Bach, Johann Sebastian
Sinh ngày 21 tháng 3 năm
1685 tại Eisenach, Đức, Johann Sebastian Bach đã nhận được những sự giáo dục âm
nhạc đầu tiên từ gia đình và các nghệ sĩ chơi đàn ống trong nhà thờ. Đó là điểm
bắt đầu của một mối liên hệ phổ quát giữa những kiệt tác trong sự nghiệp của
Bach với âm nhạc tôn giáo, về cách thức cũng như mục đích.
Mặc dù cả cuộc đời Bach không bao giờ đi xa khỏi miền Đông Bắc Đức, âm nhạc của ông lại mang những dấu ấn có được qua tiếp cận với những nhạc sĩ, trường phái trước và cùng thời với ông khắp châu Âu, ở Hà Lan, Pháp, Ý và thậm chí ở Anh. Nhờ sự kết hợp những nét riêng này, Bach đã phát triển một cách thức sáng tác bậc thầy mà cho đến sau này không có một nhạc sĩ nào đạt được, dựa trên nền tảng một kĩ thuật đối vị đặc biệt chuẩn xác và chặt chẽ, nhưng lại có chỗ cho một sự tự do không giới hạn về màu sắc hoà âm, tiếu tấu và đường nét giai điệu. Quan trọng không kém người ta nhận thấy rằng đằng sau khối lượng đồ sộ những tác phẩm của Bach dành cho bàn phím, thính phòng hay phục vụ tôn giáo, vẫn còn là một quan niệm và niềm tin của riêng ông đối với thế giới. Với điều này, Bach không chỉ là nhạc sĩ đã đưa sự phát triển của âm nhạc thời kì Baroque lên đến mức tột cùng của nó, mà đã trở thành một trong số ít những nhạc sĩ vĩ đại nhất tiêu biểu cho nền âm nhạc nghệ thuật phương Tây.
Sự ra đi của Bach ngày 28 tháng 7 năm 1750 đã trở thành mốc đánh dấu sự kết thúc của thời kì âm nhạc Baroque và bắt đầu của thời kì Cổ điển. Từ đó cho đến tận ngày nay người ta vẫn còn thấy hình ảnh của Bach trong các thế hệ nhạc sĩ, trường phái, thậm chí cả những người tiên phong nhất.
Danh mục tác phẩm của Johann Sebastian Bach
Johann Sebastian Bach đã viết hơn 1000 tác phẩm. Hệ thống đánh số đuợc chấp nhận và sử dụng phổ biến để nhận diện các tác phẩm của Bach là các số số BWV. Đây là viết tắt của Bach-Werke-Verzeichnis (Danh mục-Tác phẩm- Bach). Các số BWV đuợc nhà âm nhạc học người Đức Wolfgang Schmieder ấn định trong danh mục tác phẩm của Bach xuất bản vào năm 1950 có tên đầy đủ là Thematisch-systematisches Verzeichnis der musikalischen Werke von Johann Sebastian Bach. Đôi khi số BWV còn đuợc gọi là số Schmieder. Kể từ năm 1950, danh mục này của Schimeder đã đuợc cập nhật một số lần.
A. Theo thể loại
1 Tác phẩm thanh nhạc
* 1.1 Cantatas (1–224)
* 1.2 Motets (225–231)
* 1.3 Liturgical works in Latin (232–243a)
* 1.4 Passions and Oratorios (244–249)
* 1.5 Secular cantatas (249–249)
* 1.6 Chorales (250–438)
* 1.7 Songs and arias (439–518)
* 1.8 Songs (519–523)
* 1.9 Quodlibet (524)
2 Tác phẩm cho organ
* 2.1 Trio sonatas for organ (525–530)
* 2.2 Preludes and Fugues, Toccatas and Fugues, and Fantasias for organ (531–591)
o 2.2.1 Eight Short Preludes and Fugues (553–560)
* 2.3 Passacaglia and Fugue in C minor (582)
* 2.4 Trios and miscellaneous pieces for organ (583–591)
* 2.5 Concertos for organ (592–598)
* 2.6 Chorale Preludes I: Orgelbüchlein (Little Organ Book) (599–644)
* 2.7 Chorale Preludes II: Schübler Chorales (645–650)
* 2.8 Chorale Preludes III: "Leipzig" Chorale Preludes ("The Great Eighteen" chorales) (651–668)
* 2.9 Chorale Preludes IV: "German Organ Mass", part of Clavier-Übung III (669–689)
* 2.10 Chorale Preludes V: Kirnberger chorale preludes (690–713)
* 2.11 Miscellaneous chorale preludes (714–764)
* 2.12 Partitas and chorale variations (765–771)
3 Tác phẩm cho harpsichord
* 3.1 Inventions and Sinfonias (772–801)
* 3.2 Four Duets from Clavier-Übung III (802–805)
* 3.3 English Suites (806–811)
* 3.4 French Suites (812–817)
* 3.5 Miscellaneous suites (818–824)
* 3.6 Partitas for keyboard (published as Clavier-Übung I) (825–830)
* 3.7 French Overture, from Clavier-Übung II (831)
* 3.8 Suites and suite movements (832–845)
* 3.9 The Well-Tempered Clavier (846–893)
* 3.10 Preludes and fugues, toccatas and fantasias (894–923)
* 3.11 Little Preludes from Clavier-Büchlein for Wilhelm Friedemann Bach (924–932)
* 3.12 Six Little Preludes (933–938)
* 3.13 Five Preludes from the collection of Johann Peter Kellner (939–943)
* 3.14 Fugues and fughettas (944–962)
* 3.15 Sonatas and sonata movements (963–970)
* 3.16 Italian Concerto, from Clavier-Übung II (971)
* 3.17 Keyboard arrangements of concertos by other composers (972–987)
* 3.18 Variations and miscellaneous pieces for keyboard (988–994)
4 Tác phẩm cho các nhạc cụ độc tấu khác
* 4.1 Works for solo lute (995–1000)
* 4.2 Sonatas and partitas for solo violin (1001–1006)
* 4.3 Suite for solo lute (1006a)
* 4.4 Suites for solo cello (1007–1012)
* 4.5 Partita for solo flute (1013)
5 Tác phẩm song tấu cho đàn phím và nhạc cụ khác
* 5.1 Works for violin and keyboard instrument (1014–1026)
* 5.2 Sonatas for viola da gamba and keyboard instrument (1027–1029)
* 5.3 Sonatas for flute and keyboard instrument (1030–1035)
* 5.4 Trio sonatas (1036–1040)
6 Concerto và tổ khúc cho dàn nhạc
* 6.1 Violin concertos (1041–1045)
* 6.2 Brandenburg Concertos (1046–1051)
* 6.3 Harpsichord concertos (1052–1065)
* 6.4 Orchestral suites (1066–1071)
7 Canons (1072–1078)
8 Tác phẩm đối âm thời kỳ cuối : The Musical Offering and The Art of Fugue (1079–1080)
9 Các tác phẩm đánh số BWV gần đây
* 9.1 Miscellaneous (BWV 1081–1089)
* 9.2 Neumeister Chorales (BWV 1090–1120)
* 9.3 Various organ works (BWV 1121–1126)
* 9.4 Strophic aria (BWV 1127)
10 BWV Anh. 43 đến BWV Anh. 189 (phụ lục)
* 10.1 Various works
* 10.2 Anna Magdalena's Notebooks
* 10.3 More spurious works
* 10.4 Falsely attributed works
Johann Sebastian Bach nhạc sĩ người Đức, người đã có những đóng góp to lớn cho kho tàng âm nhạc của nhân loại. Âm nhạc Bach đã tạo nên bước ngoặt quan trọng của lịch sử âm nhạc phương Tây, đánh dấu sự phát triển đỉnh cao của thời kì âm nhạc Baroque và mang trong mình những mầm mống đầu tiên của một thời kì mới đầy sức sống và hơi thở của thời đại, thời kì Cổ điển và Lãng mạn sau này. Những tác phẩm của ông thừa hưởng những nét đẹp của những nền âm nhạc lớn, những mạch nguồn của âm nhạc cổ điển như âm nhạc Đức, âm nhạc Pháp, âm nhạc Ý và âm nhạc Hà Lan. Sự kết hợp những phong cách âm nhạc khác nhau trong một cách tư duy khúc chiết và logic rất đặc trưng của Bach đã tạo nên cái phong phú, sâu sắc và bao quát của âm nhạc Bach. Song trên tất cả, chính cuộc sống luôn vận động, chính cá tính mạnh mẽ và nghị lực đã làm cho âm nhạc Bach bước ra khỏi mái vòm của nhà thờ để đến với những giá trị nhân văn bất diệt, không lu mờ trước những chuyển động bất tận của xã hội, thời đại và con người. Âm nhạc Bach là một mẫu mực cho không chỉ biết bao thế hệ nhạc sĩ học tập, mà đã cho tất cả chúng ta được suy ngẫm và trải nghiệm về cuộc sống đầy nóng bỏng và vận động. Những vẻ đẹp giản dị, hài hoà và cân bằng của những kiệt tác luôn luôn làm những người yêu âm nhạc, hay rộng hơn là những người yêu nghệ thuật trân trọng, say mê và ngưỡng mộ. Bach sinh ngày 21 tháng 3 năm 1685 tại Eisenach (Thuringia) vùng Đông Bắc nước Đức trong một dòng họ làm âm nhạc. Ông được rửa tội và đặt tên tại Nhà thờ thánh George vào ngày 23 tháng 3 năm 1685. Cuộc đời của Bach rất đặc biệt chỉ giới hạn trong một phạm vi địa lí không rộng, trong bán kính khoảng 200km: Bach hầu như sinh sống ở các thành phố trong vùng Đông Bắc Đức. Cha của ông, Johann Ambrosius Bach (1645 - 1695) là một nhạc công đàn dây, kèn trompet của xứ Eisenach. Năm 1668, Johann Ambrosius Bach cưới Elisabeth Lämmerhirt (1644 - 1694), con gái trong một gia đình âm nhạc ở Erfurt. Johann Sebastian Bach là con thứ tám trong gia đình. Chú họ của Bach là Johann Michael và Johann Christoph là những nhạc sĩ có tên tuổi thời bấy giờ. Truyền thống âm nhạc của một gia đình nhiều thế hệ làm nhạc công dàn nhạc, thành viên dàn hợp xướng và nhạc công đàn ống đã là điều kiện đầu tiên cho sự phát triển tài năng của Bach sau này. Song bất hạnh cho Bach, năm 1694 rồi 1695, mẹ rồi cha ông đều qua đời khi ông mới còn là một đứa trẻ 10 tuổi. Bach đến sống với anh cả, Johann Christoph, đang giữ vị trí nhạc công đàn ống tại Ohrdruf. Tại đây ông được học trong trường dòng, hát trong hợp xướng của trường. Nhờ sự dạy dỗ của anh, Bach được học những bài học đầu tiên về âm nhạc, học đàn ống và violin. Do điều kiện kinh tế, anh của Bach không thể tiếp tục chu cấp cho Bach được nữa. Ngày 15 tháng 3 năm 1700, cùng với một người bạn học là Georg Erdmann, Bach rời khỏi Ohrdruf đến Lüneburg, bắt đầu cuộc sống tự lập khi mới 15 tuổi.
Tại Lüneburg, Bach học trong trường dòng và trả học phí bằng cách hát trong hợp xướng của trường nhờ chất giọng đẹp của mình. Tuy vậy, công việc chính của Bach trong giai đoạn này là nâng cao trình độ đàn ống, dưới sự dạy bảo của Georg Böhm. Đồng thời ông cũng học hỏi những nhạc sĩ khác bằng cách nghe họ biểu diễn. Năm 1701, Bach đã đi bộ 48km đến Hamburg để nghe Reinken biểu diễn và năm 1705 ông đi bộ 300 km đến Lübeck để nghe Buxtehude. Bach trở thành người biểu diễn đàn ống xuất sắc, bắt đầu tiếp cận với âm nhạc nhà thờ cổ và sáng tác. Thông qua những người thầy của mình, Bach tiếp nhận các phong cách âm nhạc Pháp, Hà Lan và gián tiếp là âm nhạc Anh thời bấy giờ. Năm 1703, Bach bắt đầu sự nghiệp âm nhạc độc lập của mình với tư cách là nhạc công đàn ống và nhạc sĩ tại Arnstadt. Với tính khí nóng nảy và bồng bột của tuổi trẻ, công việc không được suôn sẻ cho lắm, thậm chí ông đã có lần đánh nhau trên đường phố với một nhạc công chơi bassoon trong dàn nhạc. Tuy vậy vào năm 1706, ông đã gặp cô em họ xa, Maria Bacbara, người là vợ ông sau đó. Năm 1707, ông chuyển đến Mühlhausen, và tại đây ngày 17 tháng 10 ông cưới Maria. Công việc cũng tạo điều kiện cho Bach phát triển trình độ và sự chú tâm với nhạc đàn ống và nhạc hát, thể hiện qua những tác phẩm nổi tiếng đầu tiên như Toccata và Fugue Rê thứ BWV 565, Passacaglia Đô thứ BWV 582 cho đàn ống và một số lượng cantata trong đó phải kể đến bản cantata trần tục đầu tiên, Cantata “Đi săn” BWV 208.
Năm 1708, Bach tiếp tục công việc làm nhạc công đàn ống và sáng tác tại Weimar. Thời kì này kéo dài tới năm 1717 là thời kì quan trọng đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của Bach. Tại đây ông đã sáng tác phần lớn các tác phẩm cho đàn ống của mình và một số lượng đáng kể các bản cantata, do từ 1713 ông phải viết mỗi tháng một cantata theo nhiệm vụ. Nhờ sự tiếp xúc với những tác phẩm âm nhạc Ý, đặc biệt là Vivaldi, Bach đã mở rộng khả năng sáng tác của mình, đưa những yếu tố mới và tự nhiên hơn vào trong âm nhạc nhà thờ, nhất là ở thể loại cantata. Ông cũng bắt đầu dạy nhạc. Về phía gia đình, vợ ông đã sinh cho ông những đứa con đầu tiên, trong đó một số không sống được, số còn lại có hai người con trai sau này cũng là những nghệ sĩ và nhạc sĩ lớn là Wilhelm Friedemann và Carl Philipp Emanuel. Từ khi đến Weimar, Bach tạo quan hệ với cả hai vị công tước lãnh đạo vùng nàỵ Song không may cho Bach, hai vị này không ưa gì nhau, và kết quả, khi vị bảo trợ chính cấm Bach làm việc cho vị công tước còn lại thì một cuộc xung đột giữa Bach và vị bảo trợ chính nổ ra. Bach bị bắt giữ và tống giam trong 1 tháng (từ 6 tháng 11 đến 2 tháng 12 năm 1716) rồi được thả ra một cách mất hết danh dự. Thật may mắn, hoàng thân trẻ Leopold xứ Köthen đã nhận bảo trợ cho Bach và tháng 12 năm 1717, Bach trở thành Giám đốc âm nhạc ở Köthen với tiền lương khá hậu hĩnh. Hoàng thân trẻ là một người rất yêu thích âm nhạc và biết chơi nhiều nhạc cụ. Bach rất thoải mái và khá tự do ở đây, ông không phải sáng tác cantata thường kì nữa. Lòng yêu âm nhạc của Hoàng thân cùng với việc Bach có được cây đàn clavecin hiệu Mietke năm 1719 đã tạo cho Bach điều kiện sáng tác nhiều tác phẩm nhạc thính phòng và nhạc cho bàn phím quan trọng trong thời kì này. Những kiệt tác cho clavecin của thời kì này gồm có bộ Bình quân luật tập I gồm 24 cặp Prelude và Fugue ở tất cả các giọng BWV 846 - 869, bộ các Invention 2 bè BWV 772 - 786 và Invention (cũng gọi là Sinfonia) 3 bè BWV 787 - 801, các Tổ khúc Pháp BWV 812 - 817 và các Tổ khúc Anh BWV 806 - 811. Bên cạnh đó, Bach cũng sáng tác những kiệt tác cho các nhạc cụ khác như 3 Partita và 3 Sonata cho Violin độc tấu BWV 1001 - 1006 và 6 Tổ khúc cho Violoncello độc tấu BWV 1007 - 1012. Bach còn sáng tác nhiều tác phẩm thính phòng khác, và đặc biệt các tác phẩm Concerto như 6 Concerto thành Brandenburg BWV 1046 - 1051 và Concerto cho Violin cung Mi trưởng BWV 1042. Bach cũng vẫn sáng tác một số tác phẩm cho đàn ống và một số cantata. Ngày 7 tháng 7 năm 1720, vợ Bach, bà Maria Bacbara, qua đời sau một đợt ốm bất ngờ. Trong số 7 đứa con bà sinh cho Bach, chỉ có 4 còn sống sót đến lúc này. Một năm sau, Bach lấy cô ca sĩ giọng soprano Anna Magdalena Wülken, lúc đó mới 19 tuổi, người cũng làm việc cho Hoàng thân. Do đòi hỏi của việc giáo dục cho con cái, một phần tác động của Anna, nhưng cũng vì Bach muốn được viết trở lại âm nhạc nhà thờ cho mục đích sự nghiệp của mình, và thậm chí đơn giản là vì lí do tài chính nên ông đã vài lần xin việc ở các thành phố lớn. Một lần trong số đó, Bach đã đề cập đến việc xin vị trí nhạc sĩ bằng việc đề tặng 6 bản Concerto thành Brandenburg cho ông hoàng Ludwig xứ Brandenburg song không thành. Năm 1723 Bach mới nhận môt vị trí mới quan trọng với cuộc đời ông, làm Trưởng dàn đồng ca nhà thờ ở Leipzig. Tuy vậy, ông vẫn giữ quan hệ tốt với Hoàng thân Leopold, giữ chức Giám đốc âm nhạc danh dự cho đến lúc Hoàng thân qua đời năm 1729 và một trong những tác phẩm lớn nhất của Bach, bản St.Matthiew Passion BWV 244, được viết cũng để tưởng nhớ người bảo trợ, người bạn của ông.
Thời điểm năm 1723, khi Bach chuyển đến Leipzig và rồi sống hẳn ở đó là một thời điểm đặc biệt với cuộc đời sáng tác của Bach. Nó đánh dấu sự phân chia hai thời kì trong sự nghiệp sáng tác của Bach, cũng như cuộc đời ông, một của sự đam mê học hỏi và tìm tòi đầy ý chí và sức trẻ trong tất cả các lĩnh vực của âm nhạc, còn một là thời kì đỉnh cao và chín chắn của sự nghiệp với những kiệt tác với tầm vóc lớn lao trong phần lớn các thể loại lúc đó. Giai đoạn đầu cho đến năm 1729, theo yêu cầu của nhà thờ, Bach phải viết cantata cho tất cả các buổi lễ trong năm, tính ra là 59 cantata mỗi năm (1 cantata 1 tuần và một số dịp lễ đặc biệt khác). Bach đã làm công việc đó trong 5 năm cho đến năm 1729. Đó là một khối lượng công việc đồ sộ. Song điều quan trọng là dù cường độ sáng tác rất nặng, Bach vẫn có khả năng viết nên rất nhiều những kiệt tác trong số những tác phẩm ra đời theo qui trình như vậy. Thời kì này chứng kiến sự ra đời của phần chủ yếu trong số toàn bộ các cantata trong sự nghiệp của Bach (một phần khác được sáng tác vào thời kì ông ở Weimar những năm 1708 - 1717). Một phần ba trong số hơn 300 cantata của Bach đã thất lạc, song những tác phẩm còn lại cho thấy một sự sáng tạo phi thường, sự phát triển và tiếp thu những nhân tố âm nhạc mới từ những thể loại âm nhạc khác nhau, những trường phái và nền âm nhạc khác nhau để tạo nên những tác phẩm cách mạng vượt ra khỏi mục đích và phạm vi tôn giáo ban đầu. Bên cạnh những cantata sáng tác phục vụ nghi lễ nhà thờ, Bach vẫn viết những cantata trần tục khác, mang hơi thở cuộc sống hiện thực. Đỉnh cao của giai đoạn này là các kịch tôn giáo lớn qui mô rất lớn, bản Magnificat BWV 243, St.Matthiew Passion BWV 244 và St.John Passion BWV 245. Qui mô dàn nhạc, dàn đồng ca và những đòi hỏi của Bach về biểu diễn ngày bắt đầu vượt ra khỏi khả năng và phạm vi của những buổi lễ thánh. Cùng với sự đãi ngộ không thoả đáng và một số tranh chấp về quyền lợi đã khiến Bach thất vọng hoàn toàn và dừng viết cantata cho nhà thờ. Bach bắt đầu chú ý hơn đến các dự án âm nhạc bên ngoài nhà thờ. Một trong số đó là Bach đã trở thành giám đốc Hội âm nhạc Leipzig (Collegium Musicum), tổ chức hoà nhạc vào các tối thứ 6 hàng tuần tại quán cafe Zimmermann. Chính nhờ công việc này, Bach đã viết nhiều cantata trần tục và những tác phẩm thính phòng như Coffee Cantata BWV 211, Peasant Cantata BWV 212, các Concerto cho Violin BWV 1041 và 1043, các Concerto cho Harpsichord và các Tổ khúc cho dàn nhạc. Bach vẫn viết nên những tác phầm lớn nhạc nhà thờ cho đến 1735, như các bản St.Mark Passion BWV 247, Christmas Oratorio BWV 248, Easter Oratorio BWV 249 và Ascension Oratorio. Sau năm 1735, Bach rất ít viết nhạc nhà thờ. Bach cũng chú ý hơn đến những công việc khác liên quan đến âm nhạc, như các dự án tu bổ đàn ống - công việc mà Bach đã thực hiện hầu như suốt sự nghiệp của mình. Bach bắt đầu xuất bản sách trong đó có những tác phẩm của mình như 4 quyển Bài tập cho đàn phím (Clavier - übung), trong đó đều là những tác phẩm rất nổi tiếng của Bach cho bàn phím như 6 Partita BWV 825 - 830 (tập 1), Italian Concerto BWV 971 và French Overture BWV 831 (tập 2), Goldberg Variation BWV 988 (tập 4, sáng tác và xuất bản trong thời kì cuối). Thậm chí Bach còn tham gia bán nhạc cụ. Một công việc quan trọng khác mà Bach tiếp tục thực hiện là việc dạy nhạc. Trong số học sinh ngày càng tăng của Bach, có một số học sinh rất quan tâm đến lịch sử âm nhạc và lí luận âm nhạc. Thực tế là những công việc nghiên cứu này sau này đã thu hút Bach tham gia và nó đã để lại dấu ấn rất quan trọng trong sự thay đổi phong cách của Bach trong giai đoạn cuối đời.
Hai sự kiện Bach trở thành Giám đốc âm nhạc Danh dự tại Dresden năm 1736 và cuộc tranh luận với người học trò cũ của ông, Johann Adolph Scheibe năm 1737 như là những điểm mốc đánh dấu giai đoạn cuối của cuộc đời của Bach. Nhờ những sự kiện này, phong cách sáng tác của Bach có những thay đổi rõ nét và quan trọng nhất mang tính bước ngoặt của không chỉ của sự nghiệp của Bach, mà còn cả của một thời đại, một thời kì âm nhạc. Nó đã mở ra giai đoạn sáng tác cao nhất trong sự nghiệp của Bach với những tác phẩm bất hủ bởi tính rộng lớn và sự sâu sắc đến tột cùng của âm nhạc. Những mối liên hệ thường xuyên với cuộc sống âm nhạc tại Dresden và Berlin đã tạo điều kiện cho Bach gặp gỡ những nghệ sĩ có tên tuổi với những phong thái khác nhau đang đi lên thời bấy giờ. Nhờ thế một mặt Bach tiếp thu những đỉnh cao về kĩ thuật sáng tác phức điệu nghiêm khắc của thế kỉ XV - XVI đặc biệt là Palestrina, một mặt lại tiếp thu những nhân tố âm nhạc mang tính mới mẻ và tiên phong của âm nhạc Pháp và Ý. Các tác phẩm của Bach trong sự nghiệp hầu hết là những tác phẩm âm nhạc phức điệu (sáng tác cho nhiều bè giai điệu), song những tác phẩm phức điệu thời kì cuối có lẽ là những tác phẩm khác biệt nhất cả về hình thức lẫn nội dung. Dưới những hình thức chặt chẽ và chuẩn xác, những tác phẩm lại có được một cái hồn tự nhiên và cảm xúc vô cùng bay bổng. Điều này được thể hiện rất rõ trong những tác phẩm lớn như bộ Bình quân luật tập 2 BWV 870 - 893, Biến tấu Goldberg BWV 988, Musical Offering BWV 1079 và Nghệ thuật Fuga BWV 1080. Bản Mass Si thứ BWV 232, hoàn thành vào năm 1749, một năm trước khi Bach qua đời, là sự kết tinh những sáng tạo và trải nghiệm cuộc sống trong cả sự nghiệp sáng tác của Bach. Mang trong mình những suy tư về nỗi đau khổ của con người, vận động vĩnh hằng của cuộc sống và niềm tin vào cái thiện và con người, tác phẩm này cùng với Giao hưởng số 9 của Beethoven đã trở thành một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nền âm nhạc nhân loại. Bach mất ngày 28 tháng 7 năm 1750. Trong số bảy người con còn lại của ông (hai người vợ đã sinh cho ông tổng cộng 20 người con) bốn người con trai đều theo nghề âm nhạc. Ba người trong số đó đã trở thành những nhạc sĩ lớn là Carl Phillip Emanuel Bach (1714 - 1788), Johann Christoph Friedrich Bach (1732 - 1795) và Johann Christian Bach (1735 - 1782). Họ đã có công rất lớn trong việc tiếp thu các chất liệu âm nhạc của những nền âm nhạc khác nhau để xây dựng nên những trường phái của thời kì Cổ điển, và qua đó có những đóng góp và ảnh hưởng quan trọng cho sự hình thành trường phái Cổ điển Vienna mà tiêu biểu là Haydn, Mozart và Beethoven thời trẻ. Cùng thời với Bach và trong giai đoạn đầu của thời kì Cổ điển khi mà sự lên ngôi của âm nhạc chủ điệu đã khiến âm nhạc phức điệu thoái trào, và vì thế nhiều người không công nhận tài năng của Bach. Tên tuổi của Bach sinh thời núp sau những tên tuổi lớn khác. Song sang đầu thời kì Lãng mạn (thế kỉ XIX) sự vĩ đại của Bach đã được tất cả các thế hệ nhạc sĩ ngưỡng mộ, công nhận và học hỏi. Vai trò trong sự phát triển của âm nhạc cổ điển của sự nghiệp sáng tác của Bach còn thể hiện cho đến tận thế kỉ XX và thời đại ngày nay. Điều thú vị là những nhạc sĩ lớn đầu tiên trân trọng tài năng của Bach lại chính là Mozart và Beethoven, cũng như Bach lại là người đầu tiên trân trọng tài năng của Vivaldi.
Âm nhạc Bach kế thừa sự chính xác và chặt chẽ của nghệ thuật đối vị đỉnh cao trong quá khứ, lại vừa mang trong mình những cảm hứng phong phú và tươi sáng của tương lai. Những thủ pháp canon xuất sắc được kết hợp với những giai điệu với đường nét rõ ràng và nhịp điệu đậm chất cuộc sống. Hình thức âm nhạc đã cô đọng, chi tiết, phong phú hơn với sự tách bạch rõ nét hơn của các câu nhạc, những màu sắc và dấu ấn của hoà âm và các vũ khúc dân gian dường như đã làm cho những tác phẩm thời kì này vượt lên trước thời gian. Dưới những hình thức cũ, những tác phẩm của Bach đã mang trong mình sức sống của một thời đại đang đi lên và cảm hứng đầy chất nhân văn của một xã hội mới đang hình thành một cách tiềm tàng và ẩn chứa.
Mặc dù cả cuộc đời Bach không bao giờ đi xa khỏi miền Đông Bắc Đức, âm nhạc của ông lại mang những dấu ấn có được qua tiếp cận với những nhạc sĩ, trường phái trước và cùng thời với ông khắp châu Âu, ở Hà Lan, Pháp, Ý và thậm chí ở Anh. Nhờ sự kết hợp những nét riêng này, Bach đã phát triển một cách thức sáng tác bậc thầy mà cho đến sau này không có một nhạc sĩ nào đạt được, dựa trên nền tảng một kĩ thuật đối vị đặc biệt chuẩn xác và chặt chẽ, nhưng lại có chỗ cho một sự tự do không giới hạn về màu sắc hoà âm, tiếu tấu và đường nét giai điệu. Quan trọng không kém người ta nhận thấy rằng đằng sau khối lượng đồ sộ những tác phẩm của Bach dành cho bàn phím, thính phòng hay phục vụ tôn giáo, vẫn còn là một quan niệm và niềm tin của riêng ông đối với thế giới. Với điều này, Bach không chỉ là nhạc sĩ đã đưa sự phát triển của âm nhạc thời kì Baroque lên đến mức tột cùng của nó, mà đã trở thành một trong số ít những nhạc sĩ vĩ đại nhất tiêu biểu cho nền âm nhạc nghệ thuật phương Tây.
Sự ra đi của Bach ngày 28 tháng 7 năm 1750 đã trở thành mốc đánh dấu sự kết thúc của thời kì âm nhạc Baroque và bắt đầu của thời kì Cổ điển. Từ đó cho đến tận ngày nay người ta vẫn còn thấy hình ảnh của Bach trong các thế hệ nhạc sĩ, trường phái, thậm chí cả những người tiên phong nhất.
Danh mục tác phẩm của Johann Sebastian Bach
Johann Sebastian Bach đã viết hơn 1000 tác phẩm. Hệ thống đánh số đuợc chấp nhận và sử dụng phổ biến để nhận diện các tác phẩm của Bach là các số số BWV. Đây là viết tắt của Bach-Werke-Verzeichnis (Danh mục-Tác phẩm- Bach). Các số BWV đuợc nhà âm nhạc học người Đức Wolfgang Schmieder ấn định trong danh mục tác phẩm của Bach xuất bản vào năm 1950 có tên đầy đủ là Thematisch-systematisches Verzeichnis der musikalischen Werke von Johann Sebastian Bach. Đôi khi số BWV còn đuợc gọi là số Schmieder. Kể từ năm 1950, danh mục này của Schimeder đã đuợc cập nhật một số lần.
A. Theo thể loại
1 Tác phẩm thanh nhạc
* 1.1 Cantatas (1–224)
* 1.2 Motets (225–231)
* 1.3 Liturgical works in Latin (232–243a)
* 1.4 Passions and Oratorios (244–249)
* 1.5 Secular cantatas (249–249)
* 1.6 Chorales (250–438)
* 1.7 Songs and arias (439–518)
* 1.8 Songs (519–523)
* 1.9 Quodlibet (524)
2 Tác phẩm cho organ
* 2.1 Trio sonatas for organ (525–530)
* 2.2 Preludes and Fugues, Toccatas and Fugues, and Fantasias for organ (531–591)
o 2.2.1 Eight Short Preludes and Fugues (553–560)
* 2.3 Passacaglia and Fugue in C minor (582)
* 2.4 Trios and miscellaneous pieces for organ (583–591)
* 2.5 Concertos for organ (592–598)
* 2.6 Chorale Preludes I: Orgelbüchlein (Little Organ Book) (599–644)
* 2.7 Chorale Preludes II: Schübler Chorales (645–650)
* 2.8 Chorale Preludes III: "Leipzig" Chorale Preludes ("The Great Eighteen" chorales) (651–668)
* 2.9 Chorale Preludes IV: "German Organ Mass", part of Clavier-Übung III (669–689)
* 2.10 Chorale Preludes V: Kirnberger chorale preludes (690–713)
* 2.11 Miscellaneous chorale preludes (714–764)
* 2.12 Partitas and chorale variations (765–771)
3 Tác phẩm cho harpsichord
* 3.1 Inventions and Sinfonias (772–801)
* 3.2 Four Duets from Clavier-Übung III (802–805)
* 3.3 English Suites (806–811)
* 3.4 French Suites (812–817)
* 3.5 Miscellaneous suites (818–824)
* 3.6 Partitas for keyboard (published as Clavier-Übung I) (825–830)
* 3.7 French Overture, from Clavier-Übung II (831)
* 3.8 Suites and suite movements (832–845)
* 3.9 The Well-Tempered Clavier (846–893)
* 3.10 Preludes and fugues, toccatas and fantasias (894–923)
* 3.11 Little Preludes from Clavier-Büchlein for Wilhelm Friedemann Bach (924–932)
* 3.12 Six Little Preludes (933–938)
* 3.13 Five Preludes from the collection of Johann Peter Kellner (939–943)
* 3.14 Fugues and fughettas (944–962)
* 3.15 Sonatas and sonata movements (963–970)
* 3.16 Italian Concerto, from Clavier-Übung II (971)
* 3.17 Keyboard arrangements of concertos by other composers (972–987)
* 3.18 Variations and miscellaneous pieces for keyboard (988–994)
4 Tác phẩm cho các nhạc cụ độc tấu khác
* 4.1 Works for solo lute (995–1000)
* 4.2 Sonatas and partitas for solo violin (1001–1006)
* 4.3 Suite for solo lute (1006a)
* 4.4 Suites for solo cello (1007–1012)
* 4.5 Partita for solo flute (1013)
5 Tác phẩm song tấu cho đàn phím và nhạc cụ khác
* 5.1 Works for violin and keyboard instrument (1014–1026)
* 5.2 Sonatas for viola da gamba and keyboard instrument (1027–1029)
* 5.3 Sonatas for flute and keyboard instrument (1030–1035)
* 5.4 Trio sonatas (1036–1040)
6 Concerto và tổ khúc cho dàn nhạc
* 6.1 Violin concertos (1041–1045)
* 6.2 Brandenburg Concertos (1046–1051)
* 6.3 Harpsichord concertos (1052–1065)
* 6.4 Orchestral suites (1066–1071)
7 Canons (1072–1078)
8 Tác phẩm đối âm thời kỳ cuối : The Musical Offering and The Art of Fugue (1079–1080)
9 Các tác phẩm đánh số BWV gần đây
* 9.1 Miscellaneous (BWV 1081–1089)
* 9.2 Neumeister Chorales (BWV 1090–1120)
* 9.3 Various organ works (BWV 1121–1126)
* 9.4 Strophic aria (BWV 1127)
10 BWV Anh. 43 đến BWV Anh. 189 (phụ lục)
* 10.1 Various works
* 10.2 Anna Magdalena's Notebooks
* 10.3 More spurious works
* 10.4 Falsely attributed works
Johann Sebastian Bach nhạc sĩ người Đức, người đã có những đóng góp to lớn cho kho tàng âm nhạc của nhân loại. Âm nhạc Bach đã tạo nên bước ngoặt quan trọng của lịch sử âm nhạc phương Tây, đánh dấu sự phát triển đỉnh cao của thời kì âm nhạc Baroque và mang trong mình những mầm mống đầu tiên của một thời kì mới đầy sức sống và hơi thở của thời đại, thời kì Cổ điển và Lãng mạn sau này. Những tác phẩm của ông thừa hưởng những nét đẹp của những nền âm nhạc lớn, những mạch nguồn của âm nhạc cổ điển như âm nhạc Đức, âm nhạc Pháp, âm nhạc Ý và âm nhạc Hà Lan. Sự kết hợp những phong cách âm nhạc khác nhau trong một cách tư duy khúc chiết và logic rất đặc trưng của Bach đã tạo nên cái phong phú, sâu sắc và bao quát của âm nhạc Bach. Song trên tất cả, chính cuộc sống luôn vận động, chính cá tính mạnh mẽ và nghị lực đã làm cho âm nhạc Bach bước ra khỏi mái vòm của nhà thờ để đến với những giá trị nhân văn bất diệt, không lu mờ trước những chuyển động bất tận của xã hội, thời đại và con người. Âm nhạc Bach là một mẫu mực cho không chỉ biết bao thế hệ nhạc sĩ học tập, mà đã cho tất cả chúng ta được suy ngẫm và trải nghiệm về cuộc sống đầy nóng bỏng và vận động. Những vẻ đẹp giản dị, hài hoà và cân bằng của những kiệt tác luôn luôn làm những người yêu âm nhạc, hay rộng hơn là những người yêu nghệ thuật trân trọng, say mê và ngưỡng mộ. Bach sinh ngày 21 tháng 3 năm 1685 tại Eisenach (Thuringia) vùng Đông Bắc nước Đức trong một dòng họ làm âm nhạc. Ông được rửa tội và đặt tên tại Nhà thờ thánh George vào ngày 23 tháng 3 năm 1685. Cuộc đời của Bach rất đặc biệt chỉ giới hạn trong một phạm vi địa lí không rộng, trong bán kính khoảng 200km: Bach hầu như sinh sống ở các thành phố trong vùng Đông Bắc Đức. Cha của ông, Johann Ambrosius Bach (1645 - 1695) là một nhạc công đàn dây, kèn trompet của xứ Eisenach. Năm 1668, Johann Ambrosius Bach cưới Elisabeth Lämmerhirt (1644 - 1694), con gái trong một gia đình âm nhạc ở Erfurt. Johann Sebastian Bach là con thứ tám trong gia đình. Chú họ của Bach là Johann Michael và Johann Christoph là những nhạc sĩ có tên tuổi thời bấy giờ. Truyền thống âm nhạc của một gia đình nhiều thế hệ làm nhạc công dàn nhạc, thành viên dàn hợp xướng và nhạc công đàn ống đã là điều kiện đầu tiên cho sự phát triển tài năng của Bach sau này. Song bất hạnh cho Bach, năm 1694 rồi 1695, mẹ rồi cha ông đều qua đời khi ông mới còn là một đứa trẻ 10 tuổi. Bach đến sống với anh cả, Johann Christoph, đang giữ vị trí nhạc công đàn ống tại Ohrdruf. Tại đây ông được học trong trường dòng, hát trong hợp xướng của trường. Nhờ sự dạy dỗ của anh, Bach được học những bài học đầu tiên về âm nhạc, học đàn ống và violin. Do điều kiện kinh tế, anh của Bach không thể tiếp tục chu cấp cho Bach được nữa. Ngày 15 tháng 3 năm 1700, cùng với một người bạn học là Georg Erdmann, Bach rời khỏi Ohrdruf đến Lüneburg, bắt đầu cuộc sống tự lập khi mới 15 tuổi.
Tại Lüneburg, Bach học trong trường dòng và trả học phí bằng cách hát trong hợp xướng của trường nhờ chất giọng đẹp của mình. Tuy vậy, công việc chính của Bach trong giai đoạn này là nâng cao trình độ đàn ống, dưới sự dạy bảo của Georg Böhm. Đồng thời ông cũng học hỏi những nhạc sĩ khác bằng cách nghe họ biểu diễn. Năm 1701, Bach đã đi bộ 48km đến Hamburg để nghe Reinken biểu diễn và năm 1705 ông đi bộ 300 km đến Lübeck để nghe Buxtehude. Bach trở thành người biểu diễn đàn ống xuất sắc, bắt đầu tiếp cận với âm nhạc nhà thờ cổ và sáng tác. Thông qua những người thầy của mình, Bach tiếp nhận các phong cách âm nhạc Pháp, Hà Lan và gián tiếp là âm nhạc Anh thời bấy giờ. Năm 1703, Bach bắt đầu sự nghiệp âm nhạc độc lập của mình với tư cách là nhạc công đàn ống và nhạc sĩ tại Arnstadt. Với tính khí nóng nảy và bồng bột của tuổi trẻ, công việc không được suôn sẻ cho lắm, thậm chí ông đã có lần đánh nhau trên đường phố với một nhạc công chơi bassoon trong dàn nhạc. Tuy vậy vào năm 1706, ông đã gặp cô em họ xa, Maria Bacbara, người là vợ ông sau đó. Năm 1707, ông chuyển đến Mühlhausen, và tại đây ngày 17 tháng 10 ông cưới Maria. Công việc cũng tạo điều kiện cho Bach phát triển trình độ và sự chú tâm với nhạc đàn ống và nhạc hát, thể hiện qua những tác phẩm nổi tiếng đầu tiên như Toccata và Fugue Rê thứ BWV 565, Passacaglia Đô thứ BWV 582 cho đàn ống và một số lượng cantata trong đó phải kể đến bản cantata trần tục đầu tiên, Cantata “Đi săn” BWV 208.
Năm 1708, Bach tiếp tục công việc làm nhạc công đàn ống và sáng tác tại Weimar. Thời kì này kéo dài tới năm 1717 là thời kì quan trọng đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của Bach. Tại đây ông đã sáng tác phần lớn các tác phẩm cho đàn ống của mình và một số lượng đáng kể các bản cantata, do từ 1713 ông phải viết mỗi tháng một cantata theo nhiệm vụ. Nhờ sự tiếp xúc với những tác phẩm âm nhạc Ý, đặc biệt là Vivaldi, Bach đã mở rộng khả năng sáng tác của mình, đưa những yếu tố mới và tự nhiên hơn vào trong âm nhạc nhà thờ, nhất là ở thể loại cantata. Ông cũng bắt đầu dạy nhạc. Về phía gia đình, vợ ông đã sinh cho ông những đứa con đầu tiên, trong đó một số không sống được, số còn lại có hai người con trai sau này cũng là những nghệ sĩ và nhạc sĩ lớn là Wilhelm Friedemann và Carl Philipp Emanuel. Từ khi đến Weimar, Bach tạo quan hệ với cả hai vị công tước lãnh đạo vùng nàỵ Song không may cho Bach, hai vị này không ưa gì nhau, và kết quả, khi vị bảo trợ chính cấm Bach làm việc cho vị công tước còn lại thì một cuộc xung đột giữa Bach và vị bảo trợ chính nổ ra. Bach bị bắt giữ và tống giam trong 1 tháng (từ 6 tháng 11 đến 2 tháng 12 năm 1716) rồi được thả ra một cách mất hết danh dự. Thật may mắn, hoàng thân trẻ Leopold xứ Köthen đã nhận bảo trợ cho Bach và tháng 12 năm 1717, Bach trở thành Giám đốc âm nhạc ở Köthen với tiền lương khá hậu hĩnh. Hoàng thân trẻ là một người rất yêu thích âm nhạc và biết chơi nhiều nhạc cụ. Bach rất thoải mái và khá tự do ở đây, ông không phải sáng tác cantata thường kì nữa. Lòng yêu âm nhạc của Hoàng thân cùng với việc Bach có được cây đàn clavecin hiệu Mietke năm 1719 đã tạo cho Bach điều kiện sáng tác nhiều tác phẩm nhạc thính phòng và nhạc cho bàn phím quan trọng trong thời kì này. Những kiệt tác cho clavecin của thời kì này gồm có bộ Bình quân luật tập I gồm 24 cặp Prelude và Fugue ở tất cả các giọng BWV 846 - 869, bộ các Invention 2 bè BWV 772 - 786 và Invention (cũng gọi là Sinfonia) 3 bè BWV 787 - 801, các Tổ khúc Pháp BWV 812 - 817 và các Tổ khúc Anh BWV 806 - 811. Bên cạnh đó, Bach cũng sáng tác những kiệt tác cho các nhạc cụ khác như 3 Partita và 3 Sonata cho Violin độc tấu BWV 1001 - 1006 và 6 Tổ khúc cho Violoncello độc tấu BWV 1007 - 1012. Bach còn sáng tác nhiều tác phẩm thính phòng khác, và đặc biệt các tác phẩm Concerto như 6 Concerto thành Brandenburg BWV 1046 - 1051 và Concerto cho Violin cung Mi trưởng BWV 1042. Bach cũng vẫn sáng tác một số tác phẩm cho đàn ống và một số cantata. Ngày 7 tháng 7 năm 1720, vợ Bach, bà Maria Bacbara, qua đời sau một đợt ốm bất ngờ. Trong số 7 đứa con bà sinh cho Bach, chỉ có 4 còn sống sót đến lúc này. Một năm sau, Bach lấy cô ca sĩ giọng soprano Anna Magdalena Wülken, lúc đó mới 19 tuổi, người cũng làm việc cho Hoàng thân. Do đòi hỏi của việc giáo dục cho con cái, một phần tác động của Anna, nhưng cũng vì Bach muốn được viết trở lại âm nhạc nhà thờ cho mục đích sự nghiệp của mình, và thậm chí đơn giản là vì lí do tài chính nên ông đã vài lần xin việc ở các thành phố lớn. Một lần trong số đó, Bach đã đề cập đến việc xin vị trí nhạc sĩ bằng việc đề tặng 6 bản Concerto thành Brandenburg cho ông hoàng Ludwig xứ Brandenburg song không thành. Năm 1723 Bach mới nhận môt vị trí mới quan trọng với cuộc đời ông, làm Trưởng dàn đồng ca nhà thờ ở Leipzig. Tuy vậy, ông vẫn giữ quan hệ tốt với Hoàng thân Leopold, giữ chức Giám đốc âm nhạc danh dự cho đến lúc Hoàng thân qua đời năm 1729 và một trong những tác phẩm lớn nhất của Bach, bản St.Matthiew Passion BWV 244, được viết cũng để tưởng nhớ người bảo trợ, người bạn của ông.
Thời điểm năm 1723, khi Bach chuyển đến Leipzig và rồi sống hẳn ở đó là một thời điểm đặc biệt với cuộc đời sáng tác của Bach. Nó đánh dấu sự phân chia hai thời kì trong sự nghiệp sáng tác của Bach, cũng như cuộc đời ông, một của sự đam mê học hỏi và tìm tòi đầy ý chí và sức trẻ trong tất cả các lĩnh vực của âm nhạc, còn một là thời kì đỉnh cao và chín chắn của sự nghiệp với những kiệt tác với tầm vóc lớn lao trong phần lớn các thể loại lúc đó. Giai đoạn đầu cho đến năm 1729, theo yêu cầu của nhà thờ, Bach phải viết cantata cho tất cả các buổi lễ trong năm, tính ra là 59 cantata mỗi năm (1 cantata 1 tuần và một số dịp lễ đặc biệt khác). Bach đã làm công việc đó trong 5 năm cho đến năm 1729. Đó là một khối lượng công việc đồ sộ. Song điều quan trọng là dù cường độ sáng tác rất nặng, Bach vẫn có khả năng viết nên rất nhiều những kiệt tác trong số những tác phẩm ra đời theo qui trình như vậy. Thời kì này chứng kiến sự ra đời của phần chủ yếu trong số toàn bộ các cantata trong sự nghiệp của Bach (một phần khác được sáng tác vào thời kì ông ở Weimar những năm 1708 - 1717). Một phần ba trong số hơn 300 cantata của Bach đã thất lạc, song những tác phẩm còn lại cho thấy một sự sáng tạo phi thường, sự phát triển và tiếp thu những nhân tố âm nhạc mới từ những thể loại âm nhạc khác nhau, những trường phái và nền âm nhạc khác nhau để tạo nên những tác phẩm cách mạng vượt ra khỏi mục đích và phạm vi tôn giáo ban đầu. Bên cạnh những cantata sáng tác phục vụ nghi lễ nhà thờ, Bach vẫn viết những cantata trần tục khác, mang hơi thở cuộc sống hiện thực. Đỉnh cao của giai đoạn này là các kịch tôn giáo lớn qui mô rất lớn, bản Magnificat BWV 243, St.Matthiew Passion BWV 244 và St.John Passion BWV 245. Qui mô dàn nhạc, dàn đồng ca và những đòi hỏi của Bach về biểu diễn ngày bắt đầu vượt ra khỏi khả năng và phạm vi của những buổi lễ thánh. Cùng với sự đãi ngộ không thoả đáng và một số tranh chấp về quyền lợi đã khiến Bach thất vọng hoàn toàn và dừng viết cantata cho nhà thờ. Bach bắt đầu chú ý hơn đến các dự án âm nhạc bên ngoài nhà thờ. Một trong số đó là Bach đã trở thành giám đốc Hội âm nhạc Leipzig (Collegium Musicum), tổ chức hoà nhạc vào các tối thứ 6 hàng tuần tại quán cafe Zimmermann. Chính nhờ công việc này, Bach đã viết nhiều cantata trần tục và những tác phẩm thính phòng như Coffee Cantata BWV 211, Peasant Cantata BWV 212, các Concerto cho Violin BWV 1041 và 1043, các Concerto cho Harpsichord và các Tổ khúc cho dàn nhạc. Bach vẫn viết nên những tác phầm lớn nhạc nhà thờ cho đến 1735, như các bản St.Mark Passion BWV 247, Christmas Oratorio BWV 248, Easter Oratorio BWV 249 và Ascension Oratorio. Sau năm 1735, Bach rất ít viết nhạc nhà thờ. Bach cũng chú ý hơn đến những công việc khác liên quan đến âm nhạc, như các dự án tu bổ đàn ống - công việc mà Bach đã thực hiện hầu như suốt sự nghiệp của mình. Bach bắt đầu xuất bản sách trong đó có những tác phẩm của mình như 4 quyển Bài tập cho đàn phím (Clavier - übung), trong đó đều là những tác phẩm rất nổi tiếng của Bach cho bàn phím như 6 Partita BWV 825 - 830 (tập 1), Italian Concerto BWV 971 và French Overture BWV 831 (tập 2), Goldberg Variation BWV 988 (tập 4, sáng tác và xuất bản trong thời kì cuối). Thậm chí Bach còn tham gia bán nhạc cụ. Một công việc quan trọng khác mà Bach tiếp tục thực hiện là việc dạy nhạc. Trong số học sinh ngày càng tăng của Bach, có một số học sinh rất quan tâm đến lịch sử âm nhạc và lí luận âm nhạc. Thực tế là những công việc nghiên cứu này sau này đã thu hút Bach tham gia và nó đã để lại dấu ấn rất quan trọng trong sự thay đổi phong cách của Bach trong giai đoạn cuối đời.
Hai sự kiện Bach trở thành Giám đốc âm nhạc Danh dự tại Dresden năm 1736 và cuộc tranh luận với người học trò cũ của ông, Johann Adolph Scheibe năm 1737 như là những điểm mốc đánh dấu giai đoạn cuối của cuộc đời của Bach. Nhờ những sự kiện này, phong cách sáng tác của Bach có những thay đổi rõ nét và quan trọng nhất mang tính bước ngoặt của không chỉ của sự nghiệp của Bach, mà còn cả của một thời đại, một thời kì âm nhạc. Nó đã mở ra giai đoạn sáng tác cao nhất trong sự nghiệp của Bach với những tác phẩm bất hủ bởi tính rộng lớn và sự sâu sắc đến tột cùng của âm nhạc. Những mối liên hệ thường xuyên với cuộc sống âm nhạc tại Dresden và Berlin đã tạo điều kiện cho Bach gặp gỡ những nghệ sĩ có tên tuổi với những phong thái khác nhau đang đi lên thời bấy giờ. Nhờ thế một mặt Bach tiếp thu những đỉnh cao về kĩ thuật sáng tác phức điệu nghiêm khắc của thế kỉ XV - XVI đặc biệt là Palestrina, một mặt lại tiếp thu những nhân tố âm nhạc mang tính mới mẻ và tiên phong của âm nhạc Pháp và Ý. Các tác phẩm của Bach trong sự nghiệp hầu hết là những tác phẩm âm nhạc phức điệu (sáng tác cho nhiều bè giai điệu), song những tác phẩm phức điệu thời kì cuối có lẽ là những tác phẩm khác biệt nhất cả về hình thức lẫn nội dung. Dưới những hình thức chặt chẽ và chuẩn xác, những tác phẩm lại có được một cái hồn tự nhiên và cảm xúc vô cùng bay bổng. Điều này được thể hiện rất rõ trong những tác phẩm lớn như bộ Bình quân luật tập 2 BWV 870 - 893, Biến tấu Goldberg BWV 988, Musical Offering BWV 1079 và Nghệ thuật Fuga BWV 1080. Bản Mass Si thứ BWV 232, hoàn thành vào năm 1749, một năm trước khi Bach qua đời, là sự kết tinh những sáng tạo và trải nghiệm cuộc sống trong cả sự nghiệp sáng tác của Bach. Mang trong mình những suy tư về nỗi đau khổ của con người, vận động vĩnh hằng của cuộc sống và niềm tin vào cái thiện và con người, tác phẩm này cùng với Giao hưởng số 9 của Beethoven đã trở thành một trong những tác phẩm vĩ đại nhất của nền âm nhạc nhân loại. Bach mất ngày 28 tháng 7 năm 1750. Trong số bảy người con còn lại của ông (hai người vợ đã sinh cho ông tổng cộng 20 người con) bốn người con trai đều theo nghề âm nhạc. Ba người trong số đó đã trở thành những nhạc sĩ lớn là Carl Phillip Emanuel Bach (1714 - 1788), Johann Christoph Friedrich Bach (1732 - 1795) và Johann Christian Bach (1735 - 1782). Họ đã có công rất lớn trong việc tiếp thu các chất liệu âm nhạc của những nền âm nhạc khác nhau để xây dựng nên những trường phái của thời kì Cổ điển, và qua đó có những đóng góp và ảnh hưởng quan trọng cho sự hình thành trường phái Cổ điển Vienna mà tiêu biểu là Haydn, Mozart và Beethoven thời trẻ. Cùng thời với Bach và trong giai đoạn đầu của thời kì Cổ điển khi mà sự lên ngôi của âm nhạc chủ điệu đã khiến âm nhạc phức điệu thoái trào, và vì thế nhiều người không công nhận tài năng của Bach. Tên tuổi của Bach sinh thời núp sau những tên tuổi lớn khác. Song sang đầu thời kì Lãng mạn (thế kỉ XIX) sự vĩ đại của Bach đã được tất cả các thế hệ nhạc sĩ ngưỡng mộ, công nhận và học hỏi. Vai trò trong sự phát triển của âm nhạc cổ điển của sự nghiệp sáng tác của Bach còn thể hiện cho đến tận thế kỉ XX và thời đại ngày nay. Điều thú vị là những nhạc sĩ lớn đầu tiên trân trọng tài năng của Bach lại chính là Mozart và Beethoven, cũng như Bach lại là người đầu tiên trân trọng tài năng của Vivaldi.
Âm nhạc Bach kế thừa sự chính xác và chặt chẽ của nghệ thuật đối vị đỉnh cao trong quá khứ, lại vừa mang trong mình những cảm hứng phong phú và tươi sáng của tương lai. Những thủ pháp canon xuất sắc được kết hợp với những giai điệu với đường nét rõ ràng và nhịp điệu đậm chất cuộc sống. Hình thức âm nhạc đã cô đọng, chi tiết, phong phú hơn với sự tách bạch rõ nét hơn của các câu nhạc, những màu sắc và dấu ấn của hoà âm và các vũ khúc dân gian dường như đã làm cho những tác phẩm thời kì này vượt lên trước thời gian. Dưới những hình thức cũ, những tác phẩm của Bach đã mang trong mình sức sống của một thời đại đang đi lên và cảm hứng đầy chất nhân văn của một xã hội mới đang hình thành một cách tiềm tàng và ẩn chứa.
Minh Trần
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét