Thăng Long trong thơ xưa
Lê Thu Yến
Nhiều người đều nghĩ rằng hiếm thấy nơi đâu trên
đất nước Việt Nam lại có vị thế đẹp và thuận lợi như đất Thăng Long - Hà Nội.
Đây là nơi truyền thuyết kể rằng có rồng bay lên, là nơi tụ thủy, tụ nhân. Các
bậc tiền nhân xây dựng kinh đô nơi đây với mong ước muôn đời non nước phồn vinh
phát triển theo thế rồng bay lên. Và quả thật trời đất đã ban tặng cho vùng đất
này bao nhiều là tiềm năng phát triển về mọi mặt, điều này đã được chứng minh
qua 10 thế kỷ trung đại, cả cho đến ngày nay. Dù có thể không sinh ra trên vùng
đất đế kinh này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một huyền
thoại lung linh về Hồ Gươm - Tháp Rùa, về nơi thanh tịnh trang nghiêm của Chùa
Một Cột, về chốn lưu giữ tri thức thời đại đầy tự hào của Văn miếu - Quốc Tử
Giám, về đài Nghiên, tháp Bút mạnh mẽ vươn mình lên tận trời xanh … Và một điều
gì đó hết sức gần gụi thân quen, đó có thể là hình ảnh dòng sông Hồng đỏ nặng
phù sa, là con đường nồng nàn mùi hoa sữa, là những dòng sóng lan nhẹ trên mặt
hồ, là mùa thu chìm khuất trên những táng cây già buông nhè nhẹ từng chiếc lá,
là mùa đông trên đôi má ửng hồng của các cô gái thị thành…nói chung là những gì
rất thủ đô, của thủ đô.
Thơ ca
xưa từng cảm nhận được nét đẹp của văn hóa Tràng An: Chẳng thơm cũng thể hoa
nhài / Dẫu không thanh lịch cũng người Trường An (ca dao). Người Thăng Long xưa
luôn tự hào mình là người “Kẻ Chợ”, đó là những người từ khắp nơi khắp chốn đến
với kinh đô, là dân tứ trấn. Người Thăng Long vốn tài hoa khéo léo, ham học
hỏi, giàu tính nhân văn…luôn để lại ấn tượng tốt cho mọi người. Con trai hào
hoa, lịch lãm, con gái nổi tiếng dịu dàng, thùy mị, nết na,
công-dung-ngôn-hạnh. Không chỉ những người sống ở đất thủ đô mới có những tình
cảm sâu sắc với đất thủ đô mà tất cả những ai đã từng đặt chân đến chốn này,
những ai đã từng nghe qua về lịch sử, về những điểm rất riêng của đất và người
Tràng An đều trân trọng những nét đẹp văn hóa của vùng đất này.
Từ một thời đã
qua, đã xa, kinh thành Thăng Long vẫn là nơi hoài vọng của bao người. Những địa
danh gắn với lịch sử như Chương Dương, Hàm Tử (trong thơ Trần Quang Khải, Trần
Lâu, Vũ Mộng Nguyên, Phạm Công Trứ, Ninh Tốn …) vẫn còn đó minh chứng những
chiến tích lừng lẫy của một thời huy hoàng. Kiếm hồ, Tây hồ, đền Ngọc Sơn, đền
Trấn Vũ, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên, chùa Diên Hựu….là những thắng cảnh muôn
đời. Đi xa là nhớ, đổi thay là đau xót, tàn phai là đắng lòng…Những điều đó đã
đi vào thơ với tất cả niềm tự hào. Hầu như Thăng Long có bao nhiêu cảnh đẹp là
đều được đưa hết vào thơ:
Đây là vẻ đẹp của hồ Hoàn Kiếm:
Hoa nở sắc xuân như vui mừng vì nhiều phen chiến
thắng
Sương rớt tiếng thu dường nỉ non tiếng khóc giặc
tù
Trải qua bể dâu, hồ vẫn y nguyên
Oai trời còn vẽ bức tranh mây nước
(Kiếm
hồ xạ đẩu - Đoàn Nguyễn Tuấn)
Hồ
Hoàn Kiếm cùng với truyền thuyết trả gươm của vua Lê Lợi không một người dân từ
ải Nam Quan đến mũi Cà Mau nào mà không biết. Lịch sử hào hùng sử gắn với câu
chuyện đẹp đã trở thành một điểm son của dân tộc. Bất cứ một học sinh cấp một
nào cũng thuộc nằm lòng câu chuyện này.
Không
chỉ gắn với lịch sử mà cảnh đẹp lung linh huyền ảo của hồ cũng đã tạo nên một
cảm giác thanh tịnh yên bình
Khói sớm nhạt, bóng chiều lành lạnh
Chim âu đến thế khéo đua bơi
(Kiếm
hồ 4 - Phạm Quý Thích)
Hồ Tây
cũng là một cảnh đẹp tự ngàn xưa của Thăng Long. Nếu như Hồ Gươm có Tháp Rùa ẩn
chứa bao điều kỳ diệu, có cầu Thê Húc cong cong dưới bóng chiều thì Hồ Tây chỉ
có mặt hồ gợn sóng, bóng liễu ngả nghiêng gợi tình
Lòng xuân nghiêng ngả không tự cầm giữ nổi
Tây hồ quả thật là một nàng Tây Thi
Vẻ mày nở nang là khi lớp sóng mới lặng
Dây lưng uốn éo là lúc ngọn cỏ đương xanh
(Du
Tây hồ - Cao Bá Quát)
Chàng thi sĩ họ Cao quả đã vẫy nên nét bút thần
kỳ để biến gương mặt hồ thành gương mặt của người đẹp Tây Thi và với nhan sắc
ấy thì không có “lòng xuân” nào có thể tự cầm giữ nổi. Đến ông chúa Trịnh Sâm
cũng xiêu lòng trước cảnh trời nước bâng khuâng
Đôi đóa nhị hồng in dáng tía
Một dòng nước biếc ánh trời xanh
(Tây
hồ tức cảnh -Trịnh Sâm)
Nguyễn Văn Siêu thì kết hợp với thời gian dời
đổi để thấy sự tồn tại đời đời của non sông, của thành trì, của trời nước
Cổ kim đã biến đổi như thế
Non sông có biết không
Những thành trì còn đó rành rành
Trời nước vẫn tự lững lờ
(Du
Tây hồ - Nguyễn Văn Siêu)
Hồ Tây trong tâm trí người dân nước Việt bao giờ
cũng là một viên ngọc sáng long lanh tô điểm thêm cho cuộc đời
Mây lẫn nước xanh, màu đúc ngọc
Nguyệt lồng hoa thắm, vẻ in châu
(Vịnh Tây hồ - Nguyễn Quang Toản)
Nét
đẹp của kinh thành Thăng Long còn là nét đẹp ấm áp với cảnh sắc tốt tươi của
xóm làng
Thôn xóm này ở ngoài thành Thăng Long
Chỉ cách nhà ta hơn hai dặm đường
Dòng Tô Lịch xanh trong uốn theo vạt ruộng
Cây vải tươi tốt bao quanh những nếp nhà tranh
(Quang
liệt xã giang thượng ngâm - Bùi Huy Bích)
Đó còn là dòng sông Nhị hiền hòa bao đời chảy
quanh song hành cùng đời sống thăng trầm của con người
Theo gió xuân bè bình yên đi trên sông Nhị
Cảm hứng ruổi theo Ngũ Lĩnh cùng điểm chót của
thời gian
Tầm nhìn dừng ở Tam Giang, bị ngăn bởi ráng
chiều
(Độ
Nhị Hà - Phan Huy Chú)
Áng mây rà thấp, bóng cây xa dòm nghiêng xuống
nước
Bầu trời rộng lớn, ngôi lầu cao dễ chạm tới tầng xanh
(Nhị
Hà đối nguyệt - Nguyễn Văn Siêu)
Mùa xuân đẹp sông Nhị càng khởi sắc
Năm nay mừng được trông thấy mùa xuân ở kinh
thành
Mặt nước sông Nhị, khói phủ long lanh bóng cây
Làn gió cung vua, hương đưa rung động lớp bụi
(Nhâm
Dần tuế đán - Bùi Huy Bích)
Chùa Kim Liên cũng là một thắng cảnh tâm linh
gắn liền đời sống của người dân nơi đây
Cánh bèo trôi nổi, làm khách cố kinh
Nơi chùa Kim Liên đã mấy lần qua
Sắc lá ba thu liền với xóm làng xanh biếc
Vạn khoảnh hồ sáng, phẳng lặng như một tấm gương
(Quá
Kim Liên tự - Phạm Đình Hổ)
Đền Trấn Vũ quen thuộc trong câu ca dao và hầu
như nó đã trở thành thi liệu khi các nhà thơ nhắc đến cảnh sắc của Long thành
Đầu hồ Trúc Bạch mây man mác
Ngoài cung Thái Hòa cỏ xanh rờn
(Đề
Trấn Vũ quán thạch bi - Cao Bá Quát)
Khung cảnh yên bình, nên thơ, trữ tình cũng là
một nét không thể bỏ qua của các nhà thơ
Xuân điểm hoa nhà dân, đó đây rực rỡ màu hồng
Núi liền cây đồng nội, bát ngát một dải xanh
(Xuân
giao vãn hành - Nguyễn Tử Thành)
Kể cả ánh trăng huyễn hoặc treo trên kinh thành
cũng làm tăng thêm nỗi niềm hoài vọng của kẻ đi xa
Mặt trăng long lanh đáy hồ sâu
Ngọn cây nhặt thưa trên thành đất
(Dạ
tọa thính đỗ quyên - Bùi Huy Bích)
Không gian kinh thành ánh điện không át nổi ánh
trăng
Dưới cây đèn điện, xe tranh nhau đường đi
Bên hồ Hoàn Kiếm trăng treo trên mái lầu
(Hà
thành trung thu tiết - Dương Khuê)
Trăng tỏa sáng in bóng xuống đầm, soi sáng cây
cỏ ướt đẫm sương đêm. Tiếng chuông ngân, tiếng chày đập vải làm xao động ánh
trăng chìm dưới nước …khung cảnh thật êm
đềm
Gươm tỏa ánh tuệ, in xuống bóng đầm
Trăng soi sáng sương đêm, dội trên ngọn cây
(Vũ
quán xao nguyệt - Đoàn Nguyễn Tuấn)
Tiếng chuông ngân làm mặt trăng trên thành sông
chìm xuống
Tiếng chày đập vải khiến mùa thu ven biển thêm lạnh
lùng
(Thu
dạ ký văn - Đoàn Huyên)
Nhưng kinh thành Thăng Long đâu chỉ có thắng
cảnh thiên nhiên và di tích đền, chùa. Thăng Long còn là nơi mọc lên những
thành quách đền đài, những cung điện nguy nga, những lầu gác tráng lệ, những
phố xá tấp nập đông vui, những con đường lớn với xe ngựa xênh xang dập dìu. Đây
chính là chỗ làm cho Thăng Long khác với những vùng quê êm đềm, hiền hòa khác.
Thành phố ngàn năm tuổi cũng là nghìn năm trận mạc. Nhưng trên tất cả là vẻ hào
hoa thanh lịch. Cái hào hoa thanh lịch của người Trường An với những sắc độ của
khung cảnh, của văn hóa nói chung
Trong thị thành riêng một áng lâm tuyền
Bóng kì đài giăng mặt nước như in
(Hồ
Tây - Nguyễn Công Trứ)
Ngoài thành Long Biên cỏ như khói
Trên đài thành Long Biên trăng đang treo giữa
trời
…Nắng xuân phường phố trăm hoa nở tươi
Tấp nập ngày đêm xe ngựa, áo cầu qua lại
(Long
biên trúc chi từ - Miên Thẩm)
Thành quách lờ mờ trong sương mù xanh
Làng quê thăm thẳm dưới làn mây trắng
(Dạ
độ Nhĩ hà - Đoàn Nguyễn Tuấn)
Trong
thơ ca, hình ảnh đẹp chốn kinh thành còn là những gương mặt trong sáng ngây thơ
của những nàng trinh nữ e ấp tuổi xuân thì, những bức tranh sống tô điểm thêm
cho bộ mặt thị thành
Cô con gái nhỏ ở Trường An
Cái tay nhỏ xinh bện hai bím tóc đen
Ở trong khuê phòng thầm kín chẳng biết khổ là gì
Cô còn đang quét hoa rụng xem chơi
(Hữu
sở cảm- Phạm Đình Hổ)
Là cô gái trẻ trung duyên dáng, trong sáng bên
hoa đào nở, bên cỏ xuân xanh tươi
Năm nay hoa đào nở
Cỏ xuân sao mà xanh tươi
Đứng trước hoa cô gái láng giềng tươi cười
Thơ làm xong tay cô tự viết lấy
(Hoài
cổ - Phạm Đình Hổ)
Đặc biệt hình ảnh cô bạn hàng xóm được Nguyễn Du
rủ rê đi hái sen vẫn in đậm nét thi vị trong lòng người đọc. Tiếng cười hồn
nhiên trong trẻo bên hoa (dù là trong mơ) vẫn mãi còn là một điểm nhấn tươi tắn
hiếm hoi trong những chuổi ngày buồn của thơ chữ Hán Nguyễn Du
Sáng sớm đi hái sen
Có hẹn với cô gái bên xóm
Chẳng biết cô đến lúc nào mình không hay
Chợt nghe bên kia hoa có tiếng cười nói
(Mộng
đắc thái liên - Nguyễn Du)
Đất kinh thành thì không thể thiếu hình ảnh các
nàng cung nữ, các bà phi một thời làm mê đắm các ông hoàng, các công tử vương
tôn
Đập cổ-kính ra tìm lấy bóng
Xếp tàn-y lại, để dành hơi
Mối tình muốn dứt càng thêm bận
Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi
(Khóc
Bằng phi -Tự Đức)
Bóng gương lấp loáng trong mành,
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa
…Hương trời đắm nguyệt say hoa,
Tây Thi mất vía, Hằng Nga giật mình.
(Cung
oán ngâm - Nguyễn Gia Thiều)
Và cũng không thể không nhắc đến các nàng ca nữ
với sinh hoạt ca múa, một hình thức giải trí thưởng lãm làm tăng thêm vẻ sang
trọng, vương giả cho chốn phồn hoa
Giọng oanh trăm chiều khéo lựa lời ca
Mắt đẹp đang yêu thường gợn sóng thu
(Hòe
nhai ca nữ - Đoàn Nguyễn Tuấn)
Đó là những người phụ nữ xinh đẹp, tài giỏi.
Tiếng đàn, giọng hát của họ đã làm rung động biết bao người
Cành hoa nồng thắm từ cõi tiên sa xuống
Sắc xuân đẹp tươi làm rung động cả sáu thành
(Điếu
La Thành ca giả - Nguyễn Du)
Đã từng nghe giọng ca uyển chuyển khi mặc áo
hồng
(Ngộ
gia đệ cựu ca cơ-Nguyễn Du)
Bên hồ Giám trong một cuộc dạ yến
Lúc đó nàng khoảng hai mươi mốt tuổi
Áo hồng ánh lên khuôn mặt hoa đào
Má đỏ vì rượu, vẻ ngây thơ rất dễ thương
(Long
thành Cầm giả ca - Nguyễn Du)
Cô Cầm của Nguyễn Du dù thảm buồn ngày gặp lại
(hao gầy, tả tơi héo rủ…) nhưng hình ảnh khuôn mặt hoa đào ánh lên từ chiếc áo
hồng của hai mươi năm trước vẫn làm lay động lòng người mỗi khi có ai nhắc đến
những nàng ca nữ một thời.
Những
cô gái đẹp thường bị ‘trời đánh ghen” nên kiếp đời của họ, số phận của họ
thường lênh đênh, trôi nổi, bọt bèo … như nàng ca nữ của Phạm Đình Hổ, của Ngô
Ngọc Du
Đầu phố Chức Cẩm đây là nhà thiếp ở
Có ngờ đâu cái kiếp trâm hoa đã bị lỡ làng đến
thế này
…Đổi thay dâu bể bao phen, từng đã giật mình
trong giấc mộng
Thân phận quần thoa không có cách nào nữa, chỉ
còn liều sống lối buông trôi
(Phạm
Đình Hổ - Cựu ca cơ)
Hồi trẻ đã học thạo nghề đàn hát trong gia đình
Tuổi mới cập kê, nhân duyên chưa định chốn
Danh sách tiến cung đã liệt tên và giục giã lên
đường
(Đàm
ni thân thế khẩu thuật - Ngô Ngọc Du)
Đọng
lại trong các sáng tác thơ ca của các tác giả thời kỳ này vẫn là cảm hứng về
nỗi buồn thời đại. Nỗi buồn thấm sâu, day dứt khi trở lại đế kinh, vẫn nghe
vọng tiếng hồn thiêng sông núi mà trời đất đã đổi thay, người xưa đã không còn,
những người bạn thời trẻ nay sống đời chìm nổi, những thiếu nữ xinh đẹp giờ đã
tay bế tay bồng, tóc xanh bây giờ đã bạc lốm đốm …
Những chỗ chơi đùa khi trẻ dại
Bây giờ một nửa đã thay dời
(Thượng
kinh tự hoài - Lê Hữu Trác)
Những cô gái xinh đẹp quen biết nay đểu ẳm con
Những bạn hào hiệp lúc trẻ nay thành ông già
(Thăng
Long 1 - Nguyễn Du)
Bạn bè hồi tuổi trẻ, kẻ mất người còn
(Thăng
Long 2 – Nguyễn Du)
Đặc biệt hai
bài thơ viết về Thăng Long của Nguyễn Du, ông viết trên đường đi sứ khi chưa ra
khỏi địa phận của đất nước. Gặp lại Thăng Long xưa, lòng xúc động bồi hồi. Ông
reo mừng như sắp khóc: Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long (Thăng Long 1 – Nguyễn
Du). Đầu bạc còn được thấy Thăng Long, thấy Thăng Long là thấy cả
hồn thiêng sông núi, gặp lại Thăng Long là gặp lại những vui buồn thăng trầm
trong quá khứ. Ông nhìn đến hút hồn hình ảnh Mảnh trăng ngày trước soi
xuống ngôi thành mới / Đây vẫn là Thăng Long, đô thành các triều vua trước(Thăng
Long 2 - Nguyễn Du)…. bởi với ông, Thăng Long là ký ức vàng son một
thuở, là tuổi thơ xa vời vợi, là gia đình vang bóng một thời, là dấu tích rất
đỗi thân quen. Vì vậy mà có biết bao kỷ niệm xưa tràn về, đêm trăng sáng vẳng
nghe tiếng sáo mà không làm sao ngủ được “khổ vô thụy”.
Trong ký ức
của những người con Thăng Long, nơi đây từng ghi dấu những đổi thay lớn. Những
tòa thành mới thay thế những cung điện cũ, là những đường cái quan ngang dọc
xóa hết dấu vết của những ngôi nhà đồ sộ cũ (Thăng Long 1,2- Nguyễn Du), là
những vương cung, đế miếu có rồi mất … tất cả những điều đó dẫu sao cũng là
niềm tự hào của đất Thăng Long.
Bà Huyện Thanh
Quan hơn ai hết thao thiết hoài niệm về một thời quá vãng đã khắc quá sâu trong
tâm hồn bà cũng như đối với mỗi người trên đất Thăng
Long
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng
Long hoài cổ - Bà Huyện Thanh Quan)
Câu thơ tiêu tao ấy gợi nhớ những gì xưa cũ với
lối cũ rêu phong, với hồn thu thảo, với bóng tịch dương… Lâu đài, xe ngựa tượng
trưng cho quyền lực và cơ đồ cao ngất của các tiên triều giờ chỉ còn chập chờn
trong ảo mộng.
Nguyễn Công
Trứ cũng đã đi tìm thành quách, vương cung, đế miếu của một thời huy hoàng.
Đất Trường An là cổ đế kinh
Nước non một dải hữu tình
…Đã mấy độ sao dời vật đổi
Nào vương cung đế miếu ở đâu nào?
(Cảnh
Hà Nội - Nguyễn Công Trứ)
Cao Bá Quát
nặng lòng trước con đường xa giá vua đã từng qua bây giờ chỉ còn trơ lại mảnh
đất không. Đàn tế giao xung quanh cây cỏ lấp đầy, mặc gió thu thổi tràn
Cờ quạt đường ngự đi, nay chỉ còn là mảnh đất
không
Cây cỏ ở đàn tế giao, mặc cho gió thu thổi
(Quá
Thiên Quang tự, thương Lê triều cố cung - Cao Bá Quát)
Đây là kinh đô cũ, nơi phồn hoa bậc nhất xưa kia
Núi Nùng, sông Nhị rất mực cao thanh
Nghìn năm thành quách, từng qua mấy độ cổ kim
Mười dặm phố phường, nối tiếp bao lớp người sống
thác
(Đăng
Long Thành lãm thắng hữu cảm - Cao Bá Quát)
Một thuở phồn hoa đông vui, tấp nập, ngựa xe như
nước… ngày nào bây giờ không còn nữa, lòng người đau xót buồn rầu nhìn dương
liễu héo hon, trúc gầy đi. Sắc cỏ xanh bên đường, vết xe thuở đó như còn đâu
đây
Dương liễu héo hon, trúc gầy, khói như thuở nào
Mấy chốn đình đài gạch ngói đổ nát
Buồn rầu nhìn sắc cỏ xanh trên đường
Như còn ghi lại rành rành vết xe thuở đó
(Kinh
quá Lý cố thành di chỉ - Miên Thẩm)
Lầu gác đổi dời, lăng tẩm biến di, xóm làng xưa
cũ mất dấu
Ngàn dặm kinh kì một cõi bờ
Trăm năm lăng tẩm hóa đồi gò
Chọc trời lầu gác nơi tanh tưởi
Liền đất xóm làng đống bụi tro
(Tràng
An hoài cổ - Nguyễn Xuân Ôn)
Nguyễn Khuyến cũng
động lòng thương tâm và trầm mặc trước những đổi thay lớn của khung cảnh
Khá thương cho chỗ đất này nổi tiếng văn chương
đã năm trăm năm
Nay chỉ còn trơ lại cái gò đá mà thôi
(Hoàn
Kiếm hồ - Nguyễn Khuyến)
Với ông, sự thay đổi không phải do thời gian mà
là do có sự hiện diện của giặc Pháp. Không nỗi buồn nào cắt cứa sâu hơn nỗi
buồn mất nước. Không nỗi đau nào đau hơn sự bất lực ngồi nhìn kẻ ngoại bang sắp
xếp, quy hoạch làm thay đổi đất nước mình (hay nói cách khác là tàn phá quê
hương mình) mà mình không thể làm được gì
Nơi này thu trước, chục năm qua
Thành quách còn nguyên cảnh khác xa
(Giáp thân trung
thu ngụ Hà Nội hữu cảm ký đồng niên cử nhân Ngô - Nguyễn Khuyến)
Từ Diễn Hồng cũng cùng tâm trạng
Người cũ bây giờ đâu cả nhỉ
Xe rồng chẳng thấy thấy xe tay
(Thăng
Long thành hoài cổ - Từ Diễn Hồng)
Ở Nguyễn Thượng Hiền thì nuối tiếc “Long Biên
chỉ còn đống tro tàn”, “biết khí đất biến chuyển” nhưng vẫn cố gắng gượng pha
chút lãng mạn vào chén rượu để thấy lại hoa sen, để thấy lại chuyện của năm
trước
Hồ Tây không ghi lại việc năm trước
Còn trổ hoa sen ánh vào chén rượu
(Tức
sự - Nguyễn Thượng Hiền)
Dương Khuê, Lê Quả Dục cũng tiếc thời gian trôi
qua và những gì thay đổi
Lũ trẻ mãi theo trò chơi rồng cá
Chẳng tính gì đến non sông đã nửa mùa thu rồi
(Hà
thành trung thu tiết - Dương Khuê)
Đã hăm nhăm năm rồi mới tới đây
Các nơi đến chơi trước không còn chỗ nào thăm
lại được
Chỉ thấy bụi, xe, vết ngựa, mù trời dậy đất
Sắc hồ bóng núi nay đã khác hẳn xưa
(Ất
Dậu niên, vãng Hà Nội cảm tác - Lê Quả Dục)
Dầu vậy, nhưng Thăng Long trong tâm trí mỗi con
người vẫn không thể phai nhạt dù thời gian đã tìm đến và muốn xóa hết dấu vết.
Cái đẹp của hồn nước, hồn người vẫn rung lên những xúc cảm dạt dào. Vì thế mà
những trang thơ viết về Thăng Long – Hà Nội vẫn tiếp tục, Tháp Bút vẫn ngày
ngày vươn mình viết thơ lên trời xanh. Nước sông Hồng vẫn tiếp tục chảy, mặt hồ
vẫn từng ngày gợn sóng, phố phường vẫn tiếp tục khoác lên mình những màu sắc
mới. Và thơ ca vẫn sẽ tiếp tục nối những vầng tụng ca đẹp nhất, hay nhất, trữ
tình nhất về vùng đất thiêng này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét