Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016

Đọc tập thơ “Mưa phố” của Hương Đình

Đọc tập thơ “Mưa phố” của Hương Đình
Tự nói về mình, nhà thơ Hương Đình có viết: “Tôi cố gắng để - nói theo ngôn ngữ của toán học - các tác phẩm của mình khác nhau từng đôi một”. Đúng là ngôn ngữ của một Nhà thơ - Tiến sĩ Toán học. Tôi chưa được đọc cả ba tập thơ nên chưa thấy được cái khác nhau từng đôi một đó như thế nào. Giờ đây, trước mắt tôi là tập Mưa Phố (NXB Thuận Hóa, 2001) của Hương Đình, nên đành phải cố gắng để tìm một chút cái khác đó của nhà thơ.
Nhan đề là Mưa Phố, nên có nhiều bài thơ nói về mưa. Có bài mưa xuất hiện và đi nhanh, thoáng qua như một cơn mưa giông, chỉ có mấy chữ, một dòng, một câu thơ, nhưng cũng có bài, như mưa đến khắp nơi: “mưa đằng đông, mưa đằng tây, mưa đằng nam, mưa đằng bắc” (Mưa), mưa âm ỉ, mưa liên miên, mưa bất tận:
                             “Mưa
                             Lại mưa
                             Như không thể khác
                             Lâm thâm đồng sương
                             Ầm ào núi thác
                             Khi nhè nhẹ vỗ về nước mắt
                             Khi dai dẳng khuya
                                                    ngõ phố
                                                                    tiếng rao buồn”
                                                                                (Mưa)
Tôi là người ở cái xứ quanh năm bốn mùa đều có mưa. Những cơn mưa đặc biệt gửi bao nỗi niềm cho kẻ tha hương và những người nơi khác hướng về những cơn mưa Huế. Nhiều văn nghệ sĩ đã dành nhiều bút mực, màu sắc, âm thanh để ngợi ca những nét thần của mưa Huế. Nhưng có lẽ mỗi người, mỗi tác phẩm tuyệt vời của họ cũng chỉ vẽ lại  một sắc thái của những cơn mưa quanh năm xứ Huế:“mùa xuân mưa bấc, mùa hạ mưa giông, mùa thu mưa ngâu, đầu đông mưa lũ, cuối đông mưa dầm”. Thuở còn đi học ở trường Quốc học Huế, rồi lại lên đại học Văn Khoa, đại học Sư phạm Huế, mỗi sáng thức dậy, việc đầu tiên là ra sân nhìn trời xem có chút hy vọng nào về một ngày nắng đến trong cái cảnh: “…sương khói mờ nhân ảnh” (Hàn Mặc Tử) này không. Đọc “Mưa Phố”, tôi có cảm tưởng rằng Hương Đình đã đem tất cả những cơn mưa bốn mùa của Huế về lại chỉ một bài thơ ngắn (Mưa), với đủ mọi sắc thái khác nhau , thật tuyệt.
Nhưng “Mưa Phố” không chỉ nói về mưa, mà qua mưa nhà thơ như muốn gợi lại, nhớ lại những hình ảnh về ngày tháng đã qua. Nhà thơ viết về phố núi - nơi nhà thơ đang ở và công tác - mà như đang nói về một miền quê của một thời mà nay không còn. Tập thơ vì vậy như là một hoài niệm về dĩ vãng thời xa xưa của bản thân. Chính trong bài thơ Mưa, ta có thể bắt gặp những hình ảnh quen thuộc của tuổi nhỏ mọi người: “có thằng bé mong mưa ra tắm” (Mưa). Mưa Phố chỉ là một gợi nhớ. Và trong dòng hồi tưởng đó, mỗi một sự việc dù rất bình thường cũng đều gợi lại cho nhà thơ những nỗi nhớ.
Nghe tiếng ếch kêu trong đêm mưa, nhà thơ nhớ lại tiếng ếch kêu ngày còn ở quê nhà trong những đêm mưa gió và những hình ảnh xưa hiện lên:
                             “…Lụt trắng ngoài kia
                             Chưa đến hăm ba tháng mười
                             Hết lụt thì tết
                             Qua tết lại giỗ
                             Tháng giêng cô láng giềng có người chạm ngõ
                             Ếch mày còn kêu đến tháng giêng không?”
                                          (Ếch, một đêm)
Nghe tiếng đàn nhị nhớ đến hình ảnh một chuyến đi xa vĩnh viễn của một người nào đó:
                             “…Đêm tha hương
                             Một người vương
                             Tiếng nhị buồn
                             Tiếng nhị buồn…”
                           (Đêm nghe tiếng đàn nhị)
Trong “Mưa Phố”, không có thơ nói về tình yêu dù là kiểu tình yêu thoáng qua, nhẹ nhàng hay hồn nhiên của một thời tuổi nhỏ mà chủ yếu chỉ là những kỷ niệm của đời thường của nhà thơ – cũng có thể là của chúng ta (tắm mưa, thả diều v.v..)
                             Diều giấy tạp
                             Dây vải vụn se vào rơm
                             Thế mà níu được hoàng hôn
                             Mà đắm được một mặt trời cháy dở
                                                   (Chiều chiều)
Hai câu đầu thì đúng là cánh diều của những ngày ấu thơ ở nông thôn, nhưng hai câu sau lại là cánh diều đầy suy tưởng của thời kỳ sau này. Trong khung cảnh đó, hình ảnh người mẹ quê hiện lên đầy cảm xúc và sinh động:
                             Tôi men theo chạng vạng đồi sim
                             Mẹ chờ trước cửa
                             Rồi tôi đi
                             Quả sim mẹ héo dần trong rổ cạp
                             Tôi lâu không về
                             Mẹ chờ trước cửa
                             Tiếng quạ chiều thảng thốt mé đồi sim.
                                          (Chiều chiều)
Tuy nhiên, viết về quê hương, về những ngày qua, nhà thơ không chỉ kể mà chính là muốn bày tỏ những suy tưởng của mình. Vì vậy, qua mỗi chi tiết, sự việc, người đọc dễ dàng nhận ra điều đó. Có thể gọi đó là chất triết lý. Những câu thơ trích dần trong bài Chiều chiều ở trên cũng đã mang tải biết bao ý vị về nhân sinh. Mặc dù vậy, nhà thơ không dùng những cách nói nặng nề, khô khan của triết lý mà chỉ là những lời lẽ nhẹ nhàng sâu sắc:
                             Miền ảnh hai chiều vô cảm
                             Ta xoay tìm chiều linh hồn
                             Mới biết vùng thăm thẳm ấy
                             Chưa về khi chưa hoàng hôn …
                             Sắc đó để rồi không đó
                             Ta xoay tìm đáy cuộc chơi
                             Bạn bè năm cùng tháng tận
                             Dần thưa quanh chỗ ta ngồi
                                (Xem ảnh ảo ba chiều)
Nhiều bài thơ mang dáng dấp triết lý nhẹ nhàng, xa xôi, mơ hồ ấy; “Đêm nghe tiếng đàn nhị”, “Giêng hai”, “Khuya nào”, “Một vai tuồng”, “Màu”, “Nợ”, “Ám ảnh”... trong loạt bài này, nhà thơ như muốn bày tỏ suy nghĩ của mình về cuộc sống (của mình, của mọi người...). Có bài rất ngắn nhưng lại ẩn sau chữ nghĩa biết bao điều:
                             Những giả thuyết chìa ra biết bao câu hỏi
                             Mưa. Mưa xiên vào từng giọt!
                             Ta ngồi xoay dấu ba chấm đời mình
                             Bên những ếch những hồn rong ruổi sáng
                             Dấu chấm hết trang cuối cùng luận án...
                                                (Dấu)
Tôi có người bạn đồng hương, vong niên, đã hơn 50 năm làm thơ. Trong tập thơ ra mắt bạn đọc năm 2010, anh đã tự bằng lòng với cuộc sống hiện tại:
                             Ngôi nhà trên đồi cao
                             Anh sẽ hát cho em nghe bài tình ca thứ nhất
                             Dỗ dành giấc ngủ người vợ Tào Khang
                             Như thế  mình đi hết một đường đời.
                        (Ngôi nhà trên đồi Monterey Hills – Kiêm Thêm)
Nhưng đó là lời của người bước vào tuổi “xưa nay hiếm”, còn tương lai của nhà thơ của chúng ta không phải là “khung cửa hẹp”, là dấu chấm hết.
Có hai bài thơ liền kề với nhau và cùng nói về một đề tài, bài “Tự họa” và bài “Tiếng vọng” làm tôi suy nghĩ mãi. Nhan đề là Tự họa tức là tự vẽ, tự nói về mình, nhưng nghe chừng mơ hồ hơn Tiếng vọng tôi nghĩ có lẽ nên đổi tên của hai bài thơ cho nhau là hay hơn. Lại chợt nghĩ, tác giả đã đặt như thế chắc là phải có dụng ý. Chưa chắc nói nhiều đã hơn nói ít.
                             “…Ngày tôi dựng búp tay làm ngọn tháp
                             Xiêm áo phai như thành quách theo mùa
                              Ngày tôi mở lòng tay làm gốc rạ
                             Giật mình nghe sung rụng dưới ao chua
                              Phơi phới tôi tan ra trăm mảnh gió lùa
                             Lằng lặng tôi nghiêng mình thành dáng khói
                              Lập lòe sáng rồi thăm thẳm tối
                             Đom đóm tôi giăng một miền mưa”
                                                (Tự họa)
Nói về tôi mà sao thấy bâng khuâng như mây bay, gió thoảng. Tôi là ai? Cuối cùng: “Đom đóm tôi giăng một miền mưa” lại càng mơ hồ hơn.
Trong bài Tiếng vọng, lần theo tiếng gọi xa xôi, nhân vật tôi đang trở về với những hình ảnh xưa cũ, quen thuộc: Cánh đồng làng mùa gặt, có bước chân trần tung tăng khắp bờ ruộng, có chú dế mèn khúc lãng du lá cỏ… vậy mà, cũng như bài Tự họa nhà thơ kết thúc bài Tiếng vọng cũng mơ hồ không kém:
                             “…Kìa tôi ơi gì lãng đãng như sương?
                             Là khói ấy, lá vườn hoang tôi đốt
                             Gọi chim về khơi về tiếng chuông ngân
                             Là tôi ấy, ánh ngày lơ đãng tắt
                             Chợt ngước nhìn trước cửa một vầng trăng”
                                             (Tiếng vọng)
Hóa ra trong tâm tư tình cảm của nhà thơ ngày nay, cái hình ảnh ngày xưa ấy vẫn luôn luôn hiện lên, khi lãng đãng thoáng qua như sướng khói nhưng cũng rất bền chặt, ngự trị trong cái tôi của mình.
Có một loạt những bài thơ mà khi đọc lên người đọc nghe âm hưởng kiểu lẩy Kiều, tập Kiều, Phố núi, Trịnh Công Sơn, Giêng hai, Ngẫu hứng ca dao I, Ngẫu hứng ca dao II v..v..chính là loại bài đó.
Đọc những bài thơ này ta mới thấy nét tài tình của nhà thơ khi đưa những chi tiết trong sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ tài hoa họ Trịnh hay lời của bài thơ được phổ nhạc Còn một chút gì để nhớ (Thơ: Vũ Hữu Định - Nhạc: Phạm Duy) để nói về phố núi bây giờ hay nói về cuộc sống ngày nay. Tài tình thay, âm hưởng vẫn là nhạc Trịnh là thơ Vũ Hữu Định, nhưng bên trong lại là một hiện thực mới khác trước với biết bao luyến tiếc về một thời:
                             “Phố núi cao cao
                             Nhà phố cao cao
                             Thêm bao mặt người
                             Bớt vài con dốc
                             Phố xoay con hẻm phố ra mặt tiền
                             Ngoại ô rơm vàng mây trắng điềm nhiên
                             Môi hồng phai chưa
                             Má đỏ đâu rồi
                             Một chiều mùa đông quán cóc ta ngồi
                             Em đi phố về bước ngang qua đó
                             Xin cảm ơn
                                             còn chút gì để nhớ
                             Xin cảm ơn
                                            một vạt tóc thề”
                                                (Phố núi)
Kết thúc bài thơ viết về họ Trịnh, Hương Đình viết:
“…Da vàng đây xương thịt người ôi vết cháy ru ngậm ngùi
Vòng tay lớn nối vào đi yêu đời nhé khóc mà chi
Chủ nhật buồn chuông thinh không người gác trọ soi bóng mình
Ôi hai vai như biển rộng gánh làm sao được cõi mộng
Thôi ta về ừ người đi hoa mấy vòng rong mấy phố
Ta cùng họ ta còn nợ du ca này lời thiên thu.”
(Trịnh Công Sơn)
Khi tôi đang viết những dòng này cũng là ngày kỷ niệm đúng 10 năm ngày mất của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Hương Đình viết bài thơ này gần 10 năm trước, ngày sau khi Trịnh Công Sơn mất. Vậy mà đọc lại bài thơ, tôi có cảm tưởng rằng có lẽ nhà thơ Phố Núi của chúng ta cũng đã cảm nhận được – trong một chừng mực nào đó - suy tưởng của nhạc sĩ qua các ca khúc của ông.
Ngoài hai bài thơ trên, thì “Giêng hai”, “Ngẫu hứng ca dao I” và “ Ngẫu hứng ca dao II” cũng là cách liên tưởng tương tự, góp phần vào việc thể hiện những nội dung mới theo kiểu lẩy Kiều ngày trước. Theo tôi thì Hương Đình đã mạnh dạn đã thành côn trong kiểu diễn đạt này. Chẳng hạn như đoạn cuối bài Giêng hai:
                             “…Anh quay về chiều ấy, giêng hai mưa
                             Cầu vồng thấp ngang đầu, vườn kịp nắng
                             Trèo cành bưởi, đắng một bông hoa trắng
                             Bước xuống vườn cà, chát một nụ tầm xuân.”
“Mưa phố” còn nhiều bài thơ khác rất ấn tượng như “Cắt hình đám cưới”, “Một vai tuồng”, “Thời gian” v.v. Mỗi bài là một bài thơ-cuộc đời đầy ý nghĩa, nhưng trước hết vẫn là “cái tôi” của nhà thơ Hương Đình.
                             “…Thời gian, người mơ gì kia?
                             Đã là đêm thứ bao nhiêu rồi nhỉ,
                                      Tôi nằm nghe tiếng lá chạm bên thềm
                             Đằng sau cơn lũ là phía trước mùa xuân,
                                      Hòn than ủ dưới tro tàn âm ỉ cháy
                             Nhân chứng cùng tôi giữa hai bờ thế kỉ
                             Là cội mai vàng sau bão, để làm tin…”
Như đã nói ở phần đầu, tôi chưa được đọc mấy tập thơ trước và sau tập thơ “Mưa phố”, nhưng chỉ cần qua tập thơ này, tôi cũng đã cảm nhận được một nét mới, một cái khác với những tác giả khác của thơ Hương Đình, từ nội dung ý tứ, đến những hình ảnh thơ mới lạ. Sau tập thơ đầu (Trăng lửa - 1994), bảy năm sau Hương Đình mới ra mắt tập thơ thứ hai này. Tôi tin với những nét mới đó, nhà thơ - Tiến sĩ Toán học - của chúng ta chắc sẽ làm cho bạn yêu thơ say đắm hơn với những sáng tác sau này.
01/4/2011
Hà Nguyên Trường
Theo http://cdspgialai.edu.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2

Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng 2 MƯỜI SÁU Trên mênh mông vùng đồi xứ Ai Len Tôi được Ban lãnh đạo khu sáng tác mang tên nh...