LỤC
BÁT BỐN MÙA
Việt An
Xuân
Xuân
về khẽ chạm làn môi
Áo
sương lãng đãng buông lơi vai trần
Mưa
như bụi ngọc trong ngần
Vườn
xưa Đào nở, trước sân Mai vàng.
Hạ
Tháng
năm phượng cháy đỏ trời
Gió
như ai quạt làm rơi than hồng
Ve
ru giấc hạ say nồng
Cánh
diều bay giữa mênh mông nắng ngời.
Thu
Hạ
đi vắng tiếng ve sầu
Thu
về trước ngõ qua cầu Heo may
Lần
tìm hơi ấm bàn tay
Khép
tà áo mỏng, đón ngày thu sang.
Đông
Mưa
phùn, gió bấc- Mùa đông
Đêm
dài giá rét, ngày không mặt trời
Cành
gầy treo giọt sương rơi
Bức tranh bốn mùa vốn là đề tài quen thuộc trong thơ ca. Mùa
Thu được biết đến là mùa của lá vàng bay, mùa Hạ với tiếng ve ngân. Mùa Đông cây trơ cành, trụi lá... Mùa Xuân đến, vạn vật
thay áo mới, cây cối đâm chồi nẩy lộc, trăm hoa khoe sắc. Đó quy luật tất yếu
của tự nhiên, mà sao cứ làm vấn vương lòng người. Vẫn theo quy luật liên hoàn
của thời gian, không gian nhưng chùm thơ "Lục bát bốn mùa" của tác
giả Việt An, đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng khó quên.
Mùa xuân thường gợi cho ta nghĩ đến tuổi trẻ, đến vẻ đẹp đầy sức
sống của con người và đất trời. Cảnh mùa Xuân trong thơ Việt An đầy quyến rũ.
Tác giả cảm nhận được bước đi của thời gian. Xuân về nhẹ nhàng, say đắm
như nụ hôn của thiếu nữ - "khẽ chạm làn môi". Bài thơ như một
cung đàn trong trẻo, đằm thắm, thiết tha với bao cảm xúc:
"Xuân về khẽ chạm làn môi
Áo
sương lãng đãng buông lơi vai trần
Mưa như bụi ngọc trong ngần
Vườn
xưa Đào nở, trước sân Mai vàng."
Một sớm xuân lãng đãng, cảnh vật được bao
phủ trong lớp sương mờ. Sương phủ trắng trên đôi vai người thiếu nữ! Từ láy
"lãng đãng" có giá trị tạo hình sâu sắc, cộng hưởng với những hình
ảnh gợi cảm ("Áo sương lãng đãng buông lơi vai trần", "Mưa như
bụi ngọc") đã khắc họa cảnh mùa xuân tràn đầy nhựa sống và không kém phần
lãng mạn. Không gian xuân bừng sáng, lung linh trong sự hài hòa của sắc màu:
sắc vàng của hoa mai, sắc hồng đỏ thắm, tinh khôi của những cành đào, sắc ngọc
lung linh của những hạt mưa Xuân.
Nếu sắc màu làm bừng sáng bức tranh xuân thì "sức
nóng" là sự lan tỏa làm nên bức tranh mùa Hạ. Không gian Hạ được phác họa
rõ nét hơn trong sắc đỏ của hoa phượng, âm thanh của tiếng ve, sự dập dìu của
cánh diều... Những hình ảnh có sức gợi tả, gợi cảm, đưa người đọc về miền kí ức
tuổi thơ ngọt ngào, thân thương:
"Tháng
năm phượng cháy đỏ trời
Gió
như ai quạt làm rơi than hồng
Ve
ru giấc hạ say nồng
Cánh
diều bay giữa mênh mông nắng ngời."
Cái hay ở bài thơ này là ở những hình ảnh lôi cuốn, giàu chất gợi tả. Ve
được nhân hoá "Ve ru giấc hạ say nồng". Hình ảnh "cánh
diều" làm không gian thơ trở nên lãng mạn và mở rộng mênh mông, bát ngát.
Cánh diều bay giữa bầu trời trong sắc nắng rực rỡ của mùa hè, gợi sự thanh
bình, êm ả. Chỉ vài nét chấm phá,tác giả đã
vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mùa Hạ đầy ấn tượng.
Tác giả đã
khéo léo vận dụng thành công đặc trưng tái hiện không gian vô cực của thi ca;
gói trọn bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông trong những sắc màu hài hòa, tươi mới.
Mùa Thu trong thơ Việt An có nét mềm mại, dịu dàng. Tất cả đường nét, hình ảnh,
màu sắc tương giao với nhau tạo nên một mùa Thu bàng bạc trong không gian Thu,
làm say đắm lòng người. Mùa Thu còn được tác giả cảm nhận bằng sự giao cảm giữa
tâm hồn và thiên nhiên:
"Hạ
đi vắng tiếng ve sầu
Thu
về trước ngõ qua cầu Heo may
Lần
tìm hơi ấm bàn tay
Khép
tà áo mỏng, đón ngày thu sang."
Cái dào dạt của trời thu, sự bâng khuâng của lòng người hòa vào nhau, tạo nên
nét mềm mại của cảnh vật, gợi cảm giác nhẹ nhàng thanh thoát, thoáng chút buồn
man mác. Thời khắc của mùa Hạ trôi qua, nhường chỗ cho mùa Thu dịu nhẹ. Có một
điều đặc biệt, nhưng rất chung, đó là mùa Thu trong thơ văn thường đượm buồn.
Nét buồn này vương lại trong thi ca:
“Mùa Thu đi qua còn để lại
Một ít
vàng trong lá trong cây
Một
ít buồn trong gió trong mây”
(Tế
Hanh)
Nhà thơ Tế Hanh trong buổi chiều
thu, đã có những cảm nhận như thế về mùa Thu- mùa gợi sầu, gợi nhớ. Nỗi buồn ấy
dường như cũng là tâm trạng phổ quát của mỗi chúng ta, mỗi khi gió heo may chớm
lạnh, lá vàng chao nghiêng, sương thu giăng mắc... Cái se lạnh của hơi thu
khiến con người như muốn xích lại gần nhau:
"Lần
tìm hơi ấm bàn tay
Khép
tà áo mỏng đón ngày thu sang"
Hình ảnh thơ gợi nên một cảm giác mơ
hồ, xa vắng khiến lòng ta nao nao, bâng khuâng, nhớ tiếc… Mùa thu trong thơ của
Việt An không có lá vàng rơi: "Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo"(Nguyễn
Khuyến); hay: "Con nai vàng ngơ ngác/ Đạp lên lá vàng khô”(Lưu Trọng
Lư)
Mùa thu trong thơ Việt An có cái se lạnh của gió
heo may, thấp thoáng dáng vẻ kín đáo, dịu dàng của thiếu nữ trong hình ảnh
"khép tà áo mỏng". Chỉ có thế thôi mà bức tranh mùa Thu hiện lên với
những rung động xôn xao, cảm xúc tinh tế trước đổi thay, luân chuyển của đất
trời và sự sống.
Vạn vật vần xoay, Thu qua - Đông đến. Đông mang theo cái lạnh của mưa phùn, gió
bấc. Trong bức tranh mùa Đông, cảnh vật vẫn êm đềm nhưng gợn buồn. In trên nền
cảnh lạnh lẽo của mùa Đông là hình ảnh cành cây khẳng khiu, khô gầy:
"Mưa phùn, gió bấc- Mùa đông
Đêm
dài giá rét, ngày không mặt trời
Cành gầy treo giọt sương rơi"
Nhưng trong cảnh buốt giá ấy, một nét xuân hé nụ, tươi rói, làm ấm áp lòng
người:
Tác giả sử dụng động từ "hẹn" ở dòng
thơ cuối trong tâm trạng háo hức, đợi chờ ngày xuân sắc thắm. Hình ảnh “lộc
thắm biếc ngời sắc xuân” ngời sáng một niềm tin, một tình yêu, một sự gắn kết
giữa con người và thiên nhiên. Nét son của chùm thơ "Lục bát bốn
mùa" của Việt An chính là sự gắn kết giữa dòng thơ đầu trong bài thơ
"Xuân" ("Xuân về khẽ chạm làn môi") với dòng thơ cuối trong
bài thơ mùa "Đông" ("Hẹn ngày lộc thắm biếc ngời sắc xuân").
Đó không chỉ là quy luật của vũ trụ với sự luân chuyển bốn mùa Xuân - Hạ - Thu
- Đông mà chính là tình yêu cuộc sống, là cái nhìn lạc quan của tác giả...
Trong cảnh "mưa phùn gió bấc" của mùa Đông, vẫn nhìn thấy cảnh ngày
"lộc thắm biếc ngời sắc xuân".
Điểm nhấn về mặt nghệ thuật của "Lục bát bốn mùa"
cũng rất ấn tượng. Với thể thơ Lục bát - thể thơ truyền thống của dân tộc- tác
giả không chỉ vẽ nên bức tranh Mùa, mà còn gửi gắm tình yêu, sự giao cảm, giao
hòa giữa con người với thiên nhiên. Nhà thơ đã vận dụng tinh tế các thủ pháp tu
từ: biện pháp so sánh: "Mưa như bụi ngọc trong ngần" hay "Gió
như ai quạt làm rơi than hồng"; biện pháp nhân hoá: "Áo sương lãng
đãng buông lơi vai trần", "Ve ru giấc hạ say nồng"... tạo nên
nét đặc sắc, hấp dẫn người đọc. Cảnh vật cân xứng, hài hoà, rõ nét, gam màu nhẹ
nhàng, hoà hợp… tạo cảm xúc thơ mộng, bình yên. "Lục bát bốn mùa" như
một bức họa đa sắc. Điều đáng chú ý ở thơ Việt An là tác giả đã nắm bắt được
cái "hồn" của cảnh vật để phác họa bức tranh thiên nhiên Mùa hữu
tình, độc đáo và hấp dẫn.
"Lục bát bốn mùa" là tiếng nói riêng
của tác giả Việt An, góp vào bức tranh chung của thi ca. Thời gian tuần tự Xuân
- Hạ - Thu - Đông. Mỗi mùa đi qua trong một khoảnh khắc đáng nhớ, để lại những
cảm xúc khó quên. Đó là sự bắt nhịp của thơ trong trong không gian, thời
gian của thời khắc giao mùa; là tình yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên của con
người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét