Xứ Huế xưa nay đẹp, một vẻ đẹp “đài các”,
thâm nghiêm của chốn kinh kỳ nhưng lại cũng hết sức bình dị, hiền hòa, hữu
tình với thiên nhiên rợp một màu xanh mát, tốt tươi – hệ quả của kiểu thời tiết
hai mùa mưa nắng. Nằm giữa hai thái cực đó, hệ thống các phủ đệ trên đất Huế
như một sự dung hòa cho tất cả.
Bến Phủ Tùng bên dòng sông An Cựu.
Phủ đệ thực ra là tên gọi chỉ những ngôi nhà được dựng lên (theo tiêu chuẩn
Hoàng gia triều Nguyễn, dưới mỗi triều vua lại có những quy định riêng) khi
các hoàng tử, công chúa đến tuổi trưởng thành, cho ra ở riêng. Phủ là nơi
dành cho các hoàng tử, đệ thì dành cho các công chúa. Trải qua 13 đời vua,
riêng vua Minh Mạng có tới 142 người con đủ để lại cho đời sau một hệ thống
phủ, đệ với lớp lang những công trình đặc sắc.
Không giống với các quần thể di tích kiến trúc khác, thường tập trung ở một
vùng nhất định, như quần thể kiến trúc lăng mộ các vua Nguyễn (nằm trong một
khu vực tách biệt về phía tây, tây nam thành phố), hệ thống di tích cung điện
cố đô Huế (chủ yếu tập trung trong khu vực Kinh thành Huế)… Theo Nhà nghiên cứu
Huế Phan Thuận An, trong cuốn 690 năm kiến trúc Nguyễn có viết “Các dinh thự
quan lại, phủ đệ các ông hoàng bà chúa, nhà cửa các thế gia vọng tộc phần lớn
được tập trung ở các phường xóm ven kinh thành như Vỹ Dạ, Kim Long, An Cựu…”.
Mang nét hoàng gia, cung cấm len lỏi vào giữa đời sống dân gian, tùy vào tính
cách, lối sống và địa vị của mỗi ông hoàng, bà chúa mà có “cơ ngơi” ít hoặc
nhiều. Theo một thống kê chưa đầy đủ, có 10,5% số phủ có diện tích trên
4000m2, 3,5% có diện tích từ 3000 – 4000m2, 17,5% từ 2000 – 3000m2, 24,9% từ
1000 – 2000m2… và 10,5% có diện tích dưới 500m2 (Bước đầu khảo sát một số
phủ đệ thời phong kiến trên đất Huế, khóa luận khoa Lịch sử, trường Đại học
Khoa học Huế). Tùng Thiện Vương cùng với biệt phủ bên dòng sông An Cựu đã góp
thêm một nét Huế trong sự tổng hòa vẻ đẹp đất Thần kinh.
Ông hoàng thi ca
Trong cuốn Chuyện các bà hoàng trong cung Nguyễn của tác giả Nguyễn
Đắc Xuân ghi rõ: Tùng Thiện Vương (1819 – 1870), tên thật là Miên Thẩm, tự là
Trọng Uyên và Thận Minh, hiệu là Thương Sơn và Bạch Hào Tử. Ông được sinh ra ở
cung Thanh Hòa trong Hoàng Thành, ban đầu vua Gia Long đặt tên là Yến, sau
ban Kim sách và đế hiệu đổi tên là Miên Thẩm. Là con thứ 10 của vua Minh Mạng
và bà Thục Tần Nguyễn Thị Bảo.
Di ảnh của Tùng Thiện Vương hiện nay vẫn được người đời biết đến qua nét vẽ
chân dung của Dương Tê (danh hoạ người Trung Quốc) và Hồng Khẳng (con út Tùng
Thiện Vương).
Là một người nổi tiếng giỏi thơ, hay chữ, từ năm 7 tuổi, Tùng Thiện Vương đã
theo học thơ, 12 tuổi đã hay thơ, làm gần 2000 bài, có bài dài đến 162 vần (Tùng
Thiện Vương, tiểu sử và thơ văn, Ưng Trình, Nhà in Nam Việt, 1944, tr.21).
Ông là người thông minh ham học, ngoài sách vở không thích gì. Nghe có sách
gì hay bỏ tiền ra mua hết, học rộng hiểu sâu, lời nói điển nhã càng giỏi về
thơ (Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện, NXB Thuận Hóa, Huế,
1993, tr.104). Đặc biệt, như nhà nghiên cứu Huế Nguyễn Đắc Xuân, ông là người
trọng nghề nông. “Thơ ông mấy ngàn bài đều chan chứa tình đồng ruộng và nỗi
thông cảm sâu sắc với số phận khổ ải của người dân lao động”. Cũng chính bởi
những điều đó, vì mến tài đức của Đoàn Hữu Trưng nên dù gia cảnh nghèo khó, lại
chưa đỗ đạt gì, Tùng Thiện Vương vẫn gả con gái cho.
Là hoàng thân quốc thích nên lúc sinh thời Tùng Thiện Vương không đi thi như
các Nho sĩ khác, tuy nhiên về tài năng, nhất là tài làm thơ phú thì khó ai bì
kịp và được gọi thân mật là Thi Ông. Vua Tự Đức, một tay cự súy nổi tiếng
uyên thâm về thơ ca đã từng khen tặng ông và Tuy Lý Vương rằng: “Thi đáo
Tùng, Tuy thất thịnh Đường” (Thơ đến Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương thì thơ
thời thịnh Đường không còn đáng kể nữa). Tuy Lý Vương lại có nhận xét: “Thi văn
của Tùng Thiện Vương như có hoa giữa núi, như mây mỏng trên trời. Vẻ đẹp ở
tinh thần, mỗi câu có một họa ý, mỗi chữ có một nhạc âm”; còn nhà nghiên cứu
Ưng Trình thì tổng kết: “Chưa đầy 30 tuổi, cây bút đã rung động rừng Nho, chẳng
những đã khuất phục được danh sĩ nhà Thanh mà còn truy chiếm được địa vị tối
cao đời thịnh Đường nữa… Văn chương ấy đúng là quốc hóa tinh tường”.
Trước tác của Tùng Thiện vương rất đồ sộ, với các tác phẩm nổi tiếng như: Thương
Sơn thi tập, Thương Sơn từ tập, Thương Sơn thi thoại, Thương Sơn ngoại tập,
Thương Sơn văn di, Tịnh y ký, Thức Cốc biên, Lão sinh thường đàm, Lịch đại đế
vương thống hệ… Những trước tác của ông đều được khắc in bằng mộc bản. Hiện
nay, tại phủ thờ Tùng Thiện Vương còn lưu giữ gần 1.000 mộc bản khắc in các
tác phẩm của Thi Ông, được hậu duệ của ông xem là vật gia bảo, giữ gìn rất cẩn
trọng.
Nét thơ nơi vương phủ
Di tích phủ Tùng Thiện Vương nằm vào tọa độ 16°21’ vĩ độ Bắc, 107°78’ độ kinh
Đông, cách trung tâm thành phố khoảng 2km về phía Tây – Tây Nam, số 91 Phan
Đình Phùng, phường Vĩnh Ninh, thành phố Huế. Trước mặt là dòng sông An Cựu hiền
hòa, xung quanh là nhà dân và chỉ được giới hạn bởi la thành thấp (phía sau mới
được tu bổ vào tháng 3/1996) đã tạo nên diện mạo nên thơ, hữu tình và hòa hợp
với mọi người như chính chủ nhân của nó.
Phủ Tùng Thiện Vương tọa lạc tại địa chỉ
91 đường Phan Đình Phùng, thành phố
Huế.
Từ ngày 8/10/1993, phủ Tùng Thiện Vương nằm trong danh sách kèm theo Quyết định
1046 của UBND tỉnh về việc bảo vệ đợt 1 các di tích lịch sử văn hóa, danh lam
thắng cảnh trên địa bàn tỉnh với diện tích khuôn viên tổng thể 76m*21m = 1596m2,
trong đó diện tích di tích kiến trúc gần 300m2.
Quá trình thành lập phủ Tùng Thiện Vương có thể kể bắt đầu năm Kỷ Hợi (1838)
sau khi được phong tước Tùng Quốc Công, ông được lập phủ đệ ở ngang phủ đệ
Tuy Lý Vương tại phường Liêm Năng trong Kinh thành, phía đông Lục Bộ (nay thuộc
phường Thuận Thành). Tuy nhiên vì thích thú với cảnh đẹp của sông Lợi Nông
(tên gọi trước kia của sông An Cựu), ông cho dời phủ đệ từ phường Liêm Năng đến
bờ Bắc con sông ấy, đắp núi, đào hồ, dựng phủ mới đặt tên là “Ký Thưởng
Viên”. Trước khi xây dựng Ký Thưởng Viên, ông cho dựng Tiêu Viên trong vòng 3
năm (1846 – 1849). Sau khi xây dựng xong, ông rước mẹ về phụng dưỡng. Năm
1851, bà Thục Tần mất, Tiêu Viên trở thành từ đường thờ tự mẹ ông, còn Ký Thưởng
Viên thành ra nhà dạy học. Từ năm 1870, sau khi Tùng Thiện Vương mất, phủ đệ
lại thành ra từ đường thờ tự ông và con cháu. Đây cũng chính là hai công
trình kiến trúc quan trọng nhất trong cấu trúc tổng thể của phủ Tùng Thiện
Vương, tạo thành hai nếp nhà nằm song song, với bố cục mặt bằng nhà hình chữ
nhị.
Phủ Tùng Thiện Vương là một vương phủ bề thế
và quy mô, cả trong lẫn ngoài có đến 16 công trình kiến trúc, như: Thương
Hà Bạch Lộ đường (nơi tiếp đãi sĩ phu, cũng là nơi tiếp nhận các bản thảo
thi văn của vua Tự Đức do Thị vệ chuyển từ Đại Nội sang để Tùng Quốc công nhuận
sắc giúp vua), Mô trường (nơi Tùng Quốc công cùng các huynh đệ, bằng
hữu, con cháu, học trò ngâm vịnh thi phú), Bạch Bí (nơi ở của các
bà vợ của Tùng Quốc công), Tùng Vân (thư phòng để thơ văn và bút
nghiên), Cổ Cầm đình (nơi Tùng Quốc công đàn hát, đánh cờ, chơi mạt
chược với gia nhân và bằng hữu), Mặc Vân sào (nơi lưu trữ và tra cứu kinh,
sử, tử, truyện của Nho giáo), Xuy Tiêu ủy (nơi Tùng Quốc công thường
thổi sáo trúc cùng các nghệ nhân), Sở Tụng đình (vườn trồng cam,
quýt, bưởi, phật thủ…), Hàn Lục hiên (vườn trồng hoa), Vô Phi
tân tạ (nhà tắm nằm bên cạnh hồ nước có dựng giả sơn), Nhất Quyên
thạch (cầu đá được bắc qua hồ nước để ngắm cảnh), Không Minh bộ (đường
đi dạo quanh Ký Thưởng viên), Thanh Tịnh thối (cửa đi vào phủ, về
sau đổi gọi là Tùng Thiện vương từ môn), Bến phủ (bến nước trước
phủ, dân gian vẫn gọi là “bến phủ Tùng”, nơi có chiếc thuyền buồm nhỏ để Tùng
Quốc Công dạo chơi trên sông Lợi Nông và sông Hương)... Bởi vậy, nếu như
các phủ đệ khác đều được xem như biệt phủ của các ông hoàng, bà chúa thì phủ
Tùng Thiện Vương là nơi lui tới đàm đạo thơ văn giữa các Nho sĩ đương thời,
các tao nhân mặc khách, trong đó phải kể đến Khâm sứ triều đình mãn Thanh Lao
Sùng Quang cũng vì mến mộ tài năng của chủ nhân mà tới đây đàm đạo văn
chương, thế sự.
Ký Thưởng Viên (Từ đường Tùng Thiện Vương) là một ngôi nhà rường một gian hai
chái đơn giản, tọa lạc trên nền cao 0,3m, với diện tích dài rộng
(11,2*10,3m)= 115,365m2. Phía trước là một cửa bảng khoa và hai cửa lá sách,
ba phía còn lại là tường xây kín, mái lợp ngói liệt không men, khung nhà gồm
4 cột cái (cột nhất) và 12 cột biên (cột hai).
Cổng chính, Bình phong, Ký Thưởng Viên và Tiêu Viên
nằm trên một trục đường
thẳng, bao quanh là khoảng
2000 viên gạch Bát Tràng được sử dụng để lót sân.
Bốn cột cái mỗi cột cao 4,6m, 12 cột biên mỗi cột cao 2,5m, bốn cột hiên mỗi
cột cao 1,8m (chưa kể đá tảng kè chân cao 0,2m). hai cặp kèo nóc đỡ mái được
đặt trên những trụ tiêu dạng chày cối, giống như bộ vì kèo cánh ác trong kiến
trúc truyền thống ở các tỉnh phía Bắc. Các trụ tiêu được vuốt thon tỉa rãnh
như những đài bao của bắp chuối, dựng ngược lên trên giữa hai cột hàng nhất của
mỗi vì kèo. Cái kèo gác đuôi lên đầu nhau liên kết giữa cột biên và cột cái.
Ngoài ra còn có hệ thống bộ ba kèo xó trong góc mái, chái (đấm, quyết) để nối
các cột biên hai chái với 4 cột cái.
Khác với vì kèo truyền thống của xứ Huế trong các di tích đều có 6 cột, vì
kèo tại Phủ Tùng Thiên Vương chỉ có 4 cột (2 cột cái và hai cột biên), cộng
thêm một cột biên nữa mới chỉ là 5. Điều này chứng tỏ sự đơn giản trong cấu
trúc phủ đệ ông hoàng thi ca một thửa của triều Nguyễn. Lúc sinh thời, Tùng
Thiện Vương không chỉ nổi danh với tài thi phú mà lối sống đạm bạc, kiệm cần
của ông cũng được đời sau nhắc lại.
Tiêu Viên (hay còn gọi là từ đường của bà Thục Tần) được xem là phiên bản và
đặt song song ngay phía sau từ đường của Tùng Thiện Vương, tọa lạc trên nền
cao 0,3m với diện tích 115,53m2. Điểm khác biệt ở đây chỉ là tỉ lệ kích thước
giữa gian và chái. Nếu như tại từ đường của Tùng Thiện Vương có khoảng cách
giữa các cột từ sau ra trước là 2.6m:3m:2,6m và hiên cao 1,5m tạo nên sự cân
xứng, khoáng đạt với từng bước rộng 2,6m (chái) và 3m (gian giữa) thì tại
Tiêu Viên khoảng cách đó là đều nhau 3m:3m:3m và hiên cao 1,3m tạo nên sự hài
hòa, đẹp mắt.
Từ ngoài đi vào phủ là hệ thống cổng bao gồm cổng chính và hai cửa phụ. Cổng
chính nằm trên nền dài 0,5m, dài 4m, rộng 3m. Đây là loại cổng già cổ lâu,
phía dưới trổ một lối vào rộng 2m, cao 2,5m, được đóng kín bởi hai cánh cửa gỗ.
Phía trên đắp giá lâu, có mái nhỏ lợp bằng ngói lưu ly tạo nên những đường
rãnh lớn, dạng cổ lâu này cũng có thể bắt gặp ở các phủ Gia Hưng Quận Vương,
Hoằng Hóa Quận Vương, Thiệu Hóa Quận Vương… Phía hai bên cổng chính, hai cửa
nhỏ dạng cửa vòm rộng 1,2m, cao 2m luôn được đóng kín bởi hai cửa gỗ.
Bình phong "lưỡng long triều phúc"
một biểu tượng với ý nghĩa cát
tường.
Đứng giữa Từ đường sinh mẫu Tùng Thiện Vương và cổng chính là bình phong.
Bình phong tọa lạc giữa một sân rộng 30*15m, dáng cao, thanh mảnh (cao 2m, rộng
3m). Ngoài ra trong khuôn viên của phủ còn có vết tích của Tả Vu nhưng hiện
nay tại nên móng cũ là một ngôi nhà được xây dựng theo kiểu dáng hiện đại.
Về mặt trang trí, phủ Tùng Thiện Vương được đánh giá là một công trình tương
đối đơn giản, tuy nhiên vẫn không thể thiếu những hình ảnh gắn với vương quyền
và đa ngôn như lưỡng long triều nguyệt, long mã hà đồ, rùa đội thư sách, hổ
phù nhả chữ Hỷ, hoa lá cách điệu thành rồng, chữ Vạn, hổ vồ mồi, hoa sen… Nóc
mái của từ đường có hình ảnh trang trí “lưỡng long triều nguyệt” được đắp nổi
bằng vôi vữa, bốn mặt cổ lâu là họa tiết tứ thời (mai, lan, cúc, trúc) và cửa
vòm với hình ảnh hai con dơi ngậm chữ Phúc – biểu tượng cho sự may mắn...Tất
cả đều được đặt những vị trí quan trọng, nổi bật tạo nên điểm nhấn cầu kỳ
trong một tổng thể giản đơn.
Trở lại với phủ Miên Thẩm Tùng Thiện Vương hôm nay, một không gian vườn tược
luôn xanh tươi, hai bên lối đi là dãy cau cao chót vót dẫn vào phủ. Không chỉ
là vương quốc của cây hoa phấn, bí quyết làm đẹp giới nữ xưa và lưu giữ hơn
1.000 văn bản Hán - Nôm, phủ Miên Thẩm Tùng Thiện Vương còn tồn tại một cây
mai hơn 130 năm tuổi, do chính bàn tay Tùng Thiện Vương trồng trước khi ông
qua đời. Hương sắc thi ca và tấm lòng sáng trong của một con người vẫn xanh
tươi cùng năm tháng.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét