Bản mệnh thơ Bùi Giáng
Bùi Giáng thi sĩ là hiện tượng
lạ của nền thơ Việt Nam hậu bán thế kỷ XX bởi sự tích hợp nghệ thuật kỳ bí song
hành với cuộc đời kỳ dị, được công chúng yêu thơ mến mộ, truyền tụng và thêu dệt
như những giai thoại, đến một ngưỡng nào đó, được xem như huyền thoại. Gồm hơn
60 tác phẩm hiện tồn, Bùi Giáng đã để lại cho đời một di sản văn chương đồ sộ,
đa dạng và mang phẩm tính triết thuật cao diệu, cả trong thơ, khảo cứu và dịch
thuật. Từ cuộc đời đến trang sách, thơ Bùi Giáng luôn là nghệ thuật phản quang,
là âm bản của tình cảm, tư tưởng, triết mỹ của chính ông trong từng chặng hành
trình cuộc sống, làm thành bản mệnh đời - Bản mệnh thơ Bùi Giáng.
Nghiên cứu về thơ Bùi Giáng, ngày càng có
nhiều công trình công phu và thành tựu ra mắt bạn đọc. Nhưng với một cuộc đời
đa dạng và một tài năng thơ đa diện và đa chất như ông, thì không phải mọi kết
luận đều đã thống nhất và bình ổn. Vì vậy, sự vẫy gọi từ thế giới thi ca của
Bùi Giáng vẫn là khả tính cho những ai quan tâm và muốn đi tìm bản thể cuộc đời
và bản mệnh nghệ thuật của thi sĩ tài năng dị biệt này, đúng như nhà văn Sơn
Nam đã tâm sự: "Viết đôi lời về Bùi Giáng không bằng đọc về Bùi Giáng. Đọc
Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng
sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giáng thật vui mà thật khó vậy. Ông thuộc
vào loại thiên tài không định nghĩa được, là một bí ẩn toàn diện trong cái vùn
vụt, cái bất tuyệt thao thao, cái nửa không nửa có nửa hư nửa thực" (2,
tr.166). Trong bài viết ngắn này, tôi muốn đề cập đến một phương diện trong
chỉnh thể Đời và Thơ của ông mà tôi tạm gọi là bản mệnh thơ Bùi Giáng.
Những nghịch lý trong sáng tạo nghệ thuật của
Bùi Giáng đã làm thành tổng hòa của sự hội tụ chứ không phải là sự phân hóa thi
pháp thơ. Nhưng cũng vì vậy mà trong cái bông đùa, cà rỡn có sự thăng hoa của
đau xót miên trường; trong cái hồn nhiên có sự uyên uẩn, nhức nhối của trí tuệ;
trong điên loạn, cuồng say có sự mộng mơ và mê đắm của cõi tình. Tất cả những
nghịch lý trên chính là tâm thức hiện sinh của Bùi
Giáng trên từng chặng hành trình sống và hành trình thơ. Tìm hiểu bản mệnh thơ
Bùi Giáng, theo tôi, phải tính đến sự cộng hưởng thi pháp rất riêng này của
ông.
1. Từ quan niệm văn chương của Bùi
Giáng
Là nhà thơ và là nhà tư tưởng uyên bác, Bùi
Giáng đã xuất phát từ quan niệm nào cho tư duy nghệ thuật của mình? Bằng những
trang dịch, trang thơ và những tuyên ngôn giàu tính hình tượng, ta thấy Bùi
Giáng luôn có ý hướng tính phóng thể văn chương rất rõ. Ông nói: "Thơ tôi
làm chỉ là một cách dìu ba đào về chân trời khác. Đi vào giữa trung tâm giông
bão một lúc thì lập tức xô ngôn ngữ thoát ra, phá vòng vây áp bức... Tôi gạ gẫm
với châu chấu chuồn chuồn, đem phó thác thảm họa trần gian cho chuồn chuồn mang
trên hai cánh mỏng bay đi... Tôi ra bờ sông nằm ngủ, khóc một mình giữa thơ dại
chiêm bao. Trong chiêm bao, thơ về lãng đãng thì từ đó vần bất tuyệt cũng lãng
đãng chiêm bao” (1, tr.33). Thế giởi thơ ông chính là triển khai một cách hình
tượng cho quan niệm trên. Có lúc, ông nói "thơ là cõi phiêu bồng" thì
cũng là kết tinh của chiêm bao lãng đãng đó mà thôi. Thơ là hàm ngôn, nhưng có
lúc lại vô ngôn, nhưng là vô ngôn của sự bừng ngộ về tư tưởng nhân sinh như Bùi
Giáng luận lý: "Cái nói của tư tưởng chỉ đạt tới chỗ bình hoa thanh tịnh
thuần thanh và tìm thấy lại tinh thể của mình là chính lúc nó không nói được
điều gì, nó phải tồn tại trong vô ngôn, một sự vô năng như thế sẽ nhiếp dẫn tư
tưởng tới tiền diện sự thế, sự vật từ như" (6, tr.36). Vậy, Bùi
Giáng, dù có tuyên ngôn đa dạng và đa niệm thế nào đi nữa, thì theo ông, thơ là
cõi huyền nhiệm, kỳ bí đến bát ngát, mênh mông của tâm tưởng và tư tưởng mà chỉ
có loài thi sĩ mới đạt đến và đem thông điệp cho người đời cùng ngẫm nghĩ.
Trong cõi vô thức và tiềm thức đem trộn với ý thức để cho ngôn từ chảy tràn ra
thành những siêu thăng của cảm xúc và tâm trạng thì khi đó, thơ sẽ tiền diện
được với tại - thể - người như M. Heidegger đã triết lý. Đó chính
là quan niệm thi ca cốt lõi của Bùi Giáng mà thơ ông là minh định cho triết –
mỹ rất riêng ấy của ông. Thơ Bùi Giáng siêu thăng mà gần gũi, hòa nhập với hiện
thể thiên nhiên và cuộc sống biết bao! Người đọc cũng phái xuất phát từ cõi vô
thức, tiềm thức ấy và nhập vào thế giới ấy để đối thoại, tự thoại thì mới mong
hiểu và đồng cảm với thơ ông. Nhưng điều ấy không phải dễ dàng đối với mọi chủ
thể tiếp nhận, vì thơ ông quá ư đa dạng và đa ngôn, luôn biến ảo, "khả
giải bất khả giải". Ông nói: "Đi vào cõi thơ. Thế nghĩa là? Có một
cõi và một cuộc đi, cuộc đi có nhiều thế thái. Có thể theo lối chu du của ông
Khổng Tử. Có thể đi theo lối ngồi yên không rục rịch suốt bao diên trường tuế
nguyệt dưới một gốc cây bồ đề theo lối Như Lai. Cũng có thể đi theo lối anh lùa
bò vào đồi sim trái chín. Đi như vậy dù sao thì dù, cũng là trong ý hướng mở
cõi ra chơi. Không ai buộc ai phải theo ý của riêng độc đoán của ai... Đó là
điều kiện cần và đủ, không buộc ai phải đi qua miên bạc bình sinh" (2,
tr.482). Quan niệm về tiếp nhận văn học như trên của Bùi Giáng rất gần với Mỹ học tiếp nhận hiện đại phương Tây, trong đó có Tường giải học văn học vàThông diễn học văn học mà nhất định Bùi Giáng có quán triệt
từ vốn đọc qua vốn ngoại ngữ của mình. Mối quan hệ bộ ba: Tác giả - Tác phẩm - Người đọc theo
quan niệm của Bùi Giáng đã mở ra những chân trời vẫy gọi cho liên chủ thể tiếp
nhận để đồng sáng tạo, làm đầy nghĩa cho tác phẩm, theo từng cách đọc, từng
"tầm đón đợi" của mỗi cá nhân.
Từ những quan niệm văn chương như trên, cộng
vào quan niệm về nhà thơ của ông, có thể thấy rằng Bùi Giáng là một thi sĩ biệt
tài quá ngưỡng và có ý thức nghệ thuật độc đáo, không xa lạ với kim - cổ - Đông
- Tây, nhưng cũng không giống ai về lập ngôn, lập tượng và lập thức, khi ông
muốn suốt đời tận hiến cho thơ: "Có bạn ngớ ngẩn tưởng rằng thi sĩ ngớ
ngẩn. Quả là thi sĩ có ngớ ngẩn nhưng ngớ ngẩn với lá cỏ lá cây, lá lau lá lách
cũng như sẵn sàng tích hạp ẩn tàng phơi mở với la de, rượu đế, tàu bay, tàu
lặn, tàu ngầm. Nghĩa là nó ngơ ngẩn chan hòa trên mặt đất - và nó ghì thân ở lại
vô thường để chị chơi gay cấn hơn là đáo bỉ ngạn (bà là mật kim cương) – và
cũng chính vì thế nó thể hội viên dung ba la mật hơn mấy ông trụ trì thượng tọa
nữa là khác. Nó chỉ chìm đắm trầm luân mới thể nghiệm sao gọi là chơi vơi,
phiêu nhiên giải thoát" (3, tr.23). Như vây, thi sĩ không phải là người
điên bệnh lý mà là người biệt nhãn và nhạy cảm mỹ học và tư tưởng với chung
quanh hơn người thường rất nhiều. Và chính điều này đã giúp thi sĩ vươn đến sự
phóng thể thi ca một cách nghệ thuật. Bùi Giáng là người tận hiến cho thơ đến
cùng hiểu theo nghĩa đó. Thơ ông là "tinh hoa phát tiết" từ những
trạng thái tình cảm tự nhiên của mình, không bắt chước và không giống ai. Nó là
nguyên mộng, nguyên xuân, tức là cái đẹp nguyên sơ không toan tính gì khác
ngoài ước nguyền phụng hiến. Muốn tìm về nguyên xuân, thơ phải nói "lời cố
quận". Ông học và tự thể hiện cách viết "tự động tâm linh".
Những mộng mơ, chiêm cảm, ảo giác là kết quả của chiêm bao và biến thành ngôn
ngữ: "Đi
về với gió phù du – Mở trang mộng mị cho mù sa bay".Thơ ông vì
vậy, tuôn trào tự do theo dòng cảm xúc, không tuân thủ ngữ pháp, nó là ý thức
nhưng cũng là vô thức mà kết quả là ông có được những câu thơ hay, bài thơ hay.
Ta gọi chiêm bao về mộng mị
Chắp ân tình cho nghĩa rộng tinh sương
Về tuế nguyệt bước ngao du tận mỵ
Người có nghe tang hải réo vô thường?
Thơ Bùi Giáng là sự hóa giải, hòa kết giữa
những trạng thái hoặc tính chất tương hỗ và đối lập nhau để tạo ra sự tích hợp
kỳ lạ của hình tượng và ngôn ngữ. Ví như bài thơ Bây giờ: "Bằng bút chì đen
– Tôi chép bài thơ – Trên tường vôi trắng – Bằng bút chì trắng – Tôi chép bài
thơ – Trên lá lục hồng – Bằng cục than hồng – Tôi đốt bài thơ – Từng giờ từng
phút – Tôi cười tôi khóc bâng quơ – Người nghe cười khóc có ngờ chi
không?".
Thơ Bùi Giáng mang tâm thức hiện sinh rất rõ,
bởi ông là người hiểu và dịch triết hiện sinh phương Tây sang tiếng Việt theo
kiểu tư tưởng – triết thi. Những nghi vấn và hoài nghi có tính bản thể
người luôn hiện diện trong thơ Bùi Giáng, kiểu như: "Em từ vô tận xa xăm - Trùng lai
chất vấn: từ trăm năm nào?".Thực và mộng đan xen, làm cho cấu
trúc thơ trở nên linh diệu và mơ màng. Vì vậy, có người cho rằng hiện thực
trong thơ Bùi Giáng là hiện thực của "diệu tưởng" và "nghi
tâm" là thế. Tư tưởng hiện đại trong thơ Bùi Giáng pha hợp nhiều nguồn, có
định mệnh của Phật giáo, có Thiền, có hiện sinh, có phân tâm học, có tượng
trưng, siêu thực... qua hệ thống ngôn ngữ cũng biến ảo, huyễn hoặc, tạo thành
thể tính thi ca, bản mệnh thi ca rất riêng của Bùi Giáng.
Và một
quan niệm có ảnh hưởng rất rõ trong thơ Bùi Giáng, đó là khi ông xem thân phận
con người nằm trong "tinh thể Đười Ươi". Vì vậy mà ông phát hiện ra
Phật tính trong hình hài Đười Ươi của Người – của chính tôi. Nên ông có bút
danh Đười Ươi thi sĩ là vậy.
Thoạt rằng người cũng là tôi
Hay là tôi cũng là tôi như người
Ấy rằng tinh thể đười ươi
Lời rằng quyết tuyệt và tươi vui và
Ấy rằng một cũng là ba
Là hai mai một mốt là hôm nay
Thơ Bùi
Giáng dìu con người vào "cõi phiêu bồng" có hoa thơm, mật ngọt nhưng
cũng ba đào, cay đắng, nhưng cao hơn tất cả, đó là lòng nhân ái, bao dung,
phụng hiến cho đời, cho thơ trong một thế giới thái hòa, an lạc.
Còn ở lại một ngày còn yêu mãi
Còn một đêm còn thở với trăng
sao
Thì cánh mộng còn tung lên
không ngại
Níu trời xanh tay với kiễng
chân cao
Với những
quan niệm thơ như thế, Bùi Giáng đã đi trọn hành trình đau thương và hạnh phúc
để còn đây những mật ngọt thi ca phụng hiến cho đời, "dìu ba đào" về
những chân trời khát vọng thi ca – không phải chỉ cho mình mà còn cho tha nhân
cõi thế.
2. Đến tư duy nghệ thuật thơ Bùi
Giáng
Quan niệm thơ và hành trình sáng tạo luôn tác
động, hỗ tương và làm thành thi pháp cá nhân của thi sĩ, có ổn định, lặp lại
nhưng cũng có biến đổi, cách tân. Thế giới nghệ thuật thơ Bùi Giáng chính là sự
vận động và phát triển như thế. Bao gồm 15 tập thơ được xuất bản, từ Mưa nguồn (1962)
đến Trúc mai(2008), Bùi
Giáng đã đi trọn hành trình đời và hành trình thơ đau thương, bất hạnh nhưng
cũng đầy vinh quang, hạnh phúc, làm thành bản mệnh đời và bản mệnh thơ của
riêng ông.
Cái tôi
trữ tình ngôi thứ nhất là tác giả luôn hiện hữu trong thơ, làm thành điểm nhìn
nghệ thuật đa dạng trong thơ Bùi Giáng. Trước hết, là cái tôi trải lòng giao
hòa với thiên nhiên, cuộc sống mà ông cho là nó có liên quan với khởi nguyên,
cõi tĩnh mật ban đầu. Nó là cõi vô biên nhưng gần gũi với con người mà thi sĩ
coi đó là ngôi nhà tâm hồn vĩnh cửu của mình.
Mây đứng lại chân trời phủ khói
Giòng sông đi đò bến đợi ngu ngơ
Chiều trời đẹp tâm tình em không nói
Đất với trời chung một nghĩa bơ vơ
Khi con người bất lực và buồn chán thì thiên
nhiên là nguồn an ủi. Mưa nguồn – tên tập
thơ đầu tiên có một ý nghĩa mưa móc suối nguồnchảy vào tâm hồn mát ngọt hương
yêu của chính người thơ để thành thi cảm và thi tứ chăng? Ở đấy, thiên nhiên
với con người có sự giao hòa kỳ diệu giữa hiện tại, qúa khứ và tương lai.
Gió trăng sông núi đợi ta
Chờ sương nhị nguyệt màu hoa dâng mùa
Một mình vào núi đợi mưa
Đợi nghe chớp biển xế trưa mưa nguồn
Thiên
nhiên luôn rộng mở, bao la không bờ bến để con người ngao du từ sơn thủy diện
tiền đến chân trời xa ngút ngát.
Mưa có tạnh nhưng chân trời còn
mãi
Những giọt sương là lệ ở trong mây
Dòng sông đi cho nước nói ngàn ngày
Rằng biển rộng không bến bờ em ạ!
Con người
chan hòa cùng hoa lá, chim muông trong vườn thắm xanh tươi sự sống. Nhờ vậy mà
con người đỡ bất lực trức chính mình. Một cảm thức hiện sinh mới lại bắt đầu.
Chạy đi em, qua vườn thắm theo
ngày
Cùng với phút giây này phơi mở
lá
Em ngó nhé cành xanh cây giục
giã
Hoa nghiêng đầu ríu rít cạnh
chim kêu
Thiên nhiên gắn bó sâu nặng với con người như
hành trang từ nguồn đến đích để "Mai sau còn dự hội nào – Ngó
nhau từ kỷ niệm đầu bão giông". Tận cùng ngây ngất của tình yêu hoa cỏ
là một tự nguyện chan hòa, chia sẻ: "Anh nằm xuống để nhìn lên cho
thỏa – Anh thấy lòng mở rộng đón trời xa – Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lá
– Anh lim dim cho chết lịm hồn mình". Ở đó,
thi sĩ đã lùa bò vào đồi sim trái chín để được như Tô Vũ ngày xưa hòa mình vào
thiên nhiên hoang dại mà tận hưởng suối nguồn cuộc sống.
Và giờ đây một lời thề đã thốt
Nghìn thu sau đồi núi chứng cho ta
Cao lời ca bê hê em cùng thốt
Hòa cùng lời anh nghẹn nỗi thiết tha
Có một hình tượng lặp đi lặp lại trong thơ
Bùi Giáng, đó là "cố quận", nơi ông sinh ra và lớn lên, nơi ông có
những rung cảm đầu đời trong chia biệt mù sương: "Lên mù sương xuống mù sương –
Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu – Tuổi thơ em có buồn nhiều –Thì xin cứ để
bóng chiều bay qua – Bể dâu sực tỉnh giang hà – Con sơ nguyên mộng sau tà áo
xanh".Vì vậy mà cố hương không bao giờ xao nhãng trong tâm hồn
thi sĩ, ngay cả trong chiêm bao, mộng mị.
Ngày về tôi sẽ nhận ra
Em là cố quận tôi là tha hương
Tôi tìm kiếm khắp nẻo đường
Đường quanh lối thẳng dặm trường chiêm bao
Bùi Giáng có cảm thức giống như Xuân Diệu,
ông chọn mùa xuân làm nguyên khởi cho thời gian, cho bí ẩn tinh khôi của cõi
lòng mà ông gọi là Nguyên xuân, Nguyên mộng. Trong Mưa nguồn, Bùi Giáng hướng nguồn thơ của mình vào
những gì tin yêu, tươi đẹp và rạo rực nhất, nên mùa xuân tràn ngập trong thơ
cũng là logic của tình cảm dẫn đến thi ca vậy: "Mùa xuân, mùa xuân hiển hiện,
lung linh ánh sáng, long lanh thanh sắc – Trong niềm hoan lạc của đất trời, vì
tin ở sự tuần hoàn miên viễn, như tin vào một cánh én: Én đầu xuân tuyết đầu
đông – Rừng cô tịch ngóng nội đồng trổ hoa".
Bài thơ Nắng nguyên đán sáng
tác sau này chính là sự níu kéo tâm thức non tươi, khát vọng ấy như một cố gắng
đi tìm lại thời gian hiện sinh đã mất của chủ thể lẫn khách thể.
Chạy đi em, nắng gió bốn chân
trời
Về chân đất dưới chân em mọc cỏ
Nắng Nguyên Đán lục lam hay hồng đỏ
Tía vi vu hồng lục cũng bao hàm
Chạy đi em! sương gió nắng thênh thang
Trời đất đẹp từ bình minh vũ trụ
Nắng Nguyên Đán của nguyên xuân đầy đủ
Cỏ hoa hương chồi nhú lộc miên man
Nắng xuân xanh mở cỏ mọc hai hàng
Và riêng mở duy Một Hàng Ẩn Mật
Nắng phơ phất vì sắc hương phơ phất
Dưới khung trời mặt đất mở thênh thang
Chạy đi em, gót ngọc bỏ hai hàng.
Và ít nhất trong tâm tưởng của Bùi Giáng, mùa
xuân sẽ tuần hoàn trong đam luyến với những gì còn lại để tin yêu và hoài vọng:
"Mùa
xuân hẹn Thu về em trở lại – Ta nhìn nhau trong bóng nước mơ màng – Nước chảy
mãi bởi vì xuân trở lại – Với dòng trong em hẹn ở bên đường". Dẫu
điệp khúc ái ân, có lúc làm cho thi nhân nghi hoặc sự chia lìa, nhòa nhạt trong
thực tại, thì thơ chính là nơi lưu giữ nguồn xanh yêu bất tuyệt, hoang vu chất
ngất non hồng.
Mùa xuân hẹn Thu về em trở lại
Bên đời đi còn giữ mãi hay không
Giọng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại
Sầu hoang vu vĩnh hạ vọng non hồng.
Nhưng có một thực tế, Bùi Giáng là người tha
hương, sầu xứ đến ám ảnh. Ông mong ngày trở lại "cố quận", nhưng sao
cứ tăm cá mịt mùng. Những giấc mơ vô thức không làm ông thỏa mãn nỗi nhớ mong
ngày trùng phùng dâu bể: "Thời gian gội trắng một đời - Trông về quê cũ bạt ngàn mây
tuôn". Trong
ông, những địa danh thân yêu Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, Vĩnh Trinh, Lệ
Trạch, Lai Châu, Thì Lai, Hà Mật...vẫn nguyên trong ký ức mây mù gần nửa thế kỷ
ly hương.
Non nửa thế kỷ xa quê
Mà chưa có dịp về quê một lần
Bảy mươi mốt tuổi tần ngần
Nước non Nam Việt chiếm gần trọn tim
Về Trung biết chốn nào tìm
Lại ngôi nhà cũ láng giềng đã qua?
Giật mình lúc chợt nghĩ ra
Rằng toàn thân thuộc đã qua đời rồi.
Bài thơ Tâm sự, như tên
gọi của nó rất chân thành mà sao đau đáu miên man về kiếp người tại thế của thi
nhân. Hình như nước mắt cũng đã cạn cùng những giọt khóc thầm, cả cho những
ngày thơ dại.
Xuân xanh về khóc giữa dòng
Tuổi già quá cỡ, tấm lòng quá vui
Chần chờ tôi bước thụt lùi
Tới bao giờ gặp lại thằng tuổi thơ?
Vậy là từ một nhà thơ tự nguyện yêu trần gian
hết mực, ông dùng thơ để ghi lại cuộc đời mình, cùng chuồn chuồn, châu chấu lên
"đồi sim trái chín" để reo vui, bỗng chốc, ông lại rơi vào đô hội
lang thang trên khắp nẻo đường, có lúc đớn đau, điên loạn "ngậm ngùi dấn
thân", lạc loài cùng đỏ xanh vàng tím:"Đường quanh ngõ quẹo lang
thang – Niềm vui tao ngộ muôn vàn lạ thay – Trái tim mỗi mới mỗi ngày – Mỗi giờ
phút động mây trời rung rinh". Thơ, với ông là cứu cánh, là phép
thắng lợi tinh thần để cứu rỗi, đê "ngậm ngùi dấn thân": "Rong chơi râu tóc bạc phơ – Còn
nghe đắm đuối vần thơ yêu người". Nhưng rồi ông cũng nhận ra hiện sinh
đời mình là bi đát: "Ta cư ngỡ đùa vui trong chốc lát – Nào ngờ đâu đùa mãi đến điêu
linh". Cho nên
một tâm lý "vô thường" xuất hiện, ngay cả quê hương và danh tánh của
mình, ông cũng "đùa như thật".
Hỏi tên rằng biển xanh dâu
Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu đã xa
Gọi tên? Rằng một hai ba
Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm
Có khi
ông thấy cả thiên hà hỗn mang trong những giấc chiêm bao bơ vơ nơi đất khách,
quê người.
Hỗn mang về giữa thiên hà
Bây giờ cố quận tên là chiêm bao
Đo đếm gì thì cũng không qua được số mệnh đời
người. Chỉ còn cách là dấn thân để đi hết hành trình cuộc sống. Và đầu phía bên
kia là cõi nghìn thu mà ai cũng ghé lại để yên nghỉ vĩnh hằng: "Rồi tôi cũng phải xa tôi – Đời
tài hoa cũng xa xôi ven bờ". Đó phải chăng là kết quả cuối cùng của
"diệu tưởng" và "nghi tâm?"
Ngày sẽ hết tôi sẽ không ở lại
Tôi sẽ đi và chưa biết đi đâu
Tôi sẽ tiếc thương trần gian mãi mãi
Vì nơi đây tôi sống đủ vui sầu.
Và những
câu thơ định mệnh của ông đã tiên đoán chính xác cho bản mệnh đời và bản mệnh
thơ của ông.
- Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu
Nguyên Xuân
- Lỡ từ lạc bước chân ra
Chết từ sơ ngộ màu hoa trên
ngàn
Vậy mà
đâu đây vẫn còn vang vọng sự hóa giải gần như kỳ diệu những buồn vui, ân nghĩa
quanh đời hay cứu tính hiện sinh cho mỗi kiếp đời cũng thế: Sự sống và cái chết
đều sóng đôi. Hai câu thơ như chân lý bất biến.
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước, miên trường phía sau
Hình
tượng nổi bật khác trong thơ Bùi Giáng là người gái nhân gian, biểu hiện thành
người tình cụ thể hay người tình trong mộng cũng thế. Ông đã yêu chân thành, mê
đắm và cuồng si đến thân xác bơ phờ, đơn phương, tuyệt vọng. Từ người tình thứ
nhất thuở hoa niên không thành đã thành chấn thương tình ái trong ông.
Em ở lại với đời ta em nhé
Em đừng đi. Cho ta nắm tay em
Ta muốn nói bằng thơ bay nhẹ nhẹ
Vào trong mơ em mộng giấc êm đềm
Nhưng rồi
cả tâm tướng và thi ca không đủ níu kéo tình yêu, đành lặng nghe mùa thu rớt
hột tạ từ. Tình đơn phương cũng thành ảo ảnh.
Rồi từ đó về sau mang trái đắng
Bàng hoàng đi theo gió
thổi thu bay
Anh chờ em không biết tự bao ngày
Để thấy mãi rằng thơ không đủ gọi.
Trong thực tế bi thương khi người vợ trẻ yêu
quý của ông đã ra đi vĩnh viễn thì tình yêu về sau của ông cũng thành định mệnh
chăng: "Mỗi
giây phút mỗi bất ngờ - Mỗi đêm tưởng tượng thẹn thò cùng em – Tình em bao xiết
êm đềm – Tình tôi như thể chênh vênh lạ thường". Trong đời ông, có nhiều bóng hồng xuất
hiện, mỗi người một trạng thái và cung bậc tình ái khác nhau, nhưng rồi cuối
cùng cũng trở thành ảo ảnh mù xa, để ông phải than lên: "Tặng đời đóa đóa hoa sầu – Nhớ
nhau từ đóa mộng đầu rã đôi".
Lời là muộn của muộn màng sông
bể
Tình là yêu vô lệ tưởng tới nhau
Em hãy nhớ rằng xưa kia có kẻ
Đã yêu em và suốt kiếp mang sầu
Nhưng tại
sao Bùi Giáng lại chọn cho mình sự trái ngang trong tình yêu? Có lẽ đó là tự
nguyện của ông chăng? Thú đau thương trong ly biệt nhiều khi là động lực để ông
làm thơ và ngất ngây trong men rượu. Những người phụ nữ có liên quan đến thơ và
đời ông như Mẫu Thân Phùng Khánh, tức mẹ Trí Hải Ni Cô, Nam Phương hoàng hậu,
Kim Cương kỳ nữ, Nường Monroe, Gái Xiêm La, Hà Thanh ca sĩ, Gái Tô Châu, các em
Châu Phi da đen, Đạm Tiên, Thúy Vân, Thúy Kiều, bé con Bình Thạnh, các chị miệt
vườn Nam Bộ... Thật có, tưởng tượng, hư cấu có. Ai ông cũng có thơ viết về họ
chân thành và xúc động. Phải nói là Bùi Giáng đa mang và đa cảm.
Với mẹ
Trí Hải Ni Cô, thánh thiện và thanh tịnh mà ông gọi là Mẫu Thân Phùng Khánh.
Mẹ về đứng giữa đầu sân
Cuối cùng Mẹ bước vô ngần Mẹ đi
Ông còn giải thích: " Phùng Khánh vốn là
bà mẹ Việt Nam. Tôi lại là con dân Việt Nam. Vậy tất nhiên Phùng Khánh là mẹ
của tôi vậy...Phùng Khánh là bà mẹ của loài người" (Thơ vô tận vui, tr.454):
"Con
về giũ áo đười ươi - Nực cười Trí Hải ngậm ngùi mẫu
thân - Đẻ con một trận vô ngần - Mẹ còn đẻ nữa một lần nữa thôi - Mẫu thân Phùng Khánh tuyệt vời - Chiều xuân thơ mộng dưới trời
bước đi".
Với người
con gái Long Xuyên, ông nâng lên thành thục nữ, thuyền quyên khó bao giờ gặp
lại.
Ôi người thục nữ Long Xuyên
Tìm đâu thấy lại thuyền quyên một lần
Với Kim
Cương kỳ nữ, Bùi Giáng tôn lên ngôi công chúa. Còn mình là vua đang "vô
tận ven đường" đang lang thang định nghĩa tình yêu.
Kính thưa công chúa Kim Cương
Trẫm từ vô tận ven đường ngồi đây
Tờ thư rất mực móng dày
Làm sao định nghĩa đêm ngày yêu nhau?
Đặc biệt,
xuất hiện nhiều lần trong thơ Bùi Giáng là hình ảnh Em Mọi sơn nữ, có khi ông
gọi Em Mọi nhỏ, hoặc Gái Núi mà ông đã gặp trong thời kháng chiến ở miền rừng
lúc ông còn trẻ. Hình ảnh cô sơn nữ ấy ám ảnh ông mà có lần ông kể "tưởng
chừng mình đang lạc vào suối Đào Nguyên" mà Đặng Tiến cho rằng đó là
"một ẩn dụ hữu cơ trong thơ Bùi Giáng và có khả năng cấu trúc thi hứng như
một hình ảnh Đầu Nguồn, một sử lịch sơ khai, một suối Xuân diễm tuyệt...Gái Núi
là một khai thị, khai tâm, khai tứ, khai từ" (7, tr.431-432).
Em
từ Mọi Nhỏ thanh tân
Mười hai con mắt thiên
thần mở ra
Rồi ông
lại xác quyết.
Mọi là Em, Mọi Sơ Xuân
Ban sơ núi đỏ chào mừng non xanh
Đó cũng là một ý kiến đáng chú ý, vì qua thơ,
ta nhận ra điều ấy. Hình ảnh người em sơn nữ đã đánh thức trong tình cảm Bùi
Giáng những rung cảm đẹp và nên thơ, để ông mãi gọi "Em là em mọi – Em ở đâu
rồi" tưởng còn âm vang rừng núi.
Em ở trong rừng một buổi xưa
Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa
Hai bờ lãnh địa đâu lòng gọi
Sầu suốt giang sơn vọng tiếng thừa
(...)
Rừng xanh nắng biếc em cười nói
Một thoáng bình sinh giữa bốn
trời
Có khi
ông nhìn Em Mọi hóa thành Kim Cương.
Anh kêu gọi khắp sơn hà
Em là Em Mọi em là Tương Lai
Em là Tiên Nữ Ngày Mai
Em thành Thánh Nữ Thiên Tài Kim Cương
Nhưng rồi cuối cùng, với lòng tôn thờ thánh
thiện những người mình yêu quý, ông nâng tình yêu lý tưởng ấy lên thành
"đóa sầu" để được buốt nhớ: "Từ phen đá biết tuổi vàng – Một
lời vâng tạc muôn vàn mai sau – Ăn làm sao,? Nói làm sao?- Thủy chung muôn một?
Còn đau đớn nghìn? Bùi Giáng đã thực sự yêu và đau khổ, yêu
và giàu có trong ly tan, tàn tạ. Và giàu có hơn ngàn làn, đó là những bài thơ
tình yêu tuyệt mù ông để lại cho nhân gian.
Uống xong ly rượu cuối cùng
Bỗng nhiên chợt nhớ đã từng đầu tiên
Uống như uống nước ngọc tuyền
Từ đầu tiên mộng tới phiền muộn sau
Uống xong ly rượu cùng nhau
Hẹn rằng mai sẽ quên nhau muôn đời
Em còn ở lại vui chơi
Suốt năm suốt tháng suốt nơi lan tràn
Riêng anh về suốt suối vàng
Trùng phùng Lý Bạch nghênh ngang Tản Đà.
Vậy là
vĩnh biệt nhưng không vĩnh biệt vì ông đã mang khát vọng bơi ngược dòng sông
thời gian để được sống trong thế giới "miên trường phía sau" của
những gì không nhòa nhạt – dù đó là tình yêu "tại thể bơ vơ".
Bùi Giáng
luôn luôn là những nghịch lý- nhiều lần nghịch lý. Nghịch lý giữa thể xác và
tâm hồn, giữa điên và tỉnh, giữa cuộc sống và khát vọng thi ca, giữa hy vọng và
thất vọng, giữa tình yêu và vỡ mộng, giữa vui bất tuyệt và cô đơn ngất mù. Tất
cả những nghịch lý ấy sẽ gặp nhau, tạo thành những mảnh vỡ thi ca sáng trong
như ngọc và xa xót như hồn và máu đang vơi. Đấy là phân hóa trong nhất thể hiện
sinh Bùi Giáng.
Bỏ trăng gió lại cho đời
Bỏ ngang ngửa sóng giữa lời hẹn hoa
Bỏ người yêu bỏ bóng ma
Bỏ hình hài của tiên nga trên trời
Bây giờ riêng đối diện tôi
Còn hai con mắt khóc người một con
Bùi Giáng là người mang số phận lưu đày – lưu
đày trong cuộc sống và trong thi ca của chính mình, bởi một phần ông chịu ảnh
hưởng tư tưởng bi đát, hoài nghi của chủ nghĩa hiện sinh, dù bản chất căn bản
của ông là yêu đời, hồn nhiên và mơ mộng để rồi ông tự thú "Buồn vui như thể thân mình – Ai
chia nửa máu, ai giành nửa xương". Và
những nghi vấn liên tục xuất hiện cũng chính là những hoài nghi bản thể từ
chính cuộc sống tại thế đặc thù của ông.
Ai người đau nữa để xẻ chia
Trời đất hoang mang buổi mộng lìa
Anh ngó, anh nhìn, anh cúi xuống
Ngước đầu anh hỏi có trăng khuya.
Để rồi
vẫn trong cảm thức nguyên xuân, ông đã tự hóa giải những gì khổ đau, hệ lụy để
tiếp tục tồn tại trong khách thể bi đát, làm thành sự hòa điệu kinh cầu của thi
ca.
Mai sau hẹn với ban đầu
Chờ nhau ngõ khác ngả màu nguyên xuân.
Có khi là hòa điệu tái tạo sự sống trong khát
vọng tình ái bản năng.
Trùng sinh vô tận hương màu
Trùng sinh vô tận hương màu
Hồi sinh vô tận hồi sau sẽ là
Ôm nhau hôn hít thiết tha
Tình yêu vô tận ấy là từ em
Có người
đã ví đi vào thế giới thơ Bùi Giáng như đi vào Sa Mạc Phát Tiết - tên một tác
phẩm của ông, tức là khó mà giải mã chúng một cách tức thì, nếu không căn cứ từ
nhiều yếu tố và đặc biệt là nếu không xét căn nguyên tư tưởng triết mỹ của ông.
Ông thể hiện về đất nước, dân tộc hay về con người và chính mình đều có nguyên
cớ và bị chi phối bởi những ám ảnh hiện sinh thực tồn của vấn đề. Bùi Giáng luôn
nghĩ về lịch sử dân tộc trong tiến trình bão giông của nó cùng với con người và
ông gọi đó là Sử lịch.
Tấm thân với mảnh hình hài
Tấm thân thể với canh dài bão giông
Cá khe nước cõng lên đồng
Ruộng hoang mang khóc đêm mồng một giêng
Tạ từ tháng chạp quay nghiêng
Ầm trong sử lịch thu triền miên trôi.
Cõi sương khói mơ màng, mộng tưởng thiên thu
và hồng hoang tâm tưởng trong bàng bạc thơ ông thực ra cũng chính là cõi người
hiện tồn đấy thôi. Càng về sau, ông càng triết lý về thời gian sống đời người
trong từng kinh nghiệm quan hệ: "Ta đếm lại từng ngón tay
lẩy bẩy – Đời chúng ta là mấy trăng tròn" để biết
rằng cõi người và cõi tình là "sắc sắc không không".
Em sẽ khóc khi nhìn trong khóe
mắt
Thấy một mình người đi lại lang thang
Còn ghì giữ ân tình trong cỏ nhặt
Múa vi vu vì hẹn với truông ngàn
Còn gì ám ảnh hơn là phận người trong hiện
tồn hữu hạn. Cho nên trong thơ Bùi Giáng, cõi người luôn được ông chiêm nghiệm
ở nhiều góc độ, nhiều quan hệ, nhiều tâm thế và nhiều triết lý. Có khi ông thấy
"Đời
dại khờ như một giấc chiêm bao", ngay cả
quê hương, ông cũng tưởng tượng thành "Hỗn mang về giữa hiên nhà – Bây
giờ cố quân tên là chiêm bao", nhưng
rồi ông cũng nhận ra nỗi đau trong biệt ly hiện tại "nỗi đau về chẳng hẹn giờ" để cho "Mấy đời ly biệt rẽ đau một
mình". Có khi chiêm bao là phương thức cứu rỗi để
ông tự an ủi tâm hồn: "Đài vũ trụ hồn chiêm bao rạng tỏ - Một nụ cười thế giới sẽ chia
đôi". Nhưng rồi, tình yêu chính là liều thuốc
nhiệm mầu nhất có thể xoa dịu bi tình sử đời ông.
Chân cứ bước theo nhịp hồn cứ
động
Em là em anh đợi khắp nẻo đường
Em có nụ cười buồn buồn môi mọng
Em có làn mi khép lá cây rung
Em có đôi mắt như sầu xanh soi bóng
Hồ gương ơi! Sao sóng lục vô chừng!
Phụng hiến lại là cách để ông níu kéo hiện
sinh trần thế một cách có ích, ít ra là cho chính mình và cho thi ca: "Còn trang thơ thắm lại với trời
hồng".
Trần gian hỡi? Tôi đã về đây
sống
Tôi đã tìm đâu ý nghĩa lầm than
Tôi ngẩng mặt ngó ngàn mây cao rộng
Tôi cúi đầu nhìn mặt đất thấp đen
Nguyên sơ, uyên nguyên, tịch liêu, vô cùng là
triết lý của Bùi Giáng để ông tìm thấy niềm an ủi, mộng mị cỏ hoa. Chúng là
thông điệp được chứa đựng bằng ngôn từ ảo ẩn, bí truyền, có khi như điên loạn,
bí mật và đã trở thành cứu cánh thi pháp thơ. Dù cho ly biệt muôn trùng
thì mùa xuân vẫn còn sơ nguyên mộng: "Thưa rằng ly biệt mai sau – Là
trùng ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân". Cảm
thức hoài niệm, hoài vãng cũng là cách thi nhân đi tìm thời gian đã một đi
không trở lại để đồng hiện thuở ban đầu: "Ngõ ban sơ, hạnh ngân dài -
Cổng xô còn vọng điệu tài tử qua". Và thực tế, ông luôn mang chủ nghĩa xê
dịch cho đã đời một kẻ rong chơi tiêu dao trần thế. Và ông tự nhận mình là
người điên viết những bài thơ bằng ngôn từ bất chợt, bừng tỉnh "Tặng nhau từ ngữ lạc lầm – Cũng
xin hồng lệ hãy đầm đìa tuôn" để mong
đời hãy hiểu lòng ông.
Người điên ngôn ngữ điệp trùng
Dở chừng như mộng dở chừng như mê
Thưa em thôn ngữ quặt què
Làm sao nói được nghiệp nghề người điên
Ngôn ngữ
ngón tay cũng thành tín hiệu của mùa xuân sơ mộng hẹn thề thương yêu.
Xin chào nhau giữa bàn tay
Có năm ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng: những ngón thon thon
Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau
Đó cũng là kết cục của những mối tình trần
gian mà thành mộng ảo, nhưng Bùi Giáng không hề gì, vẫn thấy em là thác đổ bên
đời. Người đàn bà trong thơ Bùi Giáng được ông thể hiện thành triết mỹ của năng
lượng sống ban đầu, uyên nguyên, huyền diệu. Điều này ông có chịu ảnh hưởng từ
triết lý hiện sinh mà Heidegger là mạnh mẽ nhất. Trong tác phẩm do ông dịch Heidegger và tư tưởng hiện đại,
có đoạn viết: "Người đàn bà phải trở về bủa mộng chiêm bao để thiết lập
mộng luân lưu cho thời gian bay múa để cuộc tồn hoạt cuả tồn sinh được tiếp xúc
trở lại với hương màu vạn cổ"(4, tr.57).
Một lần gió táp mưa sa
Nghìn thu như một sát na mơ màng
Nhớ em suốt cả dặm đường
Thương em rừng rú suốt phường phố hoa
Nhưng
rồi, trong tư tưởng hiện sinh của Bùi Giáng thường trực mâu thuẫn. Những nghịch
lý luôn hiện hữu trong thơ như những biến thể của thất vọng và đỗ vỡ. Từ xuất
phát điểm ban đầu, nhân vật trữ tình ngôi thứ nhất – nhà thơ thể hiện sự hy
vọng, dấn thân, mơ mộng nhưng rồi nhanh chóng chuyển qua trạng thái ưu tư, bất
tín để quá trình tiếp theo xuất hiên cảm thức cô đơn và hư vô, cảm thấy mình bị
ẩn ức, bị lưu đày trong cõi nhân gian khổ đau và hệ lụy. Sự nổi loạn trong tình
cảm là một logic biện chứng dẫn dắt Bùi Giáng đi cùng thi ca một hành trình khá
dài và rồi tiếp theo là điểm đến cuối cùng xuất hiện tư tưởng hiện sinh siêu
việt. Tư tưởng này đã chứng minh Bùi Giáng đã chịu ảnh hưởng từ những khái niệm
và mệnh đề của triết học phương Tay và tôn giáo muốn thể hiện cái vô cùng để
hóa giải thực tại một cách vừa cao cả vừa thiêng liêng. Thơ Bùi Giáng chính là
những phức cảm, phức tượng, phức hồn và phức ngữ như thế.
Nàng tiên kỳ bí thập thành
Cỗi nguồn vô tận ngọn ngành tới đâu
Nàng đi đứng giữa thiên thâu
Tương lai, hiện tại một màu phôi phai
Vẫn là tư
tưởng siêu việt,
Em từ thiên thượng về chơi
Hào quang bất chợt sáng ngời giữa trưa
Hình dung tình mộng thượng thừa
Giấc mơ kỳ vĩ còn lưa muôn đời
Ngay cả
khi Bùi Giáng nói về hồn, nói về bóng âm hoặc nói về mộng và cõi lòng cũng là
cách ông thõa mãn tư duy, để trừu xuất thành tư tưởng và triết lý kỳ bí của
mình bằng thi ca.
Trời đất lạnh và lòng anh không
thỏa
Gửi hồn đi phương hướng hút heo ngàn
Hồn ngơ ngác loay hoay về hỏi dạ
Có bao giờ dạ thỏa giữa không gian
Đến cả
những gì được người đời xem là thiêng liêng và kiêng dè thì Bùi Giáng cũng đã
siêu việt trong tâm tưởng để "đùa thôi mà" một cách bất ngờ và triết
nghiệm bằng kiểu ngôn ngữ tu từ mang tính bản năng, bỡn cợt đặc sắc.
Quan san chết đuối giang hà
Trời hôn cái lá đã ba lần rồi
Lần thứ tư chết lịm thôi
Ba lần cái lá bị trời ghì hôn
Một hai hai một bồn chồn
Trời hôn cái lá trên cồn của em
Hai lần ba một lần thêm
Lần khân tứ khỉ là tên ông trời
Đến cái điên của Bùi Giáng cũng là kết quả
của con người nổi loạn, siêu việt. Điên mà biết mỉa mai, cà rỡn, nói lịu, nói
lái, nói bỏ lửng bằng hình tượng và từ ngữ giàu ẩn dụ, hoán dụ, đối lập, láy,
điệp... thì quả là nghệ thuật đầy chủ đích có một không hai của Bùi Giáng: "Điên chơi cho bớt điên đầu –
Điên đầu cho bớt điên rầu rĩ chơi" đó vừa
là nghệ thuật chơi chữ vừa là thú tiêu dao theo cách Bùi Giáng.
Đi về với gió du côn
` Mở giông bão xuống cõi tồn sinh
phai
Mép rìa vòm cỏ hương bay
Mở trang nhảy múa trên ngày phù du
Có lúc
ông gọi là đùa tếu mà thành xa xót thật trước những ngã ba dằng xé tâm hồn.
Một đời được mấy mấy mình
Mấy mình được mấy một mình cô đơn
Tồn sinh một tấm một mình
Chẻ làm hai mảnh tiền trình dấn thân
Nhưng rồi cuối cùng, nhà thơ cũng là người
bằng xương bằng thịt, nên không thể thoát ly khỏi hoàn cảnh sống đang từng ngày
từng giờ tác động thân xác và tinh thần, hữu thức và vô thức, có cả tiềm thức
của ông: "Trong
linh hồn một bông hoa – Hình như có cõi người ta đàng hoàng". Cứ thế,
ông tự hiện hữu mình trong từng không – thời gian vừa hiện tại vừa tương lai
vừa tâm tưởng.
Tình yêu tưởng tượng hôm mai
Trùng sinh ký ức nhớ ngày đầu tiên
Đi rồi trở lại hiện tiền
Từ mai sau tới mọi miền tương lai
Cùng về một lúc một mai
Một mùa xuân rộng vòng xoay muôn mùa
Thời gian
là cuộc lữ hiện sinh mà con người luôn trong vòng quay của nó để mang vác tất
cả mọi trạng thái tình cảm tồn lưu trên thân thể của mình, rồi cứ thế hướng về
phía tương lai như những mơ mộng – dù là mơ mộng mù vợi, phai phôi. Đó
phải chăng là "tại thể hoài vọng luân lưu" mà Bùi Giáng gọi là Sử
lịch, một quan niệm có xuất phát từ triết lý về thời gian và hữu thể của
Heidegger: "Thời gian là sự cảm thụ thuần túy về mình. Chính thời gian làm
thành cái nhằm tung mình về phía trước. Cho nên thời gian làm nên cơ cấu căn
bản của chủ thể tính" (8, tr.23). Thi ca Bùi Giáng phải xét trong quan hệ
giữa thời gian và chủ thể tính như vậy mới thấy hết ý nghĩa hiện sinh của chủ
thể sáng tạo và thi ca.
3.
Vĩ thanh mở
Đến đây, dù chưa đi hết hành trình tư tưởng
và nghệ thuật của thế giới thơ Bùi Giáng, chúng ta cũng đã có thấy được bản
mệnh đời, bản mệnh thơ của ông một cách rộng mở, chưa có vĩ thanh khép lại trọn
vẹn. Và vì vậy, thi giới Bùi Giáng luôn có sức vẫy gọi đồng sáng tạo mạnh mẽ
trong nhu cầu tiếp nhận của nhiều thế hệ người đọc hôm nay và mai sau. Những tiêu đề qua từng tập thơ
của ông đã là chìa
khóa giúp ta lần tìm bên sau, bên sâu, bên xa của ngôn từ để phát hiện ra những
"lá hoa cồn" và "ngàn thu rớt hột", qua đó, ta càng hiểu
thấm thía "màu hoa trên ngàn" của "ngày tháng ngao du" với
"mùa màng tháng tư" mà ở đó, Bùi Giáng đã từng đi qua "con đường
ngã ba" để thành "sa mạc trường ca" và "bài ca quần đảo"
mà nhận ra "rong rêu" và "mưa nguồn" xanh màu buốt nhức, và
liên tục ông có dịp nhìn ngắm "rớt hột phiêu bồng" bằng "mười
hai con mắt" để biết đời và "thơ vô tận vui" và cuối cùng trở
thành "thi ca tư tưởng". Đó cũng chính là tinh thần - tư tưởng
- triết mỹ - tôn giáo - văn hóa mà Bùi Giáng phụng hiến cho đời, cho thơ. Thơ
Bùi Giáng đã thành một hiện tượng thơ, một "thi ca chi bảo" của nền
thơ Việt hiện đại thế kỷ XX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Giáng (1969), Thi ca tư tưởng, Nxb Ca
dao, Sài Gòn.
2. Bùi Giáng (1969), Đi vào cõi thơ, Nxb Ca
dao, Sài Gòn.
3. Bùi Giáng (2005), Rong rêu, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
4. Bùi Giáng dịch, biên soạn (2001), Heidegger và tư tưởng hiện đại,
Nxb Văn học, Hà Nội.
5. Đoàn Tử Huyến (chủ biên) (2008), Bùi Giàng trong cõi người ta,
Nxb Lao động, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
6. Bùi Công Khanh (2005), Bùi Giáng trong tôi, Nxb Văn
nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
7. Đặng Tiến (2009), Thơ - Thi pháp và chân dung, Nxb Phụ
nữ, HN
8. Trần
Hương Tử (1961), "Heidegger và ý nghĩa con người", Tạp chí Bách Khoa, số 156.
Vỹ Dạ,10/ 2012
Hồ Thế Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét