Lời giới thiệu của người dịch:
Các thuật
ngữ Shanshin, Daishin, Kishin, Roshin, Tenzo... trên đây là tiếng Nhật gốc Hán
ngữ và đã được giữ nguyên trong bản gốc tiếng Pháp. Chữ Tenzo (nơi tựa bài giảng
của Đạo Nguyên) là danh hiệu dùng để gọi người đầu bếp trong một ngôi chùa. Nói
chung chữ "Tâm" (Shin) là một thuật ngữ chủ yếu và vô cùng quan trọng
đối với Thiền Học nói riêng và Phật Giáo Đại Thừa nói chung, đặc biệt là ở các
nước Á Châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, thế nhưng lại là một
thuật ngữ khá "mơ hồ" vì rất khó xác định.
Chữ tâm nguyên nghĩa của nó là con tim, quả
tim hay trái tim, đấy chẳng qua là vì người Phương Đông - ít ra là trên phương
diện từ nguyên và thuộc nền văn hóa của một số quốc gia kể trên -
"nghĩ" rằng sự suy nghĩ phát sinh từ quả tim trong lồng ngực, trong
khi đó thì người Tây Phương lại cho rằng sự suy nghĩ phát sinh từ não bộ. Chính
vì thế mà các chữ như "tâm thức" (esprit/spirit) và "tri thức"
(conscience/consciousness) của người Tây Phương có vẻ chính xác hơn trên phương
diện khoa học, tuy nhiên không phải vì thế mà chữ "tâm" của người Á
Đông thiếu "chính xác" hơn nếu nhìn dưới một khía cạnh nào đó. Một
thiếu nữ e thẹn thì đôi má đỏ hồng, hai mắt chớp chớp, một người giận dữ thì
gương mặt nhăn nhíu và đỏ gay hay tím ngắt và tay chân thì run rẩy, một người
buồn khổ thì đôi mắt ngơ ngác, tay chân bủn rủn, v.v. Trong tất cả các trường hợp
đó thật hết sức rõ ràng là quả tim giữ một vai trò chủ yếu vì nó sẽ đập nhanh
hay chậm hơn so với bình thường, sự tuần hoàn của máu huyết do đó sẽ không được
bình thường và cơ thể sẽ tiết ra các chất kính thích tố (hormone) "thuận lợi"
hay "bất lợi" tương ứng với các thể dạng xúc cảm ấy.
Chữ "tâm" của Đông Phương nói lên một sự kết hợp giữa sự vận hành của
tri thức trong não bộ và nhịp đập của quả tim trong lồng ngực cũng như các kích
thích tố trong cơ thể, do đó chữ tâm trong trường hợp này phản ảnh toàn bộ sự sống
của một cá thể. Các tôn giáo độc thần chia cắt sự sống ra thành hai thành phần
khác biệt nhau gọi là "phần hồn" và "phần xác", trong khi
đó Phật Giáo quan niệm sự sống là một tổng thể phức tạp do nhiều điều kiện mà
có, cái tổng thể ấy vận hành liên kết và tùy thuộc vào các điều kiện làm phát
sinh ra nó và đồng thời tương kết và liên đới với vô số các điều kiện khác nữa
thuộc môi trường bên ngoài. Tâm thức và thân xác chỉ là hai khía cạnh của một sự
vận hành chung gọi là sự sống. Đối với Phật Giáo không có cái tôi nào gọi là
"phần hồn" được xác định một cách cá thể, trường tồn và bất biến, và
"thân xác" - cũng như "phần hồn" - cũng chỉ là một thể dạng
cấu hợp liên kết chặt chẽ với tâm tức qua các phản ứng xúc cảm. Cũng xin nhắc
thêm là đối với Phật Giáo Theravada cũng như Phật Giáo Tây Tạng - chẳng hạn như
qua các bài giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma - thì chữ "tâm" mang ý nghĩa
rất gần với các chữ "tâm thức" và "tri thức" của người Tây
Phương, tức là gần hơn với Tâm Lý Học và Khoa Học nói chung, trong khi đó thì ý
nghĩa của chữ "tâm" trong Phật Giáo Đại Thừa và đặc biệt là Thiền Học
thì gần với sự vận hành của xúc cảm hơn, tức là liên đới trực tiếp hơn với sự sống
qua tổng thể của nó như đã được nói đến trên đây.
Ngoài ra với mục đích mở rộng vấn đề, cũng xin nhắc lại câu đầu tiên trong kinh
Pháp Cú - làManopubbangama dhamma - thường được dịch sang tiếng Hán và tiếng
Việt là: "Tâm dẫn đầu các Pháp", cách dịch này có thể bị hiểu
sai lạc. Trước hết chữ Pháp (dhamma/dharma) trong trường hợp này chỉ có nghĩa
là hiện tượng (phenomenon), không có nghĩa là Đạo Pháp (Dhamma/Dharma), và đối
với chữ tâm (mana/mano) thì nên hiểu và nên dịch là "tâm thức" hay
"tri thức" thì chính xác hơn (cũng xin ghí chú thêm là chữ mana trong
tiếng Phạn có nghĩa là tâm thức/mind, thế nhưng trong tiếng Pa-li thì có đến
hai nghĩa: quả tim và tâm thức).
Sở dĩ mạn phép dài dòng như trên đây là với mục đích mong rằng có thể giúp người
đọc theo dõi bài giảng của Thiền sư Moriyama được dễ dàng hơn chăng? Thật vậy
các bài giảng của Thiền Học nói chung thường ngắn gọn, xúc tích và rất trực tiếp,
tức là thường dựa vào các cảm nhận bằng "trực giác" của con tim hơn
là sự "lý luận" của khối óc. Dưới đây là bài giảng của Thiền sư
Moriyama trong một tu viện nhỏ của hội thiền "Nơi An Trú Vô Biên"
(Demeure sans Limites) tại Ardèche, một vùng cao nguyên khô cằn và thưa dân thuộc
miền cận nam nước Pháp.
Bài giảng của Thiền sư Moriyama
Daishin (Đại Tâm): là một Tâm Thức mênh mông như đại dương: tâm thức ấy tiếp
nhận nước đổ ra từ tất cả sông ngòi, không loại trừ một dòng nước nào cả. Đấy
là tâm thức của những người biết tiếp xúc với các cảnh huống qua một tầm nhìn mở
rộng, và không hề xem mình là một điểm chuẩn. Mỗi khi nhìn vào chính mình thì
chúng ta thường phản ứng bằng cách: tôi thích cái này, tôi không thích cái kia.
Chính vì thế nên chúng ta luôn nhận thấy thế giới thuộc bên ngoài chính mình nhằm
để xác định nó là tốt hay không tốt, tùy theo thế giới ấy [hiện ra] có phù hợp
hay không đối với với sự mong muốn (desires/dục vọng, sự thèm khát, đam
mê...) của chính mình.
Chúng ta luôn có cảm tưởng mình là trung tâm [của tất cả], mọi sự vật và con
người đều quay chung quanh, và mình thì tìm đủ mọi cách để hoặc xô bỏ các thứ ấy
ra, hoặc lôi chúng vào với mình. Đấy là một thái độ vô cùng mỏi mệt, làm tiêu
hao không biết bao nhiêu sinh lực.
Đại sư Đạo Nguyên có nói rằng: "Dù ở đâu và trong bất cứ hoàn cảnh
nào, chúng ta phải luôn phát lộ được sự sống của chính mình. Người đần độn nhìn
cuộc sống của mình cứ như là cuộc sống của một người khác vậy (tức là qua các
hình thức bám víu và níu kéo nào đó), chỉ có kẻ hiền nhân mới hiểu được là dù
phải liên hệ với kẻ khác thì mình vẫn có thể phát lộ được sự sống của chính
mình xuyên qua các mối dây liên hệ ấy (ý nghĩa của câu "phải luôn
phát lộ được sự sống của chính mình" nói lên một sự "trở về với chính
mình" và nhất thiết không có nghĩa là "biểu lộ cái tôi" của
mình. Sự trở về ấy là sự quán thấy sự sống đích thật của chính mình, dù là mình
đang tương kết với bối cảnh bên ngoài và các sự sinh hoạt trong xã hội. Sống bằng
cách phóng nhìn vào kẻ khác và nhận thấy mình xuyên qua các mối tương giao với
kẻ khác trong xã hội - để cảm thấy mình là đang sống - thật ra chỉ là một sự
xao lãng và mất định hướng, và đấy là cách đánh mất chính mình và phung phí sự
sống của chính mình).
"Tâm tỏa rộng là tâm không còn cái tôi và không còn bám víu, và mình sẽ
không còn tự nhận diện mình qua một Cái Tôi chính xác nào nữa cả, tức là một
cái tôi yêu thích cái này này hay ghét bỏ cái kia, và cũng nhờ đó mà mình biết
sống hài hòa với tất cả những gì hiện ra với mình. Mình sẽ không còn đánh giá mọi
sự vật (là tốt hay xấu) nữa, hầu giúp mình sống thật hài hòa với bất cứ cảnh huống
nào xảy ra (xin lưu ý là cách hành xử đó không phải là một thái độ nhu nhược,
ba phải hay bỏ qua mà là một sự hòa nhập với hiện thực, một sự buông xả từ bên
trong nội tâm mình). Tất cả đều trở thành cội nguồn mang lại an vui và các kinh
nghiệm sống cho chính mình".
Hãy hình dung trường hợp một người chỉ thích toàn của ngọt..., sau một thời
gian người ấy sẽ không sao tránh khỏi sự chán ngấy! Tại sao lại phải gạt bỏ tất
cả các hương vị [khác] của sự sống, [dù là] cay đắng hay dịu dàng, thô bạo hay
ngọt ngào.
Tâm tỏa rộng không hề bị các hoàn cảnh quấy nhiễu. Đai sư Đạo Nguyên còn nói
thêm rằng: "Không nên để mình bị mê hoặc bởi âm thanh của mùa xuân,
cũng không để cho con tim mình phải trĩu nặng vì màu sắc của mùa thu!".
Nếu không thì cuộc sống của mình cũng sẽ trở nên khi thì thế này khi thì thế
khác, lúc thì bị khích động lúc thì rơi vào sự trầm cảm, cứ như là con yô-yô!
Tâm tỏa rộng vững vàng như một trái núi, tương tự như tư thế ngồi thiền, đó là
sự rộng lớn, lòng khoan dung.
Khi nào tâm không còn bị "cái tôi" gây ra các thứ chướng ngại cũng
như mọi sự phân biệt và các định kiến, và nhất là khi nào chúng ta không còn
tìm cách bám víu vào thế giới để tìm kiếm lợi lộc nữa, thì khi đó Kishin
(Tâm vui sướng) mới có thể hiện lên với mình được. Sự vui sướng ấy rất sâu xa,
phát sinh từ thể dạng Nhất Thể (Unity) bên trong nội tâm mình, [với thể dạng Nhất
Thể ấy] sẽ không còn [xảy ra] một sự giằng co hay một cuộc chiến nào nữa cả, đó
là thể dạng Nhất Thể đối với bên ngoài (thế giới) và cả bên trong (nội
tâm). Sự vui sướng đó không phải là một sự vui sướng cuồng nhiệt, chẳng hạn như
đạt được một cái gì đó đúng với sự thèm muốn của mình, mà đúng hơn là một thể dạng
hiện hữu thật tròn đầy, một sự hài hòa sinh động, ăn nhịp với từng giây phút
trong cuộc sống của mình (tương tự như lên dây đàn cho đúng với từng nốt nhạc).
Niềm vui sướng đó hiển lộ từ bản chất sâu kín của mình, từc là bản thể của Phật
(tức là Phật Tính), một bản thể trống không về tất cả mọi ảo giác.
Đấy là tiếng hát của sông suối, tiếng reo của gió trên các ngọn thông, tiếng nhạc
của chim trời. Niềm vui sướng ấy thật linh động, tỏa rộng và thấm sâu vào từng
sự vật. Khi nào hiểu biết được một cách sâu xa thế nào là sự sống và cái
chết, hạnh phúc và khổ đau - và chấp nhận chúng - thì sự vui sướng ấy mới có thể
hiện ra, tỏa rộng chung quanh mình hầu mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Thật vậy, nếu không thực hiện được tâm tỏa rộng và tâm vui sướng, thì Koshin (Tâm
yêu thương) - tức là sự phát lộ của lòng từ bi - sẽ không sao có thể hiển
hiện được. [Tu tập] không phải là cách biến mình trở thành vô cảm, tương tự như
một khối đá, cũng không phải như "một kẻ ngô nghê cảm thấy mình hạnh
phúc", mà là cách thực thi thật tròn đầy các mối dây tương liên và tương
tác (interdependence/lý duyên khởi) giữa mình và thế giới: sở dĩ chúng ta hiện
hữu ấy là nhờ vào tất cả các chúng sinh khác cũng như mọi sự vật khác cùng hiện
hữu với mình.
Không có bất cứ một hạt bụi nhỏ nhoi nào trong thế giới mà lại không góp phần
vào sự hiện hữu của chúng ta.
[Vậy thì] nếu muốn phân biệt giữa mình và kẻ khác thì phải làm thế nào? Đại sư
Đạo Nguyên có nói rằng:"Trên dòng luân lưu của thời gian, [một lúc nào đó]
chúng ta sẽ trở thành kẻ khác, và kẻ khác sẽ trở thành chúng ta. Vậy tại sao lại
[khước từ mà] không chia sẻ với họ những niềm hân hoan cũng như những khổ đau của
họ? Chỉ có những kẻ ngu đần mới nghĩ rằng chăm lo cho kẻ khác là cách mang lại
mọi thứ thiệt thòi cho chính mình" .
Mỗi
một cử chỉ thân thiện và thương yêu (dù thật nhỏ nhoi) đều sẽ tỏa rộng
trong toàn thể vũ trụ này.
Tâm tỏa rộng, tâm vui sướng và tâm thương yêu là các thể dạng tâm thần của một
môn đệ của Đức Phật. Nếu muốn vượt thoát ra khỏi thế giới của dục vọng và hình
tướng, chúng ta phải biết tu tập bằng cách buông bỏ chính mình. Xuyên qua sự tu
tập ấy của mình chúng ta sẽ trông thấy được sự hiện hữu của chư Phật, và đấy là
Con Đường Rộng Lớn đưa mình đến gần với họ.
Ngưỡng
mong chính chúng ta và tất chúng sinh đều đạt được Giác Ngộ.
Thiền sư Moriyama thuyết giảng những lời trên đây tại thiền viện "Nơi An
Trú Vô Biên" (La Demeure Sans Limites) ngày 20 tháng 6 năm 1993, nhân dịp
kỷ niệm một năm ngày thành lập của tu viện này, và sau đó còn nói thêm một vài
lời với cử tọa như sau:
Cách nay một năm tại "Nơi An Trú Vô Biên" này, một hạt giống đã được
gieo trồng, đó là hạt giống Dharma (Đạo Pháp).
Phát sinh từ những ước vọng trong sáng và quyết tâm của các Vị Thầy [tiền bối],
hạt giống ấy đã bắt rễ [ở nơi này], và năm nay chúng ta được trông thấy nhú lên
những chồi đầu tiên. Vậy chúng ta hãy cùng nhau vui hưởng sự hiển lộ đó của
Giáo Huấn Đức Phật.
Đại sư Đạo Nguyên có viết một câu như sau: "Âm thanh của sông suối
chính là những lời kinh và tiếng nói của Phật, vóc dáng của núi đồi là thân xác
tuyệt vời của Phật..."
Từ Ấn Độ đến Trung Quốc, từ Nhật Bản đến Âu Châu, ở bất cứ nơi nào đất cũng
luôn là thân xác của Phật. Dù là ở Phương Đông hay Phương Tây, Dharma (Đạo
Pháp) luôn hiển hiện trong từng âm thanh, từng màu sắc và từng khoảnh khắc của
thực tại.
Dharma đang hiển hiện tại nơi này, trên đất Pháp này.
[Hãy cứ để cho] Thân và Tâm hòa mình trong niềm vui sướng và trí tuệ của Phật.
Cầu mong Cội Bồ Đề luôn lớn mạnh hầu che chở cho tất cả chúng sinh!
Thiền sư Moriyama
La Demeure Sans Limites (Nơi An Trú Vô Biên)
Riou la Selle
07320 St Agrève - FRANCE
(Larbredeleveil.org)
Vài lời ghi chú của người dịch
Tâm tỏa rộng, tâm vui sướng và tâm thương yêu
là ba thể dạng tâm thức của một người bước theo vết chân của Đức Phật. Ba thể dạng
ấy thật hết sức cần thiết góp phần mang lại thể dạng Nhất Thể (Unity/One) trong
sự sống của mỗi cá thể hầu giúp cho cá thể ấy trở thành MỘT với thực tại. Thực
hiện thể dạng Nhất Thể không phải là cách chối bỏ sự sống cá nhân của mình mà
đúng hơn là cách hóa giải sức mạnh thúc đẩy của các bản năng sinh tồn, truyền
giống và sợ chết chi phối mình và tách mình ra khỏi thiên nhiên và vũ trụ, hầu
giúp mình tìm thấy một sự sống đích thật và hài hòa, phù hợp với những gì sâu
kín nhất trong nội tâm mình.
Vậy chúng ta hãy thử nhìn vào tâm của mình
xem sao. Có phải là cái tâm ấy hiện lên với mình lúc thì hớn hở, lúc thì khổ
đau. Muôn nghìn thể dạng xúc cảm tiếp nối nhau hiện ra với nó, nào là giận hờn,
yêu thương, ham muốn, ghét bỏ, oán hận, mưu mô, tính toán, hy vọng, lo sợ, buồn
bực, tiếc nuối, v.v. khiến nó lúc thì quay về quá khứ, lúc thì hướng vào tương
lai. Các ngọn gió ào ạt và lồng lộn đó của bản năng thúc đẩy "tâm"
mình quay tít như chong chóng, và mình thì cứ khư khư và quả quyết cho đấy là sự
sống của mình, và đồng thời nghĩ rằng mình phải bảo vệ nó và mang lại hạnh phúc
cho nó. Thế nhưng càng bảo vệ nó và tìm kiếm hạnh phúc cho nó thì mình lại
càng mang lại thêm khổ đau cho nó mà thôi.
Dưới một góc nhìn cụ thể hơn thì tâm mình
cũng chẳng khác gì như một tấm gương ném xuống đất và bị vỡ tan, mỗi mảnh phản
chiếu một vài hình ảnh cắt xén và nát vụn của hiện thực. Tâm Nhất thể là một tấm
gương nguyên vẹn phản ảnh trung thực thể dạng tròn đầy của sự sống, nói lên một
sự hội nhập hài hòa giữa vũ trụ và Phật Tính trong nội tâm mình. Tâm tỏa rộng,
tâm vui sướng và tâm thương yêu là ba bước đầu mà người tu tập phải thực hiện bằng
được trên Con Đường hầu giúp mình giữ cho tấm gương Nhất Thể của nội tâm được
nguyên vẹn. Hình ảnh phản chiếu bên trong tấm gương và vũ trụ bên ngoài đều giống
như nhau và tất cả đều trở thành MỘT.
Sau đây cũng xin mạn phép nêu lên vài dòng về tiểu sử của Thiền sư Moriyama Rhoshi. Ông sinh năm 1938 trên đảo Sakhaline ở miền cực bắc nước Nhật, hòn đảo này hiện vẫn còn bị nước Nga chiếm giữ từ sau Thế Chiến thứ II. Năm 22 tuổi ông tốt nghiệp triết học tại một đại học ở Tokyo, và trong dịp này ông gặp được một vị thầy nổi tiếng là Hakusan Kojun Roshi (các vị thiền sư uyên bác thường được mang thêm danh hiệu Roshi, có nghĩa là một vị Thầy lão luyện, đáng kính, tương tự như trường hợp các vị lạt-ma Tây Tạng được mang thêm danh hiệu là Rinpoché) và sau đó ông đã xin xuất gia. Ông tu học rất chuyên cần và được thụ phong tỳ kheo năm 24 tuổi. Ngoài các vị thầy của mình ông còn được thụ giáo với nhiều vị thiền sư uyên bác khác tại nhiều ngôi chùa danh tiếng ở Nhật. Vào cuối thập niên 1960 ông được gửi đi Mỹ trụ trì một ngôi chùa ở San Francisco thay cho nhà sư Shunryu Suzuki Roshi phải rời chùa để thành lâp Trung Tâm Thiền Zen (Zen Center) với các sinh hoạt rông lớn hơn.
Ba năm sau đó ông lại trở về Nhật để giảng dạy và có dịp học hỏi thêm. Năm 1992 vị thầy mới của ông sau này là Niwa Roshi đề cử ông đi Nam Mỹ trụ trì một ngôi chùa ở Sao Paulo, nơi có nhiều người Nhật lánh nạn sau Thế Chiến thứ II. Trong dịp này ông thành lập thêm nhiều hội thiền khác cho người bản xứ ở Sao Paulo và các thành phố khác ở Brazil. Sau đó ông cử một nữ đệ tử gốc người Pháp là ni sư Joshin Sensei tu tập với ông ở Brazil đến các nước khác như Argentina, Uruguay và Chili để thành lập các hội thiền ở các nơi này. Sau khi ông qua đời năm 2011, thì ni sư Joshin Sensei trở về quê hương trụ trì tu viện Nơi An Trú Vô Biên do chính ông thành lập. Mọi người đều có thể đến viếng nơi này.
Sau đây cũng xin mạn phép nêu lên vài dòng về tiểu sử của Thiền sư Moriyama Rhoshi. Ông sinh năm 1938 trên đảo Sakhaline ở miền cực bắc nước Nhật, hòn đảo này hiện vẫn còn bị nước Nga chiếm giữ từ sau Thế Chiến thứ II. Năm 22 tuổi ông tốt nghiệp triết học tại một đại học ở Tokyo, và trong dịp này ông gặp được một vị thầy nổi tiếng là Hakusan Kojun Roshi (các vị thiền sư uyên bác thường được mang thêm danh hiệu Roshi, có nghĩa là một vị Thầy lão luyện, đáng kính, tương tự như trường hợp các vị lạt-ma Tây Tạng được mang thêm danh hiệu là Rinpoché) và sau đó ông đã xin xuất gia. Ông tu học rất chuyên cần và được thụ phong tỳ kheo năm 24 tuổi. Ngoài các vị thầy của mình ông còn được thụ giáo với nhiều vị thiền sư uyên bác khác tại nhiều ngôi chùa danh tiếng ở Nhật. Vào cuối thập niên 1960 ông được gửi đi Mỹ trụ trì một ngôi chùa ở San Francisco thay cho nhà sư Shunryu Suzuki Roshi phải rời chùa để thành lâp Trung Tâm Thiền Zen (Zen Center) với các sinh hoạt rông lớn hơn.
Ba năm sau đó ông lại trở về Nhật để giảng dạy và có dịp học hỏi thêm. Năm 1992 vị thầy mới của ông sau này là Niwa Roshi đề cử ông đi Nam Mỹ trụ trì một ngôi chùa ở Sao Paulo, nơi có nhiều người Nhật lánh nạn sau Thế Chiến thứ II. Trong dịp này ông thành lập thêm nhiều hội thiền khác cho người bản xứ ở Sao Paulo và các thành phố khác ở Brazil. Sau đó ông cử một nữ đệ tử gốc người Pháp là ni sư Joshin Sensei tu tập với ông ở Brazil đến các nước khác như Argentina, Uruguay và Chili để thành lập các hội thiền ở các nơi này. Sau khi ông qua đời năm 2011, thì ni sư Joshin Sensei trở về quê hương trụ trì tu viện Nơi An Trú Vô Biên do chính ông thành lập. Mọi người đều có thể đến viếng nơi này.
Thiền sư MORIYAMA
Bures-Sur-Yvette, 12.06.15
Hoàng Phong chuyển ngữ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét