Xưa nay thường nói đến triết
học văn chương hơn là triết học dành cho các bộ môn khác. Một thứ truyền thống
trong ngữ ngôn nhất là những gì thuộc về triết học. Với trường phái hội họa có
những hình dạng khác nhau mà mỗi thứ có một triết lý riêng của nó. Để đào sâu
vào tư duy này; thử tìm xem trong triết học nghệ thuật chất chứa những gì để mở
đầu cho việc giới thiệu triết học nghệ thuật -Introduction the Philosophy of
Art. Rứa thì cái nghĩa của nghệ thuật bao hàm cái chất chi trong đó? -Là một
bày tỏ hợp lý cho chủ đề được nêu ra mà chủ đề đó có một thứ triết học nghệ thuật
hoặc nói lên một cái gì chính xác, phản ảnh đúng tư duy, đúng linh hồn và đúng
khả năng trình độ; tất thảy lộ ra hình ảnh, màu sắc và chất liệu ở tự nó. Người
ta thường ví trong thơ có họa hay ngược lại thời trong họa có hồn. Nói rộng ra
văn tức là người thì họa là khí tính, là thể chất. Chúng ta thấy được tức trong
đó có triết lý của nó; một thứ triết lý xác thực và một thứ triết lý mơ hồ. Vì
vậy; có danh xưng mỹ thuật (Fine Arts) là thứ triết học mỹ thuật (Philosophy of
Fine Arts). Đây là lối diễn tả mà chúng ta muốn trừ ra cái đẹp tự nhiên. Trong
đời sống bình thường chúng ta có thói quen hay nói đến cái đẹp của màu sắc, cái
đẹp bầu trời, cái đẹp con sông, cái đẹp của hoa, cái đẹp động vật và cái đẹp của
con người. Nhưng hoàn toàn là cách riêng từ vấn đề nêu ra; điều mà chúng ta
không muốn nói tới ở đây thời làm răng mà biết tới cái đẹp có thể là một xác nhận
thực sự của chủ đề hoặc làm răng cái đẹp tự nhiên có thể đặt vào đó để đứng bên
nhau với tính cách đẹp nghệ thuật -How far beauty may be predicated of such
objects, or how far natural beauty may be placed side by side with artistic
beauty. Chúng ta phải bắt đầu duy trì những gì thuộc đẹp nghệ thuật là đưa tới
cái đẹp tự nhiên. Răng lại gọi là đẹp nghệ thuật và đẹp tự nhiên? Vì; cái đẹp của
nghệ thuật là cái đẹp bẩm sinh -và sinh ra một lần nữa của tinh thần -For the
beauty of art is beauty born -and born again of the spirit. Và; chính nhờ tinh
thần đó và cũng nhờ vào sự xuất thần mà đứng ở vị trí cao của nghệ thuật hơn là
những gì tự nhiên và nó trở nên hiện tượng phi thường (phenomenal). Rứa cho nên
chi cái đẹp đã ngự trị trong nghệ thuật là đỉnh cao của cái đẹp tự nhiên.
Xét ra; cái đẹp tinh thần và
cái đẹp có tính cách nghệ thuật đứng cao hơn cái đẹp tự nhiên, nhưng; chỉ là điểm
nhỏ thôi. Răng lạ rứa? Vì; cho rằng 'đỉnh cao/higher' là một bày tỏ rất chi là
mập mờ, không xác định cụ thể mà là một tình trạng khác biệt giữa định mức và
ngoại lệ. Nói là 'đỉnh cao' là âm sắc của tinh thần và cái đẹp thuộc nghệ thuật;
điều này không cho đó là chuyện giản đon trong vị trí tương quan với tự nhiên.
Rứa thì răng đây? -Tinh thần chỉ là thực chất hiện hữu và một điều hợp trong thế
giới hội họa. Bất cứ cái chi khi nói tới cái đẹp thời cái đẹp là tuyệt vời; đó
là bản chất cố hữu. Nhớ cho cái này: đỉnh cao của cái đẹp là đẹp nghệ thuật, chớ
không phải cái đẹp phường chèo. Trong cảm thức tự nhiên, cái đẹp xuất hiện những
khi phản ảnh của cái đẹp, cái đó tùy thuộc vào tinh thần; nó không chắc hẳn trọn
vẹn và hoàn chỉnh để biểu lộ cái bản chất thuộc về tinh thần -In this sense
natural beauty appears only as a reflection of the beauty that belong to
spirit; it is an imperfect and incomplete expression of the spiritual
substance. Cái đẹp tồn lưu, tồn lại, tồn luân là thuộc tinh thần thời gọi là
cái đẹp của nghệ thuật còn cho đẹp là đẹp tự nhiên của hiện hữu thời không thể
nói đó là đẹp nghệ thuật. Còn xác định đẹp một cách vô tư hoặc đẹp ở cái lý
ngoài nghệ thuật thì cái đẹp của tồn loạt, tồn lùi, tồn tơ lờ mơ chẳng ăn nhập
vào định nghĩa triết lý nghệ thuật. Rứa thì làm răng để tìm thấy triết lý nghệ
thuật? Triết lý nghệ thuật là một thứ nghê thuật bao hàm triết lý. Vòng vo tam
quốc trong cái nghệ thuật và triết lý thời không thấy được lý giải rõ rệt của
nghĩa lý. Rứa làm răng đây! Thí dụ: trường hợp của Bill Traylor (1854-1947)
không hẳn là một họa sĩ thực thụ nhưng được gọi là hoạ sĩ thời thượng; vì nó có
cái chất riêng 'tự nhiên' của nó. Một biểu lộ tự biện (articulated) qua hình
bóng trong bức 'Say uốn người / Arched Drinker'một thể hiện bằng một triết lý
nghệ thuật hiện thân trong phong cách thi ca với trí tưởng và cái vô-tự-thức
(unselfconscious) là kỹ thuật tự dạy mình thành người nghệ sĩ; một diễn tả sống
động và nói lên lời ngụy biện ngây ngô có tính triết lý của người nghệ sĩ.
(Traylor tự học vẽ trong vòng ba năm ở tuổi 85.Vẽ nhiều tranh bià giấy
(cardboard) và từ đó trèo lên đỉnh cao nghệ thuật; chuyên vẽ một màu nước hoặc
than chì. Ông làm nghề giữ xe. Sanh và chết ở Benton, Alabama. Mỹ). Rứa thì nghệ
thuật ở đâu? Và; triết lý ở đâu? Ở nơi con người Traylor; là một triết lý biện
chứng cho nghệ thuật.
Chúng ta tự hạn chế cái đẹp
thuộc nghệ thuật, trước hết chúng ta phải biết suy xét để tìm thấy những gì khó
khăn trong đó. Đầu tiên là đưa ra vấn đề có hay không có nghệ thuật cái đó là
nói lên giá trị việc xử lý cho triết học. Chắc chắn một điều; nghệ thuật và đẹp
lan tỏa khắp nơi, giống như chào đón thiết tha, tất cả là mạch sống của cuộc đời,
một điều gì hào hứng, cô đọng bên trong và bên ngoài đều được dùng tới như hấp
lực thu hút và đè nặng vào một tồn lại hiện hữu (actual existence); nơi đây có
thể thực hiện mà không còn nghi vấn, quét cái xấu xa, tội ác đi chỗ khác bởi
tích lũy thứ đó là một cơ hội chiếm cứ. Dẫu rằng nghệ thuật thắng cuộc ở khắp
nơi với thể thức tự nó làm nên tác phẩm và tỏ ra vừa ý từ những gì chưa gọt
giũa của những gì mới bắt đầu khởi sự. Nghệ thuật tự nó tỏ rõ những gì xẩy ra
là cứu cánh sự thật cuộc đời -Art itself appears to fall outside the real aims
of life. Và; cho dù có sáng tạo những gì thuộc nghệ thuật thời không thể nói rằng
vì bất lợi một cách nghiêm trọng do từ cuộc đời sinh ra mà phát tiết nghệ thuật
bị ngưng đọng. Rứa thì sự cớ đó mà không sáng tác cho nghệ thuật? Nghệ thuật
tùy thuộc vào hứng khởi, một phần tinh thần thể xác thư giãn và tâm trí thỏa
mái là động lực đưa tới sáng tạo nhưng cần có thực chất mới đáng kể của cuộc đời;
đấy là tác động nghệ thuật. Mục đích nghiêm trọng là nhập vào với nghệ thuật. một
thứ nghệ thuật như thử là người đứng ra trung gian hòa giải cho một thỏa mãn
thích thú tức là 'sướng / sensuousness' trước tác phẩm của mình làm nên, giữa
chiều hướng và nhiệm vụ như thử là người điều hợp của tất cả yếu tố cơ bản.
Nhưng; điều cần phải nói rằng: làm nghệ thuật là phục vụ hai vấn đề, nó không
phải là cách trình diễn hay đã làm nên mà là có nhiều cái đáng giá trong cách xử
thế thuộc triết học. Thay vì không diễn tả mà đứng đơ, đông cứng trước tác phẩm
(nghĩa là tác phẩm nó trở nên vô duyên lạ thường). Rứa thì làm răng cho tác phẩm
sống? Phải ý thức cái việc này: nghệ thuật có tính cách hạ mình trong cái dự
mưu đoái hoài (ước) tới mục đích cao hơn, mặc khác; không phải thế và đưa tới
chuyện tào lao, nhãm nhí vu vơ vào khiá cạnh khác -Art is degraded into a means
of appealing to higher aims, on the one hand; and to frivolity and idleness on
the other. Tác phẩm sống là do cấu tạo sự vật qua một phản ảnh trung thực bao gồm
màu sắc và chất liệu, một đôi khi cái đột hứng xuất thần lại làm nên ngược lại
dàn dựng, có chủ đề mà vẫn không thành hình đi tới 'phá sản' nghệ thuật và mất
luôn tính triết lý (lý luận) giữa vật thể và người nghệ sĩ. Nghệ thuật hội họa
có những cái bất thường và khác lạ với đời mà ẩn vào đó một hiện thể siêu hình
hay trừu tượng; một đường quẹt trên bố (unprime) cũng có thể mang tính nghệ thuật
triết học… Nghệ thuật là bao hàm cả chiều dài và chiều sâu là đối tượng làm nên
tác phẩm. Trong cái vô duyên có cái hữu duyên của nó. Thí dụ: trường hợp của
Tàpies Antoni (1932-2012) giới thiệu nghệ thuật với một vật lý tự nhiên
(physical), một tâm lý tự nhiên (psychology) và một trạng thái thần trí
(mentality) tự nhiên, đồng thời chuyên chở cái đẹp tự nhiên xuyên qua từng chất
liệu sống thực như một hủy thể (destruction) đưa chúng ta về trong một lý luận
nghệ thuật triết học; trong đó xử dụng chất liệu thiên nhiên hòa hợp khí tính
con người. Tàpies thực hiện nhiều tác phẩm, phản ảnh tâm lý tuyệt đối theo dạng
thức thuộc phân tâm sinh lý (psycho-analytical) như họa phẩm 'Bùn Xám / Grey
Ochre' cho chúng ta một cảm thức về thời gian trôi qua (elapsed time) dưới
phong cảnh trừu tượng. Người nghệ sĩ đã đắm say trước sự vật là một duy lý xây
dựng cho một thể tài nặng chất triết học. Cho nên chi nhìn tranh nghệ thuật là
một suy tư có lý lẽ mới thấy được giá trị của cái đẹp. Một cái đẹp hàm chứa và ẩn
tàng một chiều sâu vô tận. Còn hỏi nghệ thuật triết học là gì? Thì ra đó là câu
hỏi lập lại (cho chắc ăn). Nghe qua câu hỏi không có chi là hóc búa nhưng mà
hóc búa. Rứa thì lấy gì để chứng ngộ khi đứng trước đối tượng triết học và nghệ
thuật? Lắc léo; bởi nó nằm trong hình thể của tâm thần (mental) của trạng huống
siêu hình trừu tượng, mà phải có một trí tuệ thông suốt thời lãnh hội kịp thời,
cái thứ nghệ thuật tức khắc (immediacy) và đột khởi (spontaneous) là bản chất tự
động của người nghệ sĩ. Chơ-bi-chừ đả thông tư tưởng; thiết nghĩ chúng ta xử sự
theo cung cách công án Thi?n thì may ra thức tỉnh trước vấn đề. Bằng không cứ
cho đó là họa phẩm nghệ thuật gây ra do tự thức hay nhãn lực thu nhận được.
Nhưng hiểu cho; ở đây chúng ta xây dựng cái lý của nghệ thuật để thấy cái hồn của
nghệ thuật chứa cái gì hơn là nhìn nghệ thuật dưới mắt thông thường; nghĩa là
có cái phẩm-tích (personal dignity) của người làm nghệ thuật với chất 'họa tức
là người' nằm trong đó; dù dưới dạng thức nào. Qua hai thí dụ trên cho ta thấy
được nhân tính của người nghệ sĩ: một người vẽ lên một bài thơ tình trong đó và
một người dựng lên tâm lý của con người. Ngần ấy cũng đủ lý giải vấn đề của triết
lý nghệ thuật. Đấy là điều kiện cách nhận thức cho nghệ thuật.
Rứa là điều đã tỏ rõ nếu như
nghệ thuật không xứng được xét là triết học, bởi; cái sự cớ cần phải hài hòa
vào cái thú 'tiêu khiển một vài chung lếu láo' chớ không còn cách gì hơn -It
may thus appear as if art were not worthy of philosophic consideration,
because; it is supposed to be merely a pleasing pastime. Nói như rứa có đi xa vấn
đề triết học c?a nghệ thuật không? Hỏi rứa là đứng ngoài vòng cương tỏa nghệ
thuật; mà đòi hỏi nhận thức giá trị của nó mới là đích thực sự kiện. Nghệ thuật
nói chung vô hình vạn trạng nhưng làm nên mới đáng kể nghệ thuật có thực. Cho
nên chi nghệ thuật là thực chứng, không thể vòng vo tam quốc, tồn lờ mờ mà cho
đó là nghệ thuật được. Nghệ thuật là cả một công trình sáng tạo.
Mỗi khi thẩm định về nghệ
thuật là có ý nghĩ những gì thuộc triết học. Quả vậy; sự thật nghệ thuật có thể
coi như là thú tiêu khiển bất chợt (ngắm chơi cho vui), một thứ trình bày vui mắt
và thỏa thê trước phòng tranh, bày biện xung quanh những thứ vay mượn cho thêm
phần hào hứng; cái đó là điều kiện cho cái vỏ bề ngoài của cuộc đời và tạo sự nổi
bật nhờ vào chỗ trình thiết. Sự thật để che đi cái không thấy bên trong của tác
phẩm. Vậy thì nghệ thuật đã xử dụng cái điều không độc lập hoặc tự do, nhưng
trong đó có một chút gì lụy vào nghệ thuật -Art thus employed is indeed not an
independent or free, but rather a subservient art. Rứa cho nên nghệ thuật là phục
vụ có mục đích, là phương tiện để đạt tới cứu cánh của triết học, là một mối
quan hệ giữa người và nghệ thuật; cái đó rất chi là thông thường với tư tưởng
-is a relation which it has in common with thought. Nghệ thuật không còn là thực
chất nghệ thuật. Răng rứa? bởi; nghệ thuật tới khi thực sự giải thoát được tức
'ngộ' ở tự nó thì đó là thứ nghệ thuật đích thực. Mỹ thuật (Fine Art) thường là
cái chốt cấu tạo (thành phẩm) với bất cứ sắc thái nào nó vẫn là then chốt (key)
như một lãnh hội giữa trí tuệ và tôn giáo. Vai trò của nghệ thuật có một cái gì
chung chung, phản phất chất tôn giáo, nhất là phái Thiền và có cái gì chung
chung của khoa triết học. Độc hữu là đặc điểm của nghệ thuật, thế nhưng; cốt tủy
là tạo được thể thức, chất liệu cho có 'dáng sư?ng / sensuous form' ngay cả những
gì là đỉnh cao, tất thảy đều mang lại gần gũi cái chức năng của hiện tượng tự
nhiên. Vừa cảm thức, vừa cảm nhận . Nó là đỉnh cao cực sướng trong thế giới nghệ
thuật; cái đó là tư tưởng đạt tới -It is the height of a supra-sensuous world
into which thought reaches. Nói như rứa xin đừng ngộ nhận giữa 'sướng' của xác
thịt mà 'sướng' của cảm xúc giác quan trong nghệ thuật. Nhưng; điều này hiện ra
trong cái ý thức tức thời (immediate consciousness) và giới thiệu cái kinh nghiệm
như kẻ xa lạ ở cõi ngoài (an alien beyond). Thế giới trong suốt của tư duy là
giữa tự nhiên và sự hiểu biết và một thứ tự do vô cùng là lý do cho triết thuyết.
Cho nên chi sự xuất hiện trong những gì của nghệ thuật là chọn một cách cụ thể
về ý tưởng của nó, tiếp nhận trọn vẹn ý nghĩa, ý nghĩa đó là so sánh giữa thực
và giả của hiện tượng và hiện thể; tất cả cô đọng trong một cảm thức và cảm thấy.
Đây là hai thế giới cách biệt giữa cuộc đời đang sống. Nhiều khi nhìn nghệ thuật
như một đối kháng hay phản đ? khó mà hòa hợp cho một định nghĩa về nó. Triết học
đứng ra làm trung gian để nghệ thuật có lối thoát mà đó chỉ là giả thuyết nếu
thiếu đi sự biện hộ của sự thật. Đây là hình thức đả thông tư tưởng của triết học
với nghệ thuật: đả thông giữa tha nhân và tha thể một hòa điệu vừa ý và lý tưởng
của nghệ thuật (The Content and Ideal of Art).
- Hài lòng và Lý tưởng của
Nghệ thuật: Hài lòng của nghệ thuật là thuộc về tinh thần, và; đó là thể thức của
nghệ thuật cho là 'sướng/sensuous' (khi nhìn tác phẩm thành hình). Cả hai bề mặt
nghệ thuật phải biết điều hợp và tỏ ra tương thích trong một liên hợp thì tác
phẩm sống đời. Yêu cầu thứ nhất là có vừa ý hay không cái đã. Mà tất cả những
gì nghệ thuật là đại diện cái hồn bên trong, phải biết đánh giá được tính chất
của nó; là đại diện cho những gì là nghệ thuật còn bằng không thì chỉ nắm lấy
cái không đẹp cho cả bố cục tổng hợp và vấn đề không hay ho mà trở nên vô duyên
qua thể thức tự nó mà ra, một thể thức hoàn toàn đối kháng cho một bản tính cố
hữu tự nhiên của nó. Yêu cầu thứ hai là có đòi hỏi để được hài lòng của nghệ
thuật là những gì không đụng tới sự trừu tượng. Bởi; đây là ý nghĩa được bày tỏ
một cách vững chải trong những đường nét nổi bật khác nhau trong mọi cách thuộc
tinh thần và trí năng, vì; mọi thứ đều là nguồn cơn phơi mở sự thực, trong cái
thực của tư duy; đó là lãnh điạ tự nhiên trong nghệ thuật và một phần thuộc chủ
thể vai trò. Do đó tác phẩm của nghệ thuật là không đắm chìm trong vô thức, nhưng
đó là cơ bản chủ yếu cho vấn đề, một cái gì ngay thẳng phát ra từ tâm hồn nghệ
thuật, một bày tỏ bên trong tâm hồn và trí tuệ. Nhưng đặc trách của nghệ thuật
là thay mặt lý tưởng thuộc tinh thần chiếu thẳng vào sự thưởng ngoạn trong thể
thức khoái cảm mà không phải trong thể thức của tư duy hoặc trong tính chất
trong sạch tinh thần. Giá trị và phẩm tích của sự miêu tả biểu trưng
(representation) trong một sự hòa hợp và liên kết cả hai bề mặt; một của hài
lòng tinh thần và một hiện thân của khoái cảm. Tuy nhiên; qua viễn cảnh đó có
thể làm bối rối cho lý tưởng nghệ thuật với điều không sáng tỏ cho lắm. Thật ra
cái đẹp lý tưởng nằm trong lý tưởng của cảm thức mà ra.
Đây là một phát huy đầy năng
động trong nghệ thuật mang tính chất triết học bao hàm, nghệ thuật cũng là một
trong những gì thuộc hệ thống triết học (phân tích, lý giải (có thể) tìm ra một
nguyên lý cho nghệ thuật ngang hàng những bộ môn khác), một phát triển tinh thần
của nghệ thuật cho cả hai bề mặt (tinh thần và vật chất (chất liệu). Phát triển
và mở mang: có một chỗ đứng riêng biệt, có phẩm tích, một cái nhìn xuyên suốt
và đó là những gì đưa tới xác quyết cho việc nhận thức trước vấn đề; nhứt là vấn
đề nghệ thuật và triết học: uyên nguyên của vũ trụ quan, phép tự nhiên, con người
và tôn giáo. Thứ đến là tìm thấy sự đại diện của nghệ thuật; một khai triển, mở
mang tầm nhìn vào vũ trụ nghệ thuật tất cả là cần thiết để phân biệt nét độc
đáo trong lãnh vực hoạt động nghệ thuật (the sphere of art). Đấy là một cấu tạo
đặc biệt nghệ thuật. Giờ đây chúng ta chỉ quan tâm tới những thứ chủ yếu để xây
dựng tác phẩm; xác nhận sự hổ tương, những ý nghĩ về tinh thần để đi tới một
bày tỏ cho cảm hứng sung sướng của nghệ thuật. Một thứ nghệ thuật bao gồm nhiều
bộ môn có trước và sau của: Trường phái hội họa tượng trưng (Symbolic Art). Trường
phái hội họa thuộc cổ điển (Classical Art). Trường phai hội họa lãng mạn
(Romantic Art). Kiến trúc (Architecture). Điêu khắc (Sculpture) Hội họa
(Painting). Thi ca (Poetry). Âm nhạc (Music). Là; những cái đẹp nghệ thuật nó qui
tụ trong một tiến trình có tính chất văn học nghệ thuật; xác nhận được qua từng
vị trí, chức năng tất xác định hướng đi của nó mà mỗi lãnh vực phát sinh từ trí
tuệ, không thể cho là ngẫu nhiên, trường hợp phát tiết hay đột khởi xuất xứ từ
tiềm thức ẩn chứa, do đó; tư duy chờ đợi như một bung phá. Nghĩa là trí tuệ làm
trung gian giữa tinh thần và vật chất để có sáng tạo. Trong mỗi trường hợp hay
trong mọi hoàn cảnh đã có một gợi ý sáng tỏ hay mơ hồ do sự điều tiết của trí
năng; một tổng hợp để cấu thành biện chứng triết học. Đấy là đặc thù nghệ thuật
(The Particular Arts).
- Đặc thù nghệ thuật: Là cái
chi rứa? vốn có trong ý nghĩ về cái đẹp là một chuyển đổi làm cho khác biệt
hơn, mà trong nghệ thuật lại chuyển sang hình thức của giác quan thỏa mãn -But;
now, there inhere in the idea of beauty diffirent modification which art
translates into sensuous forms. Và; từ đó chúng ta tìm thấy cơ bản chính yếu bởi
những gì có một cá tính riêng tư của nghệ thuật; có thể đây là một sự sắp xếp,
chuẩn bị trước sự kiện và nói rõ mục đích vạch ra cho một giới hạn cá biệt. Đó
là; nói lên cái đặc trưng của nghệ thuật chứa đựng những gì chính tự nó tợ như
một sự khác biệt cần thiết mà chúng ta phải tìm thấy ở những yếu tố cấu tạo
trong thể cách của nghệ thuật. Thêm vào đó; nói chung qua các thể loại khác
nhau trong nghệ thuật là một tương ngộ trùng phùng cùng một thể loại chung
chung của nghệ thuật. Rứa thì cái gì gọi là cá tính nghệ thuật (the particular
arts)? -nó thuộc vào mỗi thể loại, một cách riêng (specifically) để chỉ có một
(one) trong những thứ nghệ thuật chung của nghệ thuật - It is these particular
arts which give adequate and artistic external being to the general types. Cái
cớ sự này là nói đến đặc thù, cá tính của nghệ thuật là cả một thỏa mãn trọn vẹn
và những gì thuộc nghệ thuật, một đặc điểm trên mọi thể loại chung. Vì vậy đặc
thù nghệ thuật tạo được cái riêng chưa ai có trong mọi thể cách hòa lẫn vào đó
một tinh thần trong sáng qua một trí tuệ bừng dậy bằng chất liệu làm nên cá
tính của mình mà trong đó sáng tạo là chủ động không dính vào cái thể chung
chung của nghệ thuật.
Nói rút lại; đó là những gì
cơ cấu là một trong những bộ phận, một qui tụ toàn bộ thể chất và tinh thần hòa
hợp trong một tiết điệu siêu lý của triết học, thứ triết học của nghệ thuật là chìm
đắm trong trí năng, một tiềm năng khơi dậy và bộc phát. Nghệ thuật đòi hỏi những
yếu tố đó; nó không phải nói riêng cho đặc thù nghệ thuật mà nói chung. Nhưng
trong cái chung vẫn hàm chứa; nghĩa là người nghệ sĩ không tìm thấy (thức tỉnh)
mà mình tìm thấy. Cho nên chi đột hứng thường xảy ra trong nghệ thuật, kể cả những
đối tượng khác như điêu khác, hội họa, thi ca, âm nhạc. Đỉnh cao chính yếu có từ
những gì ở nguồn gốc, có từ phát sinh là những gì chúng ta tìm thấy trong nghệ
thuật: tượng trưng, cổ điển, lãng mạn mà những thứ đó được phổ biến và áp dụng
qua từng thời kỳ hay qua từng trường phái. Tuy nhiên; những dữ kiện như thế là
thích nghi và tập tục đối với tất cả những gì đả động tới cái đẹp để dựng nên một
ngữ ngôn của 'fine arts'. Răng lại lọt cái 'mỹ thuật' vô đây? bởi; nó có cái yếu
tính đặc trưng là có từ trí óc nghĩ tới thẩm mỹ. Trí tưởng (imagination) là cần
thiết để phát sinh ra nghệ thuật, dù cho; thể loại nào đi nữa nó cũng đi theo
chiều hướng đó.
Còn nghệ thuật đạt tới đích thực thì gọi nó là thứ nghệ thuật hàm chứa. Hàm chứa cái chi? là chất triết của nghệ thuật. Đặc thù nghệ thuật là thực hiện được cái độc đáo riêng biệt trong nghệ thuật, tạo được một thứ 'ngữ ngôn' nghệ thuật tùy thuộc vào thẩm tích cho một ý niệm về triết học, đơn thuần là tự bộc phát (self-unfolding) của cái đẹp lý tưởng. Ngoài những gì nhận thức về lý tưởng trổi lên đều phủ một thứ nghệ thuật thần thánh (Pantheon of art) có màu sắc tôn giáo; dù ít nhiều đôi lần ứ đọng qua tư duy lý tưởng về cái đẹp thiên nhiên đượm chất giáo điều ở những thời kỳ Phục Hưng hay ở Đông Á thời kỳ đầu Phật giáo hình thành; đó là thời kỳ con người muốn đánh bạt ra khỏi những lý tưởng thực để hài lòng và hòa điệu với nghệ thuật…
Còn nghệ thuật đạt tới đích thực thì gọi nó là thứ nghệ thuật hàm chứa. Hàm chứa cái chi? là chất triết của nghệ thuật. Đặc thù nghệ thuật là thực hiện được cái độc đáo riêng biệt trong nghệ thuật, tạo được một thứ 'ngữ ngôn' nghệ thuật tùy thuộc vào thẩm tích cho một ý niệm về triết học, đơn thuần là tự bộc phát (self-unfolding) của cái đẹp lý tưởng. Ngoài những gì nhận thức về lý tưởng trổi lên đều phủ một thứ nghệ thuật thần thánh (Pantheon of art) có màu sắc tôn giáo; dù ít nhiều đôi lần ứ đọng qua tư duy lý tưởng về cái đẹp thiên nhiên đượm chất giáo điều ở những thời kỳ Phục Hưng hay ở Đông Á thời kỳ đầu Phật giáo hình thành; đó là thời kỳ con người muốn đánh bạt ra khỏi những lý tưởng thực để hài lòng và hòa điệu với nghệ thuật…
Phát tiết nghệ thuật sáng tạo
đòi hỏi một nhận thức sâu rộng, một lãnh hội đầy đủ hiện ra từ trí tuệ. Một
trí tuệ của nghệ thuật là trí tuệ có trình độ và đi theo với thời gian, trong
đó con người nghệ sĩ đã tiếp thu những gì qua kinh nghiệm sống. Đây là lý luận
đơn thuần giữa triết học nghệ thuật với người làm nghệ thuật để tìm thấy chân
lý nghệ thuật (có giá hay không) chớ không vơ đũa cả nắm. Vì trong nghệ thuật
nó cũng có tầng lớp (level) và loại (sort). Đạt tới đỉnh cao nghệ thuật là suy
ngẫm và nhận thức mới thành hình cho một triết học của nghệ thuật; trong đó chứa
đựng những yếu tố cần thiết để làm nên.
(Tập hợp, rút tiả từ những tiểu luận đã thực hiện của võcôngliêm)
TRANH VẼ: "Tái Sinh/ Recycling" Khổ 12" X 16" Trên giấy cứng.
Acrylics +Acrylic-ink+Mixed vcl # 822016.
Tranh vẽ: võcôngliêm
Tranh vẽ: võcôngliêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét