Thơ gieo trên cánh đồng hạn hán
Trong tập thơ ” Sự trinh bạch của ngọn nến”
tôi thích nhất 2 câu này:
Tôi gieo chữ trên cánh đồng hạn hán
Con chữ cong khô thành dấu hỏi quay về.
Hai câu thơ mang phận người, cảnh
quê và những đau đáu thường nhật của một tâm hồn nhạy cảm.
Tôi đã từng gắn bó với Quảng Trị quê Luyến, cái vùng quê nói mấy cũng “chưa
bưa” về sự khắc bạc của thiên nhiên, hủy hoại của chiến tranh, đói nghèo của
con người. Thì đây, hồi ức của Luyến còn in đậm:
Tuổi thơ tôi
quấn rơm rạ ruộng đồng
nắng nôi đất ải
chạy giặc càn bàn chân toác móng…
Đấy là vùng quê mà cát và gió là
nỗi ám ảnh của con người, cát và gió là một
phần cuộc sống rất cam go của ai từng sống ở đây:
Sống trên cát, cái nhìn thành ảo giác
gió ngựa lồng dáng bổ về phía trước
mỗi bước chân chưa cộng đã trừ đi.
Những câu thơ vừa trực cảm vừa nhiều suy ngẫm,
tôi nghĩ thế, đủ cho ta một hình dung sắc nét về cuộc sống vùng cát Quảng Trị.
Ai đã từng sống trên cát, sống với cát càng thấy diễn đạt của Luyến thật tài
tình, nhất là ý tưởng gửi gắm trong câu mỗi bước chân chưa cộng đã trừ
đi. Có phải vì tôi là người vùng cát, đã từng viết Cát đi mãi
chẳng thành đường / tôi đi theo lối mẹ thường hát ru nên không thể
không trầm trồ khâm phục và đồng cảm khi đọc những vần thơ như vậy của Luyến.
Cuộc sống thật bấp bênh chìm nổi nghiệt ngã làm sao; dấu chân người vừa mới
hiện ra đã bị gió xóa đi rồi và từ hình tượng cụ thể nhỏ bé đó ta cảm nhận được
cái lớn hơn là những được – mất của từng kiếp sống ở chốn này. Thường thì cái
mất nhiều hơn nên đồng nghĩa với cuộc sống nơi này là sự tần tảo chắt chiu để
tồn tại và vươn lên. Đầy thương cảm khi nghe Luyến tâm sự:
Tôi đốt từng khuya lửa tự tình nhỏ bé
Nhìn cha lui cui thu vén ngày sau
Mẹ ru vỗ cho tròn giấc con trẻ
Như dây trầu vấn vít thân cau.
Chưa hết, cái vùng đất khô hạn trong mùa nắng cũng là miền ngập nước giữa mùa
mưa bão.. Người dân Quảng Trị chịu đựng từ nỗi khổ này sang nỗi khổ khác, triền
miên. Võ Văn Luyến xót xa:
Mênh mông nước ngập gầm trời
Ngọn đèn đỏ mắt cùng người con xa.
Lại còn có một quê hương khắc tạc nhiều dấu vết chiến tranh, những di tích máu
lửa nổi tiếng. Điều ai cũng biết là khi nói đến Quảng Trị người ta phải nhắc
tới Thành Cổ, nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn, nghĩa trang liệt sĩ Đường Chín.
Là người thuộc thế hệ sau, Luyến gửi gắm tri ân vào những câu thơ đầy xúc cảm
và giàu liên tưởng:
Đêm
cất vó câu thề ngực áo, cất nụ hôn ngọn lửa cời trăng, cất chiếc khăn đính vào
kỷ niệm, cất mùi hương tóc xỏa trăm năm.
Đêm muối bể thương dáng còng lưng mẹ, vết sần chai tay cha, dấu tím bầm gánh
gồng vai chị và thương em vụt tắt sao băng.
Ôi những miền đêm lặng yên dưới cỏ, những miền đêm ủ mầm hạt lúa, những miền
đêm ánh thép xanh ngời.
Và những miền đêm chúng tôi mở cửa đón niềm vui,
Các anh đã hóa trời xanh mây trắng, hóa cuộc đời thêu hoa dệt gấm, hóa tình yêu
sớm tối đi về…
Lòng biết ơn với người ngã xuống có lúc được thổ lộ rất giản dị chân thật:
30,
40, 50 năm
Gặp lại các anh ở nghĩa
trang
Thơm thảo nén nhang
nghĩa tình tươi rói
Chút mưa nắng lòng cúi
xin tạ tội
Hương hoa bay nỗi nhớ
vẫn đương rằm…
Ngoài chủ đề quê hương được tô đậm, trong “Sự trinh bạch của ngọn nến” tôi
thấy Luyến hay nói tới sự cô đơn. Cái cô đơn cũng như cái buồn vẫn thường xuất
hiện trong thơ, không có gì mới cả. Nó như một đặc trưng tâm trạng của người
làm thơ vốn đa mang, đa cảm. Nhưng sự cô đơn ở Luyến dường như rất lớn. Luyến
ví von:
Tôi
gánh ngọn núi cô đơn như lạc đà băng qua sa mạc.
Ta chú ý tới phép so sánh trong câu thơ: chủ thể Tôi được so sánh với lạc đà;
nỗi cô đơn được ví như ngọn núi và chính anh phải gánh lấy nó suốt cuộc đời như
một định mệnh. Thân phận lạc đà băng qua sa mạc, có gì hơi quá đáng, nặng nề so
với những gì Luyến đã có đang có nhưng ở đây có thể anh không chỉ nói riêng cho
mình mà nói tới kiếp người chăng? Hay đấy là câu thơ được sinh ta trong một
cảnh huống bi quan “Một năm áp thấp run chân / Tay luống cuống chữ xa dần
câu thơ“. Thơ là đời, thơ là người mà. Cuộc đời, số phận đôi khi bị vận
vào thơ một cách tự nhiên siêu hình như vậy.
Với Luyến anh không muốn giấu sự cô đơn. Trong tập thơ của Luyến có không ít
câu thơ nói về nó.
Khi là:
Con
bướm trắng cuối vườn bay cô độc
Như là tôi lạc phía ca
dao
Khi thì:
Gió
nào đâu có biết
Cô đơn trong từng bước chân “ta đánh bóng đôi giày ẩm mốc / bước những
bước thận trọng / ra khỏi nhà mình”. Cô đơn trước mênh mông trời đất ” Ngước
xanh cao hư ảnh một màu trời / Gió nhện giăng quấn vào tôi tơ rối / Một vì sao
sa lạc giữa chơi vơi“. Cô đơn khi bệnh tật: “Ở gần lại hóa xa quê /
Trong tôi ngày tháng đi về một thân / Tôi thương tôi, sao bần thần / Nhặt từng
viên cuội xây thành tình yêu!”…
Thấm thía nỗi cô đơn đã cho Luyến một thái độ sống nhân bản. Nhân bản của anh
cũng là nhân bản của thơ.. Anh từng thông cảm với những nỗi đau:
Anh
từng bật khóc
và từng nhìn người đời
khóc nhiều về nỗi bất hạnh
nhưng vẫn yêu hơn những
giọt lệ nến
bởi chúng không như
sương khói chóng tàn
chúng biết đóng dấu nỗi
đau lên mặt đất
Đó là tự phán xét, là khát khao hướng tới sự trinh bạch của tâm hồn. Ngọn nến
là hình tượng mang tính ẩn dụ của anh về con người, về thi ca. Cháy hết mình,
không mặc cả thiệt hơn, yêu thương đau đớn thực lòng không hề che dấu, không
biết hóa trang để khi lụi tàn vẫn còn những cái gì đấy, dù nhỏ bé thôi “đóng
dấu” lên mặt đất này.
Cái nhìn của anh với cuộc sống cũng thật bao dung ấm áp. Anh quan sát và nhận
xét: “Mọi thứ trên đời có thể làm ra / và mọi thứ có thể thành rác…”. Ví như:
lời nói có thể thành rác khi không còn ai nghe, son phấn có thể thành rác khi
bị người ta ném ra đường…Nhưng không phải mọi thứ rác đều vô dụng. Luyến diễn
đạt điều ấy giản dị làm sao:
hạnh
phúc thay
một ngày tôi thấy
rác xây thành tổ ấm trên
cây.
Một đặc trưng cơ bản của thơ là dùng cái cụ thể, cái nhỏ bé để nói lên cái trừu
tượng, cái rộng lớn. Trong trường hợp này Võ Văn Luyến đã làm được thế. Điều
minh triết đôi khi lại nằm trong cách diễn đạt bình dị nhất. Từ mùa chim xây tổ
anh nhìn ra bài học cuộc sống, lòng bao dung chẳng bao giờ thừa cả.
Thơ Luyến đôi khi là một câu chuyện nhỏ: “ Dọc đường tôi qua / gặp
những bông hoa cánh rủ / bàn tay nâng niu nhặt lên / sắc hương vẫn còn quyến rũ
/ Bạn tôi trách: Có mà thần kinh đi yêu tàn phai! / Dọc đuờng về / trưa nồng cỏ
bạch / chợt hiện / một tàn phai bóng quen“. Tứ thơ rõ nhưng không lộ.
Trong “Sự trinh bạch của ngọn nến”, Võ Văn Luyến viết nhiều thể thơ nhưng tôi
thấy thế mạnh của anh là thơ tự do. Thơ lục bát của Luyến thiếu độ nhuyển và
thường cũ. Những bài thơ tự do có tứ vững là những bài đọc được của Luyến. Anh
có duyên với những bài thơ ngắn.
Võ Văn Luyến làm thơ đã lâu nhưng đây mới là tập thứ hai của anh sau tập “Trầm
hương của gió”. Tập “Sự trinh bạch của ngọn nến” đã được giải thưởng của Liên
hiệp các hội VHNT Việt Nam năm 2007. Nó ghi dấu sự trưởng thành của một cây bút
thơ Quảng Trị. Luyến làm thơ như người gieo chữ trên cánh đồng hạn hán quê anh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét