Thứ Năm, 5 tháng 2, 2015

Nhân đọc tập thơ Chút Hương Cố Xứ của Bùi Văn Cang

Nhân đọc tập thơ Chút Hương Cố Xứ của Bùi Văn Cang
Hạnh phúc có vẻ như là người khách lạ của thơ? Các tác phẩm kinh điển của Việt Nam như Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đều lấy khổ đau làm chất liệu chính cho tác phẩm. Xưa nay các nhà thơ càng gặp nhiều đen đủi trong cuộc tồn sinh thì những câu thơ càng rực sáng. Có phải nhà thơ cần phải lâm vào cảnh cùng khốn thì tinh hoa mới phát tiết ra ngoài?  “Thi cùng nhi hựu công” (Âu Dương Tu đời Tống Trung Quốc). Liệu có mối tương quan nào giữa những bất hạnh trong đời và niềm hạnh phúc trong thơ? Các tuyệt tác Đường thi dường như chưng cất từ những đọa đày của chính nhà thơ hay những âm vọng lầm than của thời đại. Hàn Mặc Tử và Bích Khê là hai nhà thơ đã “chắt lọc” từ những khổ đau bệnh tật thành những ly rượu thơ trong vắt hạnh phúc. Muriel Rukeyser cho rằng không thể có sự tách biệt giữa thơ và những trải nghiệm cuộc sống. Hít vào là trải nghiệm, thở ra là thơ (Breath – in experience, breath – out poetry). Nhà thơ “hít vào” những khổ đau và khi thở ra những bài thơ đã trở thành hạnh phúc. (Pain is filtered in a poem so that it becomes finally, in the end, pleasure – Mark Strand). Tin vào thơ như một liệu pháp, Giả Đảo từng nói một ngày không làm thơ, suối lòng như giếng hoang (Nhất nhật bất tác thi, tâm nguyên như phế tĩnh). Thoát thai từ khổ đau nhưng thơ là cánh buồm dong về chân trời hạnh phúc. Làm thơ là cách để được sống trọn vẹn hơn (I write poetry in order to live more fully – Judith Rodriguez). Thơ là tấm gương soi làm tươi đẹp những gì đã bị cuộc đời làm xiêu lệch (Poetry is a mirror which makes beautiful that which is distorted – Percy Bysshe Shelly).
Và cũng thế, đối với Cang, thơ là niềm hạnh phúc.
“Trong hồn tôi – Rờ rỡ một đóa trăng – Càng ngời thêm hạnh phúc”.
Hầu hết những bài thơ trong tập “ Chút hương cố xứ ” đều nhắc đến ánh trăng. Với Cang, có thể trăng là thơ và thơ là trăng. Trăng là hiện thân của thơ. Thơ là tính thể của ngôn từ (The crown of literature is poetry – Somerset Maugham), và có lẽ cũng chính là tính thể của hiện thể (It is the sublimest activity of the human mind - Somerset Maugham).
Nếu ví những khổ đau liên tục đến với số phận con người như thể đêm dài, trăng là người bạn đáng tin cậy để chia sẻ những gì chỉ có thể chia sẻ lặng thầm như niềm cô liêu ngất tạnh của Lý Bạch trong bài Nguyệt hạ độc chước: Cử bôi yêu minh nguyệt, đối ảnh thành tam nhân (Nâng chén mời trăng nhé, thêm bóng nữa là ba).
“Với trăng tôi thức trắng…đêm dài”
“Cõi nào đã hiện ra thơ
Dắt ta trôi giữa đôi bờ tử sinh”
Nhiều nhà thơ đã viết về trăng, nhưng chưa một ai nghĩ đến sự gắn kết “tiền định” giữa nhà thơ và ánh trăng:
“ Hỡi ơi một bóng trăng tiền kiếp
Đã rợn bao lần sắc bể dâu”
Hình ảnh cô đơn của bóng trăng xê dịch trong đêm khuya giữa vòm trời bao la như một kẻ bộ hành đơn độc trong cuộc sống khiến ta không thể không nghĩ đến có sự đồng cảm của Bùi Văn Cang và nhà thơ đời Đường, Tư Không Thự:
“Hiểu nguyệt quá tàn lũy, phồn tinh túc cố quan” (Trăng sớm qua lũy vắng, bầy sao ngụ ải xưa)
“Tôi có được soi từ kiếp trước
Bởi em, vầng nguyệt ẩn phiêu linh”
Cang có một tình yêu nhẫn nại với trăng. Thật ra yêu chính là nhẫn nại, là sự chờ đợi trong thao thức:
“Bao đêm thao thức lòng mê mải
Ngóng đợi vầng trăng biếc hiện về”
Khi viết về quê hương, nhà thơ Đoàn Vị Thượng từng ví “Một mảnh trăng vàng như mảnh chai, mảnh chai đâm nhói lòng xa xứ…”. Có lẽ cũng như Cang, nhìn thấy đâu cũng là trăng, hoặc tất cả hiện thể đều biến thành trăng.
“Hoặc thành trăng ôm đáy nước sông dài”
“Chắc từ lúc mắt xanh dần nhuốm tím
Bởi nuối hoài trăng lạc nẻo mù khơi”
Và tình yêu của Cang với trăng giúp anh cảm nhận được sự có mặt của trăng không phải chỉ trong mùa trăng. Người đọc không thể không liên tưởng đến câu nói đầy thi tính của Albert Einstein “Tôi muốn nghĩ rằng vầng trăng vẫn hiện hữu ở đấy ngay cả khi tôi không ngước nhìn lên” (I like to think that the moon is there even if I am not looking at it).
“Như trăng mùa lạnh ngủ vùi
Qua cơn mê vẫn chưa nguôi tội tình”
Một nửa gương mặt cho phép nhà thơ tưởng đến nửa gương mặt kia:
“Vẫn tỏa ánh ngời một nửa trăng
Còn nửa trăng kia mây tóc phủ”
Yêu trăng không phải chỉ trong những đêm rằm:
“Lồng lộng trời xanh chim én lượn
 Mênh mang sóng biếc nguyệt rằm trôi”
Cang nhói lòng khi nghĩ đến những vầng trăng trong nguy nan:
“Như hoa rụng trên sông ngày mưa bão
 Như trăng chìm vào vần vũ mây đen”
Trăng đã là người bạn đồng hành thân thiết của nhà thơ ngay từ thuở thơ ấu:
“Em đó ư! Mùa thu xanh ký ức
Cùng vầng trăng thời bé dại quay về”
Nhà thơ yêu ánh trăng với một tình yêu ngây ngô và bền vững như đá tảng:
“Lòng như bãi đá hoang sơ
 Thấm màu nguyệt úa đến giờ chưa phai”
Có phải trăng chính là biểu tượng của khát vọng về những vẻ đẹp trong đời sống, những vẻ đẹp luôn có số phận mỏng manh, những hiện thể lưu lạc rày đây mai đó.
“Dễ gì ta chết vì trăng
Đầu hôm đang nở cuối chân biển, trời”
Khi bị tan vỡ, ánh trăng lại biến thành muôn ngàn đôi mắt lấp lánh:
“Hồn trăng vỡ buổi triều đầy
Hóa ngàn mắt rọi sâu dày thế gian”
Trong thế giới ngày càng ồn ả, cuồng động này, còn ai cảm thức được niềm cô liêu của lữ khách, vẻ cô tịch của một bến vắng dưới bóng trăng tà trong đêm khuya?
“Lữ khách lòng buồn như bến vắng
Khuya nay nằm mộng dưới trăng tà”
Còn mấy ai giữ được mối tương giao lặng lẽ với thiên nhiên?
“Trăng xuân tàn rụng về đâu nhỉ?
Bỏ lại trần gian những cánh sầu”
Cang lấy bóng trăng làm điểm quy chiếu cho những ước mơ bình thường trong đời:
“Giấc mơ có một mái nhà
Cũng xa vời vợi bóng tà trăng kia”
“Vẫn cháy niềm hoài vọng bóng trăng xưa”
Thơ Cang không phải chỉ đầy nhạc tính, ta có thể tìm thấy những “thi ảnh” tuyệt đẹp mà hội họa không thể vươn đến:
“Sẽ về rực chân mây vàng giấc ngủ”
“Ôi thơ ca một vầng trăng ngời chiếu
Xuống trần gian, sông núi thắm tơ duyên”
“Giấu chi mấy giọt trăng tà
Khi mùa thu đã ngút xa, bên trời”
Tác giả dẫn người đọc đến một thế giới được nhìn qua kính vạn hoa. Mỗi mảnh vỡ phản chiếu toàn thể. Và toàn thể biểu hiện trong một mảnh vỡ.
“Trăng từ độ chết dòng xanh
Tóc tơ dệt mãi chưa thành áo duyên”
“Trăng về xua bóng hoàng hôn
Chim kêu lạc tiếng lên nguồn hỗn mang”
“Trăng vẫn đi, về trên cõi không
Vậy mà chén rượu thấy nồng suông”
Trăng xanh rồi tàn úa như những buồn vui thân phận con người luôn là những ám ảnh không nguôi:
“Dẫu lòng đã rệu qua mưa bão
Và trăng phai úa tự bao giờ”
Ánh trăng trong thơ Cang có thể là tượng trưng, “mưa bão”, “hoàng hôn”, “hoa rụng”, “đêm tối” là hiện thực, nhưng Cang không hề bận tâm đến việc cách tân hay hậu hiện đại. Nói như A. Vonznessenski  về Pasternak “trong những tác phẩm về sau trở về hình thức cổ truyền hơn nhưng ông không mất đi một chút tài năng nào, và chính vì vậy mà cứ mới mãi…”
“Qua xuân trời đất xanh như mộng
Bởi giấu niềm riêng bóng nguyệt tà”
“Bốn mặt vần xoay, năm chuyển tiếp
Riêng xuân ngời sáng mặt trăng tròn”
Thơ Cang phần nào giúp chúng ta tiếp cận với vẻ đẹp mà theo Percy Bysshe Shelly, thơ đã vén lên tấm màn đã che mờ vẻ đẹp, khiến các vật thể bỗng hiện ra rỡ ràng như mới gặp lần đầu chưa hề quen biết (Poetry lifts the veil from the hidden beauty of the world, and makes familiar objects be as if they were not familiar).
Cũng như tất cả những ai còn tin vào sức mạnh chuyển hóa của thơ như Thomas Hardy đã từng cho rằng nếu Galileo phát biểu bằng thơ, chân lý chính trái đất chứ không phải mặt trời chuyển động, thì quan tòa giáo hội đã không cản trở (If Galileo had said in verse that the world moved the inquisition might have let him alone).
 Bùi Văn Cang đã “phát biểu” bằng thơ:
Trăng chợt nở sáng hơn lòng đã tưởng
Nguyễn Huyền Thạch

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cái còn lại hóa cái không

Cái còn lại hóa cái không Nhà thơ Tạ Bá Hương vừa được kết nạp hội viên Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022. Anh tốt nghiệp Khóa 7 Trường Viết v...