Khi
bắt đầu viết quyển sách này, tôi đã tuyên bố sẽ trao một giải thưởng trị giá
200 đô-la cho câu chuyện cảm động nhất và đem lại bài học quý báu nhất về chủ
đề “Cách chế ngự nỗi lo lắng”.
Ba vị
giám khảo cho cuộc thi này là: Eddie Rickenbacker, chủ tịch Hãng Hàng không
Eartern; Tiến sĩ Stewart W. McClelland, Hiệu trưởng Đại học Lincoln; H. V.
Kaltenborn, bình luận viên thời sự của đài phát thanh. Tuy nhiên, kết thúc quá
trình chọn lựa, có hai bài viết xuất sắc đến nỗi chúng tôi cảm thấy không thể
phân cao thấp nên quyết định chia đôi giải thưởng. Sau đây là một trong hai câu
chuyện đã đoạt giải nhất ấy – câu chuyện của C. R. Burton, nhân viên hãng
Whizzer Motor Sales của Springfield, Missouri.
“Tôi
không còn mẹ từ lúc 9 tuổi và mất cha khi 12 tuổi. Mẹ tôi bỏ nhà đi cách đây 19
năm và tôi chưa bao giờ được gặp lại mẹ cùng hai đứa em gái nhỏ mà bà đã mang
theo. Ba năm sau khi mẹ bỏ đi, cha tôi cũng qua đời vì tai nạn. Ông cùng một
cộng sự hùn vốn kinh doanh tiệm cà phê trong một thị trấn nhỏ của Missouri. Lợi
dụng một lần cha tôi đi công tác, người cộng sự ấy đã bán tiệm cà phê rồi trốn
đi cùng với số tiền. Có người bạn biết được đã giục ông trở về ngay; và trong
lúc vội vã, cha tôi đã gặp tai nạn xe hơi ở Salinas, Kansas. Hai người cô của
tôi, già cả, ốm yếu và rất nghèo khổ, đành đưa ba trong số năm anh chị em tôi
về nuôi. Còn tôi và một đứa em trai khác thì không ai muốn nhận. Hai anh em
chúng tôi rất sợ hãi trước viễn cảnh sẽ phải sống vất vưởng như những đứa trẻ
mồ côi. Chẳng bao lâu, nỗi lo ấy đã trở thành sự thật. Có một thời gian ngắn,
tôi ở cùng một gia đình nghèo trong thị trấn. Nhưng thời cuộc ngày càng khó
khăn, người trụ cột trong gia đình ấy bị mất việc và không thể nuôi tôi được
nữa. Sau đó ông bà Loftin đem tôi về sống trong trang trại của ông bà, cách thị
trấn khoảng 18 cây số. Ông Loftin đã 70 tuổi, mắc bệnh đau lưng và phải nằm
trên giường cả ngày. Ông bảo tôi có thể ở lại, “miễn là không nói dối, không
trộm cắp và biết nghe lời”. Tôi nghiêm chỉnh tuân theo ba yêu cầu ấy, xem đó
như Kinh thánh của mình. Rồi tôi bắt đầu đi học, nhưng ngay sau tuần đầu tiên,
tôi đã quay trở về nhà trong nước mắt. Những đứa bạn học đã lấy tôi làm trò
cười; chúng chế nhạo cái mũi to của tôi, rồi bảo tôi là đứa tối dạ và còn gọi
tôi là “thằng mồ côi láo xược”. Tôi cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm đến mức muốn
cho chúng một trận; nhưng ông Loftin đã bảo tôi: “Cháu hãy nhớ, một người đàn
ông sẽ trở nên vĩ đại nếu biết bước qua sự tranh cãi hơn là ở lại và đánh
nhau”. Tôi nghe lời ông và đã không trả đũa bất kỳ ai cho tới hôm bị một đứa
nhặt phân gà từ vườn trường ném vào mặt. Tôi cho nó một trận nhừ tử; và nhờ đó
mà quen được với hai người bạn nữa. Chúng nói thằng bé xấc xược ấy đáng bị như
thế.
Tôi rất
hãnh diện về cái mũ mới được ông Loftin mua cho. Nhưng một hôm, một đứa con gái
to xác đã giật nó khỏi đầu tôi rồi đổ đầy nước vào trong và làm hỏng nó. Con bé
bảo rằng phải đổ nước vào “để thấm ướt cái hộp sọ dày cộp của tôi và ngăn bộ óc
chứa đầy bỏng ngô của tôi khỏi nổ lốp bốp”.
Tôi không
bao giờ khóc ngay ở trường, nhưng khi về đến nhà thì lại nức nở. Thế rồi vào
một ngày, bà Loftin đã cho tôi một lời khuyên giúp xua tan mọi rắc rối, lo âu
và giúp biến những kẻ thù của tôi thành bạn bè. Bà bảo: “Ralph này, các bạn sẽ
không trêu chọc và gọi cháu là “thằng mồ côi láo xược” nữa nếu cháu quan tâm và
nghĩ cách giúp đỡ các bạn”. Tôi đã làm theo lời khuyên của bà. Tôi học hành
chăm chỉ, chẳng bao lâu đã đứng đầu lớp và cũng tránh được sự ganh ghét bởi
luôn sẵn lòng giúp đỡ các bạn.
Tôi
thường giúp mấy cậu bạn cùng lớp viết bài luận, có lần còn làm hộ mấy cậu khác
cả một bài thuyết trình hoàn chỉnh. Có cậu rất sợ mọi người biết việc đang phải
nhờ tôi giảng bài nên lần nào đến nhà ông Loftin cũng nói dối mẹ là đi săn
chuột đồng và vờ dắt chó theo. Tôi còn giúp một cậu nữa viết bài bình luận sách
và bỏ ra các buổi tối kèm toán cho một bạn gái.
Rồi hai
ông hàng xóm của tôi qua đời vì tuổi tác, một phụ nữ nhà bên cạnh cũng bị chồng
bỏ rơi. Tôi trở thành người đàn ông duy nhất của cả bốn gia đình. Suốt hai năm,
tôi làm đỡ việc cho những quả phụ này. Trên đường đến trường hoặc về nhà, tôi
thường ghé qua trang trại của họ, giúp họ chặt củi, vắt sữa bò, cho gia súc ăn
và tắm cho chúng. Từ kẻ bị nguyền rủa, ghẻ lạnh, tôi trở thành chàng trai được
chúc phúc. Mọi người coi tôi như một người bạn và đã bộc lộ tình cảm rất chân
thành ngày tôi từ lực lượng Hải quân trở về. Hơn 200 nông dân đến thăm trong
ngày đầu tiên tôi về nhà. Có những người đã vượt cả quãng đường dài 130 cây số,
tất cả đều xuất phát từ sự quan tâm ấm áp. Vì bận rộn và vui vẻ giúp đỡ người
khác nên tôi chẳng mấy khi có thời gian lo buồn; và đến giờ, đã 13 năm trôi
qua, chẳng còn ai gọi tôi là thằng mồ côi láo xược nữa.”
Hoan hô
ông C. R. Burton! Ông đã biết cách thu phục nhân tâm và chế ngự nỗi lo lắng để
tận hưởng cuộc sống.
Tiến sĩ
Frank Loope sống ở Seattle, Washington, cũng là một người như vậy. Ông phải nằm
liệt giường suốt 23 năm do hậu quả của bệnh viêm khớp. Tuy nhiên, khi nhắc đến
ông, phóng viên Stuart Whithouse của tờ Ngôi sao Seattle đã
thốt lên: “Tôi từng nhiều lần phỏng vấn Tiến sĩ Loope; và chưa bao giờ thấy một
người vị tha và biết sống hết mình đến thế!”.
Con người
tàn tật này đã sống hết mình với quan niệm cống hiến và vì mọi người. Ông thu
thập tên và địa chỉ của những người tàn tật khác rồi giúp họ và bản thân mình
phấn chấn lên bằng cách viết những lá thư động viên. Ông tổ chức một câu lạc bộ
viết thư dành cho người tàn tật, trong đó người này viết cho người kia. Cuối
cùng ông lập ra một tổ chức quy mô toàn quốc với tên gọi Cộng đồng Người tàn
tật.
Tuy phải
nằm một chỗ, nhưng trung bình mỗi năm ông viết tới 1.400 lá thư và mang niềm
vui đến cho hàng nghìn người tàn tật bằng cách quyên góp radio và sách báo tặng
cho họ.
Đâu là sự
khác biệt cơ bản giữa Tiến sĩ Loope và nhiều người tàn tật mãi sống trong sự
than thân trách phận? Tiễn sĩ Loope có được nhiệt huyết của một người sống có
mục đích, có trách nhiệm. Ông nhận được niềm vui lớn từ việc ý thức rằng ông
đang thực hiện một lý tưởng còn cao quý và có ý nghĩa hơn chính bản thân mình,
thay vì trở thành – nói như Shaw – “một kẻ vị kỷ, nhỏ mọn, luôn đau yếu và buồn
phiền, chỉ biết phàn nàn rằng thế giới đã không thèm đoái hoài giúp mình được
hạnh phúc”.
Dưới đây
là phát biểu gây sửng sốt nhất của Alfred Adler, một nhà tâm thần học vĩ đại.
Ông thường nói với những bệnh nhân mắc chứng trầm cảm của mình rằng: “Anh có thể khỏi bệnh trong 14
ngày nếu tuân theo đơn thuốc này: Mỗi ngày hãy cố nghĩ cách làm vui lòng một ai
đó”.
Đơn thuốc
của bác sĩ Adler khuyên chúng ta phải làm một việc tốt mỗi ngày. Vậy thế nào là
một việc tốt? Nói như nhà tiên tri Mohammed: “Một việc tốt là việc mang lại nụ
cười vui sướng trên gương mặt của người khác”.
Tại sao
mỗi ngày làm một việc tốt lại có thể đem lại hiệu quả tốt lành đến thế cho
người thực hiện? Bởi vì khi cố gắng làm người khác vui lòng, chúng ta sẽ thôi
không nghĩ về bản thân, cũng có nghĩa là thôi không nghĩ đến chính thứ đã tạo
ra nỗi lo lắng, sợ hãi và u sầu của chúng ta.
Nhờ mải
mê nghĩ cho người khác, bà William T. Moon, người điểu hành Trường Moon
Secretarial ở New York đã không cần tới hai tuần để xó đi căn bệnh trầm cảm của
mình. Bà còn làm tốt hơn cả mong đợi của bác sĩ Alfred – chính xác là tốt hơn
tới 13 lần. Bà đã loại bỏ nỗi phiền muộn của mình không phải trong 14 ngày, mà
chỉ một ngày, bằng việc đem niềm vui đến cho những trẻ mồ côi. Bà kể:
“Cách đây
5 năm, tôi là kẻ lúc nào cũng đắm chìm trong nỗi buồn phiền và xót xa. Sau ít
năm sống hạnh phúc bên chồng, tôi đột ngột trở thành một góa phụ. Giáng sinh
càng tới gần, nỗi buồn trong tôi càng nhói buốt. Tôi chưa bao giờ phải đón
Giáng sinh một mình và rất sợ khi nghĩ đến giờ phút ấy. Tôi được bạn bè mời
tham dự Giáng sinh cùng gia đình họ nhưng không thấy có chút hứng thú nào. Tôi
biết dù ở bất cứ đâu thì mình cũng có thể mang tới một bộ mặt ủ rũ, làm hỏng
không khí vui vẻ của người khác nên đã từ chối những đề nghị tốt bụng ấy.
Mỗi ngày
qua, tôi càng thấy tủi thân hơn. Ba giờ chiều hôm trước lễ Giáng sinh, tôi rời
văn phòng, bước đi vô định trên Đại lộ số 5, hy vọng sẽ dịu bớt phần nào nỗi phiền
muộn. Nhìn dòng người đi lại nhộn nhịp trên đường phố với vẻ vui sướng, hân
hoan, tôi lại nhớ về những tháng ngày hạnh phúc đã qua và cảm thấy không thể
chịu nổi việc quay trở về căn phòng trống trải, cô đơn của mình. Tôi hoàn toàn
bối rối. Tôi không biết phải làm gì và không sao ngăn nỗi những giọt nước mắt
lăn dài trên má. Tôi cứ đi lang thang như thế khoảng một giờ rồi bỗng thấy mình
đang đứng trước một trạm xe buýt. Ngày trước, hai vợ chồng tôi cũng thường bước
lên những tuyến xe buýt lạ lẫm để thử xem mình sẽ được đưa tới đâu. Vậy là tôi
bước lên chiếc xe buýt đỗ lại đầu tiên.
Sau khi
đi qua sông Hudson một đoạn, bác tài xế thông báo là đã đến trạm cuối. Tôi
xuống xe mà thậm chí còn không biết tên của thị trấn nơi tôi đang đứng. Nhưng
đó là một nơi yên lặng và thanh bình. Trong lúc đợi chuyến kế tiếp để về nhà,
tôi đi vào một khu dân cư. Ngang qua nhà thờ, tai tôi nghe vang lên một giai
điệu quen thuộc của bài Silent
night. Tôi bước vào.
Nhà thờ vắng lặng, chỉ có một nhạc công đang ngồi chơi đàn organ. Tôi ngồi
xuống môt chiếc ghế khuất để tránh bị chú ý. Từ cây thông Noel được trang trí
rực rỡ phát ra ánh sáng lấp lánh tựa như muôn vàn vì sao đang nhảy múa dưới ánh
trăng. Gia điệu ngân dài của bài hát cộng với cảm giác uể oải vì cả ngày chưa
ăn gì khiến tôi cảm thấy mí mắt mình ríu lại. Lòng nặng trĩu và mệt nhọc, tôi
thiếp đi lúc nào không hay.
Khi thức
giấc, tôi không thể nhớ ra mình đang ở đâu nên thực sự hoảng sợ. Trước mặt tôi
là hai đứa trẻ, hình như chúng định đến ngắm cây thông. Một cô bé đang chỉ vào
tôi và hỏi bạn: “Có phải ông già Noel mang cô ấy đến không?”.Thấy tôi tỉnh dậy,
cả hai cũng có vẻ rất sợ hãi. Tôi vội bảo rằng tôi sẽ không làm hại chúng. Hai
đứa trẻ ăn mặc thật nghèo khổ. Tôi hỏi cha mẹ chúng đâu và cả hai đều đáp:
“Chúng cháu không có cha mẹ”.
Đứng
trước hai đứa trẻ mồ côi còn tội nghiệp hơn mình rất nhiều, tôi bỗng cảm thấy
hổ thẹn về nỗi buồn phiền và sầu khổ của bản thân. Tôi chỉ cho các em xem cây
thông rồi dẫn chúng đi đến một cửa hàng, mua đồ ăn, quà Giáng sinh và bánh kẹo.
Nỗi cô đơn trong tôi vụt tan đi như một phép màu. Hai đứa trẻ đã mang lại cho
tôi niềm hạnh phúc tưởng đã chìm sâu từ nhiều tháng trước. Khi nói chuyện với
các em, tôi mới nhận ra mình đã may mắn biết chừng nào. Tôi đã thật hạnh phúc
vì mỗi Giáng sinh trong tuổi ấu thơ tôi đều tràn ngập tình yêu thương và trìu
mến của cha mẹ. Điều mà hai em bé ấy đã làm cho tôi còn lớn hơn gấp nhiều lần
những gì tôi đã làm cho các em. Kỷ niệm ấy khiến tôi hiểu sâu sắc hơn rằng muốn
có được niềm vui cho bản thân thì trước tiên mình cần phải mang hạnh phúc đến
cho người khác. Tôi nhận ra hạnh phúc là sự lan truyền. Chúng ta nhận lại bằng
cách cho đi, bằng cách yêu thương và giúp đỡ một ai đó. Vậy là từ ngày hôm đó,
tôi đã chế ngự được nỗi lo lắng, buồn khổ và tủi thân để trở thành một con
người mới, cho đến tận bây giờ.”
Có rất
nhiều người đã nhờ biết quên đi những điều cần phải quên mà có thể sống hạnh
phúc và khỏe mạnh. Chẳng hạn trường hợp của Margaret Tayler Yates, một trong
những phụ nữ nổi tiếng nhất Hải quân Hoa Kỳ.
Bà Yates
là một nhà văn, nhưng có lẽ không cuốn tiểu thuyết nào của bà có sức lôi cuốn
bằng câu chuyện thực sự đã xảy ra với bà vào buổi sáng định mệnh mà người Nhật
tấn công Trân Châu Cảng. Tính đến thời điểm đó, và đã sống như một người tàn
tật hơn một năm trời vì bệnh tim, phải nằm trên giường suốt 22 giờ mỗi ngày.
Hành trình dài nhất bà từng thực hiện chỉ là những chuyến đi dạo ra vườn để tắm
nắng. Thậm chí, để làm được thế, bà còn phải vịn vào tay cô hầu gái mỗi khi
nhấc bước. Chính bà nói với tôi rằng ngày ấy, bà đã nghĩ mình sẽ phải chịu cảnh
tàn tật suốt đời. Bà bảo: “Có lẽ sẽ không bao giờ được sống lại lần nữa nếu
người Nhật không đánh Trân Châu Cảng và buộc tôi phải thay đổi thái độ cam chịu
của mình”.
“Lúc đó,
mọi thứ hỗn loạn và rối tung lên. Một quả bom phát nổ gần nhà tôi, cơn chấn
động hất văng ra khỏi giường. Xe tải quân đội dồn dập kéo đến Cánh đồng
Hickham, Doanh trại Barracks và Sân bay Vịnh Kaneohe để đón vợ con những người
lính Hải quân và Lục quân đến các trường học công cộng được sử dụng làm nơi ẩn
nấp. Tại đó, Hội Chữ Thập Đỏ đang gọi điện đến từng nhà dân xem có ai còn thừa
phòng để đưa số người cần di tản này vào ở tạm. Các nhân viên của Hội biết tôi
có một chiếc điện thoại đặt cạnh giường nên đã yêu cầu tôi cho họ dùng ngôi nhà
làm trạm trung chuyển thông tin. Nhờ vậy mà tôi biết được nơi ẩn náu của vợ con
các binh lính, và những quân nhân thuộc Hải quân và Lục quân cũng gọi điện đến
cho tôi theo hướng dẫn của Hội Chữ Thập Đỏ để được biết tin tức về nơi trú ẩn
của gia đình mình.
Không lâu
sau, tôi được tin chồng mình là Trung tá Robert Raleigh Yates vẫn an toàn. Tôi
cố gắng động viên những người phụ nữ đang lo lắng về số phận của chồng mình, và
an ủi những quả phụ có chồng hy sinh trong trận chiến. Có rất nhiều người như
thế: 2.170 sĩ quan và quân nhân của Hải quân và Lục quân đã thiệt mạng, 960
người mất tích.
Ban đầu,
tôi nằm trên giường khi trả lời các cuộc gọi. Về sau, tôi ngồi hẳn dậy. Cuối
cùng, do quá bận rộn và hối hả với công việc nên tôi quên cả đau ốm, bước hẳn
ra khỏi giường để đến ngồi bên một chiếc bàn. Bằng cách giúp đỡ những người có
hoàn cảnh đáng thương hơn mình, tôi đã quên đi bản thân và không bao giờ quay
trở lại giường nữa, trừ 8 tiếng đi ngủ vào mỗi tối.
Giờ đây,
tôi nhận ra rằng nếu quân Nhật không tấn công Trân Châu Cảng, có lẽ tôi sẽ mãi
là người nửa tàn phế cho đến hết đời. Tôi từng bằng lòng nằm trên giường và đợi
người đến phục vụ; và như thế, một cách vô thức, tôi đã đánh mất ý chí rèn
luyện để tự phục hồi.
Cuộc tấn
công ở Trân Châu Cảng là một trong những thảm kịch lớn nhất trong lịch sử Hoa
Kỳ, nhưng về phần tôi, đó là bước ngoặt tuyệt diệu nhất từng xảy đến. Cơn chấn
động kinh hoàng đó đã cho tôi một sức mạnh mà tôi chưa bao giờ dám mơ tới. Nó
khiến tôi biết quan tâm đến người khác thay vì lúc nào cũng chỉ nghĩ về bản
thân. Tôi đã sống, đã làm việc vì một điều lớn lao hơn và quan trọng hơn. Tôi
không còn thời gian để nghĩ vẩn vơ hay chú ý tới bản thân nữa”.
Một phần
ba số người mắc bệnh về thần kinh có thể tự chữa khỏi cho mình nếu họ biết làm
như Margaret Yates: quan tâm giúp đỡ những người khác. Đó không phải là ý kiến
của cá nhân tôi. Carl Jung(53) đã nói: “Khoảng 1/3 bệnh nhân của tôi
phát bệnh chỉ vì cảm giác trống rỗng và vô nghĩa trong cuộc sống của họ”. Nói
cách khác, đó là những người cố gắng bắt nhịp với cuộc sống mà họ mong muốn
nhưng đã bị rớt lại phía sau. Vậy là họ vội cho rằng cuộc đời mình thật nhỏ
hẹp, vô ích và không nghĩa lý rồi chạy đến bác sĩ tâm thần để được chữa trị. Bị
lỡ tàu, họ đứng mãi trên cầu cảng, đổ tội cho bất cứ ai ngoại trừ bản thân và
đòi hỏi cả thế giới phải làm theo ý mình.
Lúc này,
có thể bạn đang tự nhủ: “Ồ, không biết những câu chuyện này sẽ giúp mình
được gì đây? Nếu gặp những em bé mồ côi khốn khổ trong đêm Giáng sinh, mình
cũng sẽ lo cho chúng như vậy; và nếu ở Trân Châu Cảng lúc đó thì mình cũng sẵn
lòng làm những việc mà Margaret Yates đã làm. Nhưng hoàn cảnh của mình lại
khác: chỉ là một cuộc sống buồn tẻ và hết sức bình thường với công việc nhàm
chán 8 tiếng mỗi ngày. Chẳng có gì kịch tính xảy ra cả. Chẳng có tình huống nào
để mình phải quan tâm đến những người khác. Mà tại sao phải làm thế? Có lợi ích
gì đâu?”.
Nhưng bạn
hãy nghĩ mà xem, dù bạn có một cuộc sống nhàm chán đến đâu thì chắc chắn mỗi
ngày bạn đều gặp một vài người. Bạn cư xử như thế nào với họ?
Bạn hờ hững liếc qua hay chú ý tìm hiểu xem có điều gì đang khiến họ khó chịu?
Chẳng hạn như người đưa thư – người đã vất vả phơi người suốt ngày ngoài đường
để làm việc chuyển thư cho bạn, nhưng có bao giờ bạn quan tâm xem anh ấy sống ở
đâu hay hỏi han gì về vợ con anh ấy? Liệu bạn có từng hỏi thăm xem anh có cảm
thấy mệt mỏi hay buồn chán không?
Còn người
bán tạp hóa, câu bé bán báo dạo, hay đứa trẻ đang ngồi trong góc đường đánh
giày cho bạn? Họ đều là những con người – có những rắc rối, ước mơ và khát vọng
của riêng mình. Họ cũng khao khát được chia sẻ với ai đó. Nhưng bạn có cho họ
cơ hội không? Đã bao giờ bạn thể hiện thái độ quan tâm chân thành đến cuộc đời
của họ?
Đó chính
là điều tôi muốn nói. Bạn không cần phải trở thành một nhà cải cách xã hội để
cải thiện thế giới – bạn có thế giới riêng của mình; bạn có thể bắt đầu ngay từ
sáng mai với những người bạn gặp!
Điều đó
sẽ mang lại lợi ích gì cho bạn? Bạn sẽ có cảm giác hạnh phúc hơn, hài lòng và
tự hào hơn về bản thân! Aristotle gọi thái độ này là “thói ích kỷ được giải
thoát”. Zoroaster(54) thì nói: “Làm việc tốt cho người khác
không phải là một nghĩa vụ mà là niềm vui bởi nó khiến cho ta thêm khỏe mạnh và
hạnh phúc”. Còn Benjamin Franklin đúc kết lại trong một câu nói đơn giản –
“Khi bạn tốt với người khác, nghĩa là bạn đang tốt với chính mình”.
Henry C.
Link, giám đốc Trung tâm Điều trị Tâm lý ở New York cũng viết: “Theo tôi, phát
hiện quan trọng nhất của Tâm lý học hiện đại chính là việc nó đã chứng minh
được rằng lòng vị tha chính là một nguyên lý cơ bản đem lại năng lực tự nhận
thức và hạnh phúc cho chúng ta”.
Suy nghĩ
cho người khác không chỉ giúp ta thoát khỏi các lo lắng của bản thân mà còn
mang đến nhiều bạn vè và niềm vui. Bằng cách nào? Tôi có lần hỏi như vậy và
Giáo sư William Lyon Phelps của Đại học Yale đã nói:
“Tôi
không bao giờ bước vào một khách sạn, một hiệu cắt tóc hay một cửa hàng mà
không nói điều gì đó làm hài lòng những người mình gặp. Tôi đối xử với từng
người như một cá nhân riêng biệt và không bao giờ có thái độ coi họ chỉ là
những nhân viên đơn thuần. Đôi lúc tôi khen đôi mắt hay mái tóc của cô gái phục
vụ trong cửa hàng. Tôi hỏi người thợ cắt tóc liệu anh có thấy mệt khi phải đứng
cả ngày không, hay vì sao anh lại chọn nghề cắt tóc – anh đã làm nghề này bao
lâu rồi và anh đã cắt cho bao nhiêu người – rồi giúp anh tính ra. Tôi thấy mọi
người rất thích thú khi nhận được sự quan tâm. Tôi thường bắt tay những người
phục vụ đã giúp tôi khuân đồ. Điều đó khiến họ phấn chấn lên rất nhiều và làm
việc hăng say hơn trong cả ngày hôm ấy. Vào một ngày hè nóng nực, tôi đến toa
phục vụ đồ ăn của chuyến tàu hỏa New Heaven để dùng bữa trưa. Ở đó đông đúc
ngột ngạc như một cái lò và tốc độ phục vụ hết sức chậm chạp. Cuối cùng, tôi
nói: “Nóng nực thế này thì những người nấu ăn trong bếp chắc phải vất vả lắm
nhỉ”. Người phục vụ kêu lên: “Trời đất ơi, ai đến đây cũng chỉ phàn nàn về thức
ăn, kêu ca vì phục vụ chậm chạp, nhăn mặt vì nhiệt độ và giá tiền. Tôi đã nghe
họ than phiền suốt 19 năm nay và Ngài là người đầu tiên, cũng là người duy nhất
tỏ thái độ cảm thông với những đầu bếp đang nấu ăn trong căn bếp nóng nực đằng
kia. Tôi ước gì thêm nhiều hành khách như ngài cho chúng tôi đỡ khổ”.
Người
phục vụ đó ngạc nhiên vì tôi đã nghĩ đến những người đầu bếp như những con
người có cảm xúc vui buồn, chứ không phải là những bộ phận nhỏ bé tầm thường
trong cả một cỗ máy lớn như một đoàn tàu …
Một lần
đến Anh, tôi gặp một người chăn cừu và thể hiện sự ngưỡng mộ chân thành của
mình đối với con chó to lớn và thông minh của anh. Tôi hỏi thăm làm cách nào
anh huấn luyện được nó. Khi đi qua và quay nhìn lại phía sau, tôi thấy con chó
đang đặt chân lên vai người chăn cừu và anh ta đang cưng nựng nó. Bằng cách
dành một chút quan tâm đối với người chăn cừu và con chó của anh, tôi đã khiến
người chăn cừu hạnh phúc. Tôi chắc rằng con chó ấy cũng cảm thấy hạnh phúc, và
bản thân tôi cũng hạnh phúc”.
Theo bạn,
có bao giờ một người mà đến đâu cũng bắt tay với những người khuân vác và tỏ
lòng cảm thông với các đầu bếp trong căn bếp nóng nực – cũng như nói với người
khác rằng ông rất thích con chó của họ - lại cảm thấy chua cay, lo lắng và cần
đến sự giúp đỡ của bác sĩ tâm thần không? Không thể có chuyện đó, đúng không?
Tất nhiên ròi. Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Bàn tay trao tặng hoa hồng
luôn lưu lại hương thơm”.
Nếu bạn
là nam giới, hãy bỏ qua đoạn này bởi nó sẽ không thu hút bạn đâu. Đó là chuyện
làm thế nào mà một cô gái nghèo khó và hay lo nghĩ lại được nhiều người đàn ông
đến cầu hôn. Giờ đây cô gái ấy đã lên chức bà. Vài năm trước, tôi đến thuyết
giảng trong thị trấn nơi bà sinh sống và nghỉ qua đêm tại nhà bà. Sáng hôm sau
bà lái xe đưa tôi đi 80 cây số để bắt chuyến tàu chính đến Trung tâm New York.
Khi chúng tôi nói chuyện về việc kết bạn, bà bảo: “Ngài Carnegie này, tôi sẽ kể
cho ngài nghe câu chuyện mà trước đây tôi chưa từng thổ lộ với ai – ngay cả với
chồng mình”.
“Tôi lớn
lên trong một gia đình bình dân ở Philadelphia. Bi kịch thời thơ ấu và thời
thiếu nữ của tôi chính là cảnh nghèo khó. Chúng tôi không có điều kiện vui chơi
theo cách những cô gái khác vẫn làm. Quần áo của tôi không bao giờ có thể gọi
là đẹp, luôn quá chật và còn bị lỗi mốt nữa. Tôi thường cảm thấy xấu hổ và bẽ
bang đến nỗi đêm nào cũng âm thầm khóc cho tới khi ngủ thiếp đi. Cuối cùng,
trong nỗi tuyệt vọng, tôi nảy ra ý nghĩ là sẽ luôn hỏi han bạn nhảy trong các
bữa tiệc về kinh nghiệm, quan điểm và dự định cho tương lai của người ấy. Tôi
hỏi không phải vì quan tâm đặc biệt đến câu trả lời mà chỉ nhằm mục đích để họ
không chú ý đến phục trang nghèo nàn của mình. Nhưng một điều kỳ lạ đã xảy ra:
Khi lắng nghe những chàng trai trẻ nói chuyện và hiểu hơn về họ, tôi thực sự
cảm thấy bị cuốn hút. Tôi thích thú đến nỗi đôi khi cũng quên bẵng đi bộ váy
xấu xí của mình. Và chuyện đáng ngạc nhiên nhất là: do luôn biết lắng nghe và
khuyến khích các chàng trai nói chuyện về bản thân, tôi đã khiến họ cảm thấy
rất hạnh phúc và dần trở thành cô gái được nhiều người yêu mến nhất, rồi ba
trong số những chàng trai đó đã cầu hôn tôi”.
Tôi biết
có người sẽ cho rằng kinh nghiệm này là chuyện vớ vẫn, là lý thuyết suông.
Vâng, mỗi chúng ta có quyền giữ quan điểm riêng; nhưng nếu bạn đúng thì tất cả
những triết gia và bậc thầy tư tưởng từ buổi đầu lịch sử nhân loại như Phật
Thích Ca, Khổng Tử, Lpato, Aristotle, Socrates, Chúa Yesus hay Thánh Francis…
đều sai lầm. Cũng có thể bạn không coi trọng lời răn dạy của các lãnh tụ tôn
giáo, vậy chúng ta hãy tìm hiểu xem những người vô thần khuyên gì. Trước tiên,
hãy lấy ví dụ về A. E. Housman, giáo sư Đại học Cambridge, một trong những học
giả lỗi lạc nhất trong thời đại của mình. Năm 1936, ông có một bài giảng ở
trường Cambridge, ông đã tuyên bố trong buổi học rằng: “Sự thật lớn nhất và
khám phá đạo đức sâu sắc nhất mọi thời đại chính là những lời sau của Chúa
Yesus: Kẻ kiếm tìm cuộc sống sẽ đánh
mất nó; nhưng những người biết hy sinh cuộc sống của mình cho người khác sẽ tìm
thấy nó”.
Cả
đời chúng ta đã nghe những nhà giảng đạo nói về điều này rồi. Nhưng Housman,
một người theo chủ nghĩa vô thần, một người bi quan từng suýt tự tử; cũng cảm
thấy rằng nếu chỉ biết suy nghĩ cho bản thân thì ta sẽ chẳng nhận được gì từ
cuộc đời sẽ phải khổ sở. Còn nếu biết quên mình vì người khác thì niềm vui sống
sẽ tự đến với ta.
Nếu bạn
vẫn không mấy ấn tượng với những lời của A. E. Housman, chúng ta hãy đến với
lời khuyên của nhà vô thần người Mỹ lỗi lạc nhất thế kỷ 20: nhà văn Theodore
Dreiser. Ông chế nhạo tôn giáo là những câu chuyện thần tiên viễn vông và coi
cuộc sống như “một mớ huyền hoặc, huyên thuyên và vô nghĩa được thêu dệt nên
bởi một tên ngốc”. Nhưng Dreiser cũng đồng tình với một nguyên tắc lớn mà Chúa
Jesus đã dạy: phục vụ người khác. Dreiser nói: “Nếu muốn vui sống, hãy suy nghĩ
và lập kế hoạch để làm mọi thứ tốt đẹp hơn không chỉ cho bản thân mà còn cho
những người khác, bởi niềm vui của mỗi người phụ thuộc vào niềm vui của người
khác, và ngược lại”.
Nếu bạn
định “làm những điều tốt đẹp hơn cho người khác” như Dreiser cổ vũ thì hãy bắt
đầu ngay đi thôi. Thời gian không chờ đợi ai. “Tôi chỉ đi qua con đường này một
lần mà thôi. Hãy để tôi bày tỏ lòng tốt và thực hiện những việc tốt đẹp tôi có
thể làm ngay có lúc này. Đừng để tôi ngần ngại hay trì hoãn, vì tôi sẽ không đi
qua con đường này lần nữa”.
Hãy xóa
tan âu lo, gieo mầm hạnh phúc và thanh thản bằng Nguyên tắc 7:
HÃY QUÊN ĐI BẢN THÂN VÀ MANG NIỀM VUI, HẠNH PHÚC ĐẾN CHO NGƯỜI
KHÁC.
TÓM TẮT PHẦN BỐN
7 CÁCH LUYỆN TINH THẦN ĐỂ SỐNG THANH THẢN VÀ HẠNH PHÚC
NGUYÊN TẮC 1: Suy nghĩ
và hành động một cách vui tươi.
NGUYÊN TẮC 2: Đừng bao
giờ cố trả đũa kẻ thù của mình.
NGUYÊN TẮC 3: Luôn
chuẩn bị tình thần để đối diện với sự vô ơn.
NGUYÊN TẮC 4: Hãy nghĩ
đến những điều may mắn mà mình có được – chứ không phải những rắc rối!
NGUYÊN TẮC 5: Đừng bắt
chước người khác. Hãy khám phá bản thân và tự tin là chính mình.
NGUYÊN TẮC 6: Chấp nhận
và biến khó khăn thành cơ hội
NGUYÊN TẮC 7: Hãy quên
bản thân và mang niềm vui, hạnh phúc đến cho người khác.
DALE CARNEGIE
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét