máy móc sớm trưa chiều tối, không gian là khung cảnh êm đềm
tĩnh lặng, thanh thoát gần gủi thiên nhiên của vùng quê VN. Nói chung, đó chính
là vô vi của Lão Trang, sống hài hòa cùng thiên nhiên, không có gì trái nghịch
với tạo hóa, là thông đạt triết lý Lão Trang một cách sâu sắc vậy.
Da trời ai nhuộm mà
xanh ngắt
Mắt lão không viền
cũng đỏ hoe
Phép đối ở đây khá hoàn chỉnh, tự nhiên, đạt tới
cao điểm của nghệ thuật, đến nỗi không còn thấy sự đẻo gọt công phu, cầu kỳ
thường có ở những người làm thơ Đường. Chữ lão là một nhân xưng đại danh từ
ngôi thứ nhất số ít, người già thường dùng để tự xưng. Hai câu kết tả tình, cái
sở thích của tác giả. Mùa thu lạnh. Người già thích uống rượu, có tiếng là hay
rượu nhưng thực ra cũng chẳng có gì là hay.
Cả ba bài nầy đều nói về thu, bối cảnh hơi giống
nhau: Cảnh thôn quê VN cho nên không có rừng phong (cây phong chỉ mọc ở hàn
đới), không quan tái, tóc liễu, lá ngô đồng. Nét đặc biệt của thôn quê VN là
tĩnh lặng, êm đềm, vắng vẽ. Sự rộn ràng của những bến sông, tiếng đùa vui những
lúc thả diều trên cánh đồng sau làng chỉ rộn lên ngắn ngủi trong những ngày hè
nay biến mất khi gió heo may bắt đầu thổi, khi những đám mây đen vần vũ báo
hiệu thu sang. Tác giả cũng gởi tình cảm vào thơ nhưng không như các nhà thơ
lãng mạn, tình cảm của ông chừng mực, vừa phải, không có những cái bi thiết,
quay quắt, rên siết trong khi cảnh thu ông tả đẹp thì đẹp vô cùng mà thực cũng
là rất thực, không vay mượn cảnh sắc của Tàu như những người làm thơ trước ông
hay cảnh sắc của Tây ở những thế hệ sau ông.
Bàn tới mùa thu trong thi ca lãng mạn mà không
nói tới 'Tiếng Thu' của Lưu Trọng Lư có thể là một thiếu sót bởi bài thơ nầy
được nhiều người biết, nhiều người thích, Thi Nhân VN của Hoài Thanh có bàn
tới. Lưu Trọng Lư có một tập thơ nhan đề là 'Tiếng Thu' xuất bản trước 1945,
trong đó, ông có một số bài nói về mùa thu tôi sẽ bàn sau đây. Lưu Trọng Lư lại
là người rất mơ mộng. Sự mơ mộng làm cho ông đãng trí đến nỗi, như Hoài Thanh
giới thiệu trong Thi Nhân VN có lần Lưu Trọng Lư đọc hai câu thơ:
Giật mình ta thấy mồ
hôi lạnh,
Mộng đẹp bên nhau đã
biến rồi
mà cứ tưởng đó là hai câu thơ của Thế Lữ, nhưng
chính lại là của Lưu Trọng Lự. Nói chuyện thơ thẩn mơ mộng như thế nầy, phải
nói rằng ai đã từng ở Huế, lớn lên ở Huế, chỉ trước 1945 mà thôi mới thấy những
cái lạ lùng của xứ Thần Kinh. Đọc 'Nửa Bồ Xương Khố của Vũ Anh Khanh, tôi hơi ngạc
nhiên không biết Vũ Anh Khanh quê ở đâu mà ông ta biết khá rõ về Huế trước
1945. Huế có cảnh sắc thơ mộng, núi Ngự sông Hương thì điều đó đã hẵn, nhưng
trai gái Huế cũng mơ mộng không kém. Vũ Anh Khanh kể lại một cảnh thực. Cứ cuối
tuần, học sinh trai gái Huế phần đông của trường Đồng Khánh, Khải Định rủ nhau
đi chơi lăng hay chơi núi Ngự Bình. Núi Ngự hồi ấy còn thông dày đặc, còn bậc
cấp đá đi lên ở mặt tiền ngọn núi. Người ta vào chơi trong rừng thông, ca hát,
đàn sáo,, v.v... và cũng có người thổi sáo khá tuyệt. Người ta mơ mộng và say
mê thi ca đến độ xảy ra những trường hợp đặc biệt, như có cậu học trò tên là B.
mê 'Giọt Lệ Thu (tôi có dẫn mấy câu đầu ở trên) đến độ si tình, điên loạn. Khi
vào thi vấn đáp Brevet (tốt nghiệp cấp hai), anh ta đọc một lèo 'Giọt Lệ Thu
rồi bỏ về. Sau anh ta thi vào sở Xe Lửa Huế, cũng chỉ đọc 'Giọt Lệ Thu mà thôi.
Về sau, ông ta bị điên hẵn.
Lưu Trọng Lư là người mơ mộng nên ông thường ngơ
ngác trước cuộc đời, y như con nai vàng trong bài thơ ‘Tiếng Thú’ của ông:
Em không nghe mùa thu
Dưới trăng vàng thổn
thức
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô
phụ
Em không nghe rừng thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Rất nhiều người khen và thích bài thơ nầy. Phạm
Duy đã phổ nhạc. Cũng có người cho rằng bài nầy Lưu Trọng Lư phỏng ý thơ bài
'Chanson d'Automné của Verlaine. Điều nầy, nếu có cũng không gì lạ vì các nhà
thơ lãng mạn tiền chiến chịu ảnh hưởng thơ ca lãng mạn Pháp và chính Xuân Diệu
cũng gián tiếp xác nhận như thế khi viết:
Tôi nhớ Rimbeau với
Verlaine
Hai chàng thi sĩ
choáng hơi men
Say
thơ xa lạ mê tình bạn,
Phá
bỏ khuôn mòn, những lối quen.
Trong thơ cổ của ta, có
lẽ không ai tả cảnh thu mà có hình ảnh con nai; thơ xưa thường thì có nhạn,
loài chim di thệ Hình ảnh 'con nai vàng ngơ ngác' trong mấy chục năm trở lại
đây trở thành một 'thành ngữ' trong câu nói thường ngày của người Việt chúng
ta, bắt nguồn từ trong câu thơ của Lưu Trọng Lư vậy. Tác giả hỏi một em vô hình
nào đó có nghe tiếng lòng thổn thức của một cô phụ. Tại sao cô phụ thổn thức.
Cũng là tại cảnh thu nhắc nhở người đàn bà việc xa chồng. Bao giờ cũng vậy, ý
nghĩa mùa thu là ly cách, làm cho người ta, nhất là phụ nữ nhớ cảnh ly biệt.
Trong rừng thu, lá thu đã
rụng nhiều, tiếng chân nai đi xào xạc trên lá khộ May mắn tôi ở đây là vùng cấm
săn nai, trên xa lộ có nhiều bảng hiệu cảnh giác nai băng qua đường, và tôi
không giấu được niềm vui vì nhiều lần thấy bóng những con nai xuất hiện bên
đường đi, ngơ ngác nhìn xe chạy qua, hoặc có khi chúng cũng vào vườn nhà người
ta tranh nhau ăn những trái táo rụng trong sân. Chúng chỉ bắt đầu xuất hiện khi
mùa thu tới. Mùa hạ, nai lên vùng cao kiếm ăn. Khi những cơn lạnh đầu tiên tới,
nai theo những con đường quen, tìm về vùng thấp, như Huy Cận mô tả:
Bỗng
dưng buồn bã không gian
Mây
bay lũng thấp, giăng màn âm u
Nai
cao gót lẫn sương mù
Xuống
rừng nẽo thuộc nhìn thu mới về
Sắc
trời trôi nhạt dưới khe
Chim
đi lá rụng cành nghe lạnh lùng
Sầu
thu lên vút song song
Với
cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu
Sắc
xanh nhạt cả buồn chiều
Nhân
gian e cũng tiêu điều dưới kia
(Thu rừng, Lửa thiêng,
Huy Cận)
Có thể bài thơ nầy được
gợi hứng từ hoàn cảnh sống thực tế: Huy Cận họ Cù, thuộc người sắc tộc, sinh
trưởng ở mạn thượng du tỉnh Thanh Hóa. Những nhận xét của ông về một mùa thu ở
rừng rất thật và rất thi vị. Khung cảnh thiên nhiên được Huy Cận bắt rất nhanh
qua tâm hồn một nhà thơ lãng mạn, điều đó xác định thêm nỗi buồn khi ông thấy
không gian thay đổi, có lẽ chính yếu ở trời và cây rừng. Trời thì nhiều mây,
trên các thung lũng, như giăng màn che bớt núi non. Huy Cận tả cảnh trời không
bằng cách nhìn lên mà nhìn xuống: 'Sắc trời trôi nhạt dưới khé. Lá rụng nhiều,
các bờ khe trống ra, in bóng trời cao rọi xuống. Con nai xuống khe uống nước,
nhìn nước trôi trong lòng khe mà tưởng trời cũng trôi theo nước. Khi con chim
bay đi, sự nhún nhảy của nó tạo một sức động làm cho chiếc lá rụng.
Đây là một nhận xét tinh
tế khác với người xưa. Xưa, khi tả chim và lá, như bà Tiết Đào thì cho rằng:
'Chi nghinh nam bắc điểu, diệp tống vãng lai phong'.
Trích từ http://vantuyen.net
Trích từ http://vantuyen.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét