Năm 1909, tôi là một trong những
kẻ bất hạnh nhất New York. Tôi kiếm sống bằng nghề bán xe tải nhưng không biết
nó vận hành thế nào, và tệ hơn nữa là tôi cũng chẳng muốn biết điều đó. Tôi
ghét công việc của mình. Tôi ghét phải sống chung với lũ gián dơ bẩn trong một
căn phòng tồi tàn. Tôi còn nhớ hồi ấy tôi thường treo những chiếc cà vạt của
mình trên tường, thế rồi một buổi sáng, khi với tay lấy một chiếc thì chạm phải
một bầy gián từ trong đó chạy túa ra. Tôi cũng ghét phải ăn trong những nhà
hàng rẻ tiền và mất vệ sinh mà rất có thể cũng lúc nhúc gián trong gian bếp.
Một đêm,
tôi trở về căn phòng trống vắng với những cơn đau đầu như búa bổ. Những cơn đau
bắt nguồn từ sự thất vọng, lo âu, cay đắng và cảm giác muốn nổi loạn. Thực sự
là tôi đang nổi loạn, bởi những giấc mơ ấp ủ từ thời đại học giờ đã trở thành
những cơn ác mộng. Cuộc sống là thế này sao? Cuộc phiêu lưu đầy ý nghĩa mà
trước kia tôi háo hức mong đợi là thế này sao? Cả đời tôi chỉ có vậy thôi ư –
làm công việc mình căm ghét, sống chung với gián, ăn những thức ăn chán ngắt –
và chẳng có hy vọng gì về tương lai …? Tôi ước ao biết nhường nào được đọc và
viết những cuốn sách mình đã ấp ủ từ thời sinh viên.
Tôi biết
mình sẽ có được mọi thứ và chẳng mất gì nếu từ bỏ công việc mà mình chán ghét.
Tôi không hứng thú với việc kiếm nhiều tiền. Tôi chỉ khao khát được sống hết
mình. Nói một cách ngắn gọn, tôi đang đứng trước ngả rẽ của đời mình – đã tới
lúc tôi phải làm cái việc mà hầu hết những người trẻ tuổi phải làm khi mới vào
đời: quyết định hướng đi cho tương lai. Và tôi đã có một quyết định làm thay
đổi hoàn toàn cuộc đời tôi. Nhờ quyết định ấy, tôi đã sống một cuộc sống hạnh
phúc và đầy ý nghĩa, vượt xa cả những mơ ước không tưởng nhất của mình.
Tôi quyết
định sẽ từ bỏ công việc chán ngắt ấy để trở thành giáo viên. Trước đó, tôi đã
từng học bốn năm Đại học Sư phạm tại Warrensburg, Missouri. Tôi sẽ kiếm sống
bằng cách đi dạy buổi tối ở các trường dành cho người lớn. Ban ngày tôi sẽ được
thảnh thơi đọc sách, soạn bài, viết tiểu thuyết và truyện ngắn. Tôi muốn “sống
để viết và viết để sống”.
Nhưng tôi
sẽ dạy gì ở lớp học buổi tối đây? Khi nhìn lại quá trình học đại học, tôi thấy
rằng những kiến thức và kinh nghiệm có được khi học và thực hành môn nói trước
công chúng tỏ ra hữu ích cho công việc và cuộc sống của tôi hơn tất cả kiến
thức của các môn khác gộp lại. Vì sao? Vì nó đã xóa đi tính nhút nhát và thiếu
tự tin của tôi, nó giúp tôi có đủ dũng khí và sự vững vàng khi làm việc với mọi
người. Một điều hiển nhiên là những ai có thể đứng lên nói lưu loát và rõ ràng
suy nghĩ của mình sẽ là những người có khả năng lãnh đạo.
Tôi nộp
đơn xin dạy môn này trong các khóa học buổi tối của trường Đại học Columbia và
Đại học New York, nhưng cả hai trường đều nói rằng họ có thể tự xoay xở mà
không cần sự giúp sức của tôi.
Lúc đó
tôi rất thất vọng – nhưng bây giờ tôi lại cảm thấy biết ơn điều đó, bởi nhờ vậy
mà tôi đã đến giảng ở các trường buổi tối của Hiệp Hội Thanh niên Cơ đốc (Young
Men’s Christian Association – YMCA), nơi tôi phải đưa ra những kết quả làm việc
thuyết phục chỉ trong một thời gian ngắn. Đó quả là một thách thức lớn! Học
viên đến nghe tôi giảng không phải vì muốn có chứng chỉ đại học hay để khẳng
định địa vị xã hội. Họ đến vì một lý do duy nhất: họ muốn giải quyết các vấn đề
của mình. Họ muốn có thể đứng lên và tự tin phát biểu trong bất kỳ cuộc họp
nào. Những người bán hàng muốn gõ cửa nhà các khách hàng khó tính nhất mà không
cần phải đi vòng quanh khu nhà ở của khách hàng đến ba lần để lấy can đảm. Họ
muốn có được sự tự tin và một tư thế đĩnh đạc. Họ muốn thăng tiến trong công
việc. Họ muốn mang về nhiều tiền hơn cho gia đình. Do học phí trả theo từng kỳ
và học viên sẽ không phải trả tiền nếu không thấy hiệu quả, và cũng vì tiền
lương của tôi không được trả theo tháng mà dựa trên phần trăm tổng số học phí
thu được, những bài giảng của tôi buộc phải hữu ích và bám sát thực tế.
Thời gian
đó, tôi cảm thấy điều kiện giảng dạy như thế rất bất lợi, nhưng giờ đây tôi
hiểu rằng mình đã có một cơ hội rèn luyện vô giá. Tôi phải tạo động lực cho các
học viên. Tôi phải giúp họ giải quyết các rắc rối. Tôi phải làm sao để buổi học
nào cũng hấp dẫn và khiến họ muốn đến tiếp vào các buổi sau nữa.
Và đó là
một công việc tuyệt vời. Tôi đã vô cùng ngạc nhiên khi thấy các học viên của
mình nhanh chóng xây dựng được sự tự tin và rất nhiều người đã sớm được thăng
chức, tăng lương. Các giờ học thành công vượt xa những hy vọng lạc quan nhất
của tôi. Sau ba khóa, YMCA trả cho tôi 30 đô-la mỗi tối, trong khi trước đó họ
còn không đồng ý trả 5 đô-la. Ban đầu tôi chỉ dạy môn Nói Trước Công Chúng (Public Speaking),
nhưng sau nhiều năm, tôi nhận ra con người còn cần thêm khả năng thu phục lòng
người. Vì không thể tìm được một giáo trình ưng ý về việc cải thiện và xây dựng
mối quan hệ giữa con người với nhau nên tôi đã tự viết một quyển sách. Nó không
được viết theo cách thông thường mà được khởi nguồn và phát triển trên kinh
nghiệm của chính các học viên tham dự khóa học. Tôi đã đặt tựa đề cho quyển
sách là How to Win Friends and
Influence Pheople (Đắc Nhân Tâm).
Vì quyển
sách ấy được viết để làm giáo trình cho các lớp học dành cho người lớn của tôi
và cũng vì bốn quyển sách tôi viết trước đó chẳng nhận được chú ý nào nên tôi
không ngờ nó lại có thể bán chạy đến thế. Có lẽ tôi là một trong những tác giả
bị làm cho sửng sốt nhất thời đại này!
Thời gian
trôi qua, tôi phát hiện thêm một trong những rắc rối lớn nhất của người lớn: Lo lắng. Phần lớn học viên của tôi là doanh
nhân – giám đốc điều hành, nhân viên bán hàng, kỹ sư, kế toán; tuy thuộc nhiều
ngành nghề khác nhau nhưng hầu như ai cũng có những rắc rối của riêng mình!
Trong lớp cũng có cả phụ nữ là các nữ doanh nhân và các bà nội trợ. Bạn thấy
đấy, họ cũng gặp rắc rối! Rõ ràng là tôi cần một giáo trình hướng dẫn cách chế
ngự sự lo lắng. Vậy là một lần nữa tôi lại cất công tìm kiếm. Tôi đến thư viện
lớn nhất của New York và rất ngạc nhiên khi chỉ tìm được 22 quyển sách xếp dưới
đề mục WORRY – LO LẮNG. Và dũng cảm thấy thích thú không kém khi có tới 189
quyển xếp dưới đề mục WORMS – CÁC LOÀI GIUN! Số sách viết về giun nhiều gấp
chín lần số sách viết về lo lắng! Thật
bất ngờ phải không? Vì lo lắng là một trong những vấn đề lớn nhất của nhân
loại, các bạn có nghĩ rằng mỗi trường học từ cấp trung học trở lên nên có một
khóa học về “Cách loại bỏ lo lắng” không?
Chẳng có
gì ngạc nhiên khi bạn đọc thấy David Seabury viết trong quyển How to Worry Successfully (Làm
thế nào để lo lắng một cách hiệu quả) rằng:
“Chúng ta bước sang tuổi trưởng thành với những chuẩn bị nghèo nàn cho việc đối
mặt với áp lực đến mức mỗi khi bị căng thẳng, ta chẳng khác nào một con mọt
sách bị yêu cầu múa ba lê!”. Kết quả là gì? Hơn một nửa số bệnh nhân nằm viện
là những người gặp rắc rối về tinh thần và cảm xúc.
Tôi đã
xem hết 22 quyển sách viết về nỗi lo lắng xếp trên giá của Thư viện New York.
Tôi cũng mua tất cả sách có thể tìm được về chủ đề này, nhưng vẫn không thể tìm
ra dù chỉ là một quyển thích hợp để dùng làm tài liệu giảng dạy cho các
khóa học của mình. Thế là tôi quyết định sẽ tự viết.
Tôi bắt
đầu chuẩn bị cho việc viết quyển sách này cách đây 7 năm bằng cách đọc những gì
các triết gia của mọi thời đại đã nói về lo lắng. Tôi cũng đọc hàng trăm quyển
tiểu sử, từ Khổng Tử cho tới Churchill. Tôi phỏng vấn hàng chục người nổi tiếng
ở những lĩnh vực khác nhau như võ sĩ quyền Anh Jack Dempsey, Tướng Omar
Bradley, Tướng Mark Clark, nhà sáng lập hãng ô tô Ford – Henry Ford, Đệ nhất
phu nhân Eleanor Roosevelt, nhà báo Dorothy Dix … Nhưng đó mới chỉ bước khởi
đầu.
Tôi còn
tiến hành một việc khác, có ý nghĩa quan trọng hơn hẳn so với việc chỉ phỏng
vấn và tham khảo các bài viết. Tôi đã làm việc 5 năm trong một phòng thử nghiệm
chế ngự lo lắng – một phòng thử nghiệm được thực hiện với chính các học viên
trong lớp học buổi tối dành cho người lớn của chúng tôi. Theo tôi được biết,
đây là phòng thử nghiệm đầu tiên và duy nhất trên thế giới thuộc loại này.
Chúng tôi đề ra một số quy tắc nhằm chế ngự lo lắng rồi yêu cầu học viên áp
dụng chúng vào cuộc sống và báo cáo kết quả đạt được trước lớp. Một số người
khác thì kể lại những cách thức mà họ đã sử dụng trong quá khứ.
Nhờ thế
mà tôi cho rằng mình là người được nghe nhiều cuộc nói chuyện về cách chế ngự
lo lắng hơn bất cứ ai. Bên cạnh đó, tôi cũng đọc hàng trăm bài viết về chủ đề
này được gửi tới bằng thư – đó là những bài nói đã được giải trong các lớp học
của chúng tôi được tổ chức trên toàn thế giới.
Do đó,
quyển sách này không hề là một mớ lý thuyết xa rời thực tế. Nó cũng không phải
là môt bài thuyết giảng kinh viện, giải thích những cơ chế khoa học nhằm kiểm
soát những nỗi lo lắng. Thay vào đó, tôi đã cố gắng viết một tài liệu chính
xác, súc tích kể lại việc hàng nghìn người trưởng thành đã chế ngự nỗi lo lắng
của mình ra sao. Có một điều chắc chắn rằng: Đây là một quyển sách gắn liền với
thực tế, và bạn có thể ứng dụng nó dễ dàng.
Triết gia
người Pháp Valéry nói: “Khoa học là tập hợp những công thức thành công”. Quyển
sách này cũng vậy: nó là tập hợp những công thức giải tỏa lo lắng hiệu quả và
đã được thời gian kiểm chứng. Tuy nhiên, tôi xin nói trước rằng: có thể bạn sẽ
không thấy điều gì mới mẻ, nhưng bạn sẽ nhận ra nhiều điều đã bị chúng ta bỏ
quên. Vấn đề không phải là chúng ta không biết hay không hiểu, mà là chúng ta
không hành động. Mục đích của quyển sách này là kể lại, làm sáng tỏ, tôn vinh
và phân tích dưới góc nhìn mới của thời đại về những chân lý căn bản đã có từ
xa xưa, nhằm xây dựng niềm tin nơi bạn và giúp bạn tự tin áp dụng chúng.
Khi chọn
đọc quyển sách này, chắc hẳn điều mà bạn mong mỏi là thực hiện một sự thay đổi.
Vậy thì bạn còn chần chừ gì nữa?
Chú bạn
sớm quẳng gánh lo đi và vui sống!.
DALE CARNEGIE
9 GỢI Ý GIÚP PHÁT HUY CAO NHẤT
TÁC DỤNG CỦA QUYỂN SÁCH
1/ Nuôi
dưỡng khát vọng nắm vững các nguyên tắc chế ngự lo lắng.
2/ Đọc
mỗi chương hai lần trước khi chuyển sang chương kế tiếp.
3/ Khi
đọc, thường xuyên dừng lại hình dung bạn sẽ vận dụng mỗi gợi ý như thế nào.
4/ Gạch
chân những câu, từ, ghi ra bên lề những ý quan trọng.
5/ Xem
lại quyển sách này hàng tháng.
6/ Vận
dụng các nguyên tắc mỗi khi có cơ hội. Sử dụng quyển sách này như một sổ tay
làm việc giúp bạn giải quyết các rắc rối hàng ngày.
7/ Biến
việc học trở thành một trò chơi thú vị bằng cách hứa trả cho một người bạn nào
đó một số tiền nho nhỏ mỗi khi họ bắt quả tang bạn đang vi phạm một trong các
nguyên tắc quyển sách này.
8/ Đánh
giá lại những tiến bộ đạt được hàng tuần. Hãy tự hỏi mình đã mắc những sai lầm
gì, đã cải thiện ra sao, và đã rút ra bài học gì.
9/ Kẹp
quyển sổ tay vào sau quyển sách để chỉ ra bạn đã áp dụng các nguyên tắc như thê
nào và khi nào.
SỐNG
TRONG “NHỮNG NGĂN KÍN CỦA THỜI GIAN”
Mùa xuân
năm 1871, một thanh niên đọc được một quyển sách chứa 21 từ sẽ có ảnh hưởng vô
cùng sâu sắc đến tương lai của anh. Anh là sinh viên y khoa ở Bệnh viện đa khoa
Montreal. Anh đang rất lo lắng về kỳ thi cuối khóa, về việc phải đi đâu, làm
gì, làm thế nào để kiếm sống và xây dựng sự nghiệp.
Hai mươi
mốt chữ mà người sinh viên y khoa này đọc được năm 1871 đã giúp anh trở thành
vị bác sĩ danh tiếng nhất trong thế hệ của mình. Ông đã thành lập và điều hành
Trường Y Khoa Johns Hopkins nổi tiếng thế giới. Ông trở thành Giáo sư Y Khoa
Hoàng Gia (Regius Professor) tại trường Đại học Oxford – danh hiệu cao quý nhất
của Đế Chế Anh dành cho một người thuộc ngành y. Ông được vua Anh phong tước
Hiệp sĩ. Khi ông qua đời, hai quyển sách đồ sộ dày 1.466 trang đã được biên
soạn để kể về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Tên ông là Willia Osler. Và đây là
21 từ ông đã đọc được năm 1871 – 21 từ của Thomas Carlyle đã giúp ông sống một
cuộc đời không bị ràng buộc bởi những lo âu:“Our main business is not to
see what lies dimly at a distance, but to do what lies clearly at hand.” (Điều
quan trọng không phải là biết được điều gì sẽ xảy ra trong tương lai, mà là
biết được phải làm gì trong hiện tại).
Bốn mươi
hai năm sau, vào một buổi sáng mùa xuân êm ả khi hoa tuy-lip nở rộ trong khuôn
viên trường Đại học Yale, Ngài (1) William Osler đang giảng bài cho các
sinh viên. Ông bảo họ rằng mọi người cứ nghĩ một giáo sư của 4 trường đại học
và viết một quyển sách nổi tiếng như ông hẳng phải có một bộ não đặc biệt;
nhưng điều đó không đúng, và các bạn thân của ông đều biết rằng bộ não của ông
chỉ là một bộ não vô cùng bình thường.
Vậy bí
quyết nào giúp ông đạt được những thành quả như thế? Ông cho rằng đó là vì ông
sống trong “những ngăn kín của thời gian”. Có lần, Ngài William Osler đi trên
một chiếc tàu thủy lớn băng qua Tây Đại Dương. Vị thuyền trưởng đứng trên mũi
tàu và bấm vào một chiếc nút, thế là – Hô biến! – tiếng máy móc rền vang, rồi
ngay lập tức rất nhiều bộ phận của tàu tự động tách ra để kết hợp lại thành
những ngăn kín nước bao bọc lấy các phần quan trọng của chiếc tàu. Như thế, nếu
chẳng may gặp tai nạn thì nước cũng không thể tràn vào những nơi trọng yếu,
giúp tàu được an toàn hơn. Tiến sĩ Osler đã nói với sinh viên của mình rằng:
“Mỗi chúng ta là một bộ máy kỳ diệu hơn chiếc tàu thủy kia rất nhiều, và hành
trình cuộc đời của chúng ta cũng dài hơn nhiều so với hành trình của một chuyến
tàu. Tôi khuyên các bạn hãy học cách điều khiển bộ máy đó để có thể sống trong
những “ngăn kín của thời gian”. Ở mỗi giai đoạn của cuộc đời, hãy nhấn một
chiếc nút và lắng nghe tiếng cánh cửa sắt đóng lại, ngăn không cho quá khứ, cho
những ngày hôm qua đã chết tràn vào. Hãy nhấn một chiếc nút khác để khép những
chiếc rèm sắt, tách chúng ta khỏi tương lai, khỏi những ngày chưa đến. Giờ bạn
đã an toàn, rất an toàn trong hôm nay. Hãy tách khỏi ngày hôm qua bởi chính
chúng đã soi đường cho những kẻ dại dột đi đến cái chết vô vị. Những lo âu về
tương lai và quá khứ mà chúng ta vẫn mang theo bên mình chính là những trở ngại
lớn nhất. Hãy tách khỏi quá khứ và chôn vùi nó. Và cũng làm như thế với tương
lai. Tương lai chính là hôm nay. Chỉ hiện tại mới có thể cứu rỗi con người. Sự
suy giảm về nhiệt huyết cũng như những phiền muộn và căng thẳng tinh thần sẽ
luôn đeo bám những ai cứ mãi lo lắng cho ngày mai.. Vì vậy, chúng ta cần phải
tránh xa cả hai ngăn “quá khứ” và “tương lai”, đồng thời học cách sống
trọn vẹn trong ngăn “hiện tại”.
Ngụ ý của
Tiến sĩ Oster là gì? Phải chăng ông muốn nói rằng chúng ta không nên có chút cố
gắng nào để chuẩn bị cho tương lai? Không. Hoàn toàn không phải vậy. Ông đã nói
tiếp rằng: “Cách tốt nhất để chúng ta chuẩn bị cho ngày mai chính là đem hết
trí tuệ, nhiệt huyết tập trung làm tốt công việc ngày hôm nay. Đó là cách duy
nhất bạn có thể chuẩn bị cho tương lai”.
Ngài
William Osler đã dẫn một lời cầu nguyện quen thuộc của tín đồ Thiên Chúa giáo: Xin cha ban cho chúng con hôm
nay lương thực hàng ngày.
Hãy nhớ
rằng lời cầu nguyện chỉ cầu xin lương thực cho ngày hôm nay thôi mà không phàn
nàn về phần thức ăn ôi thiu hôm trước hay không có ý nói: “Ôi, lạy Chúa, ruộng
lúa mì của chúng con đang khô cạn, có lẽ sắp có một thực phẩm vào vụ sau, nếu
chúng con không có việc gì làm thì sao – Ôi Chúa kính yêu, nếu vậy, làm sao
chúng con có lương thực để ăn?”.
Không,
lời cầu nguyện đã dạy chúng con chỉ hỏi xin bánh mì cho hôm nay thôi. Chiếc
bánh mì của ngày hôm nay là chiếc bánh mì duy nhất mà bạn có thể ăn được.
Nhiều thế
kỷ trước đây, một nhà hiền triết nghèo khó đi lang thang qua một miền quê cỗi
cằn sỏi đá, nơi người dân phải chật vật kiếm sống từng ngày. Một ngày nọ, đám
đông tụ họp quanh ông trên một ngọn đồi và ông đã đưa ra một bài giảng. Đây có
lẽ là bài giảng được trích dẫn nhiều nhất trong mọi thời đại, trong đó có
câu nói được lưu truyền qua bao thế hệ: “Đừng lo lắng cho ngày mai, vì
ngày mai sẽ tự lo liệu mọi việc của chính nó. Sự thừa mứa của hôm qua nay là
căn nguyên của tội lỗi ngày sau” (2).
Bạn cần
phải hiểu rằng Chúa Yesus khuyên chúng ta “Đừng lo”, chứ không phải “đừng nghĩ”. Hiển nhiên
là chúng ta phải nghĩ đến tương lai, như nhiều người vẫn nói: “Tôi phải nghĩ
cho tương lai. Tôi phải chắc chắn sẽ bảo bọc được cho gia đình. Tôi phải dành
dụm tiền cho tuổi già. Tôi nhất định phải có kế hoạch và sự chuẩn bị để vươn
lên”. Đúng, chúng ta phải nghĩ một cách nghiêm túc về tương lai rồi lên kế
hoạch và chuẩn bị chu đáo. Nhưng ta hoàn toàn không cần phải lo lắng.
Suốt Thế
chiến thứ hai, các nhà chỉ huy quân sự đã tập trung chuẩn bị kế hoạch chiến đấu
lâu dài chứ không dành tâm trí để lo âu về những gì sẽ xảy ra. Đô đốc Ernest J.
King, chỉ huy hải quân Mỹ nói: “Tôi trang bị tốt nhất cho những người lính giỏi
nhất và yêu cầu họ thực hiện những nhiệm vụ mà tôi cho là sáng suốt nhất. Đó là
tất cả những gì tôi có thể làm.
Đô đốc
King nói tiếp: “Nếu một con tàu đã bị đắm, tôi không thể vớt nó lên được. Nếu
nó sắp đắm, tôi cũng không thể ngăn nó lại. Tôi chỉ có thể sử dụng thời gian
của mình để chuẩn bị cho ngày mai thay vì cứ gặm nhấm những nỗi buồn của ngày
hôm qua. Hơn nữa, nếu tôi cứ để cho nỗi lo lắng đeo bám thì tôi sẽ không còn
sức để làm bất cứ việc gì”.
Dù thời
xưa hay thời nay, thời chiến hay thời bình, sự khác biệt cơ bản giữa lối tư duy
tốt và lối tư duy tồi là: Một lối tư duy tốt thường xem xét mối liên hệ giữa
nguyên nhân và kết quả, từ đó đưa ra những kế hoạch hợp lý và tích cực, còn lối
tư duy tồi thường dẫn đến tình trạng căng thẳng và suy sụp về tinh thần.
Tôi từng
có vinh dự được phỏng vấn Arthur Hays Sulzberger, chủ bút tờ báo “The New York Times” trong
những năm 1935-1961, một trong những tờ báo nổi tiếng nhất thế giới. Sulzberger
kể với tôi rằng khi Thế chiến thứ hai lan rộng ở Châu Âu, ông quá choáng váng
và lo lắng cho tương lai đến nỗi gần như không ngủ được. Ông thường thức dậy
lúc nửa đêm, ngồi trước gương và tự vẽ chân dung mình. Ông không biết gì về hội
họa, nhưng vẫn cầm cọ để mong xua đi nỗi lo lắng trong đầu. Ngài Sulzberger bảo
tôi rằng ông không thể bỏ hết lo âu và tìm thấy sự thanh thản cho đến khi ông
làm theo những trích dẫn trong bài Thánh vịnh: Chỉ một bước là đủ với tôi.
Đã có ánh sáng tốt lành dẫn đường, đưa lối bước chân …
Tôi không cầu được thấy tương lai xa xôi phía trước;
Chỉ một bước là đủ với tôi.
Cùng lúc
đó, tại Châu Âu, một người lính trẻ cũng nhận thức được điều này. Tên anh là
Ted Bengermino, quê ở Baltimore Maryland. Trong thời gian diễn ra cuộc chiến,
những lo lắng triền miên khiến anh gần như kiệt sức. Ted Bengermino kể lại:
“Tháng Tư năm 1945, các bác sĩ phát hiện tôi mắc chứng co thắt cơ
ngang ruột kết mà nguyên nhân là do tình trạng căng thẳng quá mức. Kết quả là
tôi luôn phải chịu đựng những cơn đau nhức hành hạ cơ thể.
Tôi mệt
mỏi vô cùng. Là nhân viên phòng Báo tử, Hạ sĩ quan của Sư đoàn bộ binh 94, công
việc của tôi là lên danh sách và lưu trữ số liệu về các thương bệnh binh, cũng
như binh lính tử trận hay mất tích khi chiến đấu. Tôi cũng có nhiệm vụ khai
quật thi hài của cả quân Đồng minh và quân địch được chôn cất qua quýt, vội
vàng trong cao trào cuộc chiến. Tôi phải thu thập di vật của những người này
rồi gửi chúng cho gia đình và người thân của họ, những người rất trân trọng các
di vật đó. Tôi thường lo sợ rằng chúng tôi sẽ phạm phải những sai lầm nghiêm
trọng và đáng xấu hổ. Tôi không biết mình có thể vượt qua tất cả những việc này
hay không. Liệu tôi có còn sống để được ôm đứa con duy nhất – đứa con trai mới
16 tháng tuổi mà tôi chưa hề thấy mặt? Tôi lo lắng, mệt mỏi tới mức sụt mất
15kg và sợ hãi gần như phát điên. Tôi nhìn hai bàn tay của mình. Chúng chỉ còn
da bọc xương. Khiếp sợ trước ý nghĩ sẽ trở về nhà với thân hình tàn tạ, tôi suy
sụp và khóc nức nở như một đứa trẻ. Tôi trở nên yếu đuối đến nỗi mỗi khi chỉ có
một mình, nước mắt lại trào ra. Có thời gian, không lâu sau khi trận Bulge nổ
ra, tôi khóc nhiều đến nỗi gần như mất hết hy vọng trở lại cuộc sống của một
người khỏe mạnh bình thường.
Cuối
cùng, tôi phải đến phòng khám sức khỏe của quân đội. Vị bác sĩ ở đó đã cho tôi
một lời khuyên làm thay đổi hoàn toàn cuộc sống của tôi. Sau khi kiểm tra kỹ
lưỡng, ông cho biết vấn đề của tôi nằm ở tinh thần. Ông bảo: “Ted này, tôi muốn
cậu hãy nghĩ cuộc đời mình giống như một chiếc đồng hồ cát. Cậu biết đấy, có
hàng nghìn hạt cát ở phần trên của chiếc đồng hồ, và tất cả chậm rãi chảy qua
chỗ thắt hẹp ở giữa. Cậu cũng như tôi, không thể làm bất cứ điều gì khiến chỗ
thắt đó to ra để các hạt cát chảy qua nhanh hơn mà không làm hỏng đi chiếc đồng
hồ. Chúng ta hay bất kỳ người nào khác cũng giống như chiếc đồng hồ cát này.
Mỗi khi bắt đầu một ngày mới, ta cảm thấy có hàng trăm việc phải hoàn thành
trong hôm ấy. Nhưng ta cần phải làm từng việc một và để chúng được tiến hành từ
từ, đều đặn mỗi ngày giống như những hạt cát chảy qua chỗ thắt của chiếc đồng
hồ cát. Bởi nếu không, chắc chắn chúng ta sẽ tự hủy hoại cả thể lực và tình
thần của mình”.
Kể từ cái
ngày đáng nhớ đó, tôi đã tuân thủ triết lý sống khôn ngoan mà vị bác sĩ này
truyền lại. “Từng hạt cát một …Từng việc
một”.. Nó đã giúp tôi bảo vệ cả thể chất lẫn tinh thần để đi qua
cuộc chiến; và đến bây giờ vẫn tiếp tục giúp ích cho tôi trong cương vị Giám
Đốc Quảng Cáo và Quan hệ công chúng của Tập đoàn Adcrafter Printing &
Offset. Tôi nhận thấy lĩnh vực kinh doanh cũng phát sinh những vấn đề tương tự
như trong cuộc chiến tranh: hàng chục việc phải được xử lý ngay – mà có rất ít
thời gian để hoàn tất. Chúng tôi không có đủ hàng dự trữ. Chúng tôi phải xem
xét các đơn hàng, thay đổi địa chỉ và lo lắng, tôi nhớ lại lời của vị bác sĩ: “Từng hạt cát một … Từng việc
một”. Bằng
cách ghi nhớ và thực hiện điều này, tôi đã hoàn thành công việc hiệu quả hơn mà
không hề gặp phải cảm giác rối trí hay lẫn lộn từng suýt đánh gục tôi trên
chiến trường năm xưa”.
Một trong
những ghi nhận đáng báo động nhất về lối sống của chúng ta ngày nay là: Một nửa
số giường bệnh hiện đang được dành cho các bệnh nhân găp những vấn đề về tâm lý
và thần kinh, những bệnh nhân đã hoàn toàn suy sụp dưới gánh nặng của quá khứ
chồng chất và tương lai đáng sợ. Tuy nhiên, phần lớn những người này có thể đã
không phải vào viện – có thể đã sống hạnh phúc và hữu ích hơn – nếu họ chịu để
tâm đến những lời của Chúa Yesus: Đừng lo lắng về ngày mai”; hay những lời của
Ngài William Osler: “Hãy sống trong những ngăn kín
của thời gian”.
Trong
mỗi giây tồn tại, con người đều đứng lại nơi giao nhau của hai vùng đất muôn
đời không thay đổi: Quá khứ mệnh mông và tương lai bất tận. Chúng ta không thể
sống ở nơi nào trong hai vùng đất đó – dẫu chỉ trong một tích tắc của thời
gian. Nếu vẫn cố làm như thế, chúng ta có thể sẽ hủy hoại cả thể chất và tinh
thần của mình. Vì vậy, hãy cứ hài lòng sống trọn một ngày trong hiện tại.
Robert Louis Stevenson (3) đã viết: “Ai cũng có thể ngày ngày hoàn
thành công việc của mình, dù nó có khó khăn đến đâu. Hãy sống trọn vẹn một ngày
thật bình an và chan chứa tình yêu thương cho tốt khi mặt trời tắt nắng. Đó
chính là ý nghĩa thực sự của cuộc sống”.
Vâng, đó
là tất cả những gì cuộc sống đòi hỏi ở chúng ta. Bà E. K. Shields, ở Saginaw,
Michigan, đã từng tuyệt vọng đến mức suýt tự tử cho tới khi bà học được cách
sống “không lo âu”. Bà Shields kể cho tôi nghe câu chuyện của mình:
“Năm
1937, chồng tôi qua đời. Tôi rất đau khổ, cô đơn và bắt đầu rơi vào cảnh túng
quẩn. Tôi viết thư cho ông chủ cũ của mình, Ngài Leon Roach quản lý công
ty Roach-Fowler, thành phố Kansas. Ông nhận tôi vào làm trở lại. Trước đó, tôi
làm công việc giới thiệu sách của nhà xuất bản World Books cho các trường học ở
thị trấn và vùng nông thôn. Hai năm trước, khi chồng tôi bị ốm, tôi đã phải bán
đi chiếc ô-tô, nhưng giờ tôi đã tích cóp đủ tiền để mua trả góp một chiếc xe cũ
và bắt đầu lại công việc ngày trước.
Tôi cứ
nghĩ làm việc sẽ giúp tôi vơi bớt nỗi buồn, nhưng dường như không phải vậy.
Thậm chí tôi cảm thấy mình không làm nổi việc lái xe và ăn cơm một mình. Ở một
số nơi, sách khá khó bán, và tôi phải chật vật lắm mớ lo đủ những khoản chi phí
cho chiếc xe, dù đó chẳng phải là số tiền nhiều nhặn gì.
Mùa xuân
năm 1938, tôi đến vùng Versailles, Missouri. Những ngôi trường ở đó rất tồi
tàn, đường sá thì tồi tệ, tôi cô đơn và nản chí đến mức có lúc đã nghĩ đến việc
tự tử. Tôi chẳng thiết tha gì nữa. Dường như đây không phải là nơi dành cho
những người làm công việc như tôi. Tôi sợ thức dậy vào mỗi sáng và phải đối mặt
với cuộc sống. Tôi sợ mọi thứ: sợ không trả đủ tiền xe, sợ không trả đủ tiền
thuê phòng, sợ sẽ không có đủ tiền ăn. Tôi biết là sức khỏe của mình đang có
vấn đề nhưng lại sợ không có đủ tiền đến bác sĩ. Điều duy nhất níu giữ tôi ở
lại với cuộc đời này cũng là một nỗi lo. Tôi lo em gái mình sẽ vô cùng đau buồn
khi chỉ còn lại một mình và trong tận cùng của suy nghĩ, tôi sợ không có đủ
tiền để lo cho đám tang của mình.
Một ngày
nọ, tôi tình cờ đọc được một bài báo. Những điều tác giả viết đã giúp tôi thoát
khỏi tâm trạng chán chường thê lương đó và tuyệt vời hơn, nó còn tiếp thêm cho
tôi nghị lực để tiếp tục sống. Cho đến tận bây giờ, tôi vẫn biết ơn một câu
trong bài báo ấy: “Đối với một người biết nhận
thức các giá trị cuộc sống thì mỗi ngày luôn là một cuộc sống mới”.Rồi
tôi khám phá ra rằng việc sống trọn vẹn và hết mình cho hiện tại cũng không quá
khó khăn. Từng ngày một, tôi bắt đầu học cách quên đi quá khứ và không nghĩ đến
tương lai. Mỗi sáng tôi đều nhắc bản thân rằng: “Hôm nay là một cuộc sống mới”.
Vậy là
tôi đã chiến thắng chính bản thân mình! Tôi đã chinh phục nỗi sợ cảm giác cô
độc, sợ sống trong cảnh thiếu thốn. Tôi rất hài lòng với cuộc sống hiện tại.
Trong tôi luôn tràn đầy nhiệt huyết với công việc và tình yêu cuộc sống. Giờ
đây tôi biết không điều gì có thể khiến tôi sợ hãi hay lo nghĩ, dù cho cuộc
sống có đưa tôi đến những cảnh ngộ nào đi chăng nữa”.
Trước khi
Chúa ra đời 30 năm, có lẽ Horace đã nhận ra giá trị của hiện tại khi sáng tác
những vần thơ sau:
Hạnh phúc thay cho một người, và chỉ những người
Dám khẳng định rằng ngày hôm nay là ngày của riêng họ
Họ sống thật bình tâm và thốt lên trong niềm kiêu hãnh:
“Ngày mai ư? Mặc kệ! Vì tôi đã sống hết mình cho ngày hôm nay”.
Theo tôi,
một trong những bi kịch của con người là tất cả chúng ta đều có khuynh hướng
lảng tránh cuộc sống. Thay vì ngắm nhìn khóm hồng đang nở rộ trước hiên nhà,
chúng ta lại mơ về một vườn hồng huyền ảo ở tít tận chân trời xa.
Tại sao
chúng ta lại khờ dại – khờ dại một cách đáng thương đến thế?
Bằng
những chiêm nghiệm cuộc sống, Stepphen Leacock(4) đã
thảng thốt: “Cuộc sống ngắn ngủi của chúng ta mới kỳ lạ làm sao! Khi còn bé, ta
thường bắt đầu câu chuyện của mình bằng câu nói: “Sau này lớn lên, ta sẽ …”.
Đến khi lớn lên, ta lại nói: “Khi nào trưởng thành, ta sẽ …”. Trưởng thành rồi,
ta bảo: “Sau này khi kết hôn, ta sẽ …”. Và kết hôn xong, ta mơ màng: “Đến lúc
được nghỉ hưu, ta sẽ …”. Rồi đến khi nghỉ hưu, nhìn lại cuộc đời, con người ngỡ
ngàng khi thấy dường như có một cơn gió lạnh đã cuốn trôi tất cả. Vậy là ta đã
bỏ lỡ cuộc đời của mình rồi, ta đã không kịp ngắm nhìn và cảm nhận những thi vị
của cuộc sống và cũng chẳng còn cơ hội nào nữa. Khi hiểu ra rằng mình phải sống
trọn vẹn từng giờ, từng khắc của hiện tại thì đã quá muộn”.
Edward S.
Evans, một người dân sống ở Detroit, vì quá lo lắng buồn phiền mà suýt tự tử.
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nghèo khó, Edward S. Evans kiếm được những đồng
tiền đầu tiên từ việc bán báo, rồi ông xin phụ việc cho một cửa hàng tạp phẩm.
Về sau, ông chuyển sang làm trợ lý ở một thư việc để có thể nuôi sống 7 miệng
ăn. Dù khoản lương nhận được rất ít ỏi nhưng ông cũng không dám nghỉ việc. Phải
đến 8 năm sau, ông mới có đủ can đảm để bắt đầu sự nghiệp của riêng mình. Với
số vốn ban đầu chỉ là 55 đô-la vay mượn, ông đã tạo nên một cơ hội mang về lợi
nhuận 20.000 đô-la mỗi năm. Thế rồi một biến cố xảy ra, một biến cố khiến cuộc
đời ông thay đổi hẳn. Chuyện xảy đến khi ông ký bảo lãnh một khoản tiền lớn cho
một người bạn của mình và thật không may, người bạn đó bị phá sản. Biến cố này
chưa qua, tai họa khác lại ập đến. Ngân hàng nơi ông gửi toàn bộ số tiền tiết
kiệm cũng bị vỡ nợ. Tai họa này không chỉ khiến ông trắng tay mà còn rơi vào
cảnh nợ nần. Một khoản nợ khổng lồ: 16.000 đô-la! Cú sốc đó vượt quá sức chịu
đựng của ông! Ông nhớ lại:
“Không ăn không ngủ, chỉ trong vài ngày, tôi gầy rạc và hốc hác
hẳn. Lúc đó tôi chẳng biết đến điều gì ngoài những nỗi lo. Một ngày nọ, khi
đang đi trên đường, tôi ngất xỉu ngay trên vỉa hè. Cuối cùng, tôi không thể đi
lại được nữa, phải nằm liệt giường. Mỗi ngày tôi lại yếu hơn. Cuối cùng, bác sĩ
nói rằng tôi chỉ còn sống được hai tuần nữa. Tôi bàng hoàng. Tôi ngồi viết di
chúc, rồi quay lại gường nằm đợi ngày trút hơi thở cuối cùng. Giờ đây, đấu
tranh hay lo lắng cũng chẳng ích gì. Tôi phó mặc tất cả, để tâm hồn thư thái và
đi ngủ. Suốt hai tuần liền, tôi chưa bao giờ ngủ được hai tiếng liên tục; nhưng
bây giờ, chẳng còn gì có thể làm vướng bận tâm trí của một người sắp chết, tôi
ngủ ngon như một đứa trẻ. Sự căng thẳng mệt mỏi bắt đầu tan biến. Tôi ăn ngon
miệng và lại tăng cân.
Vài tuần sau, tôi đã có thể dụng nạng để đi lại. Đến tuần thứ sáu,
tôi trở lại làm việc. Tôi từng kiếm được 20.000 đô-la mỗi năm; nhưng giờ đây
tôi hài lòng với công việc 30 đô-la một tuần. Tôi đã học được một bài học. Tôi
không còn lo lắng – không còn hối tiếc về những gì đã xảy ra – không còn e sợ
tương lai nữa. Tôi dồn toàn bộ thời gian, sức lực và nhiệt huyết vào công việc
hiện tại”.
Công việc
làm ăn của Edward S. Evans hiện rất phát đạt. Chỉ trong vài năm, ông đã trở
thành Chủ tịch của công ty Evans Products, có mặt trên Sở giao dịch chứng khoán
New York từ nhiều năm nay. Nếu bạn hay đến Greenland, có thể bạn sẽ hạ cánh ở
Evans Field – một đường bay được đặt theo tên của ông. Tuy nhiên, có thể Edward
S. Evans sẽ không bao giờ đạt được những thành công như thế nếu ông không học
được cách “sống trong những ngăn kín của thời gian”.
Dante(5) nói: “Hãy biết rằng ngày hôm nay sẽ
không bao giờ trở lại”. Thời gian đang trôi đi với một tốc độ chóng mặt.
Ngày hôm nay chính là tài sản quý giá nhất của chúng ta. Nó là tài
sản duy nhất chúng ta chắc chắn có.
Trên bàn
làm việc của nhà văn John Ruskin có một hòn đá đơn sơ, trên đó nổi bậc một từ
rõ nét: Ngày hôm nay. Tuy
không có hòn đá như thế nhưng tôi đã dán một bài thơ lên tấm gương soi để mình
có thể nhìn vào mỗi sáng. Đó là bài thơ của Kalidasa, nhà soạn kịch nổi tiếng
người Ấn Độ.
LỜI CHÀO NGÀY MỚI
Hãy sống trọn vẹn ngày hôm nay!
Vì đó chính là cuộc sống, cuộc sống thực sự
Một ngày – Ôi thời gian ngắn ngủi!
Chứa trọn mọi điều sự thật đời ta:
Niềm vui trưởng thành
Sự hãnh diện khi hành động
Nét rực rỡ của dung nhan.
Quá khứ chỉ là một giấc mơ
Và tương lai là một viễn ảnh.
Sống hết mình trong hiện tại là làm đẹp mỗi ngày qua
Và biến mỗi ngày mai thành ngày chứa chan hy vọng …
Vì thế,
để thoát khỏi những lo lắng, phiền muộn, điều đầu tiên bạn cần phải làm là:
“Hãy đóng
chặt những cánh cửa nặng nề dẫn đến quá khứ và tương lai. Hãy sống với ngày hôm
nay, tận dụng tối đa 24 giờ quý giá của một ngày.”
Sao bạn không tự hỏi bản thân mình và đi tìm câu trả lời cho những
câu hỏi sau:
1/ Liệu
tôi có đang lảng tránh cuộc sống hiện tại vì cứ mãi lo nghĩ cho tương lai hay
mơ tưởng đến “một vườn hồng huyền ảo ở tít tận chân trời”.
2/ Liệu
tôi có làm u ám ngày hôm nay của mình bằng những hối tiếc về những điều đã qua?
3/ Liệu
mỗi sáng thức dậy, tôi có quyết tâm “sống trọn ngày hôm nay” để sử dụng triệt
để 24 giờ mà cuộc sống đem đến cho tôi?
4/ Liệu
tôi có thể sống tốt hơn khi chọn cách “sống trong ngăn kín của hiện tai” này
không?
Khi nào
tôi nên bắt đầu? Tuần sau?.... Ngày mai?.... Hay Hôm nay?
DALE CARNEGIE
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét