Tuyển tập về nhà thơ Bùi Giáng
Bùi Giáng là một hiện tượng
nổi bật của văn học miền Nam nói riêng, cả nước nói chung gần nửa thế kỷ qua.
Ông được biết đến không chỉ ở tài thơ lẫy lừng, sự quảng bác, trí năng quán thế
của mình, mà còn ở chính con người, đời sống phiêu hốt đến kỳ bí có một không
hai trong lịch sử Việt Nam. Tên tuổi Bùi Giáng gắn liền với những giai thoại,
vô số những giai thoại, chắc chắn nhiều thế hệ sau này sẽ còn nhắc đến.
Ngày 17 tháng 10 năm 1998,
thiên tài thơ ca lạ lùng ấy vừa từ giã trần gian, sau cơn tai biến mạch máu
não.
Bùi Giáng ra đi, thơ ca Việt
Nam cận đại mất một nhà thơ lớn.
Tám năm qua, tòa soạn Hợp
Lưu nhận được không ít thơ đề nghị nên thực hiện một số báo đặc biệt về Bùi
Giáng. Chúng tôi ghi nhận đề nghị ấy với nhiều hứng khởi. Nhưng do vài lý do
ngoài ý muốn, số báo chưa thể ra đời.
Nay, Bùi Giáng ra người
thiên cổ, Chúng tôi hiểu rằng không thể chần chờ lâu hơn. Ðiều bất ngờ: tuy thực
hiện gấp rút, nhưng số báo lại được đáp ứng nồng nhiệt từ hầu hết những ngòi
bút & nghệ sĩ Việt Nam uy tín hiện đang sống rãi rác khắp năm châu: Mai Thảo,
Huy Tưởng, Cung Tích Biền, Nguyễn Hưng Quốc, Hoàng Nguyên Nhuận, Võ Ðình, Ðinh
Cường, Huỳnh Hữu Uûy, Huệ Thu, Thường Quán, Thụy Khuê, Kim Cương, Trần Tuấn Kiệt,
Trịnh Công Sơn, Huy Cận, Bùi Chí Vinh, Nguyền Lương Vị, Phạm Thiên Thư, Thận
Nhiên, Nguyễn Hoàng Vân, Ngô Cang, Khiêm Lê Trung, Huỳnh Ngọc Chiến, Y Ù Nhi,
Bùi Vĩnh Phúc, Phạm Văn Hạng,... Thêm Một khích lệ nữa cần được ghi nhận,
trước cái tang của Bùi Giáng, khoảng cách địa dư và mọi e ngại đã bị xóa bỏ, bằng
minh chứng cụ thể: những đóng góp của các bạn văn trong nước đến với Hợp Lưu
nhanh và nhiệt tình vượt ngoài ước mong của tòa soạn. Nhân đây, chúng tôi gởi lời
cám ơn chân thành đến một vài văn hữu và bằng hữu hiện sống tại Sài Gòn. Không
có sự tiếp tay của các bạn, số báo này không thể đến với độc giả sớm và tương đối
hoàn chỉnh như đã.
Lời cảm ơn cũng xin được gởi
đến các ông Bùi Vịnh, Bùi Như Hải, đã cung cấp khá đầy đủ mọi tư liệu chúng tôi
cần, như Sổ Tang, hình ảnh, thủ bút... của thi sĩ Bùi Giáng.
Gần một thập niên, Hợp Lưu
được đánh giá tốt qua những số báo chủ đề đặc biệt về các văn học: Hoàng Xuân
Hãn, Văn Cao, Phan Khôi, Mai Thảo, Tạ Trọng Hiệp, Tô Thùy Yên. Chúng tôi hy vọng
với số báo này, một lần nữa, Hợp Lưu không phụ lòng độc giả.
Cận kề cái tang lớn của văn
học Việt Nam chúng tôi vừa đề cập bên trên, giới làm và thưởng ngoạn nghệ thuật
cũng vừa mất đi một tài năng khác: họa sĩ Nghiêu Ðề từ trần hôm thứ Hai ngày 9
tháng 11 vừa qua tại San Diego, USA, sau 5 tháng chiến đấu với căn bệnh nan y.
Chúng tôi sẽ nói nhiều về Nghiêu Ðề trong số báo sau.
Ngoài phần đặc biệt về Bùi
Giáng, Hợp Lưu cũng giới thiệu đến độc giả những chuyện ngắn rất đặc sắc của
nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Hương, Trần thị Ngh...., và một chuyện vừa
(đăng trọn) của một tác giả nổi tiếng tại miền Nam Việt Nam trước 1975, nhưng
vì lý do ngoài ý muốn, phải tạm dấu tên. Phần thơ ca, cũng đặc sắc không kém, với
những thi phẩm mới nhất của Huy Tưởng, Thường Quán, Du Tử Lê, Ðỗ Trung Quân,
Phan Nhiên Hạo...
Riêng với các tác phẩm lẽ ra
sẽ đi trong số này nhưng phải gác lại, đồng thời vài mục thường xuyên như Phỏng
Vấn, Tin Văn Học... cũng cùng chịu chung số phận, vì giới hạn số trang. Chúng
tôi thành thật xin lỗi các tác giả và độc giả.
Sau cùng, chu kỳ của Hợp Lưu
rơi đúng vào tháng 12 của năm cũ và tháng 1, năm mới, nên, như mọi năm, số báo
này được xem là số Xuân Kỹ Mão 1990, Hợp Lưu trân trọng chúc độc giả và văn hữu
một Tân Niên an bình và hạnh phúc.
HỢP LƯU
Thi sĩ Bùi Giáng tạ thế vào
14 giờ ngày 7/10/1998 (nhằm ngày 17/8 Mậu Dần) tại Sài Gòn, hưởng thọ 73 tuổi.
Trong những năm gần đây, dù
sức khỏe héo cạn, sau một thời gian dài tinh thần phân tán, điên đảo điêu
linh, ông đã lấy lại phong độ phiêu bồng và hùng hậu, dành nhiều thời gian cho
việc sáng tác, giảm thiểu tối đa việc “hí lộng ta bà” cùng “giảm tửu” đến mức
thấp nhất, làm việc miệt mài với nhiều hứng khởi.
Từ giữa tháng 9/1998, sức khỏe
ông đột ngột suy giảm nhanh chóng. Trong đêm 23/9, ông thức khuya, có uống lại
chúc rượu để gây hưng phấn, trong lúc đang làm việc thì bị ngã quỵ tại nhà
riêng (số 482/29 Lê Quang Ðịnh, Bình Thạnh).
Thân nhân đưa ông vào bệnh
viện Chợ Rẫy, chụp Scanner và phát hiện ông bị đứt mạch máo não, tụ huyết hôn
mê sâu. Sau cùng ban giám đốc bệnh viện quyết định giải phẫu vào lúc 21 giờ
ngày 25/ 9 và hoàn thành vào lúc 23 giờ 30 cùng ngày. Từ ngày 26/9 đến 6/10,
ông vẫn hôn mê, tuy đôi lúc có những dấu hiệu khả quan (mở mắt, co duỗi và phản
xạ...) nhưng đến ngày 7/10 ông đột nhiên suy yếu nhanh chóng, và đến 14 giờ thì
tắt thở trong trạng thái thanh thản nhẹ nhàng.
Thi hài ông được quàng tại
phòng tang lễ chùa Vĩnh Nghiêm, Sài Gòn, sau đó được an táng tại nghĩa trang Gò
Dưa, Thủ Ðức, vào ngày 11/10/1998 (nhằm ngày 21/8 Mậu Dần).
Trong thời gian thi sĩ Bùi
Giáng lâm trọng bệnh cũng như lúc nằm xuống, ông đã được nhiều thân hữu, nhân
sĩ và người hâm mộ quan tâm, chăm sóc với hết lòng trọng vọng và thân ái đối với
đấng tài ba
Lời đọc trước mộ
Huy Tưởng
Kính thưa anh Bùi Giáng,
Việc anh dứt áo ra đi hôm
nay, theo lẽ biến dịch của vạn hữu, là như nhiên, và đã được chính anh cũng như
tất cả chúng tôi ở đây, cùng những ai yêu quí thơ ca Việt Nam trên cùng khắp mọi
miền thế giới, đã chuẩn bị trước. Ấy vậy mà, tin anh qua đời, chúng tôi vẫn cứ
bị choáng váng, lòng đầy nhớ tiếc và đau đớn tột cùng.
Thưa anh Bùi Giáng.
Ngợi Ca và tuyên xưng
anh, dù với lời lẽ lộng lẫy hay hàm súc đến đâu chăng nữa, trong hạn hữu một
bài viết và ngay cả những số báo đặc biệt về anh, có lẽ cũng khó lòng với tới tới
chốn cao vợi và quảng bác mà anh đã dày công hàm dưỡng và đắm đuối vun đắp nên.
Có phải vì lẽ đó đã khiến cho tôi luôn ngần ngại đẻ nói hay để viết về anh (?)
Cho dù tôi vẫn thầm hứa trước lòng kỳ vọng anh dành cho, dù vẫn muốn ôm được
anh riêng cho mình. Tôi cứ phải thức tỉnh rằng, vốn sống, vốn chữ nghĩa và cảm
thức của mình vẫn chưa thể hứng chờ nổi chiếc bóng lồng lộng, đa âm sắc và linh
hoạt của anh. Có phải, càng viết nhiều thì càng bày lộ sự thiếu sót trầm trọng
của mình trước thiên tài bát ngát nơi anh?
Anh Bùi Giáng,
Mấy lời biện bạch vụng về và
hàm hồ như vậy, chẳng biết anh có tạm bằng lòng mà lượng thứ cho tôi?
Xin hãy để cho lòng nhân thế
dịu lại sau cái mất mát lớn lao này, nén cơn xúc động, bình tâm để được gần gũi
anh một cách chân thật và sâu sắc hơn, từ tốn trước một gia tài độ sộ của thông
tuệ và tài hoa ngất trời điên đảo mãi tỏa sáng.
Ngoài những tư tưởng và chũ
nghĩa mà anh Bùi Giáng để lại, đã làm giàu có đáng kể cho kho tàng tiếng Việt,
anh còn thật sự ghi đậm lên tôi một ấn tượng vô cùng mạnh mẽ, rằng anh là một
sinh thể luôn bị lay động và bị cấu xé bởi ánh sáng và lửa tịch mịch, điêu linh
với những ám ảnh về lẽ sinh tử không cùng, dấn mình một cách hiên ngang và khốc
liệt vào cõi thơ ca. TẬN HIẾN hết cả đời mình cho duy nhất - thơ ca – Từ
buổi sơ ngộ đầu đời đến những giây phút cuối cùng về nơi chốn lâm chung – Tận
hiến mà không hề nhận lại một sự bù đắp đối đãi nào của nhân thế, trút gửi hết
thảy xương máu và hồn phách, lưu lại ở đời như vậy tạm một hình cốt mong manh
bi thiết và mộng mị. Với riêng tôi, hình ảnh đắm chìm của tận hiến hung hiểm đó
chính là một tượng đài vĩ đại đến khủng khiếp của thiên tài thơ Bùi Giáng.
Nói đến sự Tận Hiến, tôi chợt
nhớ ai đó đã nói, đại khái: “Nếu người không chết trong cuộc tại thế, thì người
sẽ mất tích, sau khi qua đời”. Và hôm nay, chúng tôi ngậm ngùi kính cẩn tiễn đưa
anh – Kẻ Tận Hiến. Kẻ, đã chết trong cuộc tại thế này sang bên kia thế giới,
cũng có nghĩa rằng, xin được thay cho người mai hậu, đón chào đấng tài hoa của
thế kỷ trước ngàn sau bát ngát...
Trong khung cảnh thiêng
liêng và đầy cảm động hôm nay, tôi không dám rậm lời, chỉ xin nói lên một vài cảm
nghĩ tận đáy lòng liêm kính của mình để bái biệt anh, xin như góp một chiếc
đinh nhỏ cùng nhau treo bức chân dung kỳ vĩ của anh lên khoảng tường lớn trong
căn nhà Thơ ca Việt Nam.
Trong ngàn ngàn châu báu anh
để lại, tôi có nhớ được một bài thơ anh viết đã từ lâu, tôi quên mất tựa đề,
như một lời tạ từ với trần gian cố quận.
Anh Bùi Giáng,
Không có gì hơn bằng chính lời
anh, xin được thay anh, tôi đọc bài thơ ấy để anh được ngỏ lời chia biệt với
cõi người ta:
Rồi Mai đi về xứ nào chẳng
biết
Ðỗ Quang ơi và có lẽ Quyên
ơi
Ði lìa xa xứ sở của mặt trời
Thì chuyện cũ cũng như từng
biết
Tôi nào biết cội nguồn tôi
ly biệt
Dấu tiên nga và ngấn tích
tiên sa
Bờ dạt bèo hay bến lạnh trôi
hoa
Ngày ngóng mộng hay đêm ngờ
máu chảy
Xuân thơ dại hay đông tàn
thu gãy
Chút tình xưa Ðông Á mất đâu
rồi
Rồi mai đi về xứ nào chẳng
biết
Những người em hãy ở lại bên
đời
Nô hay đùa xin cứ mỉm hai
môi...
Xin vĩnh biệt anh Bùi Giáng
yêu kính. Cầu cho hồn anh được siêu sinh tịnh độ, nương theo mây trắng mà về lại
với quê nhà, tiếp tục rong ruổi vui chơi trên cõi trời đâu suất...
Huy Tưởng
11/10/98
Mai Thảo
LTS:
Thuở sinh tiền, khi nói đến
thơ, nhà văn Mai Thảo thường nhắc nhiều đến Vũ Hoàng Chương và Bùi Giáng. Mỗi
người một phong cách, nhưng theo Mai Thảo, đó là những “ngôi sao Bắc Ðẩu trên
vòm trời thơ ca của ta”.
Chúng tôi cho đăng lại bài
viết này (Văn, số 26 tháng 8/1984, USA) như một hình thức tưởng nhớ đến một người
yêu thơ rất mực: nhà văn Mai Thảo, và một người làm thơ tài hoa cũng rất mực:
thi sĩ Bùi Giáng.
Cả hai đã ra đi.
Bên kia thế giới, có lẽ nhà
văn Mai Thảo lại có dịp mời thi sĩ Bùi giáng một chai bia lớn, và lại sẽ được
nghe ông nói, bằng chất giọng Quảng Nam đặc sệt: “vui thôi mà”, như độc giả sẽ
thấy, trong bài viết dưới đây.
HỢP LƯU
Nhiều buổi chiều Sài
Gòn, tôi chẳng còn có thể nhớ đích xác vào những năm nào, đâu như năm 1962, đâu
như năm 1965 (nếu sai, nhờ hai anh Cung Tiến, Phạm Công Thiện nhớ lại dùm cho),
tôi thường được mời tới những họp mặt ăn nhậu trên căn lầu ngăn nắp, thoáng mát
của thầy Thanh Tuệ ở đường Lý Thái Tổ. Mỗi họp mặt vớiù Thanh Tuệ, hồi đi là
giám đốc của nhà xuất bản An Tiêm và còn là nhà sư trẻ tươi tắn chưa cởi áo hồi
tục, thường vì một cuốn sách. Một cuốn sách mới, vừa in xong chưa ráo mực. Và
trước khi gởi sách vào nắng mưa đời, họp mặt An Tiêm với thân hữu là một tiệc
rượu lạc thành cho sách.
Những họp mặt vì sách và do
sách đó thường có tôi, Thanh Tâm Tuyền, Phạm Công Thiện, đôi khi Nguyễn Ðình
Toàn, Dương Nghiễm Mậu, Doãn Quốc Sĩ, và đương nhiên nhân vật chủ chốt là tác
giả sách là Bùi Giáng. Tôi chỉ kể tới Bùi Giáng, bởi suốt thời kỳ đó, có thể
nói, thầy Thanh Tuệ vì một tấm lòng liên tài đặc biệt, chỉ mê thích thơ văn Bùi
Giáng, chỉ in Bùi Giáng, dành trọn phương tiện cho ưu tiên xuất bản trưóc mọi
tác giả khác. Và giai đoạn có thể đặt tên là giai đoạn Bùi Giáng này, An Tiêm
đã in đêm in ngày, in mệt nghỉ, vì những năm tháng đó chính là những năm tháng
đánh dấu cho thời kỳ sáng tác kỳ diệu sung mãn nhất của Bùi Giáng, cõi văn cõi
thơ Bùi Giáng bấy giờ ào ạt vỡ bờ, bát ngát trường giang, mênh mông châu thổ,
Bùi Giáng bấy giờ mỗi tuần viết cả ngàn trang khiến chúng tôi bàng hoàng khiếp
đảm, ngôn ngữ và tư duy của Bùi Giáng bấy giờ hiển lộng tới không bền không bờ,
vô cùng vô tận, và tài năng ông cũng vậy.
Bùi gíang chất ngất một trời
chữ nghĩa, Bùi Giáng trùng trùng một biển văn chương. Vậy mà mỗi lần gặp thi sĩ
hồi đó, cảm tưởng bao giờ cũng giữ được là đã gặp một Bùi Giáng rất nhàn rỗi, rất
rong chơi. Bước chân vào nhà Thanh Tuệ chúng tôi đã thấy Bùi Giáng ngồi trước
đó, tươi cười, ung dung, trong cái phong thái của một người nhàn nhã nhất thế
giới, chẳng có một dấu vết nào của một người viết đang gió táp mưa rơi trên
ngàn ngàn trang sách. Có như Bùi Giáng trước sau vẫn đang chập chờn với đời như
một cánh bướm, lững thững với đời như một áng mây. Có như Bùi Giáng, cái áo vải
cũ, râu tóc để mặc, điếu thuốc trên tay, chén trà trước mặt, vẫn chỉ ngồi chơi
thảnh thơi ngày ngày với An Tiêm như thế. Sau này, sống với Bùi Giáng nhiều
hơn, tôi cũng chỉ thấy Bùi Giáng như hồi đầu thấy ở An Tiêm. Trong một phiêu hốt,
một ung dung chưa từng thấy. Có như, trọn một đời cái đầu của thi sĩ không một
chút nào dành cho suy nghĩ, bàn tay thi sĩ không một phút nào dành cho cây bút.
Có như trang giấy trắng, mặt bàn viết là những vật thể xa lạ chẳng bao giờø ông
biết tới. Vắn tắc là Bùi Giáng chẳng làm gì hết, chẳng ai một lần nhìn thấy Bùi
Giáng đang làm gì hết. Mà hoàn toàn phiêu bông, hoàn toàn rong chơi.
Vậy mà cái sức viết hồi đó đến
như Bùi Giáng là tột đỉnh, là không tiền khoáng hậu. Vậy mà cái lực viết đến
như Bùi Giáng và thấy Bùi Giáng là ngàn người không một, là phi phàm, là vô địch
rồi.
Một lần, tôi đem cái điều
khó hiểu này ra hỏi một người cũng làm thơ thật nhiều, cũng làm thơ rất đều tay
là Thanh Tâm Tuyền. Tác giả Liên Ðêm Mặt Trời Tìm Thấy lắc đầu cười:
“Chịu không giải thích được. Chỉ biết Bùi Giáng khác. Với tôi. Với hết thẩy. Là
cái chỉ có một. Với tôi là từng bài thơ. Nói đến từng bài thơ Bùi Giáng, bài
thơ này bài thơ kia của Bùi Giáng lại là chuyện tức cười lắm lắm. Bùi Giáng là
cái hiện tượng dị thường của một suối thơ ăm ắp không ngừng. Ðọc thơ Bùi Giáng
cũng phải đọc như thế. Ðứng trên đơn vị từng bài. Bùi Giáng đặït tựa cho từng
bài là ngắt thơ ra, ngắt chơi ra vậy thôi. Nói đến mấy ngàn bài thơ Bùi Giáng
là đúng. Mà nói thơ Bùi Giáng chỉ có một bài, vô tận vô cùng là đúng hơn. Ngủ
ra thơ, thở ra thơ, đi ra thơ, đứng ra thơ. Chứ không phải nghĩ ra thơ, làm
thơ. Ta cứ tạm hiểu cái trạng thái thơ kỳ lạ khác thường ở Bùi Giáng là như vậy.”
Sự ngược nghịch giữa cái rong
chơi một đời của Bùi Giáng với cái lực thơ, cái số thơ, cái lượng thơ khủng khiếp
làm ra, tôi đem hỏi thêm nhà xuất bản hằng ngày sống cùng Bùi Giáng, rồi đến
chính thi sĩ, cũng không được sáng tỏ gì hơn ngoài suy diễn có tính chất phỏng
đoán của Thanh Tâm Tuyền. Thầy Thanh Tuệ cũng chỉ lắc đầu cười. “Tôi cũng lấy
làm kỳ”, Thanh Tuệ nói. “Anh lang thang suốt ngày, chẳng thấy lúc nào ngồi viết
hết. La cà hết nơi này đến nơi khác, uống rượu say ngất rồi về lầu lăn ra sàn
ngủ, nhiều ngày bỏ cả bữa ăn. Ðêm cũng không thức, chỗ nằm tối thẳm. Tôi in
không kịp, nói ảnh tạm ngừng thì ảnh ngừng. Nói có máy, có giấy, nói buổi sáng
buổi chiều ảnh đã tới ném bịch xuống cả năm, bảy trăm trang. Cứ thế đem sắp chữ
thôi, đâu có thì giờ đọc. Ðiều kỳ lạ là không riêng một thể loại mà thể loại
trước tác nào anh cũng có ngay sách, dễ dàng và nhanh mau vô tả. Từ thơ đến
văn. Từ một cuốn tiểu luận về Camus đến một cuốn tiểu luận về Nguyễn Du. Từ dịch
thuật tiểu thuyết đến phê bình triết học. Tất cả như đùa như chơi vậy.”
Nhà An Tiêm suốt mấy
mùa sách, hầu như không thở được nữa trước cái viết tràn bờ của Bùi Giáng, điều
này ai cũng biết.
Rồi tôi rủ Bùi Giáng tới
quán. Ðãi ông uống rượu. Vặn hỏi chính thi sĩ. Ðể cũng chỉ được Bùi Giáng cười
cười thích thú trước tìm hiểu có vẻ ngớ ngẩn của tôi. Ông không chịu giải
thích, chừng như ông không có gì giải thích, sự thành hình tác phẩm nơi Bùi
Giáng cuối cùng vẫn là một bí ẩn hoàn toàn trong cái vùn vụt, cái bất tuyệt
thao thao, cái chớp mắt đã là của nó. Cười cười, ông đốt điếu thuốc, cầm lấy ly
rượu: “Vui thôi mà”.Ừ vui, ba chữ “vui thôi mà” là câu trả lời mơ hồ nghịch
ngợm duy nhất của Bùi Giáng trước mọi tìm hiểu của lực thơ và số lượng thơ
không thể tưởng tượng được ở nơi ông, cõi thơ vô bờ của ông trăm phương nghìn
ngã mênh mông và chính ông là hiện tượng thân của mênh mông nghìn ngã trăm
phưong ấy.
Bùi Giáng nói vui thôi mà.
Quả vậy, thơ ông vui cực kỳ. Con châu chấu, con chuồn chuồn. Cơn chuồn chuồn,
con châu chấu. Rừng Marylyn. Biển Brigitte Bardot. Ngành Novak. Ðóa John Keats.
Ngành Mật niệm. Ðóa U Linh. Hồng Lĩnh Hạc Lâm. Quỳnh Lai Thị Xứ. Thơ đốt pháo
bông, ngôn ngữ triệu triệu, như chữ thần diệu:
Người nằm ngủ thấy gì
Thấy rất nhiều nắng lạ
Giấc ngủ đầy nắng, đầy nắng
lạ. Bùi Giáng nói vui thôi mà. Thơ ông vui thật. Từ cánh tay áo rộng, thơ bay.
Từ trí tuệ gió lộng, thơ phất. Nghìn thu cổ lục. Ngày Hy Nga. Ðêm bé chị. Mọi
trên ngàn. Sóng Hồng Hoang. Thềm dục vọng. Thơ ghé thăm đá, thăm bàn ghế, thăm
bún bò, thăm lá.
Ghé thăm trái mận ban đầu
Bình minh bắt gặp nguyên màu
ban mai
Tiếng thơ sáng rỡ, chói lọi,
kỳ ảo, cánh rừng ngôn ngữ ấy suối reo, chim hót, hoa nở, cây ào ào sóng vỗ,
sóng từng từng xanh cây, beo gấu rởn nghịch, con chuồn chuồn hóa thân, con châu
chấu suy tưởng, những môi nhỏ hằng ngày, gì cũng là thơ, thảy đều biến dạng.
Thơ Bùi Giáng vui thật. Một vĩ đại vui. Hãy đọc thơ ấy, như cùng ông đi vào một
trận vui lồng lộng. Ðừng cần tìm hiểu. Ðừng cần giải thích. Hãy đọc lại Mưa Nguồn,
Bài Ca Quần Ðảo:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước, miên
trường phía sau
Sẽ thấy cái vẫy tay chào lấp
lánh của thi sĩ. Cái sự “vui thôi mà” trước sau ông chỉ nói vậy, ba chữ này tôi
ao ước được thấy khắc vào mộ chí ông khi ông mất đi, ông và giữa con đường vui,
không dưới không trên, không đầu không cuối gì hết. Giữa và mùa xuân phía trước,
miên trường phía sau.
Thơ
là người. Ngoài đời Bùi Giáng cũng thật vui. Thời kỳ Thanh Tuệ chấm dứt, nhà xuất
bản An Tiêm tạm ngừng hoạt động, Bùi Giáng gặp lại Thanh Nam, viên Linh, Vũ Khắc
Khoan và tôi ở toà soạn tuần báo Nghệ Thuật và những kỷ niệm chúng tôi có với
thi sĩ thời gian này vẫn là những kỷ niệm vui. Lúc này, thần thái ông ấy không
còn được rạng rỡ như mấy năm về trước. Cuộc phiêu bồng qua đời sống của ông kỳ
dị và tận cùng hơn. Mái tóc ông đổi màu. Mấy chiếc răng cửa bị gãy, nụ cười trẻ
thơ vừa móm mém. Cặp ma-sát sâu hóm xa khuất dần với mọi hình hài thực tế. Những
con đường trên đó ông đi, cái túi vải thơ nào, những ngã tư ông ngừng lại, tách
thoát với nhân thế, tất cả ở Bùi Giáng phơi hiện dần dần một hủy hoại khô khốc,
ấy là tôi chỉ biết nhìn thấy ông một cách “hình hài” như vậy, nhưng “vui thôi
mà” thì vẫn là rất vui. Ông vào tòa soạ, ngồi xuống ghế, nhìn mọi người, cười
trẻ thơ, thường nói khát quá và xin một chai bia uống. Ông uống từng ngụm nhỏ,
nói thích chai bia lớn vì uống được nhiều hơn, châm thuốc hút, những ngón tay vụng
về lóng ngóng. Uống cạn chai bia, cái túi vải đeo lên và bỏ đi. Ðó là cái đến
cái đi êm ả của Bùi Giáng. Nhiều lần không thế. Ông ra tắm ở cái máy nước trước
tòa soạn, thản nhiên trước người qua kẻ lại, quần áo lướt thướt đi qua đường, một
đám con nít tròn mắt đi theo. Một lần khác, chúng tôi đi ra ngoài một lát trở về,
thấy ông nằm ngủ ngon lành trên hai cái bàn viết kê liền lại. Giấc ngủ dài,
quên đời, quên hết, mặc hết, phải đánh thức dậy. Những lần đó, ông ngồi im lặng,
bất động, thầm thì “vui thôi mà” rồi lặng lẽ bỏ đi, cái bóng dáng gãy đổ, gầy
guộc trong chiều xuống.
Chính là trong cái tình trạng
suy nhược đã trầm trọng quá chừng và tiều tụy quà thể này của Bùi Giáng mà
chúng tôi bắt đầu cảm thấy quan tâm thực sự đến thi sĩ. Ðến sức khỏe ông, ngày
mỗi cạn kiệt. Ðến cách sống ông ngày mỗi tiều tụy. Ðến tâm thức ông, ngày càng
bất định. Cuộc vui của ông Bùi Giáng tuyệt vời nhưng chẳng thể phiêu bồng mãi
mãi. Phải làm một cái gì về ông. Ðể ghi nhận lại. Về thế nào là cái tiếng thơ
trác tuyệt của Bùi Giáng, cõi ngôn ngữõ đạt tới hoang đường kỳ ảo của Bùi
Giáng. Trong khi còn gần ông. Trước khi ông chẳng gần, chẳng chịu sống cùng ai
nữa.
Số biệt về thiên tài thi ca
Bùi Giáng phải chờ đến hơn một năm sau, tờ Nghệ Thuật đình bản, tôi sang trông
coi tờ Văn chung với Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện được. Cũng nhờ số Văn này mà
tôi mới nhìn thấy và hiểu được sự không hiểu của tôi nói ở trên là sự ngược nghịch
giữa Bùi Giáng tháng ngày rong chơi với Bùi Giáng mộ tuần lễ cả ngàn câu thơ, cả
ngàn trang sách. Số Văn ấy, phần nhận định nhờ Thanh Tâm Tuyền, Ninh Chữ, Tuệ Sỹ,
Trần Tuấn Kiệt... viết. Bài phỏng phấn Nguyễn Xuân Hoàng thực hiện. Phần giới
thiệu những bài thơ mới nhất là tôi. Chưa biết kiếm tìm Bùi Giáng ở đâu, thi sĩ
bất ngờ ghé thăm tòa soạn. Ông ấy chỉ còn là da bọc xương trong quần áo thùng
thình, mái tóc dài đạo sĩ, cái túi vải còn thêm cây gậy. Kéo ông ra trước báo
quán chụp chung tấm hình làm kỷ niệm rồi tôi hỏi xin ông những bài thơ mới nhất.
Ông gật. Tưởng lấy ở túi vải ra. Hoặc nói về lấy, hoặc nói hôm sau. Tất cả đều
không đúng. Ông hỏi mượn một cây bút, xin một xấp giấy, một chai bia lớn nữa,
đoạn ngồi xuống, và trước sự kinh ngạc cực điểm của chúng tôi, bắt đầu tại
chỗ làm thơ. Ông không chép lại thơ đã làm. Ông làm thơ tại chỗ. Lần đầu tiên
tôi thấy Bùi Giáng viết, thoăn thoắt, vùn vụt, nhanh không thể tả. Như thơ
không thể từ đầu, từ tim chảy xuống, lâu quá, mà ngay từ ngọn bút từ đầu ngón
thôi. Làm thơ ứng khẩu, làm thơ tại chỗ, nhiều người cũng làm được. Nhưng là
thơ thù tạc, và chỉ năm bảy câu một bài thôi. Bùi Giáng khác. Chai bia còn sủi
bọt, ông ngồi viết không ngừng, tự dạng nắm nót chỉnh đốn, chỉ một thôi đã xong
hơn hai mươi bài thơ, chúng tôi cầm lên coi, thấy bài thơ nào cũng khác lạ,
cũng thật hay, cũng đích thực là từng hạt ngọc của cái thơ thượng thừa Bùi
Giáng. Lần đó, tô đã hiểu tại sao Bùi Giáng cừ cánh bướm rong chơi, cứ phiêu bồng
lãng du mà vẫn có ngay nghìn câu một buổi. Ðúng là ngủ ra thơ, thở ra thơ, uống
la-de, hút thuốc lá ra thơ. Mà thơ không ai sánh bằng, thơ không ai đuổi kịp.
Ông uống cạn chai la-de, lập lại ba tiếng bất hủ “vui thôi mà” rồi đứng lên từ
biệt.
Mấy tháng cuối cùng trước biến
cố 1975, tôi không thấy Bùi Giáng trong đời sống tôi nữa. Chỉ tỉnh thoảng nghe
thấy ông vẫn lang thang đây đó, một quán này, một bãi hoang kia, ngủ bất cứ ở
đâu, dưới trời sao, ở một gầm cầu, dưới một mái hiên. Có lúc thấy nói ông đeo một
xâu chuỗi toàn dày dép và quần áo phụ nữ quanh cổ như một vòng gai quái dị, đám
con nít reo hò chỉ trỏ người điên, người điên. Có khi nghe thấy, ông ẩn lánh ở
ngôi chùa vùng ngoại vi thành phố, ăn chay niệm Phật cả ngày không nói.
Ở trình trạng này, anh em
chúng tôi, những bạn bè một thời thân thiết với Bùi Giáng, từng đã chén thù
chén tạc với Bùi Giáng bao lần trên căn gác đường Lý Thái Tổ của nhà xuất bản
An Tiêm, nhận sách tặng của Bùi Giáng, ở với ông và trời thơ trác tuyệt của
ông, chúng tôi biết chúng tôi chẳng làm gì cho Bùi Giáng được nữa. Chẳng phải bỏ
ông. Ông cũng không bỏ. Chỉ là ông đã đi khỏi, đi xa, vào một trời đất khác.
Hai câu thơ hay tuyệt hay
vào tập cho tập Mưa Nguồn:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên
trường phía sau
Ðã mang một ý nghĩa khác. Lời
chào như một xa cách vĩnh viễn. Một bỏ đi. Một vĩnh viễn. Cái kho tàng chữ
nghĩa phong phú vô tận ở đó Bùi Giáng vừa tạo dựng nên cái thế giới ảo huyền của
mình vừa phá hủy tan tành cái thế giới ấy, kho tàng ấy thi sĩ không thèm sử dụng
nữa, và chúng tôi chẳng còn con đường nào tới được với ông.
(.....)
Bùi Giáng đã đem lại cho cuộc
đời biết bao nhiêu châu ngọc. Bằng tài thơ trác tuyệt. Bằng cõi ngôn ngữ ảo diệu,
không tiền khoáng hậu. Có ông, thi ca mới đích thực có biển có trời. Từ ấy, thi
ca mới không cùng không tận. Ðọc lại Mưa Nguồn, đọc lại Ngàn Thu Rớt Hột, Bài
Ca Quần Ðảo, tôi còn muốn bật cười với thơ Bùi Giáng. Vui thôi mà. Ðúng vậy,
vui thôi, có khác gì đâu. Mất Bùi Giáng , thơ ta lại trở về với cái hữu hạn đời
đời của thơ. Nhiều người bảo ông chỉ là một thằng điên. Tôi chỉ muốn nghĩ thầm
cho tôi là nếu có thêm được ít người điên như Bùi Giáng, thơ ca ta văn học ta
còn được lạ lùng được kỳ ảo biết bao nhiêu.
MAI THẢO
Ðừng đẹp đẽ đến vô ngần
Chỉ cần chút đỉnh đẹp tần ngần
tu (đi)
Thử phác họa đôi nét về cõi
thơ Bùi Giáng
HUỲNH HỮU ỦY
Một ngôi văn tinh kỳ dị, lạ
lùng, quái đản vừa rụng trên bầu trời văn học. Chỉ cần nói như vậy thì có lẽ bất
kỳ ai cũng biết ngay là thi sĩ Bùi Giáng vừa qua đời.
Trong vòng nửa thế kỷ vừa
qua, chưa có nhà thơ nào tạo được một bóng dáng lồng lộng trên vòm trời thơ như
Bùi Giáng. Ông làm được thơ, viết văn, bàn luận về văn học, triết học, chuyển dịch
nhiều tác phẩm văn chương của thế giới sang Việt ngữ. Tất cả đều theo một thể
điệu riêng biệt của ông. Văn nghiệp của Bùi Giáng vô cùng đồ sộ. Nội chuyện làm
một bảng thư mục Bùi Giáng cũng đòi hỏi chúng ta mất nhiều thì giờ và công phu
lắm, chứ chưa nói đến vấn đề gì khác.
Bùi Giáng có một sức đọc và
viết vô cùng kinh khủng. Viết liên tu bất tận, ngưng viết thì đọc, ngưng đọc
thì viết. Dịch sách Tây, sách Tàu, Ðức ngữ, Pháp ngữ. Cái lạ lùng vô cùng quí
báo mà Bùi Giáng mang lại cho chúng ta chính là sự uyên bác, tài hoa, thâm trầm,
bí ẩn của ông, tất cả đều nhào biến một cách vô cùng tự nhiên rồi hiện ra trong
một vẻ giản dị tài tình của một tâm hồn và ngôn ngữ Việt. Trước bế tắc tư tưởng
của Phương Tây cùng sự tràn lan của chủ nghĩa hư vô, ông đã trở về ngọn nguồn
phương Ðông nhất thể, trở lại với cái hài hòa của đạo tự nhiên, đạo vũ trụ, mộc
mạc, sơ nguyên, ẩn mật nơi tư tưởng vô cùng trầm trọng. Ông gom hết mọi chuyện
lại rồi đưa đẩy tuôn trào thành một chuyển động tư tưởng bát ngát, một dòng thơ
yêu kiều, thâm thúy.
Tư tưởng và chất thơ cổ kim
đông tây tuôn chảy qua tâm hồn Bùi Giáng, biểu hiện thành một dòng thơ độc đáo
và tuyệt vời nhất mực. Tinh thể thi ca di động qua một vài đỉnh núi chon von cô
độc như Nguyễn Du, Holderlin, Heidegger, Nietzsche, càng bát ngát hơn khi chuyển
động qua hồn thơ mênh mông của Bùi Giáng. Mỗi chữ, mỗi lời, từng câu từng tiếng
đều là thơ. Lời nói thiệt với tinh thể ngôn ngữ là thơ, mà lời nói giỡn
dưới chiếc áo dùng dằng của ngôn ngữ cũng là thơ. Ði, đứng, nằm, ngồi, cười
khóc, vui đùa đều là thơ. Lúc không điên là thơ, mà lúc điên vẫn cứ là thơ. Ði
cho tới cùng cái sâu thẳm nhất của ngôn ngữ, tới đỉnh cao chót vót của nó, sống
với nó trong từng mỗi giây mỗi phút, trong từng mỗi sát na, xưa nay có lẽ chỉ mới
có Bùi Giáng là một.
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng,
đường bay của thơ thực là kỳ diệu, mênh mông, vô lượng. Ông là chiếc bóng của
Nguyễn Du, hay chính ông đã đẩy Nguyễn Du đến cùng thể tính của thi ca, làm lồng
lộng, chất ngất một hồn thơ nước Việt.
Sống với thơ, giỡn chơi với
ngôn ngữ để tạo nên thơ. Chữ nghĩa của Bùi Giáng lúc nào cũng có một điều gì đó
rất dị thường. Ông chỉ cần sắp đặt những đề tựa tư mục lục một tập thơ của một
tác giả khác thì đã mang lại cho chúng ta một bài thơ tuyệt đẹp. Nhưng sắp đặt
và xô đẩy chữ nghĩa phải là theo cách của ông, chớ không thể của người nào khác
được. Hay ông ngắt câu, ngắt đoạn từ bài thơ lục bát của một người làm thơ
khác, biến đổi hình thức thành một bài thơ tự do, tức thời bài thơ ấy sẽ trở
nên kỳ dị và đẹp đẽ lạ lùng. Rất nhiều người làm thơ đã biến đổi thể lục bát
6/8 thành 3/3/2/6, 4/2/6/2/ hay2/4/8, hay 6/4/4, hay còn biến đổi nhiều hơn nữa
thành 1/2/3/2/2/2/2 thì có lẽ là đều bắt nguồn từ cách giỡn chơi của Bùi Giáng
Cuộc đời của Bùi Giáng và
thơ của ông, ngay từ khởi đầu dường như đã có nhiều điều bất thường:
Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa cuối
cùng
Gần đây, thân nhân Bùi Giáng
xuất bản tập thơ “Chớp Biển”, kỷ niệm Bùi Giáng vừa đúng 70 tuổi, giúp cho
chúng ta nhiều dữ kiện để hiểu biết ông hơn. Hiểu một tác giả qua cuộc đời và
hoàn toàn sống của tác giả ấy như phương pháp phê bình của Saint Beuve vẫn còn
là một trong những cách thẩm thấu với văn chương rất thông tình đạt lý. Bà Bùi
Giáng qua đời cách đây nửa thế kỷ, cảnh ly tan đó đã xô đẩy Bùi Giáng đến những
đổ vỡ cùng cực. Bóng dáng người nữ ám ảnh ông suốt đời, để rồi từ đó ông sẽ
nghiệm ra được một cách vô cùng sâu thẳm về tính nữ, về nguyên lý mẹ. Nói như
Nguyễn Xuân Hoàng ai cũng cần một bà mẹ. Bà mẹ đó cũng có thể hiện ra trong một
bóng dáng khác là người chị, cô em gái nhỏ hay chính là đứa con gái của mình. Tất
cả cái thiêng liêng và tục lụy của mẫu người nữ đã biến hiện chập chùng qua
hình ảnh người vợ, để rồi chuyển động nhiều hơn mà trở thành bà mẹ uyên nguyên
của đất trời.
Nhiều lúc ông kể lễ nghiêm
trang, đạo mạo, có lúc lại đùa giỡn, cười cợt với hình bóng các mẫu thân, tuy vẫn
có pha đôi chút ngậm ngùi:
Mẹ về trong cõi người ta
Một hôm mẹ gọi con ra bảo rằng
Trần gian vui sướng lắm
chăng
Hay là đau khổ hỡi thằng
chiêm bao.
Giữa những vần thơ điên của
ông, dôi lúc chúng ta sẽ tìm thấy những câu thơ vô cùng kỳ diệu nói về bà mẹ
thiêng liêng ấy, tất cả đều như rạo rực, sinh sôi, triển nở.
Một hôm nào em mở cửa đầu
khe
Và bữa đó đến bây giờ cỏ rạ
Thi nhau mọc mặt trời lên lả
tả
Bông lúa chín trong rừng kêu
tiếng lá
Chóc chim xanh đòi đẻ trứng
bây giờ
Nhắc đến các hình ảnh mẫu
thân của Bùi Giáng, tôi cũng muốn nhân đây chép thêm mấy câu thơ rất đẹp của
ông về cô em gái nhỏ, mà đọc lên hẳn rằng chúng ta dễ liên tưởng ít nhiều đến
người vợ cũ năm xưa đã chia lìa với ông quá sớm, khi họ cùng mới nhau bước chân
vào đời. Dĩ nhiên, cô em gái nhỏ ấy cũng có thể là một trong những người
nữ Bùi Giáng tiếp tục gặp về sau:
Em là em anh đợi khắp nẻo đường
Em có nụ cười buồn mây mọng
Em có là mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh
soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô
chừng!......
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi cho ta nắm tay em
Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ
nhẹ
Vào trong mơ em mộng rất êm
đềm
Ta sẽ đặt mười ngón tay lên
mắt
Ðể nhìn em qua khe hở du
dương
Vòng theo máu hai vòng tay
khép chặt
Ồ thưa em ta thấy mộng không
thường
Cái tang bà Bùi Giáng đóng
đinh suốt đời ông. Rồi cùng lúc, ông gặp nhiều điều bất ưng ý giữa một thời đại
mà bạo lực là phương tiện hàng đầu của con người.
Thời kháng chiến, ông đi
chăn bò giữa những đồi sim ở một vùng đồi núi nào đó giữa miền Trung đất nước,
để tự thấy mình là một thứ Tô Vũ của thời đại. Ông kết những vòng hoa dại đeo
vào cổ bò, cổ dê, và đùa giỡn suốt ngày với đàn thú hiền từ. Cho mình là Tô Vũ,
có lẽ đó cũng là một cách Bùi Giáng nói cho chúng ta biết ông là người bị lưu
đày ngay chính nơi quê nhà của mình chứ không cần biệt xứ nơi đâu. Sau này, thỉnh
thoảng ông cũng nhẹ nhàng vẽ lại cho chúng ta thấy đôi chút cảnh quan rùng rợn,
tang thương của những ngày ấy:
Hãi hùng bi kịch đồi tranh
Trùng quan vó ngựa tế nhanh
trong mù
Thây người nát ở phía sau
Nhìn thu khép mắt khổ đau
khôn hàn
Rồi hòa bình được lập lại,
nhưng Bùi Giáng không còn thể nào trở lại sống cuộc đời bình thường như chúng
ta nữa, Những chấn động dữ dội của thời tuổi trẻ đã góp phần dồn đẩy ông tới bờ
vực chon von. Ðịnh mệnh đã chọn ông là một thiên tài điên của dân tộc, đẩy ông
bước theo Nguyễn Du, để ông kết bạn với Gerard de Nerval, Saint Exupéry, Khuất
Nguyên, Tô Ðông Pha, Apollinaire, André Gide, Camus, René Char, để đôi khi
nghiêm trang đàm đạo với Khổng Tử, Heracleitus, Parmenides, để sống cuộc đời quỉ
khốc thần sầu cũa một cuồng sĩ ngoài chợ, và tuyệt vời nhất vẫn là để viết lại
cho đất nước những dòng thơ kỳ diệu độc nhất vô nhị.
Cuộc đời Bùi Giáng và thơ
Bùi Giáng chỉ còn chập chùng lên nhau giữa những giấc chiêm bao, phù du, mộng mị.
Ông sống ở đời lúc tỉnh lúc điên: lúc tỉnh đã là chiêm bao nhưng lúc điên thì
càng là chiêm bao quá cỡ. Trước năm 75, thỉnh thoảng ông mới lên cơn điên nhưng
sau 75 cơn điên kéo dài lâu quá. Bà Irina, một phụ nữ người Nga có nhiều liên hệ
mật thiết với Việt Nam, khi gặp Bùi Giáng, đã lặng lẽ tuôn chảy những dòng lệ
nóng hổi cho một thiên tài mà bà nhìn thấy như hình bóng một Diogenes thời đại,
cầm cây đuốc đi giữa ban ngày để tìm chân lý. Chân lý đã bị khuất lấp cả hai
mươi thế kỷ rồi, chứ phải đâu chỉ là những ngày trước mắt. Vậy nên, nơi chiếc
bàn viết lữ thứ, khi cầm bút viết lại để sống đời của một nhà văn lưu vong, Mai
Thảo nhắc đến Bùi Giáng, phác thảo đôi nét về Bùi Giáng rất hay, sống động và
tài tình, nhưng tôi cho là Mai Thảo rất nhầm lẫn khi qui tội điên của Bùi Giáng
cho những nguyên nhân thời đại:
Và ở Sài Gòn vẫn còn Bùi
Giáng
Tối tối về chùa đêm làm thơ
Ngày ca múa khóc cười giữa
chợ
Kẻ sĩ điên thế kỷ mù rồi
(Mai Thảo, Viết văn trở lại)
Hãy thử đọc lại vài câu thơ
Của Bùi Giáng tự nói về mình. Ông gần như sống giữa một lớp sương mù dày đặïc của
những giấc mộng chồng chất. Ông sống như một ông đạo, như một trích tiên, như
ma quỉ, hay như một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ cùng cực:
Ði về với gió phù du
Mở trang mộng mị cho mù sa
bay
Quê nhà chỉ còn là giấc mộng
đã qua, thân thế cũng chỉ là một nỗi đời hư huyễn:
Hỏi tên, rằng biển xanh đâu
Hỏi quê, rằng mộng ban đầu
đã xa
Gọi tên, rằng một hai ba
Ðếm là diệu tưởng, đo là nghị
tâm!
Ông đã tự hỏi tự đáp về tên
tuổi và quê hương thực của mình:
Hỏi tên? – Cổ lục phong trần
Hỏi quê? – Mộng tưởng tiền
trình bơ vơ
Ông luôn lập đi lập lại ý tưởng
ấy khi có dịp:
Hỗn mang về giữa hiên nhà
Bây giờ cố quận tên là
chiêm bao
Cái thế giới chiêm bao mộng
mị ấy, có lúc ông chợp bắt được thành những câu thơ rất đẹp:
Ta gọi chiêm bao về mộng mị
Chắp ân tình cho nghĩa rộng
tinh sương
Về tuế nguyệt bước ngao du tận
mỵ
Người có nghe tang hải réo
vô thường?
Sống và mơ giữa thế giới đó,
ông vác cần đi câu cá hư vô ngoài biển đông:
Tôi làm Nam hải Ðiếu đồ
Ngồi câu con cá hư vô giữa
trời
Ông yêu mến, quí trọng từng
đốm nhỏ li ti của trời đất và sự sống, từng cây cỏ dại, từng cánh bướm, cánh
chuồn chuồn:
Xin yêu mãi và yêu nhau mãi
mãi
Trần gian ôi! Cánh bướm cánh
chuồn chuồn
Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ
dại
Con vi trùng cùng sâu bọ
cũng yêu luôn.
Khi tỉnh táo mà viết được
Tôi nói điệu điên rồ/ Ấy là vui vậy thì quả là ông đã thoát ra
khỏi mọi phiền trược của cuộc đời, chẳng còn câu chấp chi cả, ông sống hoang hỉ
như một đứa trẻ với một nguồn thơ tinh khôi, hồn nhiên, đầy hoan lạc.
Ðọc thơ Bùi Giáng để cảm cái
tình và ý của nó, để sống cái thâm diệu của tư tưởng đã hé mở và như luôn hứa hẹn
một cõi mênh mông bát ngát dị thường sau đó. Ðọc thơ ông cũng là để thưởng thức
chữ dùng cực kỳ tài tình của ông. Có những chữ rất thông tục, tầm thường, nhiều
khi chúng ta không muốn sử dụng vì không được nhã, nghe hơi nặng tai. Vậy mà
khi những chữ ấy rớt vào tai họ Bùi, không cần tỉa gọt, trau chuốt gì cả, chỉ
xô đẩy tự nhiên như hít vào thở ra, thì nó sẽ trở thành thơ. Hãy đọc thử bốn
câu thơ sau, chúng ta sẽ thấy ngay cái tài hoa lạ lùng của Bùi giáng khi biến đổi
một chữ tầm thường thành chữ của thơ như thế nào. Ông phả vào những cái tài hoa
ẩn mật của hồn thơ để mang lại cho nó một sức mạnh vô cùng ký bí :
Người con gái lội qua khe
Bàn chân với nước lạnh đè
lên nhau
Nỗi niềm tưởng lại xưa sâu
Bàn chân với nước cùng nhau
lại đè
Chữ khe, rồi lại chữ đè thực
là đắc địa. Dùng chữ đến như vậy thì không còn là viết văn, làm thơ nữa, mà đã
là thợ trời của chữ. Ngay khi ông lên cơn điên, nhưng chưa điên quá độ, mà mới
chỉ trôi nổi giữa những cơn điên nhẹ, ông cũng mang lại cho chúng ta những câu
vần vè quàng xiên rất vui vẻ. Nhớ lại những ngày đi chăn bò chăn dê giữa núi rừng,
thời trai trẻ, rồi liên kết với việc làm thơ và một số hình ảnh khác, tức thời
những hình ảnh và các con chữ sẽ xô đẩy nhau. Ông viết mấy dòng sau, như một bức
tranh của trẻ con vẽ, không đầu không đuôi, không luật tắc, thấy và thích thì cứ
quẹt bừa, cứ bôi bác bừa những vệt màu và đường nét, vậy mà sẽ mang lại cho người
xem nhiều điều lý thú.
Làm thơ như thể chăn trâu
Chăn bò, chăn ngựa, ngõ hầu
chăn dê
Chăn hùm thiên mệt chán chê,
Chăn beo, chăn gấu, nghiệp
nghề chăn voi.
Ði vào cõi thơ Bùi Giáng,
bên những cơn điên dài của ông, giữa những cơn chiêm bao mộng mị, đôi lúc thấy
ông điên vậy mà nhìn kỷ lại thì ông chẳng điên chút nào. Vậy nên, có nhiều người
cho là Bùi Giáng không điên, như Viên Linh cho rằng ông chỉ chọn một thái độ sống
như vậy mà thôi. Trước thế giới Bùi Giáng, chúng ta như đứng nơi một ngã ba đường,
hay những lối mòn trong rừng thẩm mà cần phải chọn một hướng đi, mỗi người phải
tự định hướng cho riêng mình.
Riêng tôi, lúc nào tôi cũng
thấy Bùi Giáng là một thiên tài điên. Ðiên nhưng rất hiền hòa, rất thơ mộng,
điên như thánh. Giữa những cơn điên kéo dài lâu quá, ông như không còn phân biệt
cái thực và hư. Có một bữa, ông đòi tôi chở về một căn nhà nào đó bên miệt Phú
Nhuận để ông cho vịt ăn, vì nhiều ngày quá rồi ông chưa trở về chắc là vịt đói
lắm. Trên căn gác tôi đưa ông về, ông rào một chuồn vịt khoảng mấy thước vuông,
ông ném gạo cho vịt ăn, nói nói cười cười, rất hoan hỉ, nhưng đàn vịt ấy chỉ
toàn là một bày vịt bằng nhựa. Trước năm 75, tôi gặp ông rất thường vì mỗi buổi
chiều rảnh rỗi tôi thường ghé Ðại học Vạn Hạnh viếng thăm thầy Tuệ Sĩ rồi cũng
tạt qua thăm ông. Lúc nào cũng thấy ông làm việc. Nằm ở một góc nhà, chung
quanh đẩy sách vở, đọc đọc chép chép không ngừng nghỉ. Ngoài những cơn cuồng,
Bùi Giáng rất lặng lẽ, ghét chuyện thị phi, tranh chấp ô trọc. Tôi còn nhớ khoảng
năm 1971, tuần báo tìm hiểu của cô Phan Lâm Hương (con gái út cụ Phan Huy Quát)
có thực hiện một cuộc nói chuyện với Bùi Giáng rất hay và nghiêm trang, có thể
giúp cho người đọc chia sẽ được nhiều điều với Bùi Giáng. Nhưng sau đó thì có vấn
đề, vì bài báo ấy mà một thi sỉ khác, cũng là loại cô phong đỉnh của vòm thơ Việt
hiện đại gây hấn với Bùi Giáng quá cỡ. Bùi Giáng sau đó rất sợ mấy nhà
báo. Ông than phiền hoài, cho rằng mấy ông làm báo đã kéo Bùi Giáng vào việc
thi phi ở đời, từ đó ông không còn muốn gặp mấy người ký giả, viết báo thường
thích gây chuyện chộn rộn ở đời.
Bùi Giáng tránh né việc thi
phi, và ông rất ghét bạo lực, bạo động, bạo quyền. Hơn 25 năm trước, tôi thấy
ông nuôi một đàn chó nhỏ, đi đâu cũng dẫn theo làm chúng sủa vang các hẻm đường,
có lúc ông cho luôn hết vào bao bố và vác trên vai làm chúng cũng muốn ngất
ngư, ngộp thở, chỉ còn kêu hục hục trong bao. Có lần ông để quên đàn chó ở nhà
bà Bé Ký cả tuần lễ làm Bé Ký phải nuôi ăn và chăm sóc rất mệt, hở tay ra là
chúng sủa vang nhà không ai chịu nổi. Ðàn chó này, mỗi con đều có tên, và tôi rất
kinh hoàng thấy ông gọi con chó xấu xí, nhếch nhát nhất trong đám bằng tên nhân
vật số 1của lịch sử hiện đại. Và sau năm 75, chẳng lạ gì khi mà cứ những chổ
đông người, chợ búa xô bồ, cuồng sĩ họ Bùi thường đứng diễn thuyết, hùng hồn kể
tội cụ HCM mà dàn cầm quyền chóp đỉnh hiện nay.
Tôi cũng còn nhớ, có lần nói
chuyện với ông, tôi mới chỉ lỡ lời nhắc đến các nhà nho cách mạng đất Quảng,
hai cụ Phan Tây Hồ, Huỳnh Thúc Kháng, thì ông rất tức giận, rồi lên cơn điên
ngay, chộp lấy cổ áo tôi, gần như muốn xô tôi xuống từ lầu ba trường Vạn Hạnh.
Qua mấy câu chuyện nhỏ này,
tôi cảm thấy rằng, Bùi Giáng chỉ muốn sống với mọi người trong một thế giới
thái hòa, an lạc. Ðua tranh rồi bạo động chỉ là mầm mống của phân ly, mất quân
bình và rối loạn. Ông yêu thích cuộc sống lặng lẽ tự nhiên, như một đôi lần tôi
thấy ông len lén chào mấy người đệ tử của ông Ðạo Dừøa với một vẻ hỉ hoan bất tận
bộc lộ ra trên khuôn mặt. Ông chào rất kính cẩn mấy ông đạo này, những người đã
tự phát nguyện tịnh khẩu vài ba năm, có người quyết tịnh khẩu cho đến khi nào hỏa
bình được lập lại mới sẽ mở miệng, cất tiếng với đời.
Bên trên là vài giai thoại về
Bùi Giáng bởi vì đề cập đến Bùi Giáng mà không nhắc qua các giai thoại dính
dáng đến ông thì quả là thiếu sót. Mới đây, trên việc báo kinh tế số ngày 17
tháng 10 năm 1998, ông La Toàn Vinh, cựu sinh viên trường Mỹ Thuật Gia Ðịnh nhắc
lại vài hình ảnh Bùi Giáng mà ông bắt gặp ở Sái Gòn trước đây, đọc rất vui. Ðọc
đến chổ Xuân Diệu diễn thuyết trong khuôn viên trường Mỹ Thuật, ông đi tới đi
lui ngoài cổng trường và chửi đổng “Mẹ mày Xuân Diệu...Mẹ mày Xuân Diệu”, tôi
đã phải cười phì và nhớ ngay đến dáng đi điệu nói, tiếng cười của ông.
Có thể không cần đọc Bùi
Giáng, mà chỉ cần nghe những giai thoại về ông thì cũng là đủ để sống được chất
thơ và đời thơ của Bùi Giáng. Những giai thoại như thế, nếu cất công đi ghi
chép lại nơi bạn hữu, thân nhân của Bùi Giáng và trên khắp đường phố Sài Gòn
thì có lẽ chúng ta sẽ có cả một quyển sách dày như tự điển, góp phần
phong phú đời sống văn học đất nước trước mắt và cho cả mai sau.
Chúng ta vừa đi qua một vài
nơi giữa khu vườn bát ngát mênh mông của cõi thơ Bùi Giáng. Khi viết bài này,
chúng tôi rất tiếc là không có trong tay tài liệu gì về Bùi Giáng, chỉ đành nhặt
nhạnh mấy câu thơ nới các bài báo gần đây, tuy nhiên cũng hy vọng là đã vẽ phác
được đôi nét về ông, làm sống lại đôi chút hình ảnh một thiên tài của dân tộc.
Bùi Giáng là thiên tài nhưng
là một nhà thơ điên, vì vậy ông viết quàng xiên nhiều quá. Nhưng cũng chẳng hề
gì, mấy ngàn trang sách của ông chỉ cần lọc lại thành một tập thơ nhỏ, rồi
với tập thơ ấy chỉ cần tinh lọc thêm một lần nữa để chỉ còn lại chừng mươi bài,
thì với mươi bài thơ ấy ông cũng đã là một nhà thơ lớn bậc nhất của thời hiện đại,
một vì sao lấp lánh rạng rỡ mãi hoài trên vòm trời thơ của dân tộc Việt
Viết xong ở gác nhỏ đường Hồ
Tây,
Thành phố
Vườn, ngày 19.10.1998
HUỲNH HỮU ỦY
Tái bút: Bài viết trên
đây đã gởi đi để kịp chuẩn bị sắp chữ và lên khuôn trong số báo tới vì tình cờ
tôi vừa tìm lại được tờ Tạp Chí thơ số ra mắt vào mùa xuân 1994 có in một bài
viết rất hay của Thanh Tâm Tuyền về Bùi Giáng cùng với hai bài thơ của Bùi
Giáng. Tôi chẳng thể nào không viết thêm mấy giòng tái bút này, dù biết có làm
phiền hà tòa soạn trong việc sắp xếp lại trang báo trước khi đưa đi in, để
trích lại ở đây một đoạn văn của Bùi Giáng mà Thanh Tâm Tuyền đã trích dẫn cùng
một bài thơ của Bùi Giáng mà Tạp Chí thơ đã chọn để in lại.
Ðây là bài thơ Bao Giờ của
Bùi Giáng:
Bằng bút chì đen
Tôi chép bài thơ
Trên tường vôi trắng
Bằng bút chì trắng
Tôi chép bài thơ
Trên lá lục hồng
Bằng cục than hồng
Tôi đốt bài thơ
Từng giờ từng phút
Tôi cười tôi khóc bâng quơ
Người nghe cười khóc có ngờ
chi không
Quả là một bài thơ tuyệt đẹp
với những hình ảnh tự động xô đẩy đuổi bắt nhau. Những hình ảnh chuyển động
trên một đường biên của hữu thức và vô thức. Ảnh tượng và sắc màu rất cụ
thể mà rõ ràng là vô thực và đầy mộng mị. Tất cả là để dẫn đến một dấu hỏi về cuộc
đời và ý nghĩa nhân sinh, đầy khúc mắc và nhẹ nhàng, tế nhị, và vô cùng bao
dung. Có thể nói đó là một bài thơ siêu thực hiện đại mà vẫn chứa chấp một cái
hồn cổ kính thơ mộng.
Và đây là mấy ý kiến về thơ
của Bùi Giáng mà Thanh Tâm Tuyền đã dẫn:
“Thơ là một cái gì không thể
bàn tới, không thể dịch, diễn thì được. Người ta có thể diễn tả một trận mưa
rào bằng thơ. Thì có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phác động
một trận mưa rào, một cơn gió thu. Mà muốn thực hiện sự đó, thì ngoài việc làm
thơ ra, con người không còn phép gì khác. Thế có nghĩa là muốn bàn tới thơ, diễn
dịch thơ, người ta chỉ có thể làm một bài thơ khác.
Người xưa am hiểu sự đó, nên
họ chỉ vịnh thơ chứ không điên rồ mà bàn luận về thơ. Người đời nay trái lại. Họ
buộc phải luận thơ có mạch lạc luận lý không được “bốc đồng”, vịnh lăng nhăng cái
chỗ ngu si đó là điều bất khả tư nghị vậy”.
Thơ tôi làm chỉ là một cách
dìu ba đào về chân trời khác. Ði vào giữa trung tâm bão dông một lúc thì lập thời
xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vay áp bức. Tôi gạ gẫm với châu chấu, chuồn chuồn,
đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang trên cánh bay đi. Bay về Tử
Trúc Lâm, bay về Sương Hy Lạp, ghé Calvaire viếng một vong hồn bát ngát, rồi
quay về đồng ruộng làm mục tử chăn trâu.
... Trong chiêm bao thơ về
lãng đãng thì từ đó vẫn bất tuyệt cũng lãng đãng chiêm bao”
Có lẽ chưa từng có ai bàn về
thơ với giọng điệu dị thường như vậy. Ông mở ra một cõi mênh mông, thăm thẳm,
mà mời gọi ngưòi ta bước vào. Và tôi hết sức đồng ý cũng như thích thú với mấy
lời của Thanh Tâm Tuyền:
“Ðừng có nghĩ, hãy buông mặc
theo ông, như ông đã từng buông mặc trong trận đồ kẻ trước. Ông luôn luôn nhắc
nhở nơi ông là những bóng vang ai khác. Và ta hãy là bóng vang của ông”.
Xin cảm ơn thi sĩ Thanh Tâm
Tuyền, chỉ với bài viết “Bùi Giáng, một hồn thơ bị vây khốn” rất ngắn
của ông, đã soi sáng cho tôi nhiều điều về cái sâu thẳm không cùng của nhà thơ
Bùi Giáng. Vậy thì, hãy bước vào cõi thơ Bùi Giáng bằng cách trút bỏ tất cả hệ
lụy, vứt bỏ những phân tích phê bình, lý luận để mà hít thở và mơ mộng cùng
ông, để phiêu bồng cùng ông qua những chân trời không cùng của thơ.
NGUYỄN HOÀNG VÂN
Nhớ lại cái lần ngược dòng
sông Thu năm ấy. Cái lần lạc về đầu rú khe truông mà lòng cứ vẩn vơ mơ về những
thị thành thấp thoáng trời xa. Thuyền qua Trung Phước; một bên là Đại Bình với
những vườn cam đỏ ối, một bên là chợ que một sớm mai náo nhiệt. Rồi núi Cà Tang
sừng sững trước mặt. Dòng sông đã xanh mà hai bờ cũng xanh. Xanh với những bãi
ngô, dâu và những rặng tre già lặng lẽ soi mình. Thuyền ngược nữa, ngược nữa. Mỏ
than Nông Sơn thấp thoáng bờ xa với những mái ngói nhấp nhô sườn đồi, chói
chang dưới ánh tà huy. Và cậu thanh niên mới lớn nhưng lắm mơ mộng phải nhíu
mày để hình dung cho ra những phố xá kinh kỳ dọc theo Danube đôi bờ, con sông
xanh mơ mộng với những điệu luân vũ rập rờn sóng nước mây chiều…
Rồi cái đêm hôm ấy, cùng người
bà con trên chiếc ghe neo dọc triền sông. Ngược lên phía trên, về phía Mưa Nguồn,
là Dùi Chiêng, Trà Linh, là Hòn Kẽm, Đá Dừng; những cái tên đã đi vào ca dao:
Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng/ Thương cha nhớ mẹ quá chừng bạn ơi. Không gian trầm lại,
thoang thoảng mùi rượu nếp chua chua. Tiếng cá quẩy nước. Làn gió vi vu trên những
giọt trăng lấp loáng đùa sóng. Khung cảnh êm đềm quá, êm đềm như thể lạc lối
thiên thai. Nhưng lòng Lưu Nguyễn vẫn còn vướng nợ trần, không chút tha thiết với
cảnh trăng nước bồng lai, cứ mơ tưởng về phía ánh sáng kinh kỳ chốn trời xa; những
đại lộ tân kỳ náo nhiệt hay những mái ngói rêu phong già hằng thế kỷ, những
tháp chuông cổ kính dọc theo hai bờ con sông xanh chảy qua bảy nước…
Đã mười mấy năm rồi kể từ
ngày ấy. Cái ngày mà mái đầu hãy còn xanh ngắt với tâm hồn luôn ấp ủ giấc mơ về
đôi cánh bay lên và những phương trời thật xa… Nhưng lúc đó, và cả trước đó
cũng như bao nhiêu năm sau đó nữa, có một đôi mắt hun hút chiều sâu, một tâm hồn
si dại những hoài niệm luôn hướng về về mãnh đất có con sông mang tên Thu Bồn
chảy qua ấy. Thân xác đã phiêu bạt ở một góc trời cách xa. Tâm thức còn phiêu bồng
xa hơn nữa. Người ấy đã cùng cậu hoàng con của Exupéry la đà bay qua những tinh
tú chi chít trên giải ngân hà. Đã chấp cánh sang tận vòm trời tư tưởng Aâu Châu
để băn khoăn cùng những Hiedegger, Holdeline hay Camus v. v…Trong cõi thơ, người
ấy đã lui về hai trăm năm trước để thổn thức cùng Tố Như, đã lấn bước về phía
trước, vượt lên những bước chân của thời đại khi giờ đây người ta cố công đào xới
với những cái nhìn vượt qua khuôn khổ của ý thức hiện đại.
Người đó là Bùi Giáng. Con
người với đôi mắt và nguyên khối tâm hồn đăm đăm về nơi đầu rú khe truông; nơi
dêm nào cậu trai mới lớn cảm thấy tù túng mà mơ tưởng về những chân trời góc bể
xa xăm:
Những trận nào Trà Linh qua
Đá Dừng Hòn Dựng
Dùi Chiên về Phường Rạnh ngược
Khe Rinh
Bao lần anh cùng chúng em lận
đận
Bôn ba băng rú rậm luống
rùng mình
Những bận nào Quế Sơn Rù Rì
con suối ngược
Nước trôi nguồn nước lũ cuốn
phăng phăng
Những bận nào mịt mùng mưa
gió ướt
Đẫm thân mình co rúm lạnh
như băng
(Nỗi Lòng Tô Vũ)
Mảnh đất đó gắn chặt với Bùi
Giáng đến nỗi nửa thế kỷ Sài Gòn không hề làm loãng đi chất giọng Quảng Nam
Doáng bô nhiêu tuổi Doáng già. Nơi một Doáng trẻ đã từ giã và một Doáng già đau
đáu nhớ nhung:
Nhắm mắt mơ màng thấy viễn
vông
Thấy tình rộng biển nghĩa
dài sông
Vu vơ khắp ngã nghe chim hót
Ca khúc phì nhiêu đất ruộng
đồng
(Nhắm mắt)
Đó, mảnh đất của tình biển
nghĩa sông mà nhà thơ đã:
Non nửa thế kỷ xa quê
Mà chưa có dịp về quê một lần
Bảy mươi mốt tuổi tần ngần
Nước non Nam Việt chiếm gần
trọn tim
Về Trung biết chốn nào tìm
Lại ngôi nhà cũ láng giềng
đã qua?
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua
đời rồi…
(Tâm Sự)
Non nửa thế kỷ với biết bao
là phù du dâu bể, biết bao là tử biệt sinh ly? Nhưng quê nhà vẫn đợi đứa con
lưu lạc Sài Gòn quyến rũ tôi chưa chịu về:
Gió trăng sông núi đợi ta
Chờ sương nhị nguyệt màu hoa
dâng mùa
Một mình vào núi đợi mưa
ĐợÏi nghe chớp biển xế trưa
mưa nguồn
Phồn hoa co nhớ đèo truông?…
(Nhớ Mông Lung)
Đèo truông vẫn có đó, trong
lòng người phồn hoa. Và cả gió trăng, gió trăng vẫn đợi; nhưng người đi cứ mãi
chần chờ:
… Trút đi bất tuyệt triền
miên cõi bờ
Thị thành tiên cổ thành thơ
Thôn làng thiên lý chần chờ
chiều hôm
Một hôm bất chợt một lần
Rụng rời ký ức bậc tần rong
rêu
(Rong Rêu)
Chần chờ bởi cứ mãi nâng niu
niềm vui hạnh ngộ, như thế nâng niu như một thứ gì quý giá. Bởi sợ nó sẽ tan biến,
sẽ mất đi:
- Ủa! Anh Sáu Giáng!
Anh về lúc nào?
- Mới vừa về một phút
- Ở Sài Gòn về chơi, anh đi
bằng phương tiện gì? Xe đò? Tàu Bay?
- Anh đi bộ. Đi bằng hai
chân
- Đi trong bao lâu mới tới?
- Ròng rã suốt hai tháng trời…
- Sao anh không đi xe đò cho
chóng tới nơi?
-Anh muốn tư từ thong thả. Vừa
đi vừa ngắm phong cảnh
dọc đường. Và cũng cố ý kéo
dài để dành?
- Để dành cái chi?
- Để dành cuộc gặp gỡ sau
nhiều năm xa nhau. Đừng gặp vội…
(Thôn Nữ – Chuyện chiêm
bao)
Và thế, ngày về Bùi Giáng
cũng chỉ là những hẹn hò, những đính ước cùng biển nước mây trời:
Ngày nào có nắng gió mưa
Anh về trở lại làng xưa tỉnh
nhà
Gặp em như mới hôm qua…
(Anh Sẽ Về Thăm)
Bao giờ mới có nắng mưa?
Khác nào Hồ Dzếnh với những hẹn hò lần lữa “Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé?”
Khác nào khúc nhạc dạo cho bản romance một đời người mà những tiểu thư đài các
ngồi mơ màng chờ đợi bên cửa sổ? Cái ngày về để dành lần lữa ấy cũng chờn vờn
và siêu thực khác nào mộng mị chiêm bao? Khác chăng, là đoạn prelude mở đầu cho
khúc romance một đời người của các tiểu thư bao giờ cũng ướt đẫm những hương
hoa và loạt soạt những xiêm váy lụa là; với Bùi Giáng, giấc chiêm bao ấy trở
nên cụ thể, mộc mạc và chân tình. Mộc mạc và chân tình như chính những đứa con
của mảnh đất Quảng Nam:
Đi về làng xóm năm xưa
Viếng thăm quê cũ người chưa
quên người
Người hỏi tôi: Từ đâu ông đến
đây?
- Thưa cô thôn nữ từ đây tôi
về
- Ủa phải anh Sáu Giáng đó
không?
- Và cô có phải là cô Bông
năm nào?
- Anh còn nhớ rõ ôi chao!
Vợ chồng tôi cũng lúc nào nhớ
anh
Anh điên mà dzui-dzẻ thập
thành
Chúng tôi tỉnh táo mà đành
buồn hiu.
(Đi về làng xóm)
Trong Bùi Giáng, quê nhà vẫn
còn nguyên vẹn. Nguyên vẹn như ngày mới cất bước ra đi cho dù bể đời phù du đã
đầy vơi mấy chặng. Nguyên vẹn như tấm lòng của vợ chồng cô Bông “cũng lúc nào
nhớ anh”. Nguyên vẹn với những địa danh gắn chặt với tình yêu ban đầu:
Điện Bàn Đại Lộc Duy Xuyên
Xiết bao tình nghĩa thần
tiên mộng đầu
Vĩnh trinh Lệ Trạch Thanh
Châu
Thi Lai Hà Mật nhìn đâu dáng
người
Người đầu tiên đã mỉm cười
Nhìn tôi tưởng thấy niêm vui
vô cùng…
(Ký Ức)
Vọng về nẻo quê xưa, ấy cũng
là vọng về cái thời trẻ dại đã đánh mất:
Xuân xanh về khóc giữa giòng
Tuổi già quá cỡ, tấm lòng
quá vui
Chần chờ tôi bước thụt lùi
Tới bao giờ gặp lại thằng tuổi
thơ…
(Bé già nua khóc)
Và quê hương đâu chỉ có hình
ảnh bến nước cây đa hay tuổi thơ đánh mất? Quê hương còn gợi nhớ cái thuở ban đầu
lưu luyến. Một Bùi Giáng thanh niên hay một Bùi Giáng trung niên có thể cười cợt
hoang tàn với một Bardot chênh vênh đồi núi, một Monroe ẩn khuất khe mương.
Nhưng ở chốn sâu thẳm nhất của tâm hồn đó hẳn phải là hình ảnh người thôn nữ…
Chết bên bờ lúa/ Để lại một dấu mòn/ Một dấu chân bước của/ Một bàn chân bé
con. Cái chết của người vợ trẻ hẳn đã để lại một vết hằn không thể nào xóa nhòa
để rồi ở một Bùi Giáng lão niên, những ký ức dồn nén từ trong sâu thẳm tâm hồn ấy
có dịp thăng hoa. Thăng hoa thành những day dứt triền miên bất tận trong lứa tuổi
xế chiều (1).
Mỗi giây phút mỗi bất ngờ
Mỗi đêm tưởng tượng thẹn thò
cùng em
Tình em bao xiết êm đềm
Tình tôi như thể chênh vênh
lạ thường…
(Thôn Nữ)
Đó, là người thôn nữ yểu mệnh
đã đi thiêm thiếp trong cõi sa mù. Đi biền biệt. Gặp lại chăng, chỉ là những
thoáng chiêm bao “suốt cứ sơn khuê lâm tuyền”. Nhưng khác nào những mộng mị
“trông vời quê cũ”, hình ảnh hư ảo dồn nén trong ký ức ấy cũng là những gì dể vỡ,
dễ đánh mất:
Bất ngờ gặp lại người quen
Từ muôn năm đã từng quen biết
rồi
Giật mình tỉnh giấc than ôi
Trùng phùng trong mộng muôn
đời tiếc thương…
(Chiêm Bao)
Khi đã đánh mất, khi đã tình
giấc than ôi; còn biết làm gì hơn? Thôi thì lặng lẽ một mình:
…Nàng đi vô tận thời gian
Nàng đi mất hút cuối miền thời
gian
Tôi ngồi khóc lóc hoang mang
Một mình cô độc muôn ngàn
tương tư…
(Một nàng tiên)
Nếu đã chắt chiu dành dụm
ngày về đến cả nửa thế kỷ thì cái cảnh tử biệt sinh ly lúc tuổi chỉ mới chớm
đôi mươi ấy còn gắn chặt vào tâm hồn kia si dại kia đến là nhường nào? Năm mươi
năm trời đằng đẳng với bao nhiêu chuyện chớp biển mưa nguồn, bao cảnh phù du
dâu bể; nhà thơ vẫn lẽo đẽo bên mình một hình bóng. Aâm thầm. Lặng lẽ. Và chung
thủy:
Gặp em từ ấy tới giờ
Năm mươi năm chẳn như tờ lặng
yên
Biết bao dâu biển nổi chìm
Đôi lần con mắt lim dim nhớ
gì
Bảy mươi tuổi quá nặng nề
Còn em đã sáu tám rồi em ơi
Ngày mai vĩnh biệt cõi đời
Trùng lai có lẽ cuối trời biệt
ly
(Tặng Gái Quê)
Như thế, giờ đây Bùi Giáng hẳn
đã thực sự ra đi để trùng lai trong cảnh cuối trời sinh ly. Còn sống, người ta
đã nói nhiều về ông. Ra đi, người ta càng nói nhiều hơn nữa. Người ta thi nhau
vẽ những giai thoại mà không ai có thể đoan chắc tính chất xác thực. Họ thi
nhau kể những kỷ niệm gặp gỡ. Chỉ có một số ít e dè về cách cảm thụ thơ Bùi
Giáng. Và ít hơn nữa với những người ra công khai phá để tìm kiếm từ khối
ngôn-ngữ-thơ Bùi Giáng những hạt kim cương lóe nên ánh mới.
Dẫu vậy, Bùi Giáng mà chúng
ta được biết, dầu còn mơ hồ, đâu chỉ là một chú hoàng con la đà trên những tinh
tú? Đâu chỉ là một tâm hồn vượt qua những biên giới quốc gia? Tâm hồn ấy, khối
tri thức ấy còn bước hẳn lên trên những nhịp chân thời gian so với cùng thế hệ.
Tôi nhớ lại những tranh cãi
văn chương mới đây, những tranh cãi xoay quanh gốc và thế giới. Cái thiếu và
cái thừa. Những tranh cãi mà người ta cứ vô tình lẫn lộn thế giới và phong cách
thế giới. Như thể thế giới luôn luôn ngụ ý đoạn tuyệt và vong bản. Nhưng một
Bùi Giáng lang thang trên vỉa hè Sài Gòn, đau đáu những nhớ nhung về mảnh đất hẹp
Quảng Nam mà vẫn có thể đem triết học Đông Tây về với ca dao lục bát; vẫn có thể
quàng vào thân thể của Bardot hay Monroe những xiêm y của Xuân Hương; vẫn thản
nhiên đưa thơ vượt qua những rào cản của thú ngôn ngữ mà chưa một quy phạm chuẩn
mực nào hình thành là gì? Người đó chẳng đã đường đường tự tại một phong cách rất
là thế giới nhưng vẫn không xa rời gốc đó ư? Với mảnh đất chật hẹp cuối cùng
quê ấy, Bùi Giáng có cả một vũ trụ dệt nên từ những hoài niệm về thuở ban đầu.
Trong một thế giới rộng lớn để thả hồn rong chơi, Bùi Giáng có một mảnh đất đầy
kỷ niệm gắn bó để chiêm bao mộng mị.
Và nhớ về cái đêm trăng sông
nước bồng lai trên thượng nguồn của dòng sông Thu năm ấy, dòng sông chảy qua, mảnh
đất trong chiêm bao mộng mị của Bùi Giáng; tôi cứ hình dung và nhớ thơ trong
phút giây Trùng lai có lẽ cuối cùng biệt ly với người thôn nữ độ nào. Mà không
hẳn chỉ là mảnh đất ấy. Nhà thơ sẽ nắm tay cô thôn nữ năm xưa, thung thăêng
rong chơi cùng những Hiedegger, Holderlin, Exupéry…La đà bay qua những tháp
chuông cổ kính rêu phong hai bên dòng sông Danube hay những vì sao rực rỡ trên
dải Ngân Hà:
Mai sau còn dự hội nào
Ngó nhau từ kỷ niệm đầu bão
giông…
Chắc là vậy…
NGUYỄN HOÀNG VÂN
(1) Riêng tập Đêm ngắm
trăng do NXB Trẻ phát hành tại Sài Gòn, bao gồm 227 bài thơ mới nhất của ông
trong đêm 1997, đã có đến 9 bài thơ thực cảm động với tựa đề Thôn Nữ; chưa kể
những bài thơ khác tựa đề nhưng cùng phảng phất một hình bóng.
HUY CẬN
Đôi lời thăm bạn thơ
Thăm tấm lòng tri kỷ
Bao giờ đến bây giờ
Tình thơ không hoen rỉ
NGÔ CANG
(Kính gởi Đại lão thi sĩ Bùi
Giáng)
Con về mượn áo chùa quê
Kính thưa Sư Tổ Bồ Đề Đạt Ma
Ngồi thiền suốt chín năm qua
Cứ đêm tâm tỉnh, sáng ra… động
lòng
Cỏ lau thầy vượt biển Đông
Con bơi bơi mãi vẫn không thấu
bờ
Gạo tiền cơm áo vật vờ
Thưa thầy, nghỉ, đã tới giờ
thọ trai
Ngước lên mắt sáng Phật đài
Xem trong thiên hạ chẳng ai
giống mình
Thõng tay vào túi u minh
Con tiêu đến hết đồng chinh
cuối cùng
Giấc mơ hóa cội cây tùng
Mở ra công án một vùng cỏ
hoa
Con về mượn áo thiền gia
Kính thưa Sư Tổ Đạt Ma Bồ Đề
PHẠM THIÊN THƯ
Ta thấy anh là – con dế điên
Cả mùa xuân – hát giữa thanh
thiên
Mùa xuân hoa cỏ vương đầy
sách
Anh ném thơ ca – xuống võng
thiền
Ta thấy anh là – con dế què
Suốt mùa hạ thẫm – hát im
nghe
Anh chưa nhảy khỏi bờ nhân
ngã
Lại ném tồn sinh tím vỉa hè.
Ta thấy anh – là dế sương mù
Hát ca ẩm ỉ suốt mùa Thu
Anh mơ hồ cả đêm xòe nguyệt
Vàng cả Kim Cương mở lối tu.
Ta thấy anh là dế nội đồng
Lẫn vào hương cỏ hát mùa
Đông
Anh sai ngôn ngữ như phù thủy
Ngôn ngữ đè anh xuống cõi
không
Ta với anh – cùng Dế Đá trời
Thượng đế cầm râu ngoáy
ngoáy chơi
Chọi với hư vô đầu trụi tóc
Tìm trong đá tảng – cái chơi
vơi
LTS: Những trang sau đây được
trích từ Sổ Tang viết bởi văn thi hữu, nghệ sĩ các ngành, đại diện cơ sở báo
chí, tôn giáo và quần chúng ái mộ đến vĩnh biệt thi sĩ Bùi Giáng tại chùa Vĩnh
Nghiêm (Sài Gòn)
Bùi Giang Bàng Dúi Bùi Giáng
Ô hay trăm ngõ bàng hoàng lỗ
không
Lỗ không trời đất ngỡ ngàng
Hóa ra thi thể là ngàn hư vô
Nhớ thương vô cùng là
từ
Là từ vô tận ứ ừ viễn vông
TRỊNH CÔNG SƠN/ 1998
Hành trình của hạt cát
Tặng Bùi Giáng
Dưới lòng biển cả muôn đời
ngủ yên
Rồi một hôm bỗng trồi lên
Bay bay bay mãi tới miền Bộ
châu
Thõng tay đánh cuộc bể dâu
Hòa tan thành lệ nhỏ vào
thiên thu
Chảy qua sa mạc thâm u
Qua vùng gió xoáy mịt mù tử
sinh
Xác trai hồn khách biên đình
Hóa thân làm gã ăn xin cõi đời
Ngàn năm say ngủ bên đời
Coi như chưa đã một thời viễn
du
Báo GIÁC NGỘ số
181
Tạm Biệt Bùi Giáng
Ra đi từ vô thỉ
Điểm hẹn là vô chung
Ôi! Mệt nhoài cuộc lữ
Này đây, phút tạm dừng
BÍCH NHÃN HỒ
Chùa Vĩnh Nghiêm 09.10.1998
Bạn từ trên ấy xuống đây
Bay theo có một nét mây
ngang trời
Nay về nắng chẳng còn tươi
Người đi kim cổ sáng hoài
dáng ai
NGŨ HÀ
MIÊN
NGUYỄN VĂN HÀM
Ngõ ban sơ hạnh ngân dài
Cổng xô còn vọng điệu tài tử
qua
B.G
Tôi nghĩ cái hình ảnh bầm dập
của trang tài tử đời nay là anh, quả thật khiến người ta phải cẩn thận coi lại
công lực của mình trước khi quyết định dan díu với Cái Đẹp.
Thành kính tưởng niệm LÊ
NGUYÊN ĐẠI
Bái biệt Bùi Giàng Giáng
tiên sinh
Tôi nghe danh rồi quen biết
Bùi Giáng tiên sinh từ những năm tôi còn ngồi trên ghế nhà trường. Lúc bấy giờ
ông đã rền tiếng trên thi đàn nửa nước Việt.
Về con người văn nghệ Bùi
tiên sinh, ai đã hơn một lần đọc thơ ông ắt biết về “thi sĩ trung niên” kiêm họa
sĩ chuyên vẽ tranh, làm thơ tặng những nàng thiếu nữ bên bờ cỏ Phi châu và châu
chấu, chuồn chuồn… này.
Bẵng đi một thời gian dài với
bao hưng phế. Rồi những năm 80 tôi gặp lại “trung niên thi sĩ” – bây giờ là lão
thành thi nhân – dưới mái chùa Già Lam cạnh Xóm Gà, Gia Định, nơi thi sĩ đang ẩn
am. Trong lần tái ngộ ấy, bậc thi sĩ đàn anh hân hoan viết vào sổ tay tặng tôi
mấy câu thơ chữ Hán và đoạn lục bát:
- “Bỗng nhiên tao ngộ bao giờ?
Quãng Nam cố quận bây giờ là
đây
Nghiêng vai chúc tụng thiên
tài
Trăm năm dâu bể một ngày phục
sinh!”
Viết xong câu thơ thứ tư
trên, “trung niên thi sĩ” giựt mình nói nhỏ:“phục sinh”! thôi thì “tái sinh” vậy!
Rồi thế đấy! Với bao dòng nước
chảy qua cầu… và sau này đây “trung niên thi sĩ” của chúng ta sẽ nằm yên trong
lòng đất lạnh, nằm an nghỉ để đợi ngày tái sinh (phục sinh) cho chính mình và
trong ký ức của những người mến mộ cuộc đời và sự nghiệp văn chương trác tuyệt
có một không hai của thi đàn nước Việt. Người có một cái tên bất tuyệt “Bùi
Giàng Búi là người ngụ xóm gà Gia Định” như thi sĩ đã tự khai sinh.
Với “trung niên thi sĩ”, ai
cũng nghĩ ằng nhà thơ đã đi đúng nghiệp văn chương, nên ông chẳng bao giờ màng
tiếng thị phi. Lúc nào “trung niên thi sĩ” cũng là người trượng phu, vẫn lạc
quan yêu đời như phong cách của một thiền sư thi sĩ luôn thấy được bản lai diện
mục mình. Với ông, dù lúc đáng bi lụy mà chẳng bao giờ vướng lụy ngay cả khi
nhà thơ đang nghĩ về thế giới… bên kia, như ông viết:
“Và mai sau tôi xuống suối
vàng vẫn mong rằng các vị… sẽ ban ân huệ mưa móc xum xuê trên nấm mồ mọc cỏ những
giọt sương trần gian sẽ giỏ hằng ngày xuống đáy huyệt cô đơn”
Chẳng phải như ông, chúng
tôi vốn là những người mang nhiều hệ lụy của một kiếp nhân sinh trần tục nên
chân thành khóc thi sĩ:
“Đời như hiu quạnh nghĩa
trang không
Sự thể vùi trong nấm cỏ đồng]
Tro giấy bay thành hồ điệp
trắng
Lệ rơi máu đỏ đỗ quyên hồng”
Trước khi bái tiễn Bùi tiên
sinh về cõi thọ, xin mượn câu thơ ông huơ bút năm nào tặng tôi mà tôi mường tượng
rằng đây là lời Bùi Giàng Búi đại ca tự tặng mình thì có lẽ đúng hơn:
“Phương cảo phù du vân cẩm
đoạn
Tòng giao sất luyện tả thu
quang”
Như văn chương tuyệt thế của
ông
Xin bái biệt “trung niên thi
sĩ”
Ngã Ba Ông Tạ - tiết mưa dầm
Gia Định 11-10-1998)
NGUYỄN Q. THẮNG
Nhớ người Phụng Hiến
Ngày sẽ hết tôi sẽ không trở
lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi
đâu
Sẽ đi từ chốn quay về
Hồn du mục, cỏ Nhà Quê ngậm
ngùi
Lời sương ý tuyết chia đôi
Đất ngâm ngấm lạnh bên trời
mây bay
Sẽ đi từ cuối chân ngày
Từ đêm vô lượng ngón tay vô
ngần
Mưa Nguồn, Chớp Bể hòa âm
Ngàn Thu Rớt Hột nẫy nầm
chiêm bao
Sẽ đi từ một điệu chào
Khóc cười náo nhiệt, nháo
nhào tử sinh
Bài thơ muối mặn rùng
mình
Gừng cay úp mặt tận tình tri
âm
Sẽ đi từ một chỗ nằm
Đá vang tiếng ngựa, gió cầm
tin loa
Rưng rưng vũ trụ sáng lòa
Hài nhi khép mặt mưa qua
ngàn trùng
7/10/1998
Kính viếng
Những dòng thư ngắn
Trong kỷ niệm với bùi quân
Một ngày lập đông, năm Đinh
Mão (1987), thi sĩ Bùi Giáng đến quán cà phê đường Bà Lê Chân, Tân Định để gặp
và “khoe” với Huy Tưởng một “lá thư” bằng phiên âm chữ Hán của một tiên sinh tự
xưng là đang ở tận một nơi xa gọi là “viễn phố”, xa hơn cả nửa vòng trái đất,
và gọi Bùi trung niên thi sĩ là cháu. Bức thư vỏn vẹn có mấy dòng nhưng đã bày
tỏ được mối tương hệ rất sâu đậm cùng sự thấu cảm nhau một cách tinh tế đầy ẩn
mật đối với một thiên tài không sao định nghĩa được (génie indéfinissable) bằng
thứ ngôn ngữ tưởng như là “vu vơ”. Nói năng bông lơn mà lại hàm dưỡng một công
phu bề thế, bận bịu vô song giữa các vạn vật nhất thể ở khởi nguyên chưa phân
ly thì còn hàm hổn nhưng tràn đầy sức sống, như có kẻ luôn tự vấn: làm sao nối
lại non xanh và biển rộng giữa cát và bờ? Làm sao chuẩn bị cho một cuộc đối thoại
tái hợp nhất thiết phải có giữa Đông và Tây? Làm sao bắt lại nhịp cầu tương
giao giữa Thi Ca và Tư Tưởng, hai lãnh vực hoạt động theo quy luật riêng, cách
nhau cả vực thẳm, mà lại có mối quan hệ tàng ẩn thắm thiết ở cội nguồn?
Nay bất chợt tìm thấy trong
mớ kỷ niệm hỗn mang mà đầy hứng khởi, những dòng khơi mở ngắn ngủi vô cùng thi
vị ấy, không ngăn nỗi phải nhắm mắt “liều lĩnh một phen” chuyển và phóng dịch
cho thỏa cơn mộ chữ.
Xin rất biết ơn những
ai - đó, như trúc có lòng, nở cho nụ cười hoan hỉ.
(HUY TƯỞNG)
Viễn phố, 27/11/87
Bùi Tần Thân lão điệt nhã
giám!
Nhĩ ký ngã vô lượng thi +
thơ, tổng thị tiếu đề diệc vận, nùng đạm tương nghi…
Độc thậm khoái hoạt, như du
du tại Hoạn hỉ địa chi gian
Ngô viên tự hữu, vô tâm chi
trúc, tự nhĩ lai thời, kiêm hữu trường lử chi nhân, khả phát nhất tiếu, nhiên
nhi vu vơ chi vũ mạc đình phóng túng hình hài, ngang tàng tính mệnh, phất vi
dã!
Ngã kim tại Viễn phố, sa mạc
hồi khan, trùng trùng tâm cảnh. Triêu chỉ kiến thiền vu, mộ hồ sơn ứng mộng.
Hàm tình vô phiến, ký nhĩ
Hô-đơ-gây* phiêu bồng di ảnh cộng sổ hàng ẩn ngữ ninh vi phỉ thuý lục ngạn hành
từ.
(Nguyên tác bằng chữ Hán –
bút tự của BG – Rất tiếc những đoạn trích trong Sổ Tang này được chuyển từ
trong nước qua đường email, người gửi không có máy scan, nên buộc phải âm ra chữ
Việt)
DỊCH:
Viễn phố, 27/11/87
Gửi Bùi lão điệt vô cùng
thân thiết!
Cháu gửi ta thi thơ vô lượng,
khóc cười ứng hợp, đậm nhạt hài hòa. Đọc rất hứng thú, như lảng đãng trong vùng
hoan hỉ.
Vườn ta như trúc có lòng, từ
khi cháu đến, nay có người dặm dà rong ruổi, nở được một đóa cười. Nhưng mưa vu
vơ chẳng tạnh, phóng túng hình hài, ngang tàng tính mệnh không làm đâu!
Nay ta
đang ở bến xa, trông về sa mạc, tâm cảnh chất chồng. Sáng chỉ thấy Thiền Vu,
chiều chiêm bao bờ núi. Tình chan chứa lặng thinh không nói một lời!
Gởi cháu di ảnh “Heidegei”*
phiêu bồng, cùng bao la ẩn ngữ thà làm phim phỉ thuý thơ thẩn bờ xanh.
*Hơ-đơ-gây (nói lái của
Martin Hiedegger)
Vĩnh biệt anh Bùi Giáng
Bùi huynh! Trung Phước đợi
anh về
Đồi cũ mong người thuở “giữ
dê”
Giọt giọt “mưa nguồn” rơi chằng
ngớt
Sài Gòn xa vọng tiếng mưa
quê!
TƯỜNG LINH
(Trung Phước)
Thấp cao nào thuộc về chân cẳng
Có trèo lên mấy chục tầng lầu
Và nằm phục xuống như con rắn
Núi đời thành thị vẫn nương
dâu
Thấp cao vậy chắc là trồi sụt
Trồi quỉ ma và sụt thánh hiền
Cái gì ở ranh cao thấp
Một ÔNG BÙI giáng giữa thanh
thiên!
BÙI CHÍ VINH
“Nhất phiến tài tình thiên cổ
lụy”
Đã chơi thì mặc xác luân hồi
PHẠM THIÊN THƯ
Hơn bảy mươi năm lạc cõi đời
Chỉ là chớp mắt một trò chơi
Có không không có ông hằng
rõ
Sinh tử hề chi chuyện nhỏ
thôi
NGUYỄN ĐĂNG TRÌNH
Thoắt nhanh một trận say dài
Tóc bay trắng thác đổ ngoài
hư không
Vĩnh biệt anh
NGUYỄN THỤY KHA
Con kính viếng hương hồn của
thầy
“Cổ kim hậu sự thiên nan vấn
Nghe một lần vĩnh viễn gặp
hư không” (BG)
Con, người học trò thơ của
thầy
TRẦN TUẤN KIỆT
CÔNG TY LUẬT MINH KHUÊ(Sưu tầm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét