Thứ Bảy, 14 tháng 2, 2015

Tính từ và một bức tranh xuân

Tính từ và một bức tranh xuân
Tranh là tác phẩm hội họa phản ánh hiện thực bằng đường nét và màu sắc. “Bức tranh ngôn ngữ” được hiểu là những “bức tranh” mà chất liệu tạo nên nó là ngôn từ - thứ ngôn ngữ có khả năng dệt nên những đường nét, hình khối, màu sắc. Mà màu sắc, đặc điểm của đường nét, mảng khối thì thường do tính từ biểu thị. Nên chắc hẳn không ai nghi ngờ về khả năng miêu tả phong cảnh của tính từ. Nhưng tính từ có thể “vẽ tranh” như thế nào thì đến nay chưa có những kết luận rõ ràng. Vì vậy, với bài viết này, chúng tôi muốn xem xét vai trò của tính từ trong việc họa nên một “bức tranh ngôn ngữ” cụ thể - bức tranh xuân đồng bằng châu thổ Bắc Bộ nước ta vào một buổi chiều cách đây hơn nửa thế kỉ. Đó là bức tranh được vẽ bởi tâm hồn nhạy cảm, tài hoa tinh tế của nữ sĩ Anh Thơ trong Chiều xuân ( tập Bức tranh quê -1941). Chúng tôi hi vọng rằng, qua việc xem xét này, có thể rút ra những kết luận bước đầu về vấn đề đặt ra trên.
Bài thơ gồm ba khổ, mỗi khổ là một mảng tranh vẽ những cảnh mà tác giả của nó quan sát được trên con đường từ bến sông về làng.Bức tranh bắt đầu bằng mảng cảnh bến đò:
Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng,Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.
Mưa bụi là thứ mưa đặc trưng của mùa xuân Bắc Bộ. Hạt mưa nhỏ như hạt bụi, màu trắng sữa, lớp lớp đổ xuống dịu nhẹ như khói như sương, tạo nên cảm giác êm êm. Từ êm êm vốn chỉ  cảm nhận của con người qua cơ quan xúc giác khi tiếp xúc với một cái gì đó mềm dịu, và có được cảm giác dễ chịu. Từ dùng theo lối chuyển đổi cảm giác này đã không chỉ góp phần tạo nên cái nền không gian của bức tranh - một màu trắng dịu, mông lung, huyền ảo - mà còn gợi một cảm xúc tích cực của lòng người trước cảnh xuân. Mưa xuân không cô đơn, nó xuống làm bạn cùng bến vắng. Cái vắng vẻ của bến càng giúp giữ vẹn nguyên và tôn nên bức nền trắng mơ ảo của mưa dăng. Cái vắng vẻ ấy cũng phản ánh nhịp sống thư thái, nhàn nhã của người dân trong những ngày đầu năm. Người dân đồng bằng sống gắn bó với mùa vụ. Sau tết là khoảng thời gian mà những công việc gấp gáp, bận rộn đã vơi bớt. Chiều về, trời mưa nhỏ, đường trơn, người dân càng không cố hay vội tiến hành những chuyến đi xa. Nổi lên bên cái nền không gian trắng mờ ấy là con đò và dòng sông. Con đò ở đây không tất tả ngược xuôi như trạng thái vốn có của nó, cũng không mang nỗi ủ ê của kẻ ế khách. Nó như một người đàn ông sau những kì tích hào hùng dẹp bắc đánh tây đang tự cho phép mình thả lỏng thư giãn; lành hiền, dễ dãi làm một thứ đồ chơi cho con trẻ vày vò. Định tố biếng lười cho thấy trạng thái chủ động, thanh thản, thỏa mãn của con đò; sự tự nguyện thả mình cho nước sông đẩy đưa đùa nghịch còn thể hiện khát vọng hòa mình với cảnh xuân. Bên cạnh hai cặp đôi mưa bụi - bến vắng, đò biếng lười - nước sông còn có một cặp đôi thứ ba: mái tranh - chòm xoan. Mái tranh như đang tư lự trong dáng đứng im lìm. Và cái im lìm ấy như tăng lên hơn nữa khi mái tranh được đặt trong một khoảng im lìm lớn hơn - trong vắng lặng. Cách danh hóa tính từ và việc chọn dùng các từ cùng trường (vắng, im lìm, vắng lặng) đã giúp tác giả tạo được một bầu không khí vắng vẻ, lặng lẽ vừa như lan tỏa, vừa như bao trùm toàn mảng tranh. Bến vắng, chiều mưa, quán tranh ấy hẳn không có khách, mà cũng …chẳng có chủ. Nhưng trong ngày xuân, nó không hề hoang lạnh.
Cảm nhận ấy có được ở người thưởng thức nhờ tác giả bức tranh đã phác nó trên một tấm nền tím lãng mạn, tươi tắn, xôn xao. Đó là cái nền được tạo nên bởi muôn cánh hoa xoan tí xíu màu tím pha trắng đang rụng tơi bời - tức rủ nhau bứt tung khỏi bông, ào ạt sà xuống để cùng nhau điểm trang cho cái nền đất cũng được nên thơ, tương xứng với nền trời.
Như vậy, trên tấm nền trời trắng mờ mơ ảo, tấm nền đất tím tươi lãng mạn là một con đò đang hòa mình với sông nước, một quán tranh đang làm bạn với chòm xoan. Mảng tranh tĩnh bởi vắng hoạt động của con người nhưng là cái tĩnh vừa đủ để người ta có thể lắng nghe, cảm nhận được những ấm áp nên thơ, những xôn xao tinh tế của khí sắc thiên nhiên chiều xuân.Nối tiếp bến sông là con đường đê dẫn vào làng. Nữ sĩ phác lên mảng tranh thứ hai:
Trên đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.
Nền của mảng tranh này là một màu xanh lam đậm tươi ánh đầy sức sống của cỏ non. Chút đường mòn nho nhỏ trên đê cũng bị màu biếc ấy tràn lấn. Con đê dường như trẻ trung, rạng rỡ hơn trong tấm áo choàng mà nàng xuân ban tặng. Vì vậy mà những chị sáo bé nhỏ đã không thể cầm lòng, lấy cớ kiếm mồi mà sà xuống. Bổ tố vu vơ (trong mổ vu vơ) đã “tố cáo” mấy kẻ đang bị sắc xuân mê hoặc ấy. Nhưng sức hấp dẫn của con đê xuân không dừng ở đó, nó còn thể hiện ở cái cách thức hoạt động khác thường của những nhân vật to lớn, quen thuộc hơn: những trâu bò đang tha thẩntrên đê. Chúng thong thả cúi ăn bởi đã đến lúc no, bởi không sợ thiếu cỏ hay bởi buổi chiều dễ gợi ưu tư đã nhắc chúng cần thưởng thức món quà của mùa xuân trong sự trân trọng, nâng niu? Có thể vì tất cả những lí do ấy. Một tính từ giản dị mà cho thấy được cả chiều, cả xuân và cảm xúc trước chiều xuân! Bổ tố mưa của cúi ăn vừa khiến hình ảnh thêm chất thơ vừa tạo sự liên kết gắn bó với mảng tranh đầu (mưa đổ thì có nước mưa). Và một điều rất thú vị ở bức tranh này là ta lại gặp phiên bản của đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi. Đó là những cô bướm dẫu có tạo chút cử động nhịp nhàng (rập rờn) nhưng chỉ là để được bắt theo làn gió, được phó thác tấm thân mảnh mai, yêu kiều của mình cho gió đẩy trôi. Thế đó, dưới mặt đê đã có những kẻ bị nàng xuân mê hoặc, trên không trung còn có những kẻ bị xuân làm cho xiêu lòng hơn thế. Vậy là, mảng tranh này gồm hai lớp cảnh; lớp cảnh tầng trên được vẽ bởi nhiều nét đưa thanh nhẹ, mềm mại, uyển chuyển; lớp cảnh tầng dưới có khung nền xanh tươi, trên đó là những chấm đen, mảng vàng, những hình khối to nhỏ, sống động. So với mảng tranh đầu, sắc xuân ở đây như tươi hơn, khí xuân ấm áp, xôn xao hơn.Từ đường đê, con đường vào làng bỗng chuyển xuống, men theo những cánh ruộng. Và đó là cơ hội để xuất hiện mảng tranh thứ ba:
Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.
Những tác động của tiết xuân tiếp tục được hiện ra với vẻ ướt át đến nao lòng và màu xanh non mượt mà của lúa thì con gái. Tấm khung nền vẫn xanh, nhưng những mảng màu và hình trên đó thì dường như nổi bật hơn, ấn tượng hơn. Cái nổi bật là những chấm trắng thanh tao của bao cánh cò và nhất là một chấm đỏ bé nhỏ nhưng đậm đà,tươi tắn của chiếc yếm thôn nữ. Yếm gợi nét trang phục của người phụ nữ Việt Nam một thời, sắc thắm cho ta hình dung tới vẻ đẹp, sức ấm nóng của tuổi trẻ. Màu đỏ thắm ấy lung linh giữa nền xanh rờn của lúa đồng là biểu tượng cho sự hòa quyện giữa sức xuân của thiên nhiên với sức xuân của con người. Như vậy, mảng tranh đầu vắng bóng người; mảng tranh thứ hai dáng mục đồng được gợi ra qua sự xuất hiện của lũ trâu bò; đến mảng tranh này, ở hai câu cuối, con người đã thực sự hiện ra. Sự sắp đặt khéo léo của tác giả đã đưa con người vào vị trí nổi bật của bức tranh. Và qua đó, một thực tế cũng được phản ánh: nhịp sống của đồng bào Bắc Bộ ta thời đó thật chậm và thư thả, những ngày đầu năm, không khí ấy càng biểu hiện rõ rệt.
Nét ấn tượng thì thể hiện ở chỗ thế quân bình giữa những cặp đôi, những tập thể ở hai mảng tranh trước đang nhường chỗ cho sự đối lập về lượng và về chất giữa lũ cò con ngây thơ và một cô nàng đã tới độ đằm thắm. Sự đối lập về lượng do các danh từ, số từ tạo nên, còn sự đối lập về chất có được phần lớn nhờ vai trò của các tính từ  (con và thắm). Một nét ấn tượng nữa là cái thế “động” đặc biệt của mảng tranh. Không còn nữa vẻ đều đều của mưa đổ, hoa rụng hay trâu bò gặm cỏ, cái “động” ở đây được tạo bởi đôi nét vẽ thanh gọn mà mạnh mẽ, dứt khoát. Đó là cái vụt bay của lũ cò con, dẫn theo cái giật mình của cô nàng yếm thắm. Bổ tố tính từ vụt tạo nét vẽ mới mẻ, bổ tố giật mình thì vừa làm nên vẻ độc đáo của mảng tranh vừa gợi một cảm nhận thống nhất với những mảng tranh trước. Bởi tiếng động mà lũ cò nhỏ tạo ra bất ngờ nhưng không thể lớn; không lớn thì sao đã khiến thôn nữ giật mình? Nếu nàng tập trung vào việc cào cỏ và để ý tới cảnh vật xung quanh thì có bị cái vụt bay của lũ cò tác động đột ngột đến giật nảy mình lên như vậy? Hẳn là do nàng đang miên man theo những tâm tình; trước mắt nàng hẳn vẫn là dáng hình, ánh mắt hút hồn của một người trai thương nhớ đã gặp tự lúc nào, bên tai nàng có lẽ chỉ âm âm những lời thủ thỉ yêu thương. Đò và cánh bướm thả mình theo mùa xuân, nàng không thả mình bởi chính nàng với sắc yếm thắm trẻ trung, nồng nhiệt đã là hiện thân của mùa xuân. Nhưng nàng thả hồn theo tình xuân. Hay tình xuân vốn chan chứa trong nàng?
Những cánh cò vụt bay ra báo hiệu sự sống của cá tôm đang dồi dào dưới lớp lá lúa phủ che, ấp ủ. Cái giật mình cùng sắc yếm thắm của cô nàng cào cỏ báo hiệu những làn sóng xuân tình dào dạt bị dấu che bởi một vẻ ngoài như thản nhiên, như dửng dưng.
Cho nên, tôi không hề thấy cái “thản nhiên trống rỗng của nhà nghề”  (như nhận xét của Hoài Thanh - Hoài Chân về Bức tranh quê của Anh Thơ) ở đây. Mỗi bức cảnh đều sóng sánh xuân tình. Xuân của đất trời- xuân của lòng người hòa làm một. Nếu không khí chính trị còn nặng nề, tiếng trống thúc thuế dồn sưu còn chát chúa, dáng hình bọn thống trị, cường hào còn làm xám sì chốn làng quê; thì nữ sĩ của chúng ta hãy tạm dừng cây bút - cọ phía trước cổng làng. Ngoài đó, trong tiết xuân, những nét đẹp của nông thôn Việt Nam vẫn hiện lên hồn nhiên, sống động đến không thể gì vùi dập. Và Anh Thơ, người sáng tác theo lối thơ điền viên, ưa “ngôn ngữ chất phác, phong cách tươi mát và lưu loát” [1], khi viết Chiều xuân có lẽ cũng mang tâm trạng giống với người sáng lập ra trường phái thơ này - nhà thơ Trung Quốc Đào Uyên Minh (356 - 427). Nữ sĩ hẳn cũng coi cuộc sống nông thôn, phong cảnh ruộng vườn là đối tượng thẩm mỹ quan trọng của mình, coi nó là “chỗ lánh nạn tinh thần trong thế giới hiện thực đau khổ” ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, nên đã “thuần khiết hóa”, “mỹ hóa” nó đến cao độ. Không yêu thiên nhiên thật nhiều, sao có thể vẽ được bức tranh xuân tươi đẹp đến vậy? Không nặng lòng với cảnh tình đất nước, sao phải đi tìm chỗ “lánh nạn tinh thần”? Trong con người ấy, trong bức tranh thơ của con người ấy, lẽ nào có thể còn chỗ cho sự trống rỗng, thản nhiên?
Bức tranh thơ đã mở ra trọn vẹn. Bức tranh ấy có mưa bụi, bến, đò, nước sông, quán tranh, chòm xoan, đường đê, cỏ non, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò, đồng lúa, lũ cò và …cô nàng yếm thắm rất đặc trưng của quang cảnh nông thôn Việt Nam những năm nửa đầu thế kỉ XX. Bức tranh ấy còn có cái êm êm, cái vắng lặng, vẻ biếng lười, sắc tím của một chiều xuân lãng mạn nơi bến đò; có cái vu vơ, rập rờn, thong thả trong hoạt động của những loài vật trên triền đê tràn biếc cỏ của một chiều xuân đam mê; có cả những nét động gọn thanh, sắc xuân tươi thắm và những nỗi niềm sâu kín trong cảnh chiều xuân tình tứ nơi đồng lúa. Mỗi mảng tranh một nét riêng độc đáo nhưng vẫn thống nhất với nhau trong giáng chiều, vẻ xuân. Vẽ cảnh mùa xuân - mùa của sự sống dạt dào mà chọn lúc ngày đang tàn tạ. Trong lúc ngày tàn tạ mà xuân vẫn hiện ra trọn vẹn với cả cảnh, sắc và tình. Đó chính là cái tài trong việc sử dụng ngôn từ của Anh Thơ nữ sĩ vậy!
Các danh từ giúp giữ lại những sự vật chốn nông thôn Bặc Bộ một thời. Nhưng để tạo được sắc thái riêng và cái hồn cho những sự vật ấy, phác nên thần thái của chiều, của xuân, đậm tô sự phong phú trong cái thống nhất ở các mảng tranh thì không thể thiếu được vai trò của tính từ. Vâng, tính từ có thể “vẽ tranh” như thế đấy!
 Nguyễn Thị Nhung


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch

Giải mã tục cúng Thần Tài vào mùng 10 tháng giêng âm lịch Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, trên báo chí và mạng xã hội thường phản ánh chuyệ...