Xuân trong thơ mới giai đoạn 1932 - 1945
Thơ mới là một loại hình thơ đã minh chứng
được vai trò, ý nghĩa quan trọng của nó trong tiến trình thơ Việt Nam từ khởi
thủy đến hiện đại. Trong tư cách là một loại hình, Thơ mới mang những sắc thái
khác biệt, không trùng lặp, không phổ biến, không có tính quy luật trong các loại
hình thơ trước và sau nó. Trong rất nhiều tiêu chí đã được đề cập, ở bài viết
này, chúng tôi tập trung vào cảm thức “Xuân” như là một ý niệm, một tri thức
của loại hình. Xuân ở đây không chỉ là mùa (thời gian tự nhiên, vật lý), nó còn
hàm nghĩa những giá trị thuộc về bản sắc cá thể, về cuộc đời, về giá trị quan,
thẩm mỹ quan của con người cá nhân tư sản trong môi trường đô thị kiểu phương
Tây thời Thơ mới. Nói cách khác, Xuân là một phạm trù có tính biểu trưng trong
tư duy, mỹ cảm của thi sĩ Thơ mới. Từ đó, Thơ mới phân biệt với Thơ trung đại,
khẳng định tư cách hiện diện của mình trên diễn trình thi ca dân tộc.
Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, chúng tôi
không thể mô tả, lý giải cũng như đánh giá cặn kẽ về biểu trưng Xuân trong Thơ
mới mà chỉ bàn đến một vài khía cạnh có tính căn bản, trọng yếu nhất của sắc
thái này. Theo đó, Xuân trong Thơ mới hàm chứa ý niệm về thời gian, về vẻ đẹp
của con người, cuộc đời đồng thời Xuân còn là biểu trưng của tình yêu, xuân
tình, những xúc cảm, thái độ của con người cá nhân trong quá trình thức nhận
những giá trị cốt thiết của bản thân và sự sống. Trong bài viết Thời
gian, không gian trong thơ Đường, Trần Đình Sử chia thời gian thành 5 phạm
trù: Thời gian sinh mệnh cá thể/ Thời gian vũ trụ - tự nhiên/ Thời gian lịch sử/
Thời gian sinh hoạt/ Thời gian siêu nhiên1. Nếu đặt ra một sự tương
sánh về ý niệm thời gian của Thơ mới với Thơ Đường (trong tư cách là mẫu hình
của Thơ trung đại), có thể thấy Thơ mới đã rút lại để phát huy tối đa cảm quan
của con người cá nhân về thời gian, cuộc đời, vẻ đẹp, xuân tình, sự tàn phai,
hủy diệt... làm nên phạm trù Xuân như là một sản phẩm mang đặc tính loại hình
của Thơ mới. Con người, trong ý thức về mình thấy cần phải được hiện diện, được
sống với những đòi hỏi căn bản, thực hữu. Bởi vậy, ý thức về thời gian, về Xuân
cũng là một cách tự biểu hiện, một con đường để hiện diện trong vũ trụ, nhân
giới, trong tương quan với tha nhân và từ đó là trong lịch sử, trong những thế
giới khác (như cách Trần Văn Toàn gọi là hiện thân tại thể, ở vật giới, nhân
giới và thế giới bên kia…)2. Trong hình dung để mô tả, Xuân trong
Thơ mới bao gồm các nét nghĩa: Thời gian vật lý (mùa - danh từ), Đặc tính của
thời gian (đẹp, hài hòa, tươi vui, ấm áp, đầy màu sắc - tính từ), Đặc tính của
con người (tuổi trẻ, tình yêu, xuân tình - tính từ). Từ những hình dung này, có
thể đưa ra một vài kết luận về khác biệt loại hình trên phương diện nhận thức
về Xuân của thi sĩ Thơ mới với thi sĩ trung đại.
Trên phương diện là một sắc thái biểu trưng
thuộc về thời gian, Xuân trong Thơ mới được nhận thức là một mùa tươi đẹp nhất
của năm, của vũ trụ. Không thể tách rời danh từ này khỏi đặc tính của nó trong
việc biểu hiện một thực thể (dù là trừu tượng) của vũ trụ, tự nhiên. Bởi thế, ở
đây, mùa xuân (danh từ) luôn đi kèm với tính chất ấm áp, hài hòa, tươi vui, đầy
màu sắc, đầy sức sống... Vấn đề đặt ra ngay tại đây trong tư cách loại hình của
Thơ mới đó là, Xuân không nằm trong tính ước lệ, quỹ phạm của mỹ học trung đại
nữa. Các tác gia trung đại có cùng một hệ giá trị, cùng một trường văn hóa và
thẩm mỹ vốn được kiến tạo trong các khuôn thước của mỹ học truyền thống có tính
quy ước rất cao. Thơ mới đã phá vỡ khung khổ này để thoát ra, kiến tạo những
không thời gian Xuân mang tính cá nhân với sự phong phú, đa dạng trong cảm nhận
và biểu hiện:Trong làn nắng ửng khói mơ tan/ Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/
Sột soạt gió trêu tà áo biếc/ Trên giàn thiên lý bóng xuân sang (Mùa
xuân chín - Hàn Mặc Tử); Của ong bướm này đây tuần tháng mật/
Này đây hoa của đồng nội xanh rì/ Này đây lá của cành tơ phơ phất/ Của yến anh
này đây khúc tình si/ …/ Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua/
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già (Vội vàng - Xuân Diệu); Nằm
im dưới gốc cây tơ/ Nhìn xuân trải lụa muôn tờ lá non (Trông lên -
Huy Cận); Đây, pháo đỏ lập lòe trong nắng chói/ Đây, hoa đào mỉm miệng
đón xuân tươi (Xuân về - Chế Lan Viên); Nước hồ
xanh trong suốt ánh pha lê/ Nắng xuân rắc kim vàng trong bụi cỏ (Mùa
xuân - Đoàn Văn Cừ); Trời hơi lạnh và nắng vàng hơi hửng/ Lúa
xanh đồng rợn sóng tận chân mây (Ngày xuân - Anh Thơ); Cây
vươn cao lên, nắng tỏa gần/ Vàng bay vài lá, ý bâng khuâng(Đường xuân
gặp gió - Yến Lan)... Mùa xuân trong cảm quan của thi sĩ Thơ mới mang
những nguồn sống mạnh mẽ hơn, khỏe khoắn và tân kỳ như chính chủ thể tri nhận
về nó. Con người cá nhân tư sản trong đô thị phương Tây đã nhìn Xuân bằng đôi
mắt của riêng mình, cảm Xuân bằng trái tim, bằng hơi thở của riêng mình. Và,
quan trọng hơn cả, thời khắc Xuân ở Thơ mới được tri nhận trong tính đồng hiện
của thời gian và cảm quan, không phải là những tri thức, cảm xúc khảo cổ từ quỹ
phạm. Bởi vậy, Xuân không chỉ là đào mai khoe nở, liễu xanh, khói biếc, cỏ non,
gió đông (mùa xuân, gió từ hướng đông thổi đến làm cây cỏ tốt tươi)... Xuân gần
gũi hơn, hiện diện trong cuộc sống hiện tại với nhà tranh, áo biếc, giàn thiên
lý, đồng lúa xanh, bụi cỏ, sắc pháo đỏ, má hồng thiếu nữ...
Dẫu không tuyệt
giao với thi liệu cũ, nhưng có thể nhận ra tinh thần mới trong việc cảm nhận và
biểu tỏ về mùa xuân của thi sĩ Thơ mới. Họ không bị lệ thuộc vào một tiên ước nào,
tự do biểu hiện trực nhận của mình trước thời gian, vũ trụ: Sương trắng
rỏ đầu cành như giọt sữa/ Tia nắng tía nhảy hoài trong ruộng lúa/ Núi uốn mình
trong chiếc áo the xanh/ Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh (Chợ
tết - Đoàn Văn Cừ). Có thể thấy cảm xúc của thi sĩ Thơ mới tự nhiên
hơn, vì thế cũng tươi mới, gần gũi và thân mật: Bữa ấy mưa xuân phơi
phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy/ Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ/ Mẹ
bảo thôn Đoài hát tối nay (Mưa xuân - Nguyễn Bính). Thi sĩ
Thơ mới là một con người thực hữu, một cá thể với tất cả va động, tương giao
cùng thiên nhiên, vũ trụ và cuộc đời. Nó không phải là một siêu nhân, một siêu
cá thể, nó là một sinh vật tự nhiên, một cá tính, nhân cách xã hội, lịch sử và
văn hóa, đòi được sống với tất cả những gì vốn có, tự có, tự thuộc về nó. Bởi
vậy, mùa xuân, trong tư cách là khoảnh khắc thời gian kỳ diệu của tự nhiên đã
được thâu nhận bằng tất cả những gì có thể của một cá thể nhận ra mình trước vô
biên, trước thời gian. Khi phát huy sức mạnh này, cái tôi đã vượt qua những rào
cản, ranh giới của hệ mỹ học trung đại, của các khế ước luân lý, đạo đức vốn
giam hãm con người trong các khuôn khổ cứng nhắc “ngàn năm không di dịch” (Hoài
Thanh).
Bước ngoặt lớn trong sự tri nhận thời gian của thi sĩ - con người thời Thơ mới
chính là việc thoát khỏi lực hút của motif lấy thiên nhiên làm chuẩn, tượng
trưng, ước lệ cho con người. Thơ mới không còn lối biểu tỏ: Hoa đào năm
ngoái còn cười gió đông(Đào hoa y cựu tiếu đông phong - Thôi Hộ) mà đã sống
nhập vào hơi thở cuộc đời, gắn với con người đang hiện diện một cách cụ thể. Có
thể nói, đây là thành tựu to lớn của Thơ mới trong việc tách mình ra khỏi dòng
chảy của Thơ trung đại, làm thành một loại hình riêng đầy sức sống. Dễ nhận ra,
trong những cảm xúc về Xuân, Thơ mới gắn bó chặt chẽ với tâm trạng, thái độ,
tính chất của sự sống con người. Đến đây, phạm trù ý nghĩa thứ hai cần phải
được diễn dịch: Xuân như là đặc tính của tuổi trẻ, tình yêu, xuân tình - cái
phần non tươi, ngọt ngào, đẹp đẽ, hấp dẫn, đáng sống, đáng hưởng thụ và cũng
đáng tiếc, đáng thương xót, ngậm ngùi (khi đi qua) nhất của con người, cuộc
đời. Khảo sát trên bề ngang với các tác giả đã được tuyển vào Thơ mới
tác giả và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2004, thấy phần lớn cảm thức
Xuân gắn với đặc tính của cuộc đời, tình yêu, con người. Chúng ta có thể bắt
gặp hàng trăm câu thơ như thế trong tuyển tập (vốn chưa đầy đủ) này. Do khuôn
khổ bài viết chúng tôi không tiện trích dẫn nhiều, nhưng đó là cơ sở để đưa ra
những nhận định về một nguồn sống mới, chất thơ mới trong tiến trình thơ trữ
tình Việt Nam.
Trước hết, Xuân được tri nhận như là thời khắc
đẹp nhất của đời người, đánh dấu quá trình trưởng thành, khơi mở những khát
khao yêu đương, tình ái. Hầu hết các thi sĩ Thơ mới đều đề cập đến vẻ đẹp của
tuổi trẻ như là mùa xuân, xuân sắc, xuân tình, xuân xanh...: Xuân trẻ,
xuân non, xuân lịch sự/ Tôi đều nhìn thấy trên môi em/ Làn môi mong mỏng tươi
như máu/ Đã khiến môi tôi mấp máy thèm (Gái quê - Hàn Mặc
Tử); Bao giờ cho mộng nở hoa/ Bao giờ xuân chín nõn nà trên môi (Mơ
tiên - Bích Khê); Đã thấy xuân về với gió đông/ Với trên màu
má gái chưa chồng (Xuân về - Nguyễn Bính); Là ánh
trăng non chớm độ rằm/ Xuân là duyên nụ tuổi mười lăm (Dịu nhẹ -
Vũ Hoàng Chương); Mùa xuân chín ửng trên đôi má (Nụ cười
xuân - Xuân Diệu); Xuân vừa chớm tuổi/ Bướm đến quen hoa/ Em nhỏ
hơn ta/ Tình như áo mới (Xuân ở quê em - Hồ Dzếnh); Buổi
em về xác thịt tẩm hương hoa/ Ta sống mãi thở lấy hồn trinh tiết/ Ôi cám dỗ! Cả
mình em băng tuyết/ Rợn xuân tình lên bộ ngực thanh tân (Kỳ nữ -
Đinh Hùng); Chân bước khoan thai giữa biếc hường/ Và lòng vơ vẩn giữa
yêu thương/ Cả hai không hẹn đều mang máng/ Biết có mùa xuân đợi cuối đường (Phơi
phới - Tế Hanh)... Chưa bao giờ trong thơ Việt Nam (trước khi Thơ mới
ra đời), Xuân lại được liên tưởng phong phú, sinh động, đời thực, hấp dẫn đến
như thế. Xuân đến chính là thời khắc đất trời bước vào mùa đẹp nhất, sinh sôi,
nảy nở, hoa cỏ tốt tươi, thiên nhiên giao hòa... Cũng vậy, với con người, Xuân
chính là tuổi trẻ, là tình yêu, là những nhiệm màu của ái ân tình tự. Từ ánh
mắt đến làn môi, từ ửng hồng trên má đến nụ cười bẽn lẽn, từ mái tóc đến khăn
thêu, tà áo, từ bộ ngực tròn căng đến da thịt lụa là, từ hồn xuân đến đêm xuân,
từ hơi thở đến nụ hôn, từ e ấp đến vội vàng cuống quýt, từ ghé nhìn, đi theo
đến chung bước, từ cầm tay giữ áo đến ấp ôm thâu riết, từ thanh tân trinh tiết
đến thỏa thuê tình tự... Xuân hiện lên như sắc điệu quyến rũ nhất, mời gọi nhất
của cõi sống. Đúng như Lưu Trọng Lư đã thốt lên, cái tình trăm cung ngàn bậc
nơi Thơ mới quả đã khác xa với cái tình chăm chú vào hôn nhân của các cụ ta
ngày trước. Xuân bởi thế, trong ý niệm này đã gia tăng tối đa về sắc thái biểu
hiện trên cơ sở kinh nghiệm, tri thức, mỹ cảm của từng cá thể. Không ai giống
ai, các thi sĩ Thơ mới kiến tạo bản sắc của mình như là một nỗ lực hiện thân
giữa nhân giới, vũ trụ, phân biệt mình với lớp thi gia trung đại, thi phẩm
trung đại đã sáo mòn, cũ kỹ, đơn điệu.
Vấn đề Xuân trong Thơ mới không dừng lại ở
việc mô tả những hình sắc của Xuân trong thơ, mà dụng ý đi đến một lý giải từ
căn rễ thuộc về ý thức, bản sắc của con người cá nhân tư sản trong môi trường
đô thị kiểu phương Tây trước thời gian (vốn là phạm trù nhận thức có tính căn
bản của con người xưa nay). Chung quy lại, đó cũng là một vấn đề thuộc về “cảm
niệm triết học về thực tại” (Chu Văn Sơn), nhân sinh quan và thế giới quan của
con người. Ý niệm về thời gian của con người cá nhân trong Thơ mới có lẽ nổi
bật lên hai sắc thái: say đắm Xuân và tiếc nuối Xuân, cái đương thành cũng là
đương hủy, cái đang tươi cũng là cái đang tàn, cái đang sống cũng là cái đang
tiến dần về nơi chết... Bởi thế, Thơ mới, không chỉ trong ý niệm thời gian,
không chỉ ở phạm trù Xuân, mà tất cả cứ dạt ra theo hai cực, rời xa, li tán,
chia lìa... Bi kịch xuất phát từ đó.
Xuân trong Thơ mới, như đã nói ở trên,
cùng với niềm đắm say là sự tiếc nuối, xót xa, đau buồn vì Xuân không vĩnh
viễn:Buồn hết nửa đời xuân/ Mộng vàng không kịp hái (Mưa… mưa
mãi - Lưu Trọng Lư); Tóc xanh như cỏ trên mồ/ Đời hoang chôn
cả xuân thu một thời (Độc hành ca - Trần Huyền Trân); Xuân
này đến nữa đã ba xuân/ Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần (Cô lái đò -
Nguyễn Bính); Sắc tàn, hương nhạt, mùa xuân rụng (Xuân rụng -
Xuân Diệu); Đời mất về đâu, hỡi tháng, năm?/ Xuân không mọc nữa với
trăng rằm (Buồn - Huy Cận); Hoang sơ tuổi đá bừng
cơn mộng/ Cúi mặt u huyền khép áo xuân (Lạc hồn ca - Đinh
Hùng)... Có thể xem đây là cảm thức tất yếu, vừa là hệ quả, vừa là nguyên nhân
của nỗi đắm say với xuân sắc ở trên. Cái này vừa là nhân, vừa là quả của cái
kia, cứ dồn đẩy, thôi thúc trong tâm tư, tình cảm, trong nỗi niềm của cái tôi
ham sống, ham yêu, ham bày tỏ chính mình. Càng khát khao vẻ xuân tình, xuân sắc
lại càng âu lo, buồn tủi trước sự tàn phai, rơi rụng. Tính lưỡng cực của xúc
cảm này là hoạt lực chủ đạo trong tư duy thơ của toàn bộ loại hình Thơ mới. Đặc
tính này xuất phát từ cấu trúc tâm lý của con người cá nhân tư sản, sống cụ thể
với bản sắc của mình. Khác với con người trung đại là con người phận vị, con
người trong thơ trữ tình dân gian là con người tập thể, cái tôi Thơ mới là con
người cá thể hướng ra sự sống đang vận động. Xuân dù trong ý niệm nào đều là
những thành tố của sự sống đang vận hành, trôi chảy. Nó không phải là một địa
hạt đóng kín bởi các lớp quy ước của
cộng đồng như trong thơ trung đại. Tính mở của nó cho phép các sắc thái mới
được khai sinh, du nhập và tự do kiến tạo. Bởi thế, ta sẽ nhận ra cái rạo rực nhiệm
màu trong thiên đường trần thế của Xuân Diệu, cái xuân thiêng gấm ngọc của Hàn
Mặc Tử, cái ánh ỏi lấp lánh trong Xuân của Đoàn Văn Cừ, cái khoan thai, dịu nhẹ
của Xuân Anh Thơ, cái rộn rực Xuân tình của Bích Khê, cái u huyền của Xuân
trong thơ Đinh Hùng... Mỗi thi sĩ mỗi sắc điệu đã làm cho Xuân Thơ mới trở nên
sinh động và phong phú.
Xuân trong Thơ mới không
chỉ là vấn đề mùa xuân trong thơ, đó là “cảm niệm triết học” (Chu Văn Sơn) về
thời gian, về thực tại và “sinh mệnh cá thể” (Trần Đình Sử), về giá trị quan và
các phạm trù thực tiễn nhân văn xã hội, tự nhiên khác. Trong tư cách loại hình
của mình, Thơ mới là sự hiện diện của một hệ thống triết mỹ phân biệt với Thơ
trung đại, đặc biệt là ở quan niệm về Xuân. Trong thế giới của chúng ta, không
có gì tồn tại phi thời gian, bởi vậy, thời gian, Xuân... trở thành những phạm
trù cốt thiết nhất trong vận hành sự sống của con người. Ý niệm khác về Xuân
của Thơ mới là một căn cứ khá hữu hiệu để cắt nghĩa sức sống, tư cách loại hình
của Thơ mới trong tiến trình thơ trữ tình Việt Nam.
Nguyễn Thanh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét