Thể tính hiện sinh và thời gian trong
Thi bá Nguyễn Du là bá chúng
nhân gian, không còn ai để sánh. Tiên Điền là nhà thơ như muôn triệu nhà thơ
khác. Nhưng thi ca của người nói lên cái tài, cái mệnh, cái đức, một ứng dụng
thâm hậu không còn là biên giới thời gian. Nguyễn Du một tư tưởng gia, lấy thơ
để biến mình thành triết thuyết. Là một tổng thể nhân sinh qua mọi thời đại, một
triết lý tồn lưu muôn đời, sống thực với đời để đi vào đời một cách hiện thực.
Đó là cái lý sống hiện sinh vĩ đại và đa dạng trong một nội thức siêu lý ; đó
là tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh tuyệt xuất của ông. Nguyễn Du có mặt giữa cõi
đời nầy, bất diệt. Ngày nay thi hào Nguyễn Du là thi bá thế giới như Dante,
Homer, Goethe, Shakespeare. Kể cả Phương đông như Lý Bạch, Đổ Phủ, Vương Duy.
Nhưng chúng ta có một cái nhìn chủ quan về Nguyễn Du; vì người là đỉnh cao trí
tuệ của dân tộc, có một tính chất 'toàn năng' trong ngôn ngữ, một ngữ thuật
uyên thâm mới sáng tạo ra như vậy.
Thời gian "ba trăm năm
sau" của Nguyễn Du được đánh giá cái lý siêu nhiên không những cho
dân tộc ta mà ngày nay Nguyễn Du đã trở thành thi bá thế giới. Để hiểu chiều
sâu triết lý của Nguyễn Du không phải dễ và chưa có ai dám nhận rằng mình hiểu
Nguyễn Du trọn vẹn ý nghĩa của người, không ít thì nhiều, người ta chỉ cảm thức
được cái hồn thơ của Nguyễn Du là đủ lắm rồi, ngay cả người nước ngoài chỉ nhìn
Nguyễn Du như một nhận thức siêu nhiên của một nhà thơ. Nguyễn Du đã đưa ngôn
ngữ đi vào cái 'tính'; đó là Việt tính siêu việt một liễu quán bao la diệu vợi
, một triết lý đạo đức và hiện sinh. Nội hai chữ "Tài Mệnh" là cả
tính triết lý trong đó; gồm dân tộc tính và thế giới tính.
Đó là cái nhìn từ bản thể mà ra. Một cái nhìn hiện hữu, một hiện tượng của con người, một cái nhìn nhị nguyên: đó là thảm trạng cuộc đời hạn hữu và thảm trạng khước từ cuộc đời hạn hữu. Chỉ 6 chữ mở đầu là đối tượng của sự hiện sinh cho con người trong vũ trụ ngày nay, nó biến hình thành văn chương bình dân cũng như văn chương bác học thể hiện trên đầu môi, trước lưỡi, như câu nói bình thường và thực tế. Không có gì rườm rà cả. Một thứ triết lý đơn thuần:
Đó là cái nhìn từ bản thể mà ra. Một cái nhìn hiện hữu, một hiện tượng của con người, một cái nhìn nhị nguyên: đó là thảm trạng cuộc đời hạn hữu và thảm trạng khước từ cuộc đời hạn hữu. Chỉ 6 chữ mở đầu là đối tượng của sự hiện sinh cho con người trong vũ trụ ngày nay, nó biến hình thành văn chương bình dân cũng như văn chương bác học thể hiện trên đầu môi, trước lưỡi, như câu nói bình thường và thực tế. Không có gì rườm rà cả. Một thứ triết lý đơn thuần:
"Trăm năm trong
cõi người ta"
Trăm năm là một đời người.
Là một mệnh đề ta thán, một nhấn mạnh của con người tại thế, một cái gì mang nặng
tính nhân bản vừa ẩn dụ vừa hiện hình được thể hiện qua từng câu thơ, sống
thực, vượt thời gian qua mọi giới trong kiếp người của cuộc đời này.
Lời và ý như nhắc nhở sự hứng
chịu của định mệnh an bài, từ khi sanh ra cho tới trăm tuổi đều nằm trong qui
trình của 'tương đố'. Ý nghĩa chính yếu của thời gian trung thực là giới
hạn, một thời gian tính; đó là thể tính thời gian hiện sinh.
Nguyễn tiên sinh một
thi bá lỗi lạc mới ý thức và bắt gặp thảm trạng ấy của thân phận làm người
trong một ý thức chiếm cứ và trong một ý muốn hoài vọng ; đó là lối mơ về cũng
như lối thoát cuộc đời để đi tới nếp sống hiện sinh, mà trong mỗi chúng ta đều
mang nặng tâm tư ấy. Hiện sinh là gì? là để vượt thoát ra khỏi tàn tích, ra khỏi
mọi tình huống bí tỉ để tìm thấy con đường giải thoát của hiện sinh, có nghĩa
là trung thực trong con người đầy sáng tạo của bản thể hiện sinh. Chiếm cứ đó
không ai có thể làm ra, không ai có thể có được ; nó chỉ đòi hỏi một ý thức tuyệt
đối trong cuộc đời và trong ta , nó chỉ đến một lần như mỗi chiếm cứ
của bản chất tình người trong lẽ sống hiện sinh .
Bản thể và hiện tượng dung
thông trong mọi kiếp của trần gian nầy. Cho nên chi hiện sinh trong thơ Nguyễn
Du là NGỘ như một nhận thức sâu sắc. Tổ Đạt-Ma và thi sĩ Vũ Hoàng Chương có cái
nhìn tương tợ và gần như hổ tương từ tương đối đi đến tuyệt đối. Tổ nói:
"Khi mê thì thấy có thế gian để thoát, khi ngộ thì không thấy thế gian để
mà thoát " (Ngộ tánh luận)
Thi sĩ nói: "Khi chưa
thấy ta hề thì đường đi thênh thang. Đến khi thấy ta hề thì đường đi chông
gai".
Trở lại với 6 câu đầu 'Trăm năm trong cõi người ta'. Tiên sinh đã nói đi nói lại nhiều lần, từ cái bình thường đến cái siêu lý, đó là sự nhận thức thông thường của đời sống giữa không gian và thời gian hiện sinh. Do đó không gian và thời gian có hai bề mặt hữu thể: một là thời gian trăm năm và một là không gian cõi người. Chẳng thế; quan niệm nầy đưa chúng ta vào ý niệm của thuyết nhị nguyên đối với tính thể hiện hữu và tính thể hiện sinh trong văn chương của thi bá Nguyễn Du. 'Trăm năm trong cõi người ta' là một mệnh đề có tính siêu thể vừa siêu nhiên hay có tính siêu-hình-học; nghĩa là cấu kết trong sự vận hành của triết học để đi tới triết thuyết; đồng thời giải thoát toàn thể để đi tới thể tính hiện sinh của con người.
Trở lại với 6 câu đầu 'Trăm năm trong cõi người ta'. Tiên sinh đã nói đi nói lại nhiều lần, từ cái bình thường đến cái siêu lý, đó là sự nhận thức thông thường của đời sống giữa không gian và thời gian hiện sinh. Do đó không gian và thời gian có hai bề mặt hữu thể: một là thời gian trăm năm và một là không gian cõi người. Chẳng thế; quan niệm nầy đưa chúng ta vào ý niệm của thuyết nhị nguyên đối với tính thể hiện hữu và tính thể hiện sinh trong văn chương của thi bá Nguyễn Du. 'Trăm năm trong cõi người ta' là một mệnh đề có tính siêu thể vừa siêu nhiên hay có tính siêu-hình-học; nghĩa là cấu kết trong sự vận hành của triết học để đi tới triết thuyết; đồng thời giải thoát toàn thể để đi tới thể tính hiện sinh của con người.
"Trăm năm trong cõi
người ta"
Và
"Thiều quang chín chục
đã ngoài sáu mươi "
Cuộc đời trôi chảy không thể
vượt được thời gian, hay chính thời gian lôi cuốn cuộc đời trôi chảy. Thời
gian là yếu tố phát sinh và hủy diệt. Cho nên không có thi ca hiện hữu vì hiện
hữu chỉ là đối tượng ; mà thơ là hình ảnh, có thể là hình ảnh tượng trưng hay
siêu thực mà ở đây thơ của Nguyễn tiên sinh là thể tính nhân sinh tức
nhân bản chủ nghiã. Thi ca trong biến dịch thời gian có thể xem là một lối quay
về quá khứ để có một dự phóng tương lai 'cõi người ta' ; chính là cõi mơ về
rêver/dreaming-day trước một hiện hữu truân chuyên, chính cái đó là vai trò của
hiện sinh là thời gian của thân phận.
Thử đưa 4 câu thơ mở đầu
cho một giòng đời mà Nguyễn Du đã nhận ra thế nào là con người và thời gian, một
vận hành như dấn thân của định mệnh đã trút xuống cho con người:
"Trăm năm trong cõi
người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Đó là một liên trình biện chứng, thể hiện được tất cả kinh nghiệm của con người,
của cuộc đời qua con người hiện hữu, bao hàm cả một thời gian hiện sinh. Sở dĩ
như vậy vì sống có nghĩa là chuyển vần, theo sau nhịp thở của vũ trụ ngoại giới,
đó là niềm đau của con người cũng như nỗi bi đát của thân phận vì con người là
vật thể mang nặng tính thời gian. Kéo dài và không dứt của vũ trụ giới mà con
người nằm trong qũi đạo ấy :
"Trải qua một cuộc bể
dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Đoạn Trường Tân Thanh mở đầu
như thế đó. Nguyễn Du báo trước cái hiện-hữu-tính-không của thời gian biến dịch
vào cái 'Không' của vũ trụ bao la ; bởi sự xê dịch thời gian vô hình nhưng hữu
hình và vô phương để chận đứng sự hiện hữu của thời gian. Đời thường nói
' thời gian thật là tàn nhẫn' khi nói như thế tức thời gian hiện hữu mà thời
gian hiện hữu là mơ hồ chỉ còn lại con người hiện hữu với thời gian và ở trong
chúng ta, cũng như trong mọi thực thể khác. Ý thức hay vô thức đều có một
biến trình động tác đổi thay.Thời gian là bản chất của đời người, thân phận làm
người đồng hóa với thời gian. Thời gian chuyển vần trong Đoạn Trường Tân
Thanh được hiện hữu qua ba nhân vật chính ( Thúy Kiều, Thúy Vân và Kim Trọng)
là chức năng hiện sinh mà Tố Như diễn đạt một cách sống thực tài tình cái bản
ngã như nhiên của con người. Mỗi nhân vật đại diện cho thời gian, kể cả nếp sống
hiện sinh đi qua từng giai đoạn cuộc đời, một gắn bó dài lâu, một thôi thúc, một
đoạn trường ; đó là trọng điểm để được giải phóng cho sự mơ về.
Trở lại với ý thức siêu lý của
Nguyễn Du để thấy cái dân tộc tính đầy sáng tạo của thi ca mà ít ai nhận ra từ
những chất liệu đơn sơ ; một khả tính thời gian và tâm lý trong thi tứ của Tố
Như, nó chứa đựng hai bề mặt; thời gian hiện sinh và thời gian của hố thẳm,
quấn vào những câu thơ đượm màu triết lý thi ca tư tưởng:
"Tưởng bây giờ là bao
giờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao"
Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao"
Rồi:
Cả hai câu lục bát trên Nguyễn
Du đã đưa chúng ta vào mê hồn trận của thời gian; 'bây giờ là bao giờ' và 'mai
sau dầu có bao giờ' đó là một quần thể của thời gian, Nguyễn Du nhắc đi nhở lại
cái hiện hữu của thời gian, tuy vô hình nhưng một đụng chạm trực tiếp với con
người. Kiều đụng độ chính là đụng độ với thời gian hiện sinh, vì rằng; lẽ sống
của Kiều là đại diện một tâm thể bức xúc, một trầm thống mà tiên sinh muốn đặc
nó như 'cái mệnh' mà con người phải gánh chịu không ta thán. Cho nên ngân nga
từng thơ-khúc của Nguyễn Du để thấy được thể tính hiện sinh ' bây giờ là
bao giờ' một câu hỏi tự tại, đó là cái gì thâm hậu của thời gian, mà cứ ngỡ
'còn là chiêm bao' cái thực thể dân tộc tính có cái gì sâu hoáy trong những vần
thơ vi diệu của Nguyễn Du. Ẩn dụ hay trừu tượng? Không! tất cả là sự thật của
đời người trong những biến trình va chạm thực tế. Có lẽ những tương quan nầy về
sau như: Jaspers, Hoederlin, Heidegger, Kiekegaard hay Nietzsche nhận ra giá
trị thời gian và thân phận con người trước vũ trụ biến dịch ; cái sự ấy dẫu sao
cũng đi sau thi bá Nguyễn Du cả ngàn dặm...
Cái ý thức vô biên đó chính
là cái 'ba trăm năm sau' của Nguyễn Du. Một hiện diện thường hằng của thời gian
tính. Cứ cho như là 'rapprochement des extrêmes. Participation total et
solitude' để rồi giữa chúng ta đồng cảm với Thúy Kiều như một tha nhân hiện hữu,
thời gian sống của Kiều giữa ba thì của cuộc đời là thời gian của
Nguyễn tiên sinh gắn bó với đời; đó là ý thức sâu xa sự chuyển vần phi lý của
thời gian. Cho nên nhận thức đó của Kiều là tri giác tình cảm, một thứ tình cảm
lo lắng đưa tới bóng thời gian, bóng chiều của buổi Thanh minh, Kiều bừng dậy
trong ý thức rằng cái sự lý đó là chuỗi thời gian tàn tạ trước mắt cũng
như về sau:
"Bóng chiều đã ngã, dặm
về còn xa"
'Dặm về' một hoài cố của Kiều
về với Kim Trọng chính là hoài Lê của Nguyễn Du. 'dặm về' là cứ điểm của thời
gian, Kiều cũng như tiên sinh sống trong nỗi nhớ của thời gian. Đó là sự vận dụng
tài tình trong phút giây siêu hình để cưỡng lại tiền đề của thời gian hiện sinh
là sự chuyển vần giữa hiện tại và tương lai. Cuối cùng lời thơ như an ủi thân
phận, chấp nhận truân chuyên và giữ một lòng trung quân để được sống hiện thực
và coi đó như thử thách của 'tài mệnh':
"Bắt phong trần, phải
phong trần
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao"
Cho thanh cao, mới được phần thanh cao"
Đó là một nhận thức xúc cảm
và một ý thức bản năng của nhà nho bởi vì Nguyễn Du là con người có cái nhìn tiếp
giáp vào hiện sinh, không nhìn liên trình của thời gian ngoại tại như hình thái
của sức mạnh siêu hình mà thời gian siêu hình chỉ thoáng hiện rồi vụt đi
mà chỉ để lại cho con người một giòng thời gian liên tục qua ý thức về cuộc sống.
Cho nên thời gian siêu hình không tương hợp với nhịp sống hiện sinh.
Căn bản sâu xa của hiện hữu
có lẽ là tri giác không gian, tri giác nội tại, tri giác đối tượng, tri giác bản
ngã; tất cả được qui định như tính cách hiện hữu thời gian tính và hiện sinh
tính. Suôt một 'hành trình' 15 năm của Kiều, bất cứ ở đâu Kiều cũng minh định
được hiện hữu của mình; vào ra cửa Khổng sân Trình cũng là sinh mệnh tức định mệnh
theo đuổi thời gian của Nguyễn Du. Đó là tất cả biến dịch của hiện hữu và thời
gian. Kiều tài sắc vẹn toàn nhưng phải nhận những bi thương của cuộc đời, đó là
'Tài Mệnh" đó là 'Bỉ sắc':
"Lại tìm những chốn đoạn
trường mà đi
Hết nạn nọ đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Trong vòng giáo dựng, gươm trần
Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi"
Hết nạn nọ đến nạn kia
Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần
Trong vòng giáo dựng, gươm trần
Kề lưng hùm sói gửi thân tôi đòi"
Đấy là ý thức sâu xa của Kiều
về cuộc đời và chính là ý thức sâu xa của người hiện sinh trước sự biến dịch của
thời gian, một cuộc đời mang nặng hai tâm tư. Một hiện hữu dân tộc tính
và một hiện hữu thế giới tính.
Trạng thái của tài mệnh và bỉ sắc là thế, vì hai cái thứ đó thuộc về mệnh lệnh, có tài thì mệnh yểu, bỉ sắc tư phong thì coi như thua kém cái gì thì được bù lại cái khác. Nhưng tất cả là mệnh lệnh của thiên ý. Kiều là hiện hữu thực thể cho nên bi đát và trầm trọng hơn bao giờ:
Trạng thái của tài mệnh và bỉ sắc là thế, vì hai cái thứ đó thuộc về mệnh lệnh, có tài thì mệnh yểu, bỉ sắc tư phong thì coi như thua kém cái gì thì được bù lại cái khác. Nhưng tất cả là mệnh lệnh của thiên ý. Kiều là hiện hữu thực thể cho nên bi đát và trầm trọng hơn bao giờ:
"Sự muôn năm cũ kể chi
bây giờ"
Thành thử qua sự chuyển vần
ngoại tại và qua ý thức hiện hữu của con người, thời gian hiện sinh đã qui về
trong hai đặc tính: thời gian và ý thức.
- Thời gian tâm lý của hiện sinh vẫn luôn luôn là thời gian hướng đến bao nhiêu hiện hữu mới mẻ giữa đời, nhưng đồng thời cũng hướng đến những biến trình thời gian. Đấy là sự bắt gặp giữa hiện hữu qua thời gian mơ về của Thúy Kiều.
- Ý thức của con người vừa chấp nhận đổi thay, vừa quan sát đổi thay, cho nên ý thức khách thể là một hiện tượng biến dịch, thì ý thức chủ thể là ý thức duy nhất để nhận ra mình giữa cuộc sống đó là ý thức hiện sinh của Nguyễn Du:
- Thời gian tâm lý của hiện sinh vẫn luôn luôn là thời gian hướng đến bao nhiêu hiện hữu mới mẻ giữa đời, nhưng đồng thời cũng hướng đến những biến trình thời gian. Đấy là sự bắt gặp giữa hiện hữu qua thời gian mơ về của Thúy Kiều.
- Ý thức của con người vừa chấp nhận đổi thay, vừa quan sát đổi thay, cho nên ý thức khách thể là một hiện tượng biến dịch, thì ý thức chủ thể là ý thức duy nhất để nhận ra mình giữa cuộc sống đó là ý thức hiện sinh của Nguyễn Du:
"Giật mình, mình lại
thương mình xót xa"
Đấy là ý thức chủ thể (mình
lại) và ý thức khách thể (thương mình) vì khách thể đang chịu tác dụng của cuộc
đời như một hiện tượng, trong khi đó ý thức chủ thể lại đứng ngoài. Cho nên
chi, ngoài thời gian hiện sinh bao hàm hiện hữu tính của con người nằm trong
lãnh vực đó.
Trong Đoạn Trường Tân Thanh,
Nguyễn Du đã nêu cao giá trị vô-tri-tính và vô-vi- tính trong hiện-hữu-tính về
thời gian hiện hữu và thời gian hiện sinh, xem hiện hữu như một hình thái quyết
định vô tri vì đã đồng nhất hoá thời gian khi qui về cùng một bản thể. Cũng từ
giòng tâm lý của con người, chúng ta thấy xuất hiện thêm một trạng thái khác
không kém phần quan trọng: ấy là sự chán chường, lao lý đẩy con người vào một
tâm trạng khó khăn để rồi biến mình vào con đường tu thân như cái đạo tự nhiên
để giữ tính-tâm-hư tức một tâm hồn thanh cao không bị vướng đục.
Nguyễn tiên sinh đưa đạo vào đời, thừa nhận sự hiệp nhất Thiên-Điạ-Nhân, đó là quan niệm nhân sinh quan mà con người phải tuân phục như Đạo lý. Đạo ấy đạt được do từ Tâm thì gọi là Đức, những thứ đó hoà nhập vào nhau như hiện hữu tính và thời gian tính thì gọi là cái thế của Đạo; là Hư-vô và là cái dụng Vô-vi. Cuối cùng Nguyễn Du nhận ra cái cõi Hư và Vô, Nguyễn tiên sinh âm thầm đi vào cõi lặng, giả từ mọi thứ phồn vinh, giả từ chốn lầu son gác tiá, giả từ hết thảy để được trở về trong cái tự tại an nhiên, nhập tâm để lắng đọng trong lẽ tự nhiên. Tịnh làm chủ cái Động, không là chủ cái Có "Hữu sinh ư vô" để rồi Thúy Kiều thối thác, trả lại cho đời những gì Kiều đã đi qua, để trở về với hiện thể sống động của VÔ-VI, vô vi ở đây không có nghĩa là 'không làm' mà có nghĩa là huyền nhiệm; Nguyễn Du cho đây là một siêu lý giữa hiện hữu và thời gian được ghi dấu: "Đạo thường vô vi, nhi vô bất vi" (Đạo dường như bất động, không làm gì cả nhưng thật sự không việc gì là không làm) (Đạo Đức Kinh).
Nguyễn tiên sinh đưa đạo vào đời, thừa nhận sự hiệp nhất Thiên-Điạ-Nhân, đó là quan niệm nhân sinh quan mà con người phải tuân phục như Đạo lý. Đạo ấy đạt được do từ Tâm thì gọi là Đức, những thứ đó hoà nhập vào nhau như hiện hữu tính và thời gian tính thì gọi là cái thế của Đạo; là Hư-vô và là cái dụng Vô-vi. Cuối cùng Nguyễn Du nhận ra cái cõi Hư và Vô, Nguyễn tiên sinh âm thầm đi vào cõi lặng, giả từ mọi thứ phồn vinh, giả từ chốn lầu son gác tiá, giả từ hết thảy để được trở về trong cái tự tại an nhiên, nhập tâm để lắng đọng trong lẽ tự nhiên. Tịnh làm chủ cái Động, không là chủ cái Có "Hữu sinh ư vô" để rồi Thúy Kiều thối thác, trả lại cho đời những gì Kiều đã đi qua, để trở về với hiện thể sống động của VÔ-VI, vô vi ở đây không có nghĩa là 'không làm' mà có nghĩa là huyền nhiệm; Nguyễn Du cho đây là một siêu lý giữa hiện hữu và thời gian được ghi dấu: "Đạo thường vô vi, nhi vô bất vi" (Đạo dường như bất động, không làm gì cả nhưng thật sự không việc gì là không làm) (Đạo Đức Kinh).
Nhưng đôi khi hiện hữu thời
gian trở nên một hiện hữu phi lý. Pascal cho rằng: sở dĩ như vậy vì con người ở
trong một trạng thái TỊNH, không còn hoạt động. rồi từ đó trở nên cô đơn, thấy
lạc lõng và trống trải mà cứ thấy hiện hữu và thời gian kéo dài thêm ra. Đó là
trạng thái mơ về của Thúy Kiều cái sự cố đó là hiện hữu thời gian vây phủ quanh
cuộc sống hiện sinh của Kim Trọng và Thúy Kiều mà cả hai mong cất bước ra
đi để xa cái hiện hữu thời gian dày xéo, đó là mộng trở về sum họp không đạt, mộng
hoài Lê không đạt, chỉ còn lại thương mong:
"Bâng khuâng nhớ cảnh
nhớ người
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi"
Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi"
'Dời chân đi' là một động từ
của dời và đi, nhưng hoàn toàn bất động trước một tình huống trống không, vô vị
đó. Vì bản thân bất động sẽ làm cho con người của mình trở thành một hiện hữu
bi thảm, để bung mình ra khỏi chạm trán của đời thường, để sống thực với hiện
sinh, vượt ra khỏi những va chạm nghiệt ngã với chính thân phận vô nghĩa trên đời.
Cho nên chi những nhân vật thường trực quanh đời Thúy Kiều từ Kim Trọng, Đạm
Tiên, sông Tiền Đường, Bạc Bà, Bạc Hạnh, Mã Giám Sinh, Từ Hải, Thúc Sinh, Sở
Khanh, Tú Bà Lầu xanh... tất cả không có thực chất, tất cả giả dối và vô nghĩa,
tất cả là hiện hữu vô lý và hành động lừa bịp để che đậy bản ngã của mình.
Pascal và Vladimir
Jankélévitch phân tích luận cứ đó là biện chứng siêu hình về con người hiện hữu
qua mọi thời gian hiện sinh, đó là niềm xao xuyến phức tạp, vô vọng trước một
hiện tại phi lý. Dự phóng như thế, con người tự nhiên biểu lộ nỗi sợ hãi thảm
thương về đời người và cuộc sống, về thời gian hiện sinh trong trạng thái tâm
lý mà mình phải chịu nhận. Dự phóng nầy của Kiều do từ bất mãn, chán chường của
hiện hữu phi lý mà ra, chỉ còn lại tiếng vang nội tại, một thoáng mơ về đồng vọng
tương lai qua nhận thức của tri giác để rồi cảm xúc hóa mà ngậm ngùi:
"Buồng riêng, riêng những
sụt sùi
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân"
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân"
Cho nên chi Kiều đang sống với
thời gian hiện hữu, đối đầu với chán chường, cô đơn, lẻ bóng, vô lý, vô nghĩa
đó là ý thức bất mãn nội tại của Kiều mà nàng không chịu được những giới hạn của
phút giây đang hiện có và phút sống bấy giờ. Elle n'accepte pas les limites du
ici et du maintenant.
Thời gian ngoại tại cứ tuần
tự theo sự chuyển vần tạo nên mối tương khắc sâu xa với thời gian tâm lý. Kiều cũng
vọng lại, nhưng vọng lại cái chết; phải chăng cái nợ tiền kiếp mà Kiều phải nhận
trả, đó có là cái nhận lãnh với nhà Nguyễn của Nguyễn tiên sinh?. Thành ra vọng
lại cái chết trên cái trục vô cực thời gian, một sự chờ đợi bao la vô vọng mà
Kiều đã bằng lòng chấp nhận như hai chữ tài mệnh chuốt vào thân và mong
sao trả hết nợ cho xong cuộc đời này:
"Lấy thân mà trả nợ đời
cho xong"
Từ cái ngày trầm mình ở Tiền
Đường được cứu sống hai lần chết là một ý thức đưa lại tuyệt vọng cho Kiều. Cái
chọn lựa đó cũng do từ sức ép của nội tại và ngoại tại mở ra, rồi liệng vào
trong tuyệt vọng để ngậm đắng với đời. Con người Chánh Huệ đã bị Tà Huệ vùi dập
và đẩy vào không biết bao nhiêu khổ lụy, phiền não mà đời dành cho Kiều. Cuối
cùng chỉ còn than thân, trách phận, bèo giạt hoa trôi:
"Thân sao thân đến thế
nầy
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi"
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi"
Những giòng thơ trong Đoạn
Trường Tân Thanh là một luận chứng luân lý, một triết thuyết nhân bản chứa đựng
cái thể tính hiện sinh và thời gian vây quanh giữa hai hoàn cảnh nội tại và vũ
trụ ngoại giới . Do đấy chúng ta chỉ nên xem con người hiện sinh như là con người
đứng ra chấp nhận lẽ sống, dù lẽ sống đó đi ngược với hiện hữu thời gian; nói đến
đây cho ta liên tưởng cái qui trình thời gian hiện sinh của thi sĩ Bùi Giáng
năm xưa, người đã biến mình thành tha nhân của con người hiện sinh, có nghĩa rằng
chấp nhận bi thương để hoàn thành chức năng nhiệm vụ của thiên mệnh trao trút,
một trao trút hẩm hiu như Kiều:
"Đoạn trường cho hết kiếp
nầy mới thôi"
Vũ trụ con người ở đây không
phải chỉ dành cho trăng sao, đêm ngày, mưa nắng bốn mùa. Vũ trụ con người chính
là thời gian nội giới với sự chuyển vần của giòng tâm thức đang hướng đến một bản
thể tự tại của thể tính hiện sinh mà mình đang dung thân. Kiều là nạn nhận dung
thân hiện thực, trải dài và đại diện cả giòng đời cho dù giòng đời trôi chảy mà
hiện hữu thời gian không trôi chảy.
Khi viết lên Đoạn Trường Tân
Thanh, Nguyễn Du đặc trọng tâm vào Tài Mệnh vừa luân lý vừa triết lý một định
lý muôn đời đã nói đến. Kinh Thi cũng nói đến cái sinh mệnh bất biến đó;
"Cổ lai tài mệnh lưỡng tương phương"(Xưa nay Tài, Mệnh chẳng hoà
nhau). Đó là biện chứng vận dụng con người mang một thời gian tính.
Nguyễn Tiên Điền đã vận dụng
tài tình hai chữ tài mệnh qua mối liên hệ giữa thời gian nội tại và thời gian
ngoại giới liên kết trong một thể tính hiện sinh.
Đi từ một nhận định khái
quát, để phối hợp giữa hai vũ trụ nội giới và ngoại giới tạo nên một thời gian
tính của đời và thời gian tính xã hội. Kiều sống trong hai trạng thái thời gian
đó, một vũ trụ riêng biệt dưới mọi hình thái khác nhau của Thực và Ảo, đồng thời
xâm nhập cả giáo lý để lý giải cái chân như tối thượng của triết thuyết nhân bản,
một sự vượt thoát, một cuộc cách mạng toàn diện từ vô thể đến hữu thể, biến đổi
con người đi đến vô nhiễm, nâng cao tấm lòng 'thanh cao' đó là thực tướng trong
tác phẩm vĩ đại của nhân loại ngày nay. Nguyễn Du đã dành cho chúng sanh một học
thuyết đạo đức luân lý làm người. 'Trăm năm trong cõi người ta' là thế đó!
Thúy Kiều tài sắc vẹn toàn.
Đó là bản thể hiện ra dưới hình thái của sắc nước khuynh thành, nhưng không
phải đó là thăng hoa; Nguyễn Du cho rằng đó là tài mệnh tương đố. Thời
gian hiện hữu là nhân chứng. Thể tính hiện sinh là chấp nhận thương đau. Để rồi
dấn thân, để rồi mơ về, để rồi lụy rồi khổ. Bản thể trở nên ngây ngô, vô tư trước
cuộc đời, không còn biết mình là hiện hữu thời gian đang ngự trị, biến mình như
kẻ vô tội phải đương đầu, đó là nỗi lòng ai oán. Không còn nhận ra mình thuộc về
hình thái nào ngưòi hay vật." Dans l'innocence, l'homme n'était pas animal
et n'était pas advantage homme" (S. Kierkegaard).
Nỗi lòng đó là thời gian hiện
hữu trong chúng ta. Ngay trong thời đại mà chúng ta đang sống của một thời hiện
sinh.
Nguyễn Du đang lắng nghe tiếng khóc của đời cho mãi đến bây giờ...
SÁCH ĐỌC:
- Thi Ca Tư Tưởng (Sổ Đoạn Trường) của Bùi Giáng. NXB Ca Dao. Sàigòn 1969.
- Nguyễn Du- Đại Thi Hào Dân Tộc của Phạm Công Thiện. Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới. CA. USA 1996.
- Thân Phận Lưu Đày Trong Vai Trò của Thúy Kiều. Bài viết của Võ Công Liêm (ca.ab. 2/2010)
Tranh vẽ Võ Công Liêm:
Nguyễn Du đang lắng nghe tiếng khóc của đời cho mãi đến bây giờ...
SÁCH ĐỌC:
- Thi Ca Tư Tưởng (Sổ Đoạn Trường) của Bùi Giáng. NXB Ca Dao. Sàigòn 1969.
- Nguyễn Du- Đại Thi Hào Dân Tộc của Phạm Công Thiện. Viện Triết Lý Việt Nam và Triết Học Thế Giới. CA. USA 1996.
- Thân Phận Lưu Đày Trong Vai Trò của Thúy Kiều. Bài viết của Võ Công Liêm (ca.ab. 2/2010)
Tranh vẽ Võ Công Liêm:
Đêm Tinh Tú
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét